Bài viết mới | Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 21:37
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:17
KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Thu 21 Nov 2024, 16:45
KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22
Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22
NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20
KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08
Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54
Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10
7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10
Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21
Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13
Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07
Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36
Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09
Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46
Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06
Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04
DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19
Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37
Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17
CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05
Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39
Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41
Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
|
| Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng | |
| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Wed 28 Apr 2021, 10:41 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Khái Hưng xây dựng tiểu thuyết hiện đại trên Phong Hoá
Về tiểu thuyết, trước Hồn bướm mơ tiên, ngoài Bắc có Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách và trong Nam, năm 1932 đã có 18 tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. Nhưng tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh hầu như không có ảnh hưởng ra Bắc, vì người Bắc không thích đọc tiếng Nam, lấy cớ không hiểu, hoặc chê “thô thiển không phải văn chương” và thứ hai, Hồ Biểu Chánh chuyên viết lối hiện thực xã hội trong suốt hành trình dài hơn nửa thế kỷ tiểu thuyết của ông.
Tự Lực văn đoàn khai trương tiểu thuyết trên Phong Hóa, sau đó, một số tác giả khác cũng viết tiểu thuyết như Nguyễn Công Hoan với Cô giáo Minh (1936), Tắt lửa lòng (1936), Vũ Trọng Phụng, Giông tố (1937), Ngô Tất Tố, Tắt đèn (1939), tuy giá trị khác nhau nhưng đều nằm trong lối hiện thực xã hội tả chân.
Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn khác biệt ở chỗ: ngoài ý nghiã xã hội, còn có văn chương tư tưởng, tức là tiểu thuyết trong nghiã toàn diện của nó. Chính hệ thống tiểu thuyết văn chương tư tưởng với những đề tài khác biệt, chủ yếu của Khái Hưng, đã ảnh hưởng sâu xa đến cách viết của những người đi sau, như Nguyễn Tuân, Mai Thảo trong cách xây dựng mỹ học tiếng Việt, Dương Nghiễm Mậu trong hiện thực hiện sinh, Đinh Hùng Hoài Điệp Thứ Lang trong tiểu thuyết lịch sử…
Dưới đây là danh sách truyện dài của Khái Hưng Nhất Linh trên báo Phong Hóa trong hơn ba năm xuất hiện, từ 1933 đến 1936:
Hồn bướm mơ tiên, của Khái Hưng, từ Phong Hóa số 20 (4-11-32), đến Phong Hóa số 29 (6-1-33). Thế giới cũ mực tầu giấy bản, của Nhị Linh (Khái Hưng) từ số 24 (2-12-32) đến 35 (24-2-33). Bông cúc vàng của Khái Hưng, từ số 30 (13-1-33) đến số 35 (24-2-33). Nửa chừng xuân của Khái Hưng, từ số 36 (1-3-33) đến số 63 (8-9-33). Gánh hàng hoa của Khái Hưng và Bảo Sơn (Nhất Linh) từ số 66 (29-9-33) đến số 88 (9-3-33). Đời mưa gió của Khái Hưng và Nhất Linh, từ số 89 (16-3-34) đến số 112 (24-8-34). Số đào hoa của Khái Hưng, từ số 110 (10-8-34) đến số 119 (12-10-34). Đoạn tuyệt của Nhất Linh, từ số 124, 16-11-34, đến số 149 (17-5-35). Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng từ số 129 (21-12-34) đến số 184 (24-4-36). Trống mái, của Khái Hưng, từ số 152 (6-9-35) đến số 173 (7-2-36). Đi Tây, của Nhất Linh, từ số Phong Hóa số151 (31-8-35) đến Phong Hóa số 181 (3-4-36).
Địa vị của Khái Hưng
Là người anh cả trong văn đoàn Tự Lực, Khái Hưng sinh năm 1896, Tú Mỡ, 1900, Nhất Linh 1906, Hoàng Đạo, 1907, Thế Lữ, 1907, Thạch Lam, 1910 và Nguyễn Gia Trí, khoảng 1910.
Khái Hưng bao giàn cả tờ báo: Ngoài việc viết tiểu thuyết đăng hàng tuần, ông còn viết truyện ngắn, phụ trách các mục thường thức như Văn học, Phụ nữ, Những hạt đậu dọn (nhặt sạn văn chương, ký Nhát Dao Cạo, Hàn Đãi Đậu), viết xã luận, kịch, truyện vui, tiểu luận, làm thơ trào phúng, dịch thơ chữ Hán, chữ Pháp, làm câu đối, điểm báo, điểm sách, đôi khi vẽ tranh châm biếm… Tóm lại, việc gì ông cũng làm được.
Khái Hưng và Nhất Linh là hai cột trụ của Tự Lực văn đoàn, trên hai cương vị khác nhau.
Huy Cận, xuất hiện trên Ngày Nay số Xuân 96 (30-1-38) với bài thơ Chiều xưa, lúc đó Phong Hóa bị đình bản được một năm rưỡi, đã nhận định khá đúng tình hình:
“Trong Tự Lực văn đoàn, Nhất Linh là người chỉ đạo, nhưng Khái Hưng là lực lượng có thể nói là nền móng. Sức sáng tác dồi dào của anh, sự hoan nghênh của công chúng lúc bấy giờ đối với những tác phẩm của anh là chỗ dựa chính cho sự tồn tại của báo Ngày Nay và của nhà xuất bản Đời Nay” (Huy Cận, Hồi ký song đôi).
Khảo sát tiểu thuyết trên Phong Hóa và Ngày Nay, ta mới thấy Khái Hưng ngự trị bằng tác phẩm không chỉ trên Phong Hóa mà cả văn đàn miền Bắc, từ năm 1933 với Hồn bướm mơ tiên và Nửa chừng xuân. Liền sau đó là Gánh hàng hoa và Đời mưa gió, viết chung với Nhất Linh, tiếp đến Trống mái và Tiêu Sơn tráng sĩ, đều là những tác phẩm giá trị.
Nguyễn Hiến Lê nhớ lại:
“Tôi nhớ những năm đó các bạn nội trú của tôi ở trường Công chính chuyền tay nhau đọc say mê những chuyện Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên… trong tờ Phong Hóa”[1]
Nhạc sĩ Nguyễn Hiền, ghi lại: “Thanh niên và thiếu nữ theo tân học say mê đọc "Hồn bướm mơ tiên", tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng như cơn gió mát đi vào tâm hồn tuổi trẻ đang tìm hiểu về tình yêu lãng mạn”[2]
Nhưng có lẽ ta nên đọc thêm vài câu nữa của các nhà văn, nhà phê bình thời đó, để hiểu xem Khái Hưng đã được đón nhận như thế nào.
Trần Thanh Mại, nhà phê bình, viết về Hồn bướm mơ tiên: “Quyển thứ nhất của Tự Lực văn đoàn, thứ nhất của ông Trần Khái Hưng, Hồn bướm mơ tiên, có lẽ là quyển thứ nhất trong văn nghệ nước ta đáng để lại cho hậu thế”[3]
Nguyễn Triệu Luật, nhà văn chuyên viết truyện lịch sử: “Văn ông hơn người ở chỗ bình dị, trôi chảy, không dùng khóe văn vụn vặt, không khoe chữ như các ông văn sĩ khác. Văn ông như cô con gái có duyên thầm, không cười mà người ta trông thấy vẻ tươi, không khóc mà người ta đoán được vẻ buồn kín đáo và lặng lẽ. Các vai chuyện của ông – nhất là các vai chính – thảy đều có một cái nhân cách thanh cao tao nhã. Các thiên tiểu thuyết của ông thảy đều có vẻ cao siêu khác thường.
Kẻ viết mấy giòng này đã nhiều lần phải nghiêng mình kính chào ông một nhà văn mới khởi sắc trên văn đàn” (Phụ nữ thời đàm số 23, ngày 14-5-34).
Union Indochine viết: “Còn có gì lạt lẽo bằng truyện một cậu tham trẻ, con nhà "đại gia" yêu một cô gái quê nhu mì, con một nhà nho nghèo chết sớm, và chị một cậu học sinh đau ngực. Thế mà nghệ thuật của Khái Hưng đã khéo dàn xếp được câu truyện rất tầm thường ấy và đã khiến thoi chì của cuộc đời thường nhật trở nên vàng trong một thiên tiểu thuyết kiệt tác…” (Union Indochine).
Những nhận xét trên đây, có còn đứng vững tới hôm nay hay không? Ta cần đọc và phân tích lại những tác phẩm chính đã kê khai trên đây, qua lăng kính phê bình thời nay.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Fri 30 Apr 2021, 08:05 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG (tt)
Thuỵ Khuê
Hồn bướm mơ tiên
Hồn bướm mơ tiên đăng trên Phong hóa từ số 20 (4-11-32) đến số 29 (6-1- 33).
Nguyễn Tường Bách ghi nhớ kỷ niệm một ngày đi chơi chùa Bắc Ninh:
“Rời chùa Phật Tích, theo con đường nhỏ, chúng tôi rẽ sang chùa Bách Môn gần đồi Lim… Cũng nằm trên sườn đồi, có đường rộng dẫn vào, chùa Bách Môn kém bề cổ kính; có nhiều cửa to nhỏ ra vào, nhưng đếm đi đếm lại cũng không đủ một trăm.
Song, ngôi chùa này đã được Khái Hưng để ý và chọn làm nơi chàng trai trẻ Ngọc đã gặp chú tiểu Lan trong mối tình của cuốn tiểu thuyết đầu tay.
Liên tưởng đến truyện ngày xưa, Lê Thánh Tôn đã gặp một nàng tiên tại một ngôi chùa nào đó. Câu thơ được truyền tụng tới nay:
Gió thông đưa kệ tan niềm tục, Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời”[4]
Chùa Bách Môn[5], trên núi Khán Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, là một trong 10 chùa lớn được Trần Trọng Kim ghi lại trong Phật Lục[6] có lối kiến trúc đặc biệt, dựng khoảng 1136-1137. Thời Trịnh Sâm, được bà Chúa Chè (Tuyên phi Đặng Thị Huệ) chọn làm nơi ăn chay niệm Phật, sau khi bị thất sủng; nên chùa được xây dựng hoành tráng, trăm cửa. Chùa Bách Môn bị tiêu diệt năm 1949, vì tiêu thổ kháng chiến. Năm 1992 dựng chùa mới.
Chùa Bách Môn xưa, ảnh của Võ An Ninh, Khuất Tân Hưng sưu tầm
Khái Hưng trong Nửa chừng xuân còn dẫn Mai, Lộc và Huy trở lại pic-nic ở chùa, lần này ông ghi cảnh chùa kỹ hơn:
“Về phiá hữu sườn đồi choai choải giốc xuống một cái thung lũng hẹp, có cái lạch nhỏ chia đôi hai thửa ruộng chạy dài. Về phía tả đi ngược lên ngọn đồi, các vườn giải thành bậc ruộng, đất vàng. Trong vườn mọc um tùm mà không thành luống, thành hàng, biết bao là các thứ cây: nào mít, nào đào, nào bưởi, nào cam. Thỉnh thoảng trong đám lá xanh lại nhô ra vài cái mái nhà lợp lá gồi màu nâu thẫm. Bức tường đất ngăn những nương vườn cao ấy với đường đi thì hình như chỉ có để làm vì, hoặc để trang điểm cái cảnh thôn giã ấy cho tôn thêm vẻ đẹp mà thôi. Vì không những tường đã thấp, mà nhiều chỗ lại bỏ hổng như để mời khách qua đường bước lên chơi”. Đến gần: “Chùa làm kiểu chữ khẩu, bốn mặt như nhau, bốn góc có bốn gác chuông, cách kiến trúc rất giản dị mà rất kiên cố.” (Phong Hóa số 45)
Năm 1936, Nguyễn Gia Trí vẽ chùa trên bìa báo Ngày Nay số 26 (20-9-36), có lẽ cũng đúng ở vị trí mà Khái Hưng đứng ngắm chùa trong Nửa chừng xuân. Chùa nay đã hóa thành thiên cổ, nhưng may mắn chúng ta còn giữ lại hồn cốt nghệ thuật và văn chương dưới tên Long Giáng trong Hồn bướm mơ tiên.
Chùa Bách Môn dưới mắt Nguyễn Gia Trí, Ngày Nay số 26 (20-9-36)
Hồn bướm mơ tiên không chỉ là tiểu thuyết đầu tiên của Tự Lực văn đoàn, mà còn là câu chuyện đầu tiên của nhiều thứ khác:
- Với tên Hồn bướm mơ tiên, Khái Hưng bước vào tiểu thuyết bằng ngả cao sang nhất: ngả thơ. Thơ cổ. Ông đã đụng tới hồn Việt lâu đời, ông đã thắp nén hương dâng người xưa, những người đã từng bước, từng bước, xây dựng nền văn hóa Việt.
- Hồn bướm mơ tiên đã quét sạch lối văn biền ngẫu cổ điển để đưa tiểu thuyết vào thời hiện đại.
- Hồn bướm mơ tiên là tác phẩm tiểu thuyết đầu tiên không có cốt truyện, không tình tiết éo le, mà chỉ là cuộc đối thoại dài giữa hai người: Lan và Ngọc, một cấu trúc rất mô-đéc, sau này mới có.
