Bài viết mới | Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 06:59
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:17
KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Thu 21 Nov 2024, 16:45
KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22
Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22
NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20
KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08
Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54
Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10
7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10
Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21
Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13
Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07
Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36
Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09
Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46
Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06
Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04
DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19
Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37
Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17
CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05
Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39
Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41
Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
|
| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
unghoadaphu
Tổng số bài gửi : 566 Registration date : 25/06/2009
| Tiêu đề: Re: Thể loại Tống Từ Wed 25 May 2011, 20:59 | |
| 憶王孫-春 - 李重元
萋萋芳草憶王孫, 柳外樓高空斷魂。 杜宇聲聲不忍聞。 欲黃昏, 雨打梨花深閉門。
Ức vương tôn - Xuân - Lý Trọng Nguyên
Thê thê phương thảo ức vương tôn, Liễu ngoại lâu cao không đoạn hồn. Đỗ vũ thanh thanh bất nhẫn văn. Dục hoàng hôn, Vũ đả lê hoa thâm bế môn.
Ức vương tôn - Xuân (Người dịch: Nguyễn Chí Viễn)
Xanh xanh màu cỏ nhớ vương tôn Liễu rủ lầu cao luống đoạn hồn Khắc khoải quyên kêu lại gợi buồn Sắp hoàng hôn Mưa vụi hoa lê cài cửa luôn
PS: - Câu đầu tiên của bài từ này nhắc ý của Hoài Nam Vương trong "Chiêu ẩn sĩ": "Vương tôn du hề bất quy, Xuân thảo sinh hề thê thê" 王孫遊兮不歸,春草生兮萋萋 (Vương tôn đi chẳng trở về, Cỏ xuân mọc xanh xanh). Bài này có nơi chép là của Tần Quán.
- // - |
| | | unghoadaphu
Tổng số bài gửi : 566 Registration date : 25/06/2009
| Tiêu đề: Re: Thể loại Tống Từ Mon 30 May 2011, 09:39 | |
| LÝ THANH CHIẾU- Tác giả nữ hiếm hoi trên Từ đàn đời Tống
Sự xuất hiện của Lý Thanh Chiếu trên từ đàn đời Tống là một bất ngờ độc đáo. Nếu xét trên bình diện lịch sử văn học Trung Quốc, tác gia văn học nữ không phải là nhiều (Thái Viêm đời Hán, Thái Diễm đời Ngụy…). Cởi mở như đời Đường với hơn 2200 tác giả mà cũng chỉ có Tiết Đào, Đỗ Thu Nương, lại cũng không phải là hàng tác gia xuất sắc. Quả là nhà thơ nữ Trung Quốc quá hiếm hoi so với những thời đại văn chương như vậy. Huống hồ đối với tình hình xã hội tư tưởng đời Tống, sự xuất hiện của bà rõ ràng là một ngoại lệ. Lý Thanh Chiếu còn là từ nhân hiên ngang đại diện cho một phái, một bên là Tô Thức phái từ hào phóng, tác gia văn học xuất sắc nhất thời Tống. Bấy nhiêu đủ cho chúng ta cần phải tìm hiểu kỹ về bà. Lý Thanh Chiếu (1084-khoảng 1151), hiệu là Dị An cư sĩ, người Tế Nam (Sơn Đông). Phụ thân là Lý Cách Phi, một học giả kiêm nhà văn, mẹ bà xuất thân trong một gia đình quan liêu, cũng có tài năng văn học. Lý Thanh Chiếu là người đa tài đa nghệ: làm thơ, điền từ, vẽ tranh, víết chữ…nhưng thành tựu nổi bật của bà là ở lĩnh vực từ. Năm 18 tuổi, lấy chồng là Thái học sinh Triệu Minh Thành, sống một cuộc sống hạnh phúc hài hòa. Thế nhưng những biến động của thời cuộc đã phá tan cuôc sống nhàn tản tĩnh lặng của Lý Thanh Chiếu. Sau khi Biện Kinh thất thủ (Biện Kinh là kinh đô triều Bắc Tống, bị bộ tộc Nữ Chân- tức nước Kim xâm lược), triều đình Nam Tống dời đô về Nam Kinh (nay là Hà Nam). Triệu Minh Thành được bổ nhiệm làm tri phủ Giang