- Hồn bướm mơ tiên đưa văn hóa Bắc Ninh vào tiểu thuyết: âm giai quan họ thấm vào mỗi chữ, mỗi câu, tung lên không gian, tạo nên một “không khí ca dao quan họ” trong gió mây, đồng ruộng.
- Hồn bướm mơ tiên đưa nghệ thuật trình diễn vào tiểu thuyết: dáng dấp đào Mơ, thị Màu, thị Kính… như ẩn như hiện dưới sân chùa.
- Khái Hưng đưa lịch sử vào tiểu thuyết: Long Giáng là dấu ấn thiêng liêng của Thăng Long trên nền đất Phật. Văn Khôi công chúa, trốn cuộc hôn nhân định đặt, đến quy y, đặt chùa lên ngôi vương giả.
- Chú Lan, hậu thân công chúa, hiện lên trong không gian cao khiết, quyến rũ lạ thường: “Trong làn không khí yên tĩnh, tiếng chuông thong thả ngân nga, như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹp cảnh thiên nhiên. Lá cây rung động, ngọn khói thướt tha, bông lúa sột soạt như cảm tiếng gọi của Mâu Ni muốn theo về nơi hư không tịch mịch” (Ngày Nay số 20).
Một thi pháp mới vừa xuất hiện, giao hòa cỏ cây, tiếng chuông, mùi thiền, hồn Văn Khôi, dáng Thị Màu, trong bối cảnh tình yêu nơi cửa Phật, tạo ra một thứ chữ tẩm văn hóa lịch sử trong mỗi câu, mà tôi xin gọi là mỹ học thiền vị.
- Hồn bướm mơ tiên có tính chất bí mật của trinh thám, thứ trinh thám biết trước thủ phạm của Colombo: Gặp Lan, Ngọc đã nghi ngay: “Sao ở vùng nhà quê mà lại có người đẹp trai đến thế nước da trắng mát, tiếng nói dịu dàng, trong trẻo như tiếng con gái” và chàng cũng tán ngay: “Hay tôi xin phép cụ ở lại chùa tu với chú nhé?”. Sự nghi ngờ mỗi phút mỗi tăng: “Phải, nếu hắn là gái thì hắn cần gì phải làm thế để che giấu ta chứ… Đích rồi, chính hắn là gái.” Ngọc dùng mọi mưu kế để lật tẩy Lan, nhưng luôn luôn bị Lan lật lại, nên cuộc chiến gần như bất phân thắng bại. Mỗi lần thua, càng gieo thêm vào lòng Ngọc sự ham muốn: hắn là trai hay gái? Nghệ thuật pha trộn tu-tục tuyệt vời chính chỗ này: sự tìm kiếm trinh thám Colombo, khiến Ngọc mãi mãi là thanh niên và Hồn bướm mơ tiên không thể nào già, vì những gì Ngọc-Lan sống trong cảnh chùa, trong ngôn ngữ và hành động, chính là hiện hữu, hiện hữu trẻ trung đầy sáng tạo, rất thật; khiến người đọc mỗi lần đọc lại tác phẩm lại khám phá một thứ gì mới trong cái hài hước, cái oái oăm, hóm hỉnh, mà lần trước mình chưa thấy.
Mục đích của Ngọc là khám phá Lan là gái. Nhưng khi đến đích rồi, thì tất cả xoay chiều, từ hài hước chuyển sang bi đát, chia ly.
Có người cho rằng Việt Nam không có tác phẩm “lớn”. Đúng. Hồn bướm mơ tiên phải là bé, bé lắm vì là cuốn sách mỏng dính. Nhưng văn chương không thể lấy bề dày mà đo được. Hồn bướm mơ tiên tuy bé nhưng bé hạt tiêu, chỉ với một mớ chữ nhỏ đủ gói trọn tâm hồn và lịch sử văn hóa một dân tộc: mộc mạc như cuộc sống nâu sồng của chú Lan, cao sang như công chúa Văn Khôi, đến Thị Kính, Thị Màu, những người phụ nữ không tuổi, trọ dưới mái chùa Long Giáng, hiện lên với chúng ta, qua một thoáng chữ.
Có người lại nói: bây giờ đọc lại Tự Lực văn đoàn thấy lỗi thời. Tôi không chắc họ có thì giờ “đọc lại” nên đã nhờ sự chỉ giáo của thành kiến, bởi chữ Việt của Khái Hưng, nhất là trong Hồn bướm mơ tiên, lại viết theo lối truyện không có chuyện, rất mới, bằng lối văn đơn sơ tối đa mà Trang Tử từng nhắc tới trong Nam Hoa Kinh như một điều kiện văn chương toàn bích, cho nên, nếu ai có thì giờ đọc lại hay đọc lại, vẫn thấy sống động, trẻ trung, không lỗi thời, phủ bụi, sau 90 năm xuất hiện.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Mon 03 May 2021, 11:24 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG (tt)
Thuỵ Khuê
Thế giới cũ mực tầu giấy bản của Nhị Linh (Khái Hưng) đăng trên Phong Hóa từ số 24 (2-12-32) đến số 35 (24-2-33)[7], chỉ là tác phẩm thứ yếu của Khái Hưng, một tự truyện về bảy, tám năm học chữ Nho. Cách viết nhẹ nhàng, có duyên, thuật lại cảnh một cậu bé (Nhị) Linh sáu tuổi được cha mẹ mời thày đồ về dạy chữ Nho, câu đầu tiên thầy bảo: “Nhồi tư tưởng thánh hiền vào bộ óc dốt nát cũng ví như cất nóc cho nhà”. Từ đó ngày ngày cậu được thầy nhồi “tư tưởng thánh hiền” cật lực:
“Học đi! Thiên là giời! Tôi sợ cuống quýt, không nhìn vào sách mà chỉ chú ý tới cây roi mây, cất giọng nhè nhè đọc đi đọc lại đến mấy chục lần: A… thiên là giời, thiên là giời a… a… Thày lại quát: -Trỏ tay vào mặt chữ chứ. Tích là cho…Tôi vội vàng theo đầu ngọn roi trỏ vào chữ thứ hai: Tích là cho, tích là cho… Khi tôi học hết chữ thứ tám thày bắt tôi học lại hai câu bốn chữ: Thiên tích thông minh: giời cho thông sáng. Thánh phù công dụng: Thánh giúp công dùng. Tôi đã toan hỏi thày công dùng là gì, nhưng trông thấy ngọn roi mây mấp máy lại thôi. May sao như thày đọc thấu ý nghĩ của tôi, khoan thai giảng nghiã rằng:
- Giời cho thông sáng, thánh giúp công dùng nghiã là mày mới vỡ lòng thì ông giời cho mày sự thông sáng và ông thánh giúp mày sự công dùng để mày có thể hiểu được đạo thánh hiền.
Tôi cũng không hiểu nhưng vẫn không dám hỏi… Rồi suốt bảy tám năm giời, cứ như thế, thày tôi, cái roi và tôi, tuy không ai hiểu ai mà luôn luôn vẫn phải hiểu nhau.” (Ngày Nay số 27)
Trong ba năm đầu, cậu bé đã học thuộc lòng: quyển Hán, quyển Huệ (bộ Bắc sử) và toàn bộ tứ thư: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử: “tôi chỉ học như con vẹt, tuy học thuộc lầu lầu, nhưng chẳng hiểu là trong sách thánh hiền dạy gì? Lời thày giảng nghiã thì lại y như lời thánh hiền khiến tôi càng mờ mịt”. (Ngày Nay số 28).
Điều tra sự thật, ta thấy sau đây là những nguyên do chính đưa đến sự “phản kháng” của trò Linh sau này:
Chính vì bị nhồi nhét tư tưởng thánh hiền như nhồi dồi, nên cậu bé Linh sau này đâm ớn thánh hiền. Lại còn chuyện ông thầy luôn luôn nhắc đến việc “tam thê xuất thế” của đức Khổng mà “thày lại không bao giờ giảng cho nghe vì cái lẽ gì mà các bà vợ khốn nạn kia đã bị đuổi. Tôi lạ một điều nữa là thày đồ tôi học rộng đạo thánh hiền, thế mà rất vô ơn đối với phụ nữ, thực ra công giúp thày ra khỏi vòng nguy nan là ở hai người đàn bà. Một người là bà đồ [tần tảo buôn bán nuôi con] và một người nữa là mẹ tôi, vì chính mẹ tôi đã giục cha tôi đi rước thầy về dạy cho anh tôi”. (Ngày Nay số 26).
Tôi chắc những chuyện lặt vặt ấy đã là mầm mống của cuộc “cách mệnh” đánh đổ nho học và bênh vực phụ nữ của cậu Linh sau này.
Nửa chừng xuân ra đời trở thành best-seller ngay, tiền bán sách được dùng gây quỹ cho giải thưởng văn chương Tự Lực văn đoàn và tiền diễn kịch Nửa chừng xuân giúp học sinh nghèo[8].
Khái Hưng xây dựng Mai, và Nhất Linh xây dựng Dũng, hai nhân vật tiêu biểu cho một thời đại, không ngừng ở trong tâm người đọc, dù ở thế hệ nào. Mai đã được Lê Thị Lựu đưa vào bức tranh bất hủ của bà, sáng tác tại Pháp, thập niên 60, mà chúng tôi đã mạn phép đặt tên là Nửa chừng xuân.
Nửa chừng xuân ba chữ của Nguyễn Du, rút trong câu thơ Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương, bắt đầu một định mệnh: Định mệnh Mai, người con gái thấm nhuần đạo đức Khổng Mạnh, trong buổi giao thời.
Nửa chừng xuân là truyện một cô con gái nhà nghèo quyết định nuôi em ăn học để nên người hữu ích cho xã hội, như lời cha dặn. Mai không là gái tân thời biết chữ Tây. Mai chỉ biết chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Quyết định tự lập ở Mai, là do tiết khí nho phong, chứ không do ảnh hưởng chủ nghĩa cá nhân Tây phương và những quyết định của Mai sau đó, cũng do ảnh hưởng nho giáo.
Ở bước đường cùng, Mai được Lộc giúp đỡ. Đối với Mai đó là cái ơn phải trả. Và khi Lộc hỏi cưới, Mai nhận lời ngay, vì yêu Lộc và nhất là để trả ơn ân nhân như trong các truyện cổ. Khi biết Lộc đưa người mẹ giả đến hỏi mình, dù biết, Mai vẫn nhận lời. Quyết định lấy Lộc với bất cứ giá nào, chỉ có một lý do chính đáng: trung thành giữ lời hứa và đền ơn. Sau này, khi đã bị bà Án đuổi đi, Mai vẫn trung thành với Lộc, thủ tiết với chồng. Đó là những nền móng của đạo Nho.
Bà Án biết Lộc lén lút lấy Mai, bèn dùng quỷ kế chia rẽ hai vợ chồng. Màn đấu trí đầu tiên xảy ra: Mai phải cúi đầu van xin bà tha thứ và chấp nhận nàng, bà Án ra lệnh: nếu chịu về làm vợ bé Lộc thì được. Mai trả lời dứt khoát: “Bẩm bà lớn nhà con không có mả đi lấy lẽ”. Lời cứng đầu tiên, trước khi đại bại. Phải bỏ đi.
Bà Án không phải là người hoàn toàn xấu, bà là người mê muội, vì yêu con thái quá, tìm đủ mọi lỗ hổng trong đạo nho mà bà có thể xài làm vũ khí tấn công kẻ dám “làm hại” đời con bà.
Năm năm sau, qua nhiều thăng trầm, bà Án một lần nữa lại tìm đến Mai, trong thất thế, đánh trận chót: cướp lại đứa cháu trai, vì vợ Lộc hữu sinh vô dưỡng: hai lần sinh con trai đều chết cả. Cuộc đấu trí thứ nhì xảy ra. Bà định chính danh một bà Án, đòi lại cháu đích tôn. Không được, vì con Mai mang họ mẹ, có dính gì đến bà đâu. Bà bèn dí tiền. Hạ sách. Lần này, ở thế thượng phong, Mai đã cho bà Án hiểu thế nào là sự ê chề tuyệt vọng của một con người.
Hai màn đấu trí và màn tả bé Ái chơi ô tô, là ba màn chính trong truyện, cho thấy nghệ thuật đối thoại và miêu tả của Khái Hung đã đạt đỉnh cao: Khái Hưng tả ai cũng được, nhưng khi ông tả bé Ái năm tuổi, chơi ô tô trong vườn, thì thực là tuyệt bút: sự ngây thơ thông minh, hóm hỉnh của bé Ái, việc nó đẩy bà Án ra và giơ tay quệt má sau khi bà ôm hôn nó, càng làm bà thèm nhỏ rãi đứa cháu đích tôn mà bà đã đày đọa, xóa sổ từ khi còn trong bụng mẹ. Chỉ cần một màn này cũng đủ thấy nghệ thuật tả chân của Khái Hưng điêu luyện đến mức nào.
Ở đây không có sự tranh chấp cũ mới, mà là sự đối đầu giữa hai người đàn bà cùng thế hệ cũ: là cuộc giao tranh giữa lòng nhân hậu bác ái và lòng ích kỷ độc ác, là chuyện ác giả ác báo trong đạo Phật.