Ninh, năm sau thì mất, từ đó, tình cảnh bà trở nên khốn đốn, lưu vong khắp nơi theo bước đường tấn công của quân Kim, có lúc còn bị vu cáo là "ban Kim (thông đồng với giặc). Cuộc sống khó khăn, của cải thất lạc, mất mát, những biến cố thời cuộc đó đã biến tâm trạng vui tươi trong sáng của Lý Thanh Chiếu trở nên đau buồn, u uất. Sáng tác của Lý Thanh Chiếu có thể chia thành hai giai đoạn rõ rệt: giai đoạn đầu: trước 1127: phản ánh cuộc sống hạnh phúc, viên mãn, giọng điệu hoan hỷ, vui tươi, phần lớn từ nói về phòng khuê, tình yêu, ly biệt, thiên nhiên. Giai đoạn sau: từ 1127 trở đi: cuộc sống tha hương, mất nước, lưu lạc, khốn khó, giọng điệu u buồn, trầm uất, cô đơn, từ đã thoát khỏi phạm vi khuê phòng hướng đến những vấn đề xã hội, trọng tâm ở đây là tâm trạng của kẻ mất gia đình, mất nước, cái buồn riêng hòa lẫn với nỗi đau chung của dân tộc. Là một phụ nữ quý tộc tài hoa, có học vấn, tình cảm phong phú, có lẽ Lý Thanh Chiếu là từ nhân diễn đạt sâu sắc nhất tâm sự và hoàn cảnh của người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến có những định kiến bất công đối với người phụ nữ, thời đại của bà đúng lại là thời đại các nhà lý học đời Tống hết sức đề xướng lễ giáo phong kiến để khống chế phụ nữ. Viết về nỗi buồn, về tình yêu, tương tư ly biệt- những chủ đề thường thấy của từ, nhiều tác giả là nam giới đã viết thay cho nữ giới (như Liễu Vĩnh, Tần Quán…) nhưng không thể thể hiện đầy đủ được dù tâm lý và tài năng có thừa. Trái lại, Lý Thanh Chiếu đã diễn đạt được những cảm thụ thuôc về nội tâm của chính mình- cũng là của chính phụ nữ. Bà chọn những sự vật dễ gợi liên tưởng, lại dùng bút pháp tinh tế của người phụ nữ để tổ chức những ý tưởng đó, nên nó có một sắc thái khác biệt hơn.
Nhìn lại lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc, không có triều đại nào mà chính trị và ngoại giao lại yếu kém như triều Tống. Lúc còn hàn vi, Triệu Khuông Dẫn thường ngâm nga:
Nhất luân khoảnh khắc thượng thiên cù Trục thoái quần tinh dữ tàn nguyệt (Thái dương khoảnh khắc lên bầu trời Đuổi hết trăng sao phải chạy xa) (Vịnh mặt trời)
- Hai câu trên bộc lộ ý chí mạnh mẽ của ông vua đầu đời Tống này. Nhưng đứng trên ý nghĩa tượng trưng, việc ông tự xưng mình như mặt trời mới mọc có lẽ là quá đáng. Vì vương triều Triệu Tống có phần nào giống mặt trăng hơn. Mặt trăng có khi tối khi sáng, khi tròn khi khuyết, vì các nước Liêu, Hạ, về sau lại thêm nước Kim, Mông Cổ ở phía Bắc, vẫn luôn là bóng tối che khuất mặt trăng, nhất là sau khi quân Kim chiếm Biện Kinh, thì vương triều này đã bị khuyết mất môt nửa, chưa bao giờ giống như mặt trời mới mọc, soi rọi khắp cả mặt đất lớn rộng của Trung Quốc. Biến cố to tát của thời đại ảnh hưởng đến vận mệnh và cuộc đời của Lý Thanh Chiếu. Trong những năm tháng lưu lạc, bà tận mắt chứng kiến sự đê hèn nhục nhã của triều Nam Tống mong bảo toàn tính mệnh, dời đô về Hàng Châu mà không theo chính sách kháng chiến tích cực triệt để. Họ thà dâng phần lớn non sông đất nước cho giặc để mong sống an nhàn ở một góc. Đông đảo nhân dân vì thế lâm vào cảnh cửa nát nhà tan, xa quê lìa quán. Lý Thanh Chiếu là một trong hàng chục triệu nạn nhân đó. Mối đau buồn sâu sắc của cá nhân bà cũng bao hàm nỗi đau buồn vì cám cảnh đất nước hưng suy. Những bài từ của bà giai đoạn này chính là những sản phẩm mang nhân tố thời đại và xã hội chứ không phải là dạng ủy mị, sướt mướt, "vô bệnh thân ngâm"
THANH THANH MẠN (聲聲慢)
Đây là bài từ nổi tiếng của Lý Thanh Chiếu, được viết khi chồng đã chết và bà phải lưu lạc ở đất Giang Nam. Từ điển văn học (bộ mới) nhận xét: Tác giả đã dùng “bảy từ điệp láy đi láy lại, biểu đạt một cách tự nhiên, chuẩn xác nỗi sầu khổ cô quạnh trước thảm cảnh nước mất nhà tan...”(sđd tr. 919 - 920). Nguyễn Xuân Tảo, dịch:
Lần lần, giở giở Lạnh lạnh lùng lùng Cảm cảm thương thương nhớ nhớ Thời tiết ấm lên lại rét Càng thêm khó ở Rượu nhạt uống đôi ba chén Không chống nổi chiều về gió dữ Nhạn bay qua Đang đau lòng Lại đúng bạn quen biết cũ.
Chồng chất hoa vàng khắp chỗ Buồn bực nỗi Giờ đây còn ai bẻ nữa Đen kịt nhường kia Một mình giữ bên cửa sổ Cây ngô đồng gặp mưa bay Buổi hoàng hôn thánh thót giọt nhỏ Nối tiếp vậy Ghê gớm sao, sầu kia một chữ.
VŨ LĂNG XUÂN (武陵春)
Gió lắng hương trần hoa đã hết, Dậy muộn chải đầu lười. Vật đổi sao dời mọi việc thôi, Chưa nói lệ tuôn rồi.
Nghe nói Song Khê xuân vẫn đẹp, Cũng định thả thuyền chơi. Chỉ sợ Song Khê thuyền nhỏ nhoi, Sầu nhiều thuyền chở không trôi. (Nguyễn Chí Viễn dịch thơ)
ĐIỂM GIÁNG THẦN (點絳脣 - 2 bài, trích bài I).
Lặng lẽ phòng khuê Ruột mềm một thốn sầu chan chứa Tiếc xuân xuân lỡ Mưa giục hoa đua nở Tựa khắp lan can Man mác tình mong nhớ Người đâu tá? Trời liền cây cỏ Mỏi mắt đường về ngó. (Nguyễn Chí Viễn dịch thơ) (2)
TUYỆT CÚ (絕句)
Sống là người hào kiệt Chết cũng ma anh hùng Nay còn nhớ Hạng Vũ, Không chịu sang Giang Đông.
Sau khi giới thiệu bà, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu có lời kết: Lý Thanh Chiếu là một nữ tác gia hiếm hoi và rất giỏi âm luật về từ. Sau khi nhà Tống bị dồn về phương nam, vợ chồng nàng cũng chạy loạn. Sau khi chồng mất, nàng lưu lạc qua các châu quận khác nhau. Từ của nàng đẹp, buồn và đầy nữ tính…
- Khuyết Danh |
| | | unghoadaphu
Tổng số bài gửi : 566 Registration date : 25/06/2009
| Tiêu đề: Re: Thể loại Tống Từ Mon 30 May 2011, 12:04 | |
| 临江仙
滚滚长江东逝水, 浪花淘尽英雄。 是非成败转头空: 青山依旧在, 几度夕阳红。 白发渔樵江渚上, 惯看秋月春风。 一壶浊酒喜相逢:古今多少事, 都付笑谈中。
杨慎
Lâm Giang Tiên - Dương Thận
Cổn cổn trường giang đông thệ thuỷ, Lãng hoa đào tận anh hùng. Thị phi thành bại chuyển đầu không: Thanh sơn y cựu tại, Kỉ độ tịch dương hồng. Bạch phát ngư tiều giang chử thượng, Quán khan thu nguyệt xuân phong. Nhất hồ trọc tửu hỉ tương phùng: Cổ kim đa thiếu sự, Đô phó tiếu đàm trung .
Lâm giang tiên (Người dịch: Phan Kế Bính)
Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông Sóng vùi dập hết anh hùng Được, thua, thành, bại, thoắt thành không Non xanh nguyên vẻ cũ Mấy độ bóng tà hồng.
Bạn đầu bạc ngư tiều trên bãi Đã quen nhìn thu nguyệt xuân phong Một bầu rượu vui vẻ tương phùng Xưa nay bao nhiêu việc Phó mặc nói cười suông.