Trong Nửa chừng xuân, là một Khái Hưng trung dung, chưa quyết định con đường tranh đấu cho cuộc sống mới, ông chỉ đưa ra bộ mặt toàn diện xã hội với bức chân dung Mai nổi trội của người phụ nữ buổi giao thời, độ lượng, hy sinh, thấm nhuần những cái hay của nho học, tìm cách sống tự lập, đưa gia đình qua khỏi nghịch cảnh. Mai sẽ trở thành biểu tượng của người phụ nữ thời Tự Lực văn đoàn.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Wed 05 May 2021, 08:53 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG (tt)
Thuỵ Khuê
Gánh hàng hoa in trên Phong Hóa từ số 66 (29-9-33) đến số 88 (9-3-33), Khái Hưng viết chung với Bảo Sơn (Nhất Linh), tác phẩm tiếp tục con đường Nửa chừng xuân, trong bối cảnh thơ mộng của một làng trồng hoa. Vợ chồng Minh Liên đang sống trong hạnh phúc: vợ làm nghề bán hoa nuôi chồng đi học. Ngày Minh thi đỗ, ăn khao với các bạn, uống rượu say, ra về bị ngã dập trán, vết thương động đến mắt. Minh mù. Tác phẩm chiếu vào hoàn cảnh một người đang sáng trở thành mù, hiệu ứng như thế nào? Một đề tài mới lạ, và cũng là tác phẩm đầu tiên Khái Hưng Nhất Linh đưa nội tâm và tiểu thuyết, tìm đến những nhận xét tinh vi về sự biến đổi tâm hồn khi đôi mắt không còn sáng.
Trong Gánh hàng hoa, tính hy sinh nhẫn nại, lòng đại lượng bao dung của Liên tự nhiên như ăn và thở, Khái Hưng Nhất Linh đưa Liên, như cô em gái Mai vào tiểu thuyết, khiến bất cứ ai có người chị hiền cũng có thể thấy ở Liên hình ảnh chị mình: suốt đời hy sinh cho gia đình. Liên không được học nhiều, những thứ triết lý Liên nói ra khuyên chồng đều là triết học thực nghiệm, thứ triết học bình dân nằm trong suy tư, trong tục ngữ. Một hôm, Minh đang ngồi một mình, bỗng “Thoáng ngửi thấy hương thơm sực nức, Minh mơ màng như đương sống trong cảnh mộng. Chàng chớp mau cặp mắt, đăm đăm ngẫm nghĩ.
Không chàng không mơ mộng. Cái mùi thơm vẫn như ở bên chàng, mà chàng lại có thể tách bạch ra được rằng trong đó có hoa móng rồng, hoa hoàng lan, hoa mộc, hoa sói và hoa ngâu. Chàng mỉm cười vì chàng chợt nhớ đến lời nói của Liên mấy tháng trước: là khi mắt ta không trông thấy thì thính quan của ta càng tăng lên. Trong lòng ngờ vực, Minh đưa tay ra sua ở trước mặt, thì đụng phải tay Liên. Chàng giật mình hỏi:
- Cái gì thế?
Tiếng cười khanh khách của Liên đáp lại:
- Em tặng mình bó hoa”.
Cử chỉ, hành động của Liên thường âm thầm, tế nhị, như thế. Khái Hưng Nhất Linh đã tạo ra một nhân vật cực kỳ mẫn cảm để chống chọi với những khổ đau ác độc của cuộc đời: người chồng vừa thi đỗ, đầy tương lai, tự nhiên bị mù, co cụm trong mặc cảm với những cơn giận giữ cay nghiệt, ghen tuông vô lý, tưởng tượng ra những cảnh ái ân tội lỗi giữa vợ và người bạn thân nhất hết sức giúp mình, rồi khi sáng mắt trở lại, để trả thù đời, lao như điên vào cuộc sống trác táng trụy lạc. Minh là nhân vật đầu tiên của Khái Hưng Nhất Linh có một đời sống nội tâm phức tạp. Sau này hai ông sẽ dựng nên những nhân vật khác, như An trong Gia đình (Khái Hưng), Nhung trong Lạnh lùng (Nhất Linh), Dũng trong Đôi bạn (Nhất Linh), Hạnh của Khái Hưng, Trương trong Bướm trắng của Nhất Linh, Cảnh trong Băn khoăn của Khái Hưng. Đó là giai đoạn hai của tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn trên Ngày Nay. Lúc đó những nhà văn cùng thời với họ vẫn chưa bước vào địa hạt tiểu thuyết nội tâm.
Đời mưa gió in trên Phong Hóa từ số 89 (16-3-34) đến số 112 (24-8-34) Khái Hưng viết chung với Nhất Linh, là một tác phẩm hoàn toàn đi trước thời đại: đào sâu mối tình giữa một thày giáo trường Bưởi, đạo mạo, ghét đàn bà và một cô gái điếm. Một tác phẩm như vậy làm sao tránh khỏi sự lên án, thậm chí người lên án còn là một nhà mác-xít như Trương Tửu.
Tuyết sinh sau Mai, và Liên, nhưng vẫn là ba chị em, không cùng tính nết, định mệnh. Nếu hai người chị, hoàn toàn sống trong lễ giáo nho phong, thủ tiết chờ chồng, dù chồng phũ phàng tệ bạc. Tuyết theo Tây học, có phản ứng quyết liệt ngay từ đầu: thà bỏ cái gia đình chồng khốn nạn, bỏ con, để đi vào đời mưa gió, còn hơn ở lại làm tôi mọi cho sự ngu dốt và táng tận lương tâm.
Tuyết không chỉ là một cô gái điếm, sống nhờ nhân tình, mà nàng còn tự do, nàng là biểu tượng của cái đẹp, không để ai trưng dụng, không dành riêng cho một người, mà nàng đến với mọi người, lúc nào nàng muốn. Bởi vì Tuyết đã khắc vào trái tim sắt đá của nàng một câu châm ngôn: “Không tình, không cảm và chỉ coi những lạc thú ở đời như các vị thuốc trường sinh” (Phong Hóa số 96). Mới đầu, thấy Chương ngây thơ, trong sạch, Tuyết ví Chương như một “cô thiếu nữ, một cô gái đồng trinh”, nàng quyến rũ chơi. Bởi vì nàng “chỉ biết có một thứ ái tình: ái tình xác thịt” (Phong Hóa 98). Nhưng tất cả những định kiến vững như đồng về chủ nghiã xác thịt, rồi cũng sụp đổ trước tình yêu chân thật, dần dần chiếm trọn thể xác tâm hồn.
Tác phẩm đặt vấn đề: một người con gái đã sa ngã, còn có thể đứng dậy được không? Câu trả lời dường như là không. Không. Ở xã hội. Ở con người. Ở người yêu. Mà Không, ở cả chính mình. Tất cả những gì toát ra trong mọi chi tiết hành động, suy nghĩ của Tuyết và Chương, trong cuộc yêu, cuộc sống, dài gần ba năm, đứt quãng bởi những lần bỏ đi, chứng tỏ tất cả đều không buông tha họ, nhất là chính họ.
Đời mưa gió, vì vậy là tác phẩm đau thương nhất trong thời kỳ văn học 1932-45. Nỗi đau của Tuyết, không phải là nỗi đau của Thị Mịch bị hiếp dâm, của chị Dậu bị cường hào đàn áp, mà đến từ chính nội tâm con người, nỗi đau nguyên thủy, vì vậy, nó có giá trị trường kỳ, bất tử.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Wed 12 May 2021, 10:47 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG (tt)
Thuỵ Khuê
Đoạn tuyệt của Nhất Linh in trên Phong Hóa từ số 124 (16-11-34), đến số 149 (17-5-35).
Trên trang đầu cuốn sách Đoạn tuyệt, ghi những dòng: “Tặng Khái Hưng, tác giả "Nửa chừng xuân" nhà văn cùng một quan niệm với tôi về xã hội hiện thời; tặng các thanh niên nam nữ đã từng chịu những nỗi khắt khe của cuộc xung đột mới cũ”. Nhất Linh.
Đoạn tuyệt, Phong Hóa số 124 Phát súng đầu tiên báo hiệu cuộc đấu tranh mới cũ của Tự Lực văn đoàn là Đoạn tuyệt. Tác phẩm tạo cuộc chiến trong dư luận, vì nội dung không nhân nhượng với chế độ đại gia đình, quyết tiêu diệt cảnh mẹ chồng nàng dâu, hạ huyệt đạo tứ đức tam tòng. Đoạn tuyệt, khác hẳn Nửa chừng xuân, nó cắt đứt với quá khứ cổ hủ, kích động sự chuyển hóa xã hội, buộc con người phải thay đổi suy nghĩ, trước và sau Đoạn tuyệt.
Trên báo Loa, 8-8-35, được Trương Tửu khen ngợi nồng nhiệt.
Sau này, khi phê phán tác phẩm của mình trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết, Nhất Linh xếp Đoạn tuyệt phạm lỗi lầm thứ tư, nghiã là có ý định dùng "tiểu thuyết làm một việc gì" (viết luận đề tiểu thuyết)[9] là hỏng. Tôi không đồng ý với Nhất Linh.
Đoạn tuyệt, nếu có dở, dưới mắt Nhất Linh, thì không phải vì đó là một cuốn tiểu thuyết chỉ chuyên chú đến luận đề. Nhận xét này của tác giả đã làm giảm giá trị Đoạn tuyệt không ít. Thực ra, nhà văn có quyền dùng tiểu thuyết làm bất cứ việc gì, miễn là viết hay và tự nhiên. Đoạn tuyệt và Lạnh lùng đều chống chế độ cũ với cường độ mãnh liệt như nhau, nhưng Đoạn tuyệt mạnh về hành động, Lạnh lùng mạnh về nội tâm, nên sâu sắc hơn, chỉ đơn giản như thế. Còn phần lớn tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, đều viết ra để “làm một cái gì”, tức là có mục đích cải tạo xã hội cả.
Rồi người ta lại trách Đoạn tuyệt dở ở chỗ đã dựng nên cái chết của Thân một cách gò ép. Trách như thế cũng quá đáng.
Đoạn tuyệt không dở như sự nhận định của tác giả và như lời những người khác chê bai. Đoạn tuyệt là tác phẩm thành công đầu tiên của Nhất Linh, được viết với ngòi bút điêu luyện, bố cục chặt chẽ, những chi tiết đan cài một cách có hệ thống, lô-gic, cả đến tai nạn đưa đến cái chết của Thân cũng hoàn toàn có lý, không thấy nét xếp đặt, giả tạo nào.
Cốt truyện rất giản di: Loan và Dũng yêu nhau nhưng không nói ra. Dũng theo cách mạng, ly khai gia đình. Loan bị cha mẹ ép lấy Thân vì hai nhà đã hẹn ước từ trước, nhất là cha mẹ Loan nợ cha mẹ Thân một món tiền lớn. Cuộc hôn nhân thất bại vì Loan là gái mới, phải chịu sự đàn áp ác nghiệt của mẹ chồng, sự đồng loã của chồng và các em chồng. Cuộc xung đột lên tới cực điểm vào một đêm, Loan đang đọc sách trên giường, Thân nằm cạnh chỉ đợi vợ tắt đèn đi ngủ là lẻn xuống nhà dưới với vợ bé. Loan biết thừa, tỉnh bơ. Thân giật quyển sách trên tay Loan vứt đi. Loan cúi xuống nhặt sách lên đọc tiếp như không có gì xảy ra. Thân phát khùng, giơ chân đạp vợ xuống đất, miệng không ngớt hò hét rủa xả. Loan vừa lóp ngóp bò dạy thì bà Phán nhào vô phòng chửi góp, Loan đáp lại, bà Phán tát con dâu túi bụi. Loan gỡ được, lùi lại phía sau, bà Phán hạ lệnh cho con trai đánh tiếp. Thân hùng hục đấm vào ngực Loan, Loan cố gắng lùi vào góc giường. Bà Phán hạ lệnh: Đánh chết nó cho tôi. Chết đã có tôi chịu. Loan vẫn lùi, Thân tiện tay với được cái lọ đồng trên bàn, sấn lên, Loan hoảng hốt vớ con dao díp rọc giấy trên bàn giơ lên đỡ, Thân như con hổ dữ, giáng cái lọ đồng đập xuống, Loan tránh được nhưng ngã ngửa xuống giường tay vẫn cầm con dao. Thân quá đà, ngã sấp lên người Loan… và con dao.
Xen này được mô tả rõ mồn một từng chi tiết, không chỗ nào sơ hở hay giả tạo.
Văn phong và cấu trúc trong Đoạn tuyệt điêu luyện, khác hẳn với cấu trúc rệu rạo của Nắng thu, Nhất Linh viết trước đó.
Đoạn tuyệt là tác phẩm quan trọng, đánh dấu sự thành công của Nhất Linh trong tiểu thuyết, cùng sự tranh đấu quyết liệt cho đời sống mới của Tự Lực văn đoàn và của cả một thời đại.
Đi Tây đăng trên Phong Hóa (từ số 151, 31-8-35, đến số 181, 3-4-36).
clip_image008
Đi Tây của Lãng Du, Phong Hóa 151 Sau thành công của Đoạn Tuyệt, Nhất Linh viết tiếp Đi Tây, dưới bút hiệu Lãng Du, in trên Phong Hóa cùng lúc với Trống mái của Khái Hưng.