- Để có thể hình dung một bài từ khúc được hát lên thì sẽ như thế nào, quý vị huynh đài có thể xem bài từ theo điệu Lâm Giang Tiên của Dương Thận dưới đây. Đó là từ khúc được chọn làm ca khúc chủ đề trong phim truyền hình Tam Quốc chí của Trung Quốc. Khi xem phim này ắt hẳn không ít người trong chúng ta rất ấn tượng với ca khúc chủ đề này, nhất là với giọng ca trầm hùng, hào sảng đã thể hiện được hết tinh thần của từ khúc này.
- // - |
| | | unghoadaphu
Tổng số bài gửi : 566 Registration date : 25/06/2009
| Tiêu đề: Re: Thể loại Tống Từ Mon 30 May 2011, 12:06 | |
| 蝶戀花 - 李煜
遙夜亭皋閒信步, 乍過清明, 漸覺傷春暮。 數點雨聲風約住, 朦朧澹月雲來去。
桃李依依春暗度, 誰在秋千, 笑裡輕輕語。 一片芳心千萬緒, 人間沒個安排處。
Điệp luyến hoa - Lý Dục
Dao dạ đình cao nhàn tín bộ, Sạ quá thanh minh, Tiệm giác thương xuân mộ. Sổ điểm vũ thanh phong ước trú, Mông lung đạm nguyệt vân lai khứ.
Đào lý y y xuân ám độ, Thuỳ tại thu thiên, Tiếu lý khinh khinh ngữ. Nhất phiến phương tâm thiên vạn tự, Nhân gian một cá an bài xứ.
Điệp luyến hoa (Người dịch: Điệp luyến hoa)
Bờ vắng đêm khuya nhàn tản bộ, Chợt quá thanh minh, Dần thấy xuân về cuối. Vài tiếng mưa rơi, ngừng gió thổi, Mông lung trăng nhạt, mây lui tới.
Đào mận đương tươi, xuân chừng dở, Ở dưới giá đu, Trong trẻo ai cười nói. Một tấm lòng thơm ngàn vạn mối, Nhân gian nào chốn an bài tới!
- Lý Dục 李煜 (937-978) tự Trùng Quang 重光, hiệu là Chung Ẩn 鐘隱, người đời quen gọi là Nam Đường Hậu Chủ. Ông là người nhân huệ minh mẫn, văn hay hoạ khéo, biết âm luật. Ông tự hiệu là Chung Nam ẩn sĩ. Phủ khố Giang Nam có thu tàng tác phẩm thư hoạ của ông rất nhiều.
Nam Đường bị nhà Tống diệt, phong ông làm An mệnh hầu, sau lại bị Tống Thái Tổ cho uống thuốc độc chết. Miền Giang Nam được tin Hậu Chủ chết, các phụ lão đều thương khóc. Hậu Chủ lúc chưa mất nước sinh hoạt rất hào hoa nên từ cũng rất uỷ mị hoan lạc. Sau khi mất nước, bị đưa về nhà Tống, ngày ngày rửa mặt bằng nước mắt. Từ của ông lúc đó cũng rất thê thảm bi ai, đúng là vong quốc chi âm.
- // - |
| | | Ai Hoa
Tổng số bài gửi : 10638 Registration date : 23/11/2007
| Tiêu đề: Re: Thể loại Tống Từ Mon 30 May 2011, 12:07 | |
| - unghoadaphu đã viết:
- LÝ THANH CHIẾU- Tác giả nữ hiếm hoi trên Từ đàn đời Tống
Sự xuất hiện của Lý Thanh Chiếu trên từ đàn đời Tống là một bất ngờ độc đáo. Nếu xét trên bình diện lịch sử văn học Trung Quốc, tác gia văn học nữ không phải là nhiều (Thái Viêm đời Hán, Thái Diễm đời Ngụy…). Cởi mở như đời Đường với hơn 2200 tác giả mà cũng chỉ có Tiết Đào, Đỗ Thu Nương, lại cũng không phải là hàng tác gia xuất sắc. Quả là nhà thơ nữ Trung Quốc quá hiếm hoi so với những thời đại văn chương như vậy. Huống hồ đối với tình hình xã hội tư tưởng đời Tống, sự xuất hiện của bà rõ ràng là một ngoại lệ. Lý Thanh Chiếu còn là từ nhân hiên ngang đại diện cho một phái, một bên là Tô Thức phái từ hào phóng, tác gia văn học xuất sắc nhất thời Tống. Bấy nhiêu đủ cho chúng ta cần phải tìm hiểu kỹ về bà. Lý Thanh Chiếu (1084-khoảng 1151), hiệu là Dị An cư sĩ, người Tế Nam (Sơn Đông). Phụ thân là Lý Cách Phi, một học giả kiêm nhà văn, mẹ bà xuất thân trong một gia đình quan liêu, cũng có tài năng văn học. Lý Thanh Chiếu là người đa tài đa nghệ: làm thơ, điền từ, vẽ tranh, víết chữ…nhưng thành tựu nổi bật của bà là ở lĩnh vực từ. Năm 18 tuổi, lấy chồng là Thái học sinh Triệu Minh Thành, sống một cuộc sống hạnh phúc hài hòa. Thế nhưng những biến động của thời cuộc đã phá tan cuôc sống nhàn tản tĩnh lặng của Lý Thanh Chiếu. Sau khi Biện Kinh thất thủ (Biện Kinh là kinh đô triều Bắc Tống, bị bộ tộc Nữ Chân- tức nước Kim xâm lược), triều đình Nam Tống dời đô về Nam Kinh (nay là Hà Nam). Triệu Minh Thành được bổ nhiệm làm tri phủ Giang Ninh, năm sau thì mất, từ đó, tình cảnh bà trở nên khốn đốn, lưu vong khắp nơi theo bước đường tấn công của quân Kim, có lúc còn bị vu cáo là "ban Kim (thông đồng với giặc). Cuộc sống khó khăn, của cải thất lạc, mất mát, những biến cố thời cuộc đó đã biến tâm trạng vui tươi trong sáng của Lý Thanh Chiếu trở nên đau buồn, u uất. Sáng tác của Lý Thanh Chiếu có thể chia thành hai giai đoạn rõ rệt: giai đoạn đầu: trước 1127: phản ánh cuộc sống hạnh phúc, viên mãn, giọng điệu hoan hỷ, vui tươi, phần lớn từ nói về phòng khuê, tình yêu, ly biệt, thiên nhiên. Giai đoạn sau: từ 1127 trở đi: cuộc sống tha hương, mất nước, lưu lạc, khốn khó, giọng điệu u buồn, trầm uất, cô đơn, từ đã thoát khỏi phạm vi khuê phòng hướng đến những vấn đề xã hội, trọng tâm ở đây là tâm trạng của kẻ mất gia đình, mất nước, cái buồn riêng hòa lẫn với nỗi đau chung của dân tộc. Là một phụ nữ quý tộc tài hoa, có học vấn, tình cảm phong phú, có lẽ Lý Thanh Chiếu là từ nhân diễn đạt sâu sắc nhất tâm sự và hoàn cảnh của người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến có những định kiến bất công đối với người phụ nữ, thời đại của bà đúng lại là thời đại các nhà lý học đời Tống hết sức đề xướng lễ giáo phong kiến để khống chế phụ nữ. Viết về nỗi buồn, về tình yêu, tương tư ly biệt- những chủ đề thường thấy của từ, nhiều tác giả là nam giới đã viết thay cho nữ giới (như Liễu Vĩnh, Tần Quán…) nhưng không thể thể hiện đầy đủ được dù tâm lý và tài năng có thừa. Trái lại, Lý Thanh Chiếu đã diễn đạt được những cảm thụ thuôc về nội tâm của chính mình- cũng là của chính phụ nữ. Bà chọn những sự vật dễ gợi liên tưởng, lại dùng bút pháp tinh tế của người phụ nữ để tổ chức những ý tưởng đó, nên nó có một sắc thái khác biệt hơn.