Đi Tây là tác phẩm thứ yếu của Nhất Linh. Lúc đầu, ông muốn viết một truyện để nhại Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh, nên dưới tít Đi Tây đề thêm: “Hay là Pháp du hành trình Nhật Ký (Lấy nụ cười để che sự thực)” và trong chương đầu, ông dùng giọng hài hước, với những tiểu đề Tập làm bồi, Mưu Gia Cát… để kể câu chuyện sau đây: Sau khi xin phép đi Tây trong ba tháng không được, tôi [Nhất Linh] mới nghĩ ra một kế là xin làm bồi tàu, bèn bảo tình nhân cho mượn cái mâm đồng và hai cái cốc để tập làm bồi… Rồi tôi viết đến 10 đơn xin phép đi Tây mà không được trả lời, mới nghĩ ra một kế, thay vì viết thư cho quan Thống sứ [cai quản Bắc kỳ] tôi cầm đơn thẳng đến quan Công sứ [cai quản tỉnh nhà] nói giọng Tây bồi, xin đi học nghề chụp ảnh.
Ngặt vì Nhất Linh không có tài viết văn hài hước nên truyện ông viết không buồn cười mấy, và cũng chỉ viết giọng này trong chương đầu. Sau đó, ông chuyển sang giọng sầu não kể cuộc chia ly đầy nước mắt với cô nhân tình, hai người cùng nốc cạn bốn chai sâm banh…
Qua cái tít Đi Tây, độc giả chờ đợi một hồi ký viết về thời du học ở Pháp của nhà văn Nhất Linh năm 1927-1930. Chuyến đi ghé qua những cảng Singapore, Colombo, Aden, Djibouti, kênh Suez, Port Said, Stromboli rồi đến Marseille, bao nhiêu danh lam thắng cảnh, mà chỉ vắn tắt có vài hàng cưỡi ngựa xem hoa. Nhất Linh kể chuyện đi Tây nhưng ngại, không muốn để lộ đời tư: Chuyện chia ly với cô nhân tình trật khấc vì ai cũng biết ông Tam đã có vợ ở nhà. Rồi ông lại giấu tên tỉnh Montpellier, nơi ghi tên học, giấu việc chung nhà trọ với Nguyễn Mạnh Tường, những chi tiết nhỏ này làm độc giả thất vọng. Tại sao Nhất Linh không nhân chuyến đi này, viết một cuốn sách giá trị như Hải trình chí lược của Phan Huy Chú? Thật uổng.
Trống mái
clip_image010
Trống mái, Phong Hóa 152
Tiểu thuyết Trống mái in trên Phong Hóa (từ số 152, 6-9-35 đến số 173, 7-2-36) là tác phẩm có tính cách triết học của Khái Hưng, một tác phẩm mô-đéc, tiếp tục con đường tư tưởng táo bạo đã thấy trong Đời mưa gió và Hương gây mùi nhớ.[10]
Trống mái là truyện Trương Chi tân thời, là một bản tình ca mùa hè, nhẹ nhàng mà đớn đau, tàn ác, đưa đến cái chết; nhưng tính chất bi đát trong tác phẩm Khái Hưng luôn mỏng như mây thu. Tình yêu ở đây chỉ có một chiều: Vọi, thuyền chài, vô học, yêu tha thiết cô gái tân thời, có học, nhà giầu ra bãi biển nghỉ hè. Nhưng Hiền không yêu anh mà chỉ yêu cái thân thể lực sĩ đẹp tuyệt vời của anh, một thứ tình hoàn toàn vụ thể xác.
Hiền rủ Vọi đến dự buổi tiệc trà ở nhà nàng, với những người bạn sang trọng tân tiến, nghe nàng đánh vĩ cầm. Họ nhìn Vọi như một người rừng man di mọi rợ. Hiền muốn thách thức bọn sinh viên trường thuốc, trường luật, đang mê nàng? Hay nàng chỉ ác với Vọi, như một hành động vô cố?
Vọi nghèo, quê mùa, đi chân đất, không biết chữ, nhưng có kiến thức sâu rộng vể biển cả, về đất trời, nhờ kinh nghiệm sống. Vọi có tâm hồn nghệ sĩ, cao thượng, hiểu thiên nhiên và quý trọng môi trường. Vọi có những nhận xét tinh vi, Vọi nhìn thấy “bàn chân đặt lên cát ướt sáng loáng như bạc” dưới ánh trăng. Mỗi lần Vọi thưa cô, thưa bà là anh dạy cho cô cho bà, một bài học về biển cả, khí hậu, động vật, thực vật, môi trường. Bọn trường thuốc, trường luật, bên cạnh anh, chỉ là những kẻ ngây ngô, đần độn. Còn Hiền, nàng là người phụ nữ thông minh, tân tiến, có học, có thể thao, nhưng tâm hồn thị thành, đầy bụi bậm, lạc hậu và phân biệt giai cấp. Trống mái là bản tình ca có ý nghiã đấu tranh giai cấp và bảo vệ môi trường sớm nhất của văn học Việt Nam, ở mức độ tinh vi, đẩy thiên nhiên lên vị trí tột cùng, một thứ tạo vật phải được hiểu và kính nể.
Ba câu trích dưới đây cho thấy sự biến thiên không ngừng trong bút pháp Khái Hưng:
- Khi nhìn bướm: “hai con bướm đuổi nhau, gặp nhau rồi lại xa nhau, lúc hiện ra, lúc biến đi, lúc một con vơ vẩn bay tìm bạn: hai điểm hoạt động trong một cảnh hầu hoàn toàn yên lặng như thu lấy tất cả tâm trí của Hiền”. Ở đây Khái Hưng dùng thủ pháp trữ tình thầm lặng: chỉ với hai chữ hoạt động đặt trong bối cảnh hoàn toàn yên lặng, đã đủ thu hút cả tâm trí Hiền, tại sao? Bởi vì, trong không khí yên lặng, sự hoạt động của hai con bướm kích thích trí tưởng tượng của Hiền, thu hút hết tâm trí nàng. Khó có cảnh làm tình nào thanh cao hơn, bay bướm hơn.
- Khi nhìn con thằn lằn: “Trông nó như con tắc kè, nhưng da tắc kè xù xì và xám xịt như da cóc, còn loài thằn lằn ở Sầm Sơn, da lưng mầu nâu tiá điểm những chấm xanh, chấm đỏ. Khi nó chống hai chân trước đứng rình mồi, cái đuôi và hai chân sau rất thấp, ẩn trong cỏ rậm, thì trông nó giống như một con chim sẻ với đôi cánh nâu và cái bụng trắng. Nhất lúc nhảy lon ton đuổi bắt bướm, nó lại càng giống hệt lắm”. Với con thằn lằn, đôi mắt Khái Hưng trở thành ống kính của một nhà khoa học quay phim tài liệu ghi nhận những khía cạnh thơ mộng và chính xác nhất của đối tượng.
- Khi ngắm trăng hạ tuần trên biển: “Rặng đèn điện trên đường cao chiếu ánh xuống những đợt sóng thành những hình trạng rất lạ lùng: Có lúc trông giống một cái tầu bằng kim cương chạy ngang một quãng dài theo ven bờ, rồi vụt biến vào trong đêm tối, chìm đắm xuống đáy biển đen. Có lúc giống một đàn quái vật vẩy dát lân tinh. Chúng gầm hét đuổi nhau, nuốt nhau, biến đi, hiện ra mãi mãi không cùng”. Ở đây, Khái Hưng dùng ánh đèn đường thay ánh trăng chiếu xuống sóng biển, tạo những hình ảnh lạ kỳ chưa từng thấy mà ánh trăng không thể làm được. Đó là những nét trác tuyệt trong văn chương Khái Hưng: ông không chỉ đơn thuần tả một cảnh, mà trong những đoạn văn hay, ông luôn luôn lồng vào câu chữ, một cảnh khác ẩn giấu, khiến người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng của mình, mới khám phá ra được. Văn Nhất Linh và Thạch Lam đã rất hay rồi, nhưng họ tả cảnh đơn hoặc đượm tình, chứ chưa đi tới chỗ, tả một cảnh này mà kỳ thực bày ra một cảnh khác, như Khái Hưng.
Vũ Ngọc Phan khen văn Trống Mái trác luyện và bát ngát, nhưng ông vẫn thấy đây chỉ là cuốn tiểu thuyết lý tưởng và Hiền say mê một chàng “đánh cá ngốc”: “Vọi ngốc đến nỗi nhìn Hiền đánh răng lại tưởng nàng nhuộm răng trắng”. Khổ lắm. Vọi đâu có ngốc. Khái Hưng chỉ muốn đối chất hai thứ văn minh: văn minh nguyên thủy của người đánh cá chưa hề tiếp xúc với xã hội tiêu thụ, và văn minh tân tiến khoa học của người có tên hiền mà lại ác, của bọn răng trắng mà bụng đen. Đối với Khái Hưng, bọn sinh viên thuốc, luật, ở phòng khách nhà Hiền, dùng tiếng Pháp để nói xấu Vọi rồi cười khả ố, bọn đó mới thực là ngốc, mới man di mọi rợ, vô giáo dục.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Wed 19 May 2021, 09:16 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG (tt)
Thuỵ Khuê
Tiểu thuyết lịch sử
Trước khi giới thiệu Tiêu Sơn tráng sĩ, tôi muốn nói qua về tiểu thuyết lịch sử:
Trong văn học ta, trừ hai cuốn Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm và Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Thì Chí, xuất hiện đầu và cuối thế kỷ XVIII, ta có rất ít tác phẩm tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng. Nhưng hai tác phẩm này, phản ảnh lịch sử, do các trí thức cùng thời viết ra, bổ sung cho lịch sử chính thống.
Tác giả Gia Long tẩu quốc cho rằng: “nước ta chỉ mới có lịch sử đại lược” mà dân ta đối với lịch sử nước nhà, thời lại “lơ đãng như kẻ bàng quan, nguội lạnh như người ngoại quốc” vì thế nên ông phải viết lịch sử tiểu thuyết, để có thể “tả đủ các nhơn vật, sơn xuyên, tánh tình ngôn ngữ, tả tới hỉ, nộ, ái ố, trí não tinh thần, tả tới phong cảnh, cỏ hoa…” làm rung động hồn người; vì lẽ đó mà Tân Dân Tử Nguyễn Hữu Ngởi sáng tác Gia Long tẩu quốc, năm 1929. Nhưng thú thật, truyện của tiên sanh dài dòng đọc hơi chán, chỉ những màn tiên sanh tả các trận đánh giáp lá cà là vô cùng hấp dẫn.
Năm 1934, Khái Hưng viết Tiêu Sơn tráng sĩ, sau đó, nhiều loạt tiểu thuyết lịch sử ra đời, như Vua Hàm Nghi (1935), Vua Quang Trung (1940), Triều Tây sơn (1942)… của Phan Trần Chúc, Bà Chúa Chè (1938), Loạn kiêu binh (1939), Chúa Trịnh Khải (1940)… của Nguyễn Triệu Luật, là những tác phẩm thường được gọi là ký sự lịch sử. Loại sách này gần với truyện giải trí, bởi vì văn thì tầm thường mà chi tiết lịch sử cũng đáng ngờ. Những tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai như Ai lên phố Cát, Chiếc ngai vàng, Cái hột mận… nhiều chỗ khá hấp dẫn, nhưng cũng chỉ gợi trí tò mò, chứ chưa đem lại điều bổ ích tinh thần.
Tiểu thuyết lịch sử phải đến An Tư, Đêm hội Long Trì của Nguyễn Huy Tưởng, thập niên 40, mới được viết công phu, chặt chẽ, văn phong chọn lọc, chữ đẹp và sang; tác phẩm đặc sắc, tạo được không khí thời đại Trần Hưng Đạo, có tư tưởng hậu thuẫn, được sáng tác trong thời điểm tiền kháng chiến chống Pháp, gián tiếp kêu gọi lòng yêu nước của toàn dân. Nguyễn Huy Tưởng viết tiểu thuyết lịch sử với mục đích gần giống Khái Hưng: để kích động lòng người đứng lên chống Pháp.
Năm 1955, Hoài Điệp Thứ Lang tức Đinh Hùng viết Kỳ nữ Gò Ôn Khâu, ta lại có một hình thức hoàn toàn mới vể tiếu thuyết lịch sử, xuất phát từ ánh hưởng Tiêu Sơn tráng sĩ, nhưng là cuốn tiểu thuyết lịch sử bay bướm, lãng mạn, nhiều đoạn văn thơ mộng tuyệt vời. Đinh Hùng, nhà thơ, chiếu ống kính vào những tình tiết bí mật, tìm kho tàng của người Tàu chôn từ thời Mã Viện, xông vào những trận đánh ác liệt của quân đội Mường, Thổ vùng châu Ma Lục, phá quân Nguyên. Kỳ nữ Gò Ôn Khâu xuất quỷ nhập thần, phi ngựa như bay trên vòm trời Việt Bắc, có hấp lực của một tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình, nhưng chỉ có tính cách giải trí, ly kỳ, rùng rợi, không mang ý nghiã chính trị và không ẩn giấu một tâm sự não nề như Phạm Thái trong nội tạng Khái Hưng.