Nhìn lại lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc, không có triều đại nào mà chính trị và ngoại giao lại yếu kém như triều Tống. Lúc còn hàn vi, Triệu Khuông Dẫn thường ngâm nga:
Nhất luân khoảnh khắc thượng thiên cù Trục thoái quần tinh dữ tàn nguyệt (Thái dương khoảnh khắc lên bầu trời Đuổi hết trăng sao phải chạy xa) (Vịnh mặt trời)
- Hai câu trên bộc lộ ý chí mạnh mẽ của ông vua đầu đời Tống này. Nhưng đứng trên ý nghĩa tượng trưng, việc ông tự xưng mình như mặt trời mới mọc có lẽ là quá đáng. Vì vương triều Triệu Tống có phần nào giống mặt trăng hơn. Mặt trăng có khi tối khi sáng, khi tròn khi khuyết, vì các nước Liêu, Hạ, về sau lại thêm nước Kim, Mông Cổ ở phía Bắc, vẫn luôn là bóng tối che khuất mặt trăng, nhất là sau khi quân Kim chiếm Biện Kinh, thì vương triều này đã bị khuyết mất môt nửa, chưa bao giờ giống như mặt trời mới mọc, soi rọi khắp cả mặt đất lớn rộng của Trung Quốc. Biến cố to tát của thời đại ảnh hưởng đến vận mệnh và cuộc đời của Lý Thanh Chiếu. Trong những năm tháng lưu lạc, bà tận mắt chứng kiến sự đê hèn nhục nhã của triều Nam Tống mong bảo toàn tính mệnh, dời đô về Hàng Châu mà không theo chính sách kháng chiến tích cực triệt để. Họ thà dâng phần lớn non sông đất nước cho giặc để mong sống an nhàn ở một góc. Đông đảo nhân dân vì thế lâm vào cảnh cửa nát nhà tan, xa quê lìa quán. Lý Thanh Chiếu là một trong hàng chục triệu nạn nhân đó. Mối đau buồn sâu sắc của cá nhân bà cũng bao hàm nỗi đau buồn vì cám cảnh đất nước hưng suy. Những bài từ của bà giai đoạn này chính là những sản phẩm mang nhân tố thời đại và xã hội chứ không phải là dạng ủy mị, sướt mướt, "vô bệnh thân ngâm"
THANH THANH MẠN (聲聲慢)
Đây là bài từ nổi tiếng của Lý Thanh Chiếu, được viết khi chồng đã chết và bà phải lưu lạc ở đất Giang Nam. Từ điển văn học (bộ mới) nhận xét: Tác giả đã dùng “bảy từ điệp láy đi láy lại, biểu đạt một cách tự nhiên, chuẩn xác nỗi sầu khổ cô quạnh trước thảm cảnh nước mất nhà tan...”(sđd tr. 919 - 920). Nguyễn Xuân Tảo, dịch:
Lần lần, giở giở Lạnh lạnh lùng lùng Cảm cảm thương thương nhớ nhớ Thời tiết ấm lên lại rét Càng thêm khó ở Rượu nhạt uống đôi ba chén Không chống nổi chiều về gió dữ Nhạn bay qua Đang đau lòng Lại đúng bạn quen biết cũ.
Chồng chất hoa vàng khắp chỗ Buồn bực nỗi Giờ đây còn ai bẻ nữa Đen kịt nhường kia Một mình giữ bên cửa sổ Cây ngô đồng gặp mưa bay Buổi hoàng hôn thánh thót giọt nhỏ Nối tiếp vậy Ghê gớm sao, sầu kia một chữ.
VŨ LĂNG XUÂN (武陵春)
Gió lắng hương trần hoa đã hết, Dậy muộn chải đầu lười. Vật đổi sao dời mọi việc thôi, Chưa nói lệ tuôn rồi.
Nghe nói Song Khê xuân vẫn đẹp, Cũng định thả thuyền chơi. Chỉ sợ Song Khê thuyền nhỏ nhoi, Sầu nhiều thuyền chở không trôi. (Nguyễn Chí Viễn dịch thơ)
ĐIỂM GIÁNG THẦN (點絳脣 - 2 bài, trích bài I).
Lặng lẽ phòng khuê Ruột mềm một thốn sầu chan chứa Tiếc xuân xuân lỡ Mưa giục hoa đua nở Tựa khắp lan can Man mác tình mong nhớ Người đâu tá? Trời liền cây cỏ Mỏi mắt đường về ngó. (Nguyễn Chí Viễn dịch thơ) (2)
TUYỆT CÚ (絕句)
Sống là người hào kiệt Chết cũng ma anh hùng Nay còn nhớ Hạng Vũ, Không chịu sang Giang Đông.