Là người đến sau, Nguyễn Mộng Giác hoàn toàn thất bại trong tác phẩm Sông Côn mùa lũ, vì ông không rõ những quy luật của tiểu thuyết lịch sử:
Tiểu thuyết lịch sử nằm trong quy luật thứ ba của tiểu thuyết mà Bakhtin gọi là Thời không gian (chronotope): nghiã là thời gian và không gian trong tiểu thuyết phải được tổ chức một cách đặc biệt,
- Tiểu thuyết lịch sử, trước tiên, phải tạo được thời gian và không gian lịch sử, tức là phải trình bày được khung cảnh và ngôn ngữ thời bấy giờ. Ngôn ngữ là điểm quan trọng nhất, đôi khi chỉ một mình ngôn ngữ cũng có thể tạo được bối cảnh và hoàn cảnh. Ở đây Nguyễn Mộng Giác lại cho Quang Trung ăn nói như học trò miền Nam trước bảy lăm, cho Huệ tỏ tình rụt rè như Giác thời trẻ, là rất hỏng. Huệ làm sao biết được ngôn ngữ của thế kỷ XX mà nói? Vì thế Sông Côn mùa lũ, dù viết về thời Tây Sơn khởi nghiệp, nhưng không có một chút không khí Tây Sơn nào cho các nhân vật thở và người đọc bị đẩy ra ngoài ngay từ trang đầu.
- Tiểu thuyết lịch sử vẫn theo Bakhtin, có yếu tố chủ chốt là con đường. Phải lấy bối cảnh là con đường, chuyển động, và hành động, phải xuất quỷ nhập thần. Les trois mousquetaires (Ba người ngự lâm pháo thủ) của Alexandre Dumas là một mẫu mực. Nhưng truyện của Dumas, thiên về hành động và âm mưu ly kỳ mà không đi sâu vào tâm trạng con người. Vì vậy, đọc Tiêu Sơn tráng sĩ, là người Việt, ta vẫn thích hơn, vì tác phẩm thấm nhuần văn hóa, lịch sử, địa lý nước ta và văn Khái Hưng đẹp và bay bổng hơn văn Dumas.
- Tiểu thuyết lịch sử phải tạo được mối liên hệ giữa con người và vùng đất lịch sử xảy ra câu chuyện. Ở đây là vùng Sơn Nam, Kinh Bắc, với những nhân vật thông thuộc từng ngõ ngách, xóm làng, từng khúc sông, bến đò và toàn bộ chùa chiền… như trong túi họ. Sau khi đọc Tiêu Sơn tráng sĩ, nếu bạn lên chơi chùa Tiêu Sơn, chắc chắn bạn sẽ thử tìm xem ngôi mộ nào là cửa hầm bí mật nơi Nhị Nương ra vào tiếp tế cho Quang Ngọc và đồng bạn.
- Tiểu thuyết lịch sử còn phải lột được đời sống con người trong giai đoạn lịch sử ấy, Khái Hưng không những cho ta sống lại những trận đấu, những buổi trà đàm, những bữa rượu trong tửu quán bên đường, những câu thơ ngâm vịnh thanh tao trong gia đình quyền quý… mà ông còn khắc tạc phong cách một nhà thơ lớn cuối thế kỷ XVIII có quan niệm tự do tình ái và đổi mới thi ca: Phạm Thái.
Tiêu Sơn tráng sĩ tiên tri một cuộc lên đường, cũng là cuốn tiểu thuyết lịch sử hay nhất trong văn học Việt Nam, hội tụ những yếu tố chính cần phải có của một tiểu thuyết lịch sử. Tạo được không khí lịch sử cuối thế kỷ XVIII, bởi Khái Hưng thông thạo ngôn ngữ, phong tục và lịch sử thời Lê Mạt, thành thạo việc soạn thảo thư, văn… biền ngẫu.
Tiêu Sơn tráng sĩ
In trên Phong Hóa từ số 129, 21-12-34 đến số 184, 24-4-36), là tiểu thuyết dài nhất của Khái Hưng. Có người cho rằng Tiêu sơn tráng sĩ là truyện về Trần Quang Ngọc, tôi cho là truyện Phạm Thái. Vậy Phạm Thái là ai?
Phạm Thái (1777-1813) quê xã Yên Thường, huyện Đông Ngạn (phủ Từ Sơn, Bắc Ninh). Cha là Phạm Đạt, làm quan nhà Lê tới chức Thạch Trung Hầu, khi Tây Sơn dứt nhà Lê, Hầu khởi binh chống lại, bị thua. Thái nối chí cha, bị truy nã, phải trá hình đi tu ở chùa Tiêu Sơn (thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh), lấy hiệu là Phổ Chiêu thiền sư. Đồng chí là Trương Đăng Thụ đang làm quan ở Lạng Sơn, cho người đón Thái lên Lạng Sơn, chẳng bao lâu, Thụ mất. Phạm Thái về xã Thanh Nê (thuộc huyện Ý Yên, Nam Định), quê Thụ, viếng bạn và ở lại ít lâu. Cha Đăng Thụ muốn gả con gái là Trương Quỳnh Như cho, nhưng mẹ nàng không ưng. Quỳnh Như tự vận chết, Phạm Thái buồn bã uống rượu li bì, nhận hiệu Chiêu Lỳ, mất năm 37 tuổi[11].
Nguyễn Huy Lượng, trước làm quan nhà Lê, sau thờ Tây Sơn, soạn bài Tụng Tây Hồ phú, ca tụng cảnh Tây Hồ (Hà Nội) ngầm ý tán dương công đức Tây Sơn. Phạm Thái xem, bèn theo đủ số 85 vần của bài ấy, làm Chiến tụng Tây hồ phú, công kích Nguyễn Huy Lượng. Ngoài ra còn soạn nhiều văn thơ nôm và cuốn Sơ kính tân trang (Lược gương kiểu mới) (1804) kể truyện tình của ông với Trương Quỳnh Như[12].
Tiểu thuyết lịch sử là thể loại Khái Hưng ấp ủ từ Phong Hóa, số 1 với Trận đánh phương Nam. Rồi sau đó liên tiếp trên một số truyện ngắn khác như: Véo von tiếng địch (Phong Hóa số 42, 14-4-33) viết về công chúa Ly Nương, phỏng theo truyện Trương Chi. Hoàng Oanh (Phong Hóa số 97, 11-5-34) viết về công nương Chiêm Thành họ Số, Chúa Thao (Phong Hóa số 122, 2-11-34), là con chúa Trịnh. Đầu năm 1935, Khái Hưng đề cập đến cuộc cách mạng dưới thời nhà Hồ, trong truyện ngắn Linh hồn thi sĩ, trên Phong Hóa số 134, số Xuân (30-1-35), viết về thi sĩ Trần Can, tôi trung nhà Trần, làm thơ chống Hồ Quý Ly, bị bắt nhưng được tha với điều kiện từ nay không làm thơ chửi nhà Hồ nữa. Trần Can bằng lòng trong hai năm, rồi một buổi, chàng sáng tác bài trường hận ca kể lại tội ác của vị hôn quân và sự lầm than của trăm họ. Lời cuối, Trần Can dành cho Quý Ly, trước khi uống thuốc độc tự tử:
“Hỡi Hồ Quý Ly! Ta đã để cho ngươi cắt đứt lòng trung với vua của ta, ta đã để cho ngươi chiếm đoạt trái tim vàng của ta. Nhưng còn linh hồn ta, ta cam đoan rằng, muôn nghìn năm không ai ức chế nổi tấm linh hồn tự do của nhà thi sĩ tự do.” (Phong Hóa số 134, 30-1-35).
Những lời này chính là khúc dạo đầu bản hùng ca Yên Bái, 1930: khi Khái Hưng bị mật thám Tây đến khám nhà đúng đêm giao thừa, và là điểm hẹn của nhà văn với lịch sử.
Tiêu Sơn tráng sĩ vừa là một tiểu thuyết lịch sử, vừa thầm kín xướng lên cuộc “khởi nghiã chống Tây”, dựa theo câu chuyện nổi dậy của Phạm Thái, nhưng Khái Hưng đưa Quang Ngọc lên làm chủ soái, kín đáo đề cao vai trò lãnh đạo của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, và tự mình rút xuống làm em, trong vai trò Phạm Thái, một chiến sĩ thi nhân lỗi lạc.
Tiêu sơn tráng sĩ, Phong Hóa 129 Tiêu sơn tráng sĩ kết hợp truyện tình Phạm Thái – Quỳnh Như với hành động cách mạng của nhóm tráng sĩ cựu thần nhà Lê: Trần Quang Ngọc giết vị sư dâm đãng trụ trì chùa Tiêu Sơn, rồi cùng Nhị Nương, Phạm Thái và hơn nghìn tráng sĩ, lập đảng Tiêu Sơn, nổi lên chống Tây Sơn. Phạm Thái được điều động đưa bà Lê Hoàng Phi, vợ vua Chiêu Thống lên Lạng Sơn ẩn náu, liên kết với Trương Đăng Thụ, trấn thủ Lạng Sơn lập địa bàn phía bắc. Nhưng Thụ bị đầu độc chết, Thái đưa xác bạn về chôn ở Thanh Nê, quê Thụ, cứu được Long Cơ, vợ Thụ định chết theo chồng, và được Trương Quỳnh Như em gái Thụ, yêu, nhưng khuyên chàng tiếp tục việc lớn. Trong khi Phạm Thái ở Lạng Sơn, hai đảng viên Tiêu Sơn, lợi dụng Quang Ngọc đi vắng, tự tiện đánh úp phủ Từ Sơn. Thua. Đảng bị truy lùng tận diệt.
Phạm Thái về Kinh Bắc mới hay đảng Tiêu Sơn đã vỡ, chàng quay xuống Bắc Thành đúng kỳ thi cống sĩ, gặp lại Nhị Nương và Quang Ngọc. Nhị Nương tổ chức phá trường thi, nhưng bại lộ. Quang Ngọc cử Thái về Sơn Nam lập lại chi đảng. Gặp toàn bọn hủ nho, Thái chán nản trở về Thanh Nê, gặp lại Quỳnh Như, viết tuyệt tác Sơ kính tân trang. Quỳnh Như bị mẹ ép duyên, tự vận trong ngày cưới.
Tiêu sơn tráng sĩ đăng trải dài trên Phong Hóa trong gần hai năm, với những trắc trở lớn: lần đầu Phong Hóa bị đóng cửa ba tháng, lần sau bị đóng cửa vĩnh viễn. Đảng Tiêu Sơn là hình ảnh của đảng Tự Lực. Bốn tráng sĩ Quang Ngọc, Nhị Nương, Phạm Thái, Lê Báo tượng trưng cho bốn cột trụ xây dựng Tự Lực văn đoàn. Những thất bại của đảng Tiêu Sơn tiên đoán những thất bại của Tự Lực sau này.
Tây Sơn, dưới thời Quang Toản – 10 năm sau khi Quang Trung băng hà – triều đình rối loạn, các quan giết hại lẫn nhau, Nguyễn Vương đánh thúc Quy Nhơn, cựu thần nhà Lê nổi lên ở Bắc. Tây Sơn, đây đồng nghiã với Tây. Và nước Nam dưới thời Pháp thuộc giống như nước Nam đại loạn thời Lê mạt. Tráng sĩ Nhị Nương mưu lược, xuất quỷ nhập thần, xác định tinh thần nam nữ bình quyền mà Khái Hưng luôn luôn chủ xướng. Đảng Tiêu Sơn nổi lên đánh Tây (Sơn) và thất bại, vì chính Khái Hưng và có lẽ cả Hoàng Đạo, cũng đã biết trước, nhưng vẫn phải làm.
Khái Hưng tổng hợp hai tâm hồn thi sĩ và hiệp sĩ của Phạm Thái – Nhị Nương.Tác phẩm biểu dương cái nhìn nghệ thuật của Khái Hưng về cuộc cách mạng chống Pháp của một văn đoàn trong giai đoạn tang thương của lịch sử, để kích động việc đứng lên giải phóng dân tộc. Vì vậy, quan niệm đấu tranh của những nhân vật trong đảng Tiêu Sơn chính là quan niệm của văn đoàn Tự Lực, như lời PhạmThái:
“Ta chỉ nên trông cậy vào sức ta, chứ đừng tưởng mong chờ ai hết”[13].
Cuối cùng, thất bại, họ phải chia tay, Quang Ngọc nói với Nhị Nương:
“Chúng ta chờ dịp để hành động. Hành động là phận sự của chúng ta. Không hành động thì đời chúng ta không còn có nghiã gì nữa.”
Lúc từ biệt, Nhị Nương do dự:
“ – Nhỡ không còn được hội ngộ?
- Cũng chẳng sao. Vì linh hồn chúng ta bao giờ cũng ở bên nhau… Vậy thì chúng ta có ở xa nhau đâu? Tình bằng hữu của chúng ta đã thành một sự thiêng liêng”.[14]
Phải chăng đó chính là lời Khái Hưng nói với bạn trong đêm chia tay mùa thu năm 1940, trên căn gác nhà Thạch Lam bên Hồ Tây, trước khi Nhất Linh trốn sang Tàu?
*
Sau khi khảo sát hầu như toàn bộ tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đăng trên Phong Hoá, chúng ta có thể kết luận rằng, cũng như đối với truyện ngắn, Khái Hưng đã làm tròn vai trò của người lãnh đạo tiểu thuyết Việt Nam trên con đường mới của nghệ thuật và tư tưởng.
Thuỵ Khuê
________________________________
[1] Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, Tập I, Nxb Văn Nghệ, California, 1989, trang 269.
[2] Nguyễn Hiền, Tiểu thuyết và truyện ngắn Khái Hưng, in trong Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng I, Phượng Hoàng, California 1997, trang 304-305.
[3] Phụ nữ thời đàm, 18-12-33.
[4] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, Hồi ký cuốn một, 1916-1946, Nxb Thạch Ngữ, California, 1998, tái bản 2002, trang 81.
[5] Trong bài Chùa Bách Môn, đặc điểm kiến trúc và những giá trị nổi bật, in trên mạng tapchikientruc, Pgs-Ts Khuất Tân Hưng viết rất rõ về kiến trúc cổ của chùa này.
[6] Nxb Lê Thăng, Hà Nội 1940.
[7] Trong đó có truyện ngắn Ông đồ Bể (Phong Hóa số 32)).
[8] Phong Hóa số 85 (11-2-34), trong khung quảng cáo, ghi: Tiền bán Nửa chừng xuân, tác giả sẽ biếu vào Tự Lực văn đoàn. Phong Hóa 101 (8-6-34) nhắc lại: tiền thưởng giải Tự Lực Văn Đoàn năm 1935, là tiền bán sách Nửa chừng xuân. Phong Hóa 166 (13-12-35) đăng tin: Tự Lực văn đoàn và tác giả cho phép ban kịch Nguyễn Xuân Phúc diễn Nửa chừng xuân để lấy tiền giúp học sinh nghèo ở trường Bảo hộ. Phong Hóa 185 (1-5-36) quảng cáo Nửa chừng xuân bán đến nghìn thứ chín và Gánh hàng hoa nghìn thứ bảy. Ngày Nay số 139 (3-12-38) quảng cáo: Nửa chừng xuân bán đến nghìn thứ 15. Về vở kịch, theo lời tường thuật của Lê Ta (Thế Lữ) trên Phong Hóa số 167 (20-12-35):
“Trong khoảng ba giờ đồng hồ trên sân khấu người ta dựng một cuốn tiểu thuyết "Nửa chừng xuân" thực lớn. Nhà soạn kịch là một tay huyền bí cứ lần lần dở hết trang nọ đến trang kia. Cho nên những cảnh những tình những lời nói trong truyện của Khái Hưng nhất nhất thấy nhắc lại rất đúng (…) Cô Mai (bà Yến Hồ) thực là ngôi sao trong ban kịch Nguyễn Xuân Phúc. Vai này đóng rất tự nhiên. Sự nhẫn nhục, lòng yêu thương, chí quả quyết, thường diễn ra được trong từng cử chỉ, từng lời nói, và – đó là một điều hiếm có – trong sự yên lặng.
Những lúc đối đáp với bà Án, mẹ Lộc, ở hai cảnh thứ ba và thứ sáu là những chỗ người ta thấy rõ tài của bà Yến Hồ. Giọng nói lúc kính cẩn, lúc lo sợ, lúc kiêu hãnh, lúc van lơn, lúc tức giận.(…)
Vai đàn bà thứ hai trong "Nửa chừng xuân" là vai bà Án (do bà Lê Hai đóng) cũng đáng khen. Chững chạc, đài các, khôn khéo, cay nghiệt (…) rõ ra một người đàn bà cố chấp của nền nếp xưa.”
[9] Nhất Linh, Viết và đọc tiểu thuyết, Đời Nay, 1969, Sài gòn, trang 17.
[10] Phong Hóa số 127 (7-12-34).
[11] Theo Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, in lần thứ 6, Sài Gòn 1960, trang 304.
[12] Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, in lần thứ 6, Sài Gòn 1960, trang 304.
[13] Tiêu sơn tráng sĩ, Phượng Giang, bản chụp in lại ở Hoa Kỳ, trang 147.
[14] Tiêu sơn tráng sĩ, Phượng Giang, bản chụp in lại ở Hoa Kỳ, trang 418.
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Wed 26 May 2021, 09:38 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Ngòi bút đứng lên
"Người ta không viết cho kẻ nô lệ. Nghệ thuật văn xuôi liên hệ với một thể chế duy nhất mà nó còn giữ được ý nghiã trọn vẹn: đó là dân chủ. Khi cái này bị đe dọa, thì cái kia cũng bị đe dọa theo. Tranh đấu bằng ngòi bút, nhiều khi cũng chưa đủ. Tới ngày nào bị bắt buộc phải gác bút thì lúc đó nhà văn sẽ phải cầm súng. Như thế, bất cứ anh đến với chữ nghĩa bằng phương tiện gì, dù anh có những tư tưởng như thế nào, văn chương cũng vẫn dồn anh ra mặt trận. Viết tức là một cách nào đó muốn có tự do, và nếu anh đã bắt đầu, thì dầu muốn dầu không, anh phải dấn thân [1]".
Những lời Jean-Paul Sartre viết năm 1948 trên đây tại Paris, phản ảnh thực tại của phong trào văn học và cách mạng duy nhất ở Việt Nam: Tự Lực văn đoàn.
Khởi đầu, họ chỉ là những thanh niên yêu văn chương nghệ thuật, mới tập viết văn hoặc đang học vẽ, nhưng chỉ trong vài năm, họ đã trở thành những tên tuổi hàng đầu của nền văn học và hội họa nước nhà. Họ đã tạo được một phong trào đổi mới văn chương tư tưởng, cải tiến xã hội chưa từng thấy. Ẩn dưới chiều sâu của cuộc cải cách văn chương và xã hội là mục đích giải phóng dân tộc khỏi vòng nô lệ.
Khi chính quyền thực dân dùng sự kiểm duyệt khắt khe để triệt hạ sức phản kháng bằng ngòi bút, những người cầm đầu Tự Lực văn đoàn đã bỏ văn nghệ để cầm súng. Đó là lịch sử của nhóm Tự Lực, quy tụ chung quanh bốn thành viên chính: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí. Đây cũng lịch sử của một tình bạn lạ lùng giữa Khái Hưng và Nhất Linh, từ những bước đầu thành lập Tự Lực văn đoàn. Nguyễn Gia Trí là người ra đi cuối cùng, sau khi các bạn đã lần lượt nằm xuống.
Ta thử tưởng tượng: dưới thời Pháp bị Đức đô hộ, Paris có một tờ báo trào phúng hàng tuần, kiểu Le Canard enchainé (Con vịt bị xích) ngoài những tiểu thuyết của Stendhal, Balzac… còn in tranh hài hước của Picasso, Braque… kèm với những bài xã luận chính trị nảy lửa bàn về quyền làm người, để chống lại chế độ Đức quốc xã đang thống trị trên nước Pháp.
Tờ báo tưởng tượng này chính là ảnh thực của hai tờ tuần báo Phong Hóa Ngày Nay, trong thời điểm 1932-1940, tại Hà Nội, đã quy tụ những ngòi bút tài ba nhất của thế hệ: Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam… và của các họa sĩ hàng đầu: Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân… cùng những tác giả nổi tiếng khác, hợp lực cộng tác để xây dựng một nền văn nghệ quốc ngữ mới, đưa dân tộc ra khỏi hai vòng nô lệ: nô lệ hủ tục và nô lệ thực dân, với những mục đích chính:
- Phát triển và đổi mới nền văn học quốc ngữ.
- Phê bình đạo lý Khổng Mạnh, chống chế độ đại gia đình, loại bỏ hủ tục, mê tín, dị đoan.
- Xây dựng một xã hội tân tiến.
- Tranh đấu chống thực dân, đòi tự do dân chủ.
Họ đã liên kết văn chương với hội họa vào cuộc tranh đấu chống chính quyền thuộc địa, trên bình diện văn hóa, trước. Khi cuộc chiến bằng ngòi bút bị bức tường kiểm duyệt chận lại, họ quay sang cầm súng, sau. Đó là thực chất của phong trào Tự Lực văn đoàn.
Trong tám năm, từ 1932 đến 1940, Tự Lực văn đoàn hoạt động không ngừng trên khuôn khổ của hai tờ tuần báo:
Phong Hóa, số 1 (ra ngày 16-6-1932), do Trần Khánh Giư (Khái Hưng) chấp bút từ số 1 đến số 13 (8-9-32). Từ Phong Hóa số 14 (22-9-32) Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) làm Giám đốc tới số 190 (5-6-36) thì bị rút giấy phép, phải đình bản hẳn.
Ngày Nay từ số 1 (30-1-35) đến số 224 (7-9-40) do Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Tam, Trần Khánh Giư, Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) thay phiên nhau làm Giám đốc.
Con đường đấu tranh của Tự Lực văn đoàn, thể hiện trên ba bình diện: Chính trị, trào phúng và văn chương, từ Phong Hóa số 14 (22-9-1932) đến Ngày Nay số 224 (7-9-1940), là số cuối cùng.
Toàn bộ sưu tập Phong Hóa Ngày Nay đã được công bố, từ ngày 12-9-2012, trên một số website trong và ngoài nước, qua các thư viện điện tử: Người Việt Online, Diễn Đàn.org, Viện Việt Học… ở hải ngoại, và thư viện một số đại học trong nước. Nhờ cố gắng của năm người: Phạm Phú Minh, chủ biên báo mạng Diendantheky, Nguyễn Trọng Hiền, con trai họa sĩ Le Mur Nguyễn Cát Tường, Nguyễn Tường Giang, nhà thơ, con trai nhà văn Thạch Lam; Phạm Thị Thảo bút hiệu Phạm Thảo Nguyên, con dâu nhà thơ Thế Lữ và Thành Tôn, nhà thơ.[2]
Nhờ bộ sưu tập này, không những chúng ta có thể đọc trực tiếp những tác phẩm văn chương của Khái Hưng, Nhất Linh, những bài nghiên cứu chính trị của Hoàng Đạo, xem tranh hài hước châm biếm khuynh đảo của Nguyễn Gia Trí, để hiểu rõ công lao xây dựng văn chương quốc ngữ và tranh đấu cách mạng của Tự Lực văn đoàn.
*
Năm 1938, Mặt trận bình dân (Le Front populaire) do Léon Blum cầm đầu, mất quyền lãnh đạo nước Pháp, chính sách cai trị ở thuộc địa khe khắt hơn, Nhất Linh cùng Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí, lập đảng Hưng Việt, sau đổi thành Đại Việt Dân Chính.
Tháng 9 năm 1939, đại chiến thứ nhất bùng nổ, chính quyền thực dân bắt giam những người đối lập và phát động chính sách kiểm duyệt nghiệt ngã. Ngày Nay không còn đất vẫy vùng, những người cầm đầu Tự Lực văn đoàn quyết định bỏ bút, cầm súng.
Năm 1940, tổ chức cách mạng của họ bị phát giác. Những người chủ chốt bị truy nã. Ba thành viên nòng cốt: Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Gia Trí và Trần Khánh Giư (Khái Hưng), lần lượt bị bắt trong tháng 9 và tháng 10/1941. Riêng thủ lãnh Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) trốn thoát sang Tàu.
*
Cho tới nay, khi viết về Tự Lực văn đoàn, các tác giả thường chỉ chuyên chú đến khía cạnh văn chương, không mấy ai để ý đến khiá cạnh chính trị và trào phúng, là hai địa bàn quan trọng khác, tạo thành thế chân vạc trong chiến lược giải phóng dân tộc bằng ngòi bút của Tự Lực văn đoàn.
Đặc biệt phần trào phúng, bắt đầu trên Phong Hóa từ số 14 (22-9-1932) và trở thành căn cước thứ thứ ba của tờ báo, bên cạnh chính trị và văn chương. Khi Phong Hóa bị rút giấy phép phải đình bản hẳn sau số 190 (5-6-1936), toàn bộ ban biên tập chuyển sang báo Ngày Nay số 16 (12-7-36), và trên đầu tờ báo (exergue) này, Nhất Linh chia nội dung làm hai phần:
1- Ngày Nay Tiểu Thuyết
2- Ngày Nay Trông Tìm.
Gần hai tháng sau, tới Ngày Nay số 25 (3-9-36), Nhất Linh lại đổi exergue một lần nữa, ông chia báo làm ba phần:
1- Ngày Nay Trông Tìm.
2- Ngày Nay Trào Phúng
3- Ngày Nay Tiểu Thuyết.
Chữ Trông tìm tuy có nghiã tìm kiếm khoa học, mở rộng hiểu biết, nhưng ở đây thầm ngụ ý chính trị. Mục Trông tìm do Hoàng Đạo phụ trách, với những bài chính luận, trình bày cho độc giả hiểu thế nào là tự do và dân chủ, và ông viết những bài xã luận quyết liệt, đòi các quyền: tự do ngôn luận, tự do lập đảng và quyền làm người.