Sau khi giới thiệu bà, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu có lời kết: Lý Thanh Chiếu là một nữ tác gia hiếm hoi và rất giỏi âm luật về từ. Sau khi nhà Tống bị dồn về phương nam, vợ chồng nàng cũng chạy loạn. Sau khi chồng mất, nàng lưu lạc qua các châu quận khác nhau. Từ của nàng đẹp, buồn và đầy nữ tính…
- Khuyết Danh Không tìm được các bài nguyên văn chữ Hán/ Hán Việt sao Ung? _________________________ Sông rồi cạn, núi rồi mòn Thân về cát bụi, tình còn hư không |
| | | unghoadaphu
Tổng số bài gửi : 566 Registration date : 25/06/2009
| Tiêu đề: Re: Thể loại Tống Từ Mon 30 May 2011, 12:08 | |
| 烏夜啼 - 李煜
昨夜風兼雨, 簾幃颯颯秋聲。 燭殘漏斷頻倚枕, 起坐不能平。
世事漫隨流水, 算來夢裏浮生。 醉鄉路穩宜頻到, 此外不堪行。
Ô dạ đề - Lý Dục
Tạc dạ phong kiêm vũ, Liêm vi táp táp thu thanh. Chúc tàn lậu đoạn tần ỷ chẩm, Khởi toạ bất năng bình.
Thế sự mạn tuỳ lưu thuỷ, Toán lai mộng lý phù sinh. Tuý hương lộ ổn nghi tần đáo, Thử ngoại bất kham hành.
Ô dạ đề (Người dịch: Nguyễn Chí Viễn)
Xậm xụt đêm mưa gió Tiếng thu rèm lọt lao xao Đuốc tàn lậu cạn luôn xoay gối Ngồi dậy luống nao nao
Thế cuộc trôi theo dòng nước Kiếp người tựa giấc chiêm bao Làng say lối ổn năng lui tới Chốn khác chẳng nên vào
- // - |
| | | unghoadaphu
Tổng số bài gửi : 566 Registration date : 25/06/2009
| Tiêu đề: Re: Thể loại Tống Từ Mon 30 May 2011, 12:15 | |
| Dạ
Bạch Thầy chiều nay đi làm về em xin post một số bài Từ của tác giả Lý Thanh Chiếu ạ.
Còn phần trên là một bài giới thiệu về Tác giả Lý Thanh Chiếu thôi, em đang cố gắng dành những thời gian rảnh rỗi để giới thiệu về Tống Từ có Chính văn, Phiên âm, Dịch nguyên điệu hoặc Dịch nghĩa để mọi người tiện theo dõi và bổ sung vốn từ Hán Nôm ạ.
Ứng Hòa 30/05/2011 |
| | | unghoadaphu
Tổng số bài gửi : 566 Registration date : 25/06/2009
| Tiêu đề: Re: Thể loại Tống Từ Mon 30 May 2011, 17:34 | |
| 聲聲慢 - 李清照
尋尋覓覓, 冷冷清清, 淒淒慘慘戚戚。 乍暖還寒時候, 最難將息。 三杯兩盞淡酒, 怎敵他、晚來風急! 雁過也, 正傷心, 卻是舊時相識。
滿地黃花堆積, 憔悴損, 如今有誰堪摘? 守著窗兒, 獨自怎生得黑! 梧桐更兼細雨, 到黃昏、點點滴滴。 這次第, 怎一個愁字了得!
- Thanh thanh mạn - Nam Tống - Lý Thanh Chiếu Tầm tầm mịch mịch, Lãnh lãnh thanh thanh, Thê thê thảm thảm thích thích. Sạ noãn hoàn hàn thì hậu, Tối nan tương tức. Tam bôi lưỡng trản đạm tửu, Sạ địch tha vãn lai phong cấp! Nhãn quá dã, Chính thương tâm, Khước thị cựu thì tương thức.
Mãn địa hoàng hoa đôi tích, Tiều tuỵ tổn, Như kim hữu thuỳ kham trích ? Thủ trước song nhi, Độc tự tránh sinh đắc hắc! Ngô đồng cánh kiêm tế vũ, Đáo hoàng hôn, điểm điểm trích trích. Giá thứ đệ, Tránh nhất cá sầu tự liễu đắc.
Thanh thanh mạn (Người dịch: Nguyễn Xuân Tảo) Lần lần, giở giở Lạnh lạnh lùng lùng Cảm cảm thương thương nhớ nhớ Thời tiết ấm lên lại rét Càng thêm khó ở Rượu nhạt uống đôi ba chén Không chống nổi chiều về gió dữ Nhạn bay qua Đang đau lòng Lại đúng bạn quen biết cũ.