Điều này chứng tỏ kể từ tháng 9 năm 1936, Nhất Linh đã đưa vị trí tranh đấu chính trị, do Hoàng Đạo phụ trách, lên hàng đầu. Ông đặt châm biếm, trào phúng, do Nguyễn Gia Trí phụ trách, sang hàng thứ nhì, và đưa văn chương tiểu thuyết… của Khái Hưng, Nhất Linh xuống hàng thứ ba. Không phải ông coi thường văn học, mà do đòi hỏi của tình thế: Sự thay đổi này gắn bó mật thiết với tình hình chính trị: Ngày 3-5-1936, Mặt Trận Bình Dân (Le Front Populaire) lên cầm quyền ở Pháp, có chính sách cởi mở đối với những nước thuộc địa, quyền tự do báo chí được nới rộng hơn, bỏ cơ quan kiểm duyệt; Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí bèn lợi dụng tình thế, viết và vẽ mạnh hơn, trực tiếp phê bình chính sách đàn áp của thực dân và cương quyết đòi tự do dân chủ. Báo Ngày Nay trong giai đoạn này, đã thực hiện những số "để đời" với bút vẽ trào phúng của Nguyễn Gia Trí.
Tự Lực văn đoàn đã đạt những thành quả không thể chối cãi được trong thời điểm 1932-1938:
Về mặt văn học, khai phá nền văn chương quốc ngữ: giới thiệu và phổ biến Thơ Mới, đặt nền móng cho Tiểu thuyết và Truyện ngắn Việt Nam, trên báo Phong Hóa.
Về mặt tranh đấu chính trị, nổi trội nhất là ba năm, từ 1936 đến 1938, trên báo Ngày Nay: khi Hoàng Đạo, trở thành lý thuyết gia của Tự Lực văn đoàn và Nguyễn Gia Trí, công khai vẽ tranh châm biếm với bút hiệu RIGT (trước đó vẽ không ký tên hoặc ký nhiều tên khác nhau), chủ ý kết hợp ý nghiã châm biếm trong tranh với nội dung chính trị của Hoàng Đạo. Từ đó, Nguyễn Gia Trí phụ trách toàn bộ hý họa và minh họa tờ Ngày Nay. Phải nhận rõ công việc này mới có thể hiểu tại sao Nguyễn Gia Trí bị đánh đập tàn nhẫn khi bị Pháp bắt năm 1941, và vai trò quan trọng của ông trong Tự Lực văn đoàn.
Thế Lữ, rút dần khỏi Tự Lực văn đoàn, ra làm kịch với Đoàn Phú Tứ từ năm 1937. Tháng 10-1938, ông lập ban kịch Thế Lữ.
Sang năm 1939, Nhất Linh, Khái Hưng vì hoạt động chính trị, viết ít hơn trước, Nguyễn Gia Trí bận công tác đảng, vắng mặt, Tô Ngọc Vân thay thế. Chất lượng tranh hài hước trên Ngày Nay kém sút đi nhiều, bởi vì Tô Ngọc Vân là họa sĩ tài ba, nhưng ông vẽ tranh châm biếm không sắc bén như Nguyễn Gia Trí.
Cuối năm 1939, sau khi chiến tranh thế giới bùng nổ, chính quyền thuộc địa thay đổi thái độ, truy lùng và bắt bớ đối lập, gia tăng kiểm duyệt. Ngày Nay bị cắt nhiều đoạn, nhiều bài.
Các thành viên chính của Tự Lực phải lui vào bóng tối, chỉ còn một mình Thạch Lam xoay sở, ít người viết, tờ báo nghèo nàn đi. Đây là thời kỳ Tự Lực văn đoàn bắt đầu tan rã.
Ngày 7-9-1940 Ngày Nay ra số 224, số báo cuối cùng.
Mùa thu năm 1940, Nhất Linh chạy sang Tàu.
Ngày 16-9-1941, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí bị bắt.
Ngày 31-10-1941, Khái Hưng bị bắt. Cả ba bị giam ở Vụ Bản đến năm 1943.
Ngày 27-6-1942 Thạch Lam mất vì bệnh lao.
Hoạt động văn học của Tự Lực văn đoàn chấm dứt. Nhưng hoạt động cách mạng còn kéo dài thêm một thời gian nữa.
*
Từ trước đến nay, sự nghiên cứu Tự Lực văn đoàn thường chỉ xoay quanh và đề cao Nhất Linh, coi ông là người đã "sáng tạo" ra Tự Lực văn đoàn, nhất là sau khi ông tự vẫn, sự độc tôn Nhất Linh không còn giới hạn.
Sự thực, Tự Lực văn đoàn là một tập hợp bảy người: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí, Thạch Lam, Thế Lữ, và Tú Mỡ, nhưng chỉ có bốn cột trụ: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí. Nếu thiếu một trong bốn người này thì Phong Hoá Ngày Nay, không thể là Phong Hoá Ngày Nay như chúng ta đã biết.
Trong cuốn sách này, chúng tôi dựa vào những điều đã viết và vẽ trên hai tuần báo Phong Hóa Ngày Nay, trong tám năm, từ tháng 9-1932 đến tháng 9-1940, và trên báo Ngày Nay kỷ nguyên mới từ số 1 (5-5-1945) đến số 16 (18-8-1945), một phần những số báo Việt Nam chúng tôi có được và trọn bộ báo Chính Nghiã, cùng những tài liệu rời khác, để thử tìm lại:
- Hành trình của Tự Lực văn đoàn, con đường văn nghệ và cách mạng.
- Làm sáng tỏ vai trò của Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí.
- Giới thiệu các tác phẩm cuối cùng của Khái Hưng, sau khi Tự Lực văn đoàn tan rã.
- Sự bôn ba hải ngoại của Nhất Linh, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí từ 1946 đến 1950.
Khi nói đến Tự Lực văn đoàn hay Phong Hóa Ngày Nay, là chúng ta nói đến một tổ chức văn nghệ nhất quán của một nhóm người có tư tưởng đổi mới xã hội và giải phóng dân tộc.
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là người lãnh đạo Tự Lực văn đoàn và đảng Hưng Việt, sau đổi thành Đại Việt Dân Chính, sau cùng hoà nhập với Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Khái Hưng là cột trụ chính, quán xuyến tất cả những tờ báo Phong Hóa, Ngày Nay, Ngày Nay kỷ nguyên mới, Việt Nam, Chính Nghiã. Ông cũng là người xây dựng nền móng tiểu thuyết và truyện ngắn hiện đại Việt Nam.
Hoàng Đạo là người khai trương lý thuyết dân chủ, nhân quyền một cách có hệ thống và toàn diện, lý thuyết của Hoàng Đạo vượt xa Phan Châu Trinh, bởi ông thâm hiểu Tây học và luật học.
Thạch Lam khích động lòng yêu nước, nhưng không trực tiếp hoạt động.
Thế Lữ và Tú Mỡ không tham gia chính trị, giữ khoảng cách với văn đoàn, khi hiểm nguy.
Xuân Diệu chỉ là thành viên từ cuối 1938, năm 1939 góp bài ít hẳn đi, năm 1940, ngừng hẳn.
Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí ở trong tổ chức văn hóa và chính trị này từ lúc phát sinh đến hồi kết thúc cùng với Nhất Linh và Hoàng Đạo, là bốn cột trụ xây dựng Tự Lực văn đoàn, một tổ chức tranh đấu giải phóng dân tộc bằng con đường nghệ thuật và tư tưởng.
(Còn tiếp)
_________________________
[1] Jean-Paul Sartre, Qu’est-ce que la littérature, Folio Essais, 1993, t. 72.
[2] Theo Phạm Phú Minh trong bài Việc điện toán hóa báo Phong Hóa Ngày Nay: Những ý nghĩ lãng mạn giữa một ngày mùa đông, in trong Kỷ yếu Triển lãm và Hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực văn đoàn, Nxb Người Việt, Cali, 2014, trang 290-295.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Thu 27 May 2021, 12:05 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Sự thành lập Tự Lực văn đoàn và Phong Hóa
Phần I
Bìa Phong Hóa số 154
Nhất Linh hầu như không trực tiếp đem đời sống thực vào tác phẩm, ngược lại Khái Hưng viết một số tiểu thuyết, truyện ngắn phản ánh những biến cố đã xẩy ra, nhờ đó, chúng ta có thể tìm lại được những mảnh đời trôi nổi của ông và các bạn, trong đó có giai đoạn đầu tiên thành lập Tự Lực văn đoàn.
Nhưng trước khi đi xa hơn, chúng ta tên biết qua những mốc chính:
- Phong Hóa số 1 ra ngày 16-6-1932)
- Phong Hóa số 14 (22-9-1932) hoàn toàn đổi mới. Số báo này được Nhất Linh và Hoàng Đạo công nhận là số báo đầu tiên của Tự Lực văn đoàn.
- Phong Hóa số 190 (5-6-1936) là số cuối cùng, sau đó bị rút giấy phép, đình bản hẳn.
- Ngày Nay số 1, ra ngày 30-1-1935.
- Ngày Nay số 16 (12-7-1936) ra đời một tháng sau khi Phong Hóa bị đóng cửa, Tự Lực văn đoàn đưa toàn bộ biên tập Phong Hóa sang Ngày Nay.
- Bốn năm sau, Ngày Nay ra số 224 (7-9-1940) là số báo cuối cùng.
Việc nghiên cứu Tự Lực văn đoàn bắt buộc phải khởi đi từ hai tờ Phong Hóa và Ngày Nay. Nhưng trước hết phải trả lời những nghi vấn:
- Tự Lực văn đoàn thành lập từ bao giờ?
- Trước hay sau khi Phong Hóa số 14 xuất hiện?
- Tôn chỉ của văn đoàn là gì?
- Ai viết lại lịch sử tờ Phong Hóa?
Đó là những câu hỏi mà chúng tôi tìm cách trả lời trong phần I này.
Tự Lực văn đoàn có trước Phong Hóa số 14
Bốn chữ Tự Lực văn đoàn được in lần đầu trên báo Phong Hóa số 56 (ra ngày 21-7-1933), trong hai khung quảng cáo, ở trang 5: Tự Lực Văn Đoàn sắp ra Hồn bướm mơ tiên và Tự Lực Văn Đoàn sắp in Vàng và Máu.
Lần đầu tiên xuất hiện bốn chữ Tự Lực văn đoàn trên Phong Hóa số 56
Trên báo Phong Hóa số 87 (ra ngày 2-3-1934), trang 2, có bài Tuyên ngôn Tự Lực Văn Đoàn, nội dung như sau:
Tự Lực Văn Đoàn
Tự Lực Văn Đoàn họp những người đồng chí trong văn giới; người trong đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một tôn chỉ, hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong những công cuộc có tính cách văn chương.
Người trong Văn Đoàn có quyền để dưới tên mình chữ Tự Lực Văn Đoàn và bao nhiêu tác phẩm của mình đều được Văn Đoàn nhận và đặt dấu hiệu.
Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn là bản thảo, gửi đến để Văn Đoàn xét. Nếu hai phần ba người trong Văn Đoàn có mặt ở hội đồng xét là có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của Đoàn và sẽ tùy sức cổ động giúp. Tự Lực Văn Đoàn không phải là một hội buôn xuất bản sách.
Sau này nếu có thể được, Văn Đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là Giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của Đoàn.
Tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn
1- Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài, nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích để làm giầu thêm văn sản trong nước.
2- Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội chủ ý làm cho Người và cho Xã hội ngày một hay hơn lên.
3- Theo chủ nghiã bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghiã bình dân.
4- Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách Annam.
5- Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.
6- Ca tụng những nét hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho nguòi khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả, quý phái.
7- Trọng tự do cá nhân.
8- Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.
9- Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Annam.
10- Theo một điều trong chín điều này cũng được, miễn là đừng trái ngược với những điều khác.
Tự Lực Văn Đoàn
Vậy ta có thể xem ngày 21-7-1933 (ngày bốn chữ Tự Lực văn đoàn được in lần đầu trên báo Phong Hóa số 56) hay ngày 2-3-1934 (ngày công bố bản tuyên ngôn Tự Lực Văn Đoàn trên Phong Hóa số 87) là ngày Tự Lực Văn Đoàn thành lập được không?
- Câu trả lời là Không.
Bởi vì, Tự Lực văn đoàn có trước hai số báo này.
Phong Hóa số 154 (20-9-1935) xác nhận hai lần rằng: Tự Lực văn đoàn chủ trương báo Phong Hóa, như ta sẽ thấy dưới đây:
Phong Hóa số 154, 20-9-1935
1- Phong Hóa số 154, trang 2, trong bài viết tựa đề: 22-9-32 Kỷ niệm ngày báo ra 22-9-35, có câu:
"Có một điều ai cũng nhận thấy là vào thời kỳ báo Phong Hóa ra đời (kể từ số 14 trở đi, lúc Tự Lực văn đoàn bắt đầu chủ trương báo P.H.) [chúng tôi in đậm] trong làng báo có một khuynh hướng mới về mặt nhà nghề: tờ báo viết để quần chúng xem và tờ báo mong sống vì độc giả"[1].
Bài này ký tên Phong Hóa, chắc Nhất Linh viết chứ không phải Khái Hưng (bởi vì Khái Hưng đã làm báo Phong Hóa từ số 1, như ta sẽ thấy ở dưới), và câu: kể từ số 14 trở đi, lúc Tự Lực văn đoàn bắt đầu chủ trương báo P.H. có nghiã rằng: Tự Lực văn đoàn chủ trương báo Phong Hóa từ số 14. Nói khác đi, Tự Lực văn đoàn đã có trước Phong Hóa số 14 và Tự Lực văn đoàn nhìn nhận Phong Hóa số 14 là số báo khởi đầu của văn đoàn.
2- Vẫn trên PH số 154, trang 2, dưới tấm hình chụp báo PH số 14, ghi câu: "Đây là ảnh chụp số báo 14 (số bắt đầu thời kỳ Tự Lực văn đoàn đứng chủ trương báo Phong Hóa [chúng tôi in đậm] ra đúng ngày tứ ly là ngày mọi việc đều không nên). Vì khổ to dễ nhầu nát, khó giữ nên đến số 20 thì thu lại bằng khổ bây giờ)".
Lời ghi dưới hình chụp số Phong Hóa 14, in ở Phong Hóa số 154, trang 2
Câu này xác định một lần nữa việc Tự Lực văn đoàn chủ trương báo Phong Hóa.
Tóm lại, xin nhấn mạnh: Tự Lực văn đoàn có trước Phong Hóa số 14 và Tự Lực văn đoàn chủ trương Phong Hóa từ số 14.
3- Vẫn Phong Hóa số 154, trang 2, trong bài Bên đường dừng bước, Tứ Ly viết:
"Cách đây ba năm, một đêm thu giá lạnh, tôi và Nhất Linh từ biệt Khái Hưng ở báo quán, nện gót trên đường vắng mà về. Lúc đó, vào khoảng hai giờ sáng (…) chúng tôi thấy trong lòng nhẹ nhàng vui vẻ… Sáng hôm ấy, số đầu (tức là số 14) Phong Hóa ra đời (…) [chúng tôi in đậm].
Ba năm qua… Hôm nay tạm dừng chân đứng lại, chúng tôi nhìn con đường đã đi; chúng tôi ra báo ngày 22 tháng 9 năm 1932, là một ngày rất xấu: ngày tứ ly. Không phải là một sự vô tình, chính là định ý cưỡng lại cái thuyết số mệnh nó bắt dân ta nằm dí một nơi, đương lúc mọi người cùng tiến."[2]
Câu: "Chúng tôi ra báo ngày 22-9-1932, là một ngày rất xấu: ngày tứ ly", chứng tỏ cái tên Tứ Ly cũng phát xuất cùng với sự "ra đời" của báo Phong Hóa, kể từ số 14, và phải đến báo Ngày Nay, mới đổi thành Hoàng Đạo.
Nhà in báo Phong Hóa
Vẫn trên Phong Hóa số 154, trang 3, trong bài Nói chuyện cũ, Nhất Linh mô tả nhà in, in báo Phong Hóa như sau:
"Cái nhà in in báo Phong Hóa lúc đó cũng là "một sự lạ chưa từng thấy" trên hoàn cầu. Nó có cái tên nhũn nhặn là Imprimerie Moderne, dịch nôm là "nhà in tân thời". Cái nhà in tân thời đó nói cho đúng ra nó là cái bếp, hay cũng na ná như cái bếp. Những lúc chúng tôi xuống chữa bài, luôn luôn có hơi khói mầu lam đưa thoảng qua: nhà in trông mờ ảo như một bức tranh thủy mặc Tầu. Nhiều khi những mùi thịt bò xào, mùi chả trứng cũng theo gió bay vào thơm nức cả. Những mùi thơm quý hoá đó chỉ vào quãng mười, mười một giờ mới có. Lúc đói bụng vừa chữa bài, vừa ngửi những hơi thơm đó, có phần cũng dễ chịu.
Mùa rét đến thì cái nhà bếp đó biến thành bắc băng cực. Gió lùa vào các cửa sổ đã vỡ hết mặt kính làm cho chúng tôi không thể nào chữa bài được một cách cẩn thận. Chúng tôi không thể nào quên được cái đêm trước ngày số báo Tết năm 1934 xuất bản. Lúc đó vào quãng mười hai giờ đêm. Chúng tôi ở nhà báo sắp sửa về đi ngủ, thì có giấy nói gọi báo tin máy không thể in được nữa. Xuống nhà in mới biết vì trời rét quá mực đỏ in bià số Tết đóng cục lại.
Chúng tôi thấy giá cả chân tay, và trông cái máy in mà thương hại. Mỗi lần người cai cho máy chạy thử, là nó cứ rung rung như người rét run cầm cập. Sau cùng ông chủ nhà in bảo lấy ra một cái hỏa lò đầy than hồng đặt xuống gầm máy để sưởi cho nó. Quả nhiên máy lại chạy được. Chúng tôi lấy làm lạ rằng máy cũng biết ấm như người; trông cái buồng máy lúc đó y như hệt cái buồng đàn bà đẻ".
Đó là diện mạo nhà in Imprimerie Moderne, rất nghèo khổ lúc ban đầu, nhưng sau sẽ thay đổi, chúng tôi sẽ nói đến những biến chuyển của nhà in này trong một chương sau.
Tôn chỉ của Tự Lực văn đoàn
Bản Tôn chỉ của Tự Lực văn đoàn có 9 điểm, chỉ hai điểm đầu là quan trọng nhất, tiếc rằng không mấy ai chú ý, đó là:
1- Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài, nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích để làm giầu thêm văn sản trong nước.
2- Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội chủ ý làm cho Người và cho Xã hội ngày một hay hơn lên.
Nói khác đi, Tự Lực văn đoàn chủ trương không dịch sách văn chương nước ngoài, chỉ dịch hay soạn những sách có tư tưởng, làm cho Người và Xã hội, ngày một hay hơn lên, tức là chỉ nên dịch sách triết học, lý luận và khoa học. Đó là điểm rất quan trọng mà Tự Lực văn đoàn đã nghĩ ra từ đầu và họ đã giữ đúng quy ước này: Trên Phong Hóa Ngày Nay chỉ có một vài bài thơ dịch và hầu như không dịch truyện ngoại quốc nào trừ Giòng suối xuân của Tourguenev. Quyết định này nằm trong chủ đích tự lực, không chỉ tự lực vật chất, tức là không nhận tiền trợ cấp của chính quyền thuộc địa mà còn phải tự lập cả tinh thần, tức là nhà văn phải lấy nguồn gốc văn hoá dân tộc làm căn bản để sáng tạo ra một nền văn chương quốc ngữ mới, không sao chép các tác giả ngoại quốc được dịch sang tiếng Việt.
Vì Tự Lực văn đoàn không dịch truyện Pháp sang tiếng Việt, nên người Việt muốn viết văn phải tự đào sâu và khám phá tiếng mẹ đẻ của mình.
Nhờ quan niệm này, Tự Lực văn đoàn trở thành đầu tàu kéo theo một thế hệ nhà văn lớn nối tiếp như Nguyên Hồng (Bỉ vỏ, 1937; Bẩy Hựu 1940) Vũ Trọng Phụng (Giông tố, 1937; Số đỏ 1938), Nguyễn Tuân (Vang bóng một thời, 1940)…
Về phiá hội họa, cũng nhờ giáo sư Victor Tardieu, giám đốc trường Mỹ thuật Đông Dương, dạy học trò phải dựa trên nền móng văn hoá dân tộc để sáng tác, mà ông đã đào tạo nên một thế hệ họa sĩ tài ba, như Mai Thứ, Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu, thành danh tại Pháp; Nam Sơn, Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí… thành danh ở Việt Nam. Khác hẳn với chính sách của người Anh ở Ấn Độ, dạy học trò bỏ hẳn nghệ thuật Ấn Độ để học mỹ thuật Tây phương, nên đã không đào tạo được những danh họa người Ấn. Bây giờ, trên các sàn đấu giá "quốc tế" người ta tranh nhau mua tranh (giả hay thật) của các danh họa Việt Nam, bởi vì cả Á Châu, chỉ có trường Mỹ thuật Đông dương là "sản xuất" ra những họa sĩ có tình cách đặc thù.
Văn học miền Nam, thời kỳ phát triển 1954-75, mặc dù có nhiều sách dịch, nhưng những nhà văn tên tuổi như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng… cũng không hề mô phỏng văn chương Pháp, họ tự tạo con đường riêng bằng cách khai phá tiếng Việt và văn chương Việt. Thanh Tâm Tuyền học Nguyễn Du. Dương Nghiễm Mậu, nhà văn "mới nhất" về cấu trúc truyện cũng như tư tưởng, đã coi Khái Hưng là thầy.
Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới cũng vậy: Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài… là những người tự tìm tòi, tự khám phá, làm giàu tiếng Việt, họ không sao chép văn chương ngoại quốc, nhờ đó, tác phẩm của họ mới có giá trị lâu dài.
Hiện nay, tình hình thay đổi hẳn, người viết văn Việt Nam đứng trước một rừng tiểu thuyết ngoại quốc dịch sang tiếng Việt, họ bối rối, hoang mang, hoặc tự hào là mới, cứ thế phỏng theo, từ cách viết, cách dàn xếp câu chuyện đến văn phong (đôi khi ngờ nghệch vì dịch ẩu). Cả đến cái gọi là tân kỳ cũng thế: không hiểu chúng ta có thể học được gì ở sự tân kỳ của một Houellebecq, nhà văn "lớn" của Pháp hiện nay, ngoài sự kiêu kỳ, thô bạo và sex? Sự hướng ngoại thái quá và sự khinh thường văn chương Việt Nam, vì không biết hoặc không thèm đọc các tác giả Việt, là trở ngại không nhỏ cho việc phát triển văn chương.
Qua tình trạng này, ta lại thấy Tự Lực văn đoàn đã nhìn rõ vấn đề từ thập niên 1930.
Báo Tiếng Cười
Trước khi làm Phong Hóa, Nhất Linh chủ trương báo Tiếng Cười.
Vẫn trong bài Nói truyện cũ, trên Phong Hóa số 154, Nhất Linh, kể lại rằng:
"Đầu tiên muốn trống [chống] lại cái vẻ đạo mạo, già khụ của các tờ tuấn báo quốc ngữ, chúng tôi định cho ra một số báo lấy tên là "Tiếng Cười". Tờ "Tiếng Cười" đó đã được giấy phép xuất bản của chính phủ, nhưng không thể ra đời được, vì một lẽ giản dị là không kịp thu xếp xong trước ngày hết hạn giấy phép. "Tiếng Cười" vì thế đổi thành Tiếng khóc."
"Lúc chúng tôi sắp nhận làm báo Phong Hóa thì các tuần báo không có vẻ thịnh vượng, ít tờ xuất bản được tới hai nghìn số. Chúng tôi lúc đó mong ba nghìn và đã tự cho là "tham lam vô độ".
Sau này trong bài tiểu sử Nhất Linh, do Nguyễn Ngu Í soạn ở Sài Gòn, năm 1966, có câu: "xin ra tờ báo trào phúng "Tiếng Cười", nhưng vì gặp cảnh không tiền nên "tráng sĩ đành năm co". Quá hạn, bị rút giấy phép"[3]
Vậy báo Tiếng Cười không ra được vì không có tiền, chứ không phải vì chính quyền thuộc địa không cho phép như lời Tú Mỡ viết trong hồi ký Trong bếp núc của Tự Lực văn đoàn[4] được nhiều người chép lại.
Nhưng nếu không có tiền làm báo Tiếng Cười, thì lấy tiền đâu ra để làm báo Phong Hóa? Tại sao "tự nhiên" lại có tiền? Đó là vấn đề cần tìm hiểu, chúng tôi sẽ trả lời trong kỳ tới.
Một điều lạ là trong số báo Phong Hóa 154 này, chỉ có Hoàng Đạo và Nhất Linh lên tiếng, còn Khái Hưng? Khái Hưng làm thinh. Tại sao?
Vì thắc mắc muốn tìm hiểu lý do, nên chúng tôi đã đọc kỹ những số Phong Hóa đầu tiên, từ số 1 đến số 13 (mà từ trước đến nay thường được coi là tờ báo của ông Phạm Hữu Ninh, vì ít người đọc, sắp chết, nên bán lại cho Nguyễn Tường Tam).
Việc đọc này dẫn đến kết quả bất ngờ:
Khái Hưng bao biện hầu hết các trang báo Phong Hóa, từ số 1 đến số 13, với những bút hiệu khác nhau. Việc này rất khó hiểu. Nếu ta tin những điều được truyền tụng, đại ý: Nhất Linh mua lại tờ báo của ông Phạm Hữu Ninh đang gặp khó khăn sắp đóng cửa, mà báo Phong Hóa lại do Khái Hưng viết từ số 1. Tại sao người ta lại bảo đó là tờ báo của ông Phạm Hữu Ninh, và không nhắc nhở gì đến Khái Hưng? Rồi Khái Hưng cũng không giải thích gì thêm về sự ra đời của Tự Lực văn đoàn trong số báo Phong Hóa đặc biệt 154 đã nói ở trên.
Phải đọc hay đọc lại báo Ngày Nay số 16