Chồng chất hoa vàng khắp chỗ Buồn bực nỗi Giờ đây còn ai bẻ nữa Đen kịt nhường kia Một mình giữ bên cửa sổ Cây ngô đồng gặp mưa bay Buổi hoàng hôn thánh thót giọt nhỏ Nối tiếp vậy Ghê gớm sao, sầu kia một chữ.
- // - |
| | | unghoadaphu
Tổng số bài gửi : 566 Registration date : 25/06/2009
| Tiêu đề: Re: Thể loại Tống Từ Mon 30 May 2011, 17:40 | |
| 武陵春- 李清照
風住塵香花已盡, 日晚倦梳頭。 物是人非事事休, 欲語淚先流。
聞說雙溪春尚好, 也擬泛輕舟。 只恐雙溪舴艋舟, 載不動、許多愁。
Vũ Lăng xuân - Nam Tống - Lý Thanh Chiếu Phong trú trần hương hoa dĩ tận, Nhật vãn quyện sơ đầu. Vật thị nhân phi sự sự hưu, Dục ngữ lệ tiên lưu.
Văn thuyết Song Khê xuân thượng hảo, Dã nghĩ phiếm khinh châu. Chỉ khủng Song Khê trách mãnh châu, Tái bất động, hứa đa sầu.
Vũ Lăng xuân (Người dịch: Nguyễn Chí Viễn) Gió lắng hương trần hoa đã hết, Dậy muộn chải đầu lười. Vật đổi sao dời mọi việc thôi, Chưa nói lệ tuôn rồi.
Nghe nói Song Khê xuân vẫn đẹp, Cũng định thả thuyền chơi. Chỉ sợ Song Khê thuyền nhỏ nhoi, Sầu nhiều thuyền chở không trôi.
- // -
|
| | | unghoadaphu
Tổng số bài gửi : 566 Registration date : 25/06/2009
| Tiêu đề: Re: Thể loại Tống Từ Mon 30 May 2011, 17:43 | |
| Tiểu sử tác giả Lý Thanh Chiếu
Lý Thanh Chiếu 李清照 (1084-1155), hiệu Dị An cư sĩ 易安居士, người Tế Nam, Sơn Đông. Bà chẳng những là một tác gia vĩ đại trong nữ thi nhân, mà còn là một tác gia vĩ đại trong Tống từ. Bà là con gái của học giả trứ danh Lý Cách Phi. Năm 18 tuổi, bà kết hôn với con trai Tể tướng Triệu Đĩnh Chi, tức Hồ Châu thái thú Triệu Minh Thành, có thể nói là một mối nhân duyên tốt đẹp nhất thời Bắc Tống. Đôi tài tử cùng nhau xướng hoạ thơ từ, chỉnh lý văn chương, sống một đời thanh tao u nhã. Năm Tĩnh Khang 1126, quân Kim đánh Tống, bà theo chồng chạy xuống phương nam, không lâu sau trượng phu qua đời, thân gái dặm trường thực khiến người ta thương xót. Một mình phiêu bạt, vãn cảnh rất thê lương, đấy đã gây thành bối cảnh ảm đạm trong toàn bộ "Sấu ngọc từ" 漱玉詞 của bà.
Bà quan niệm từ khúc cần hợp luật, ý tứ thanh nhã, coi thơ và từ là hai thể loại hoàn toàn độc lập (biệt thị nhất gia). Tác phẩm của Lý Thanh Chiếu có hai thời kỳ: trước đại biến Tĩnh Khang là những từ khúc về tình yêu đôi lứa thiết tha đằm thắm. Sau khi Tống Triều nam di, tác phẩm của bà là nỗi nhớ thương cố quốc, tình cảm cô liêu u tịch, phong cách kín đáo thâm trầm, xót xa cho kiếp hồng nhan bạc mệnh, hình thành phong cách riêng Lý Dị An, đẩy uyển ước từ phái lên vị trí đỉnh cao thời Lưỡng Tống. Từ của bà chỉ còn sót lại hơn 20 bài, song đều là những châu ngọc, gấm thêu.
- Khuyết Danh |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Thể loại Tống Từ | |
| |
| | | |
Trang 3 trong tổng số 5 trang | Chuyển đến trang : 1, 2, 3, 4, 5 | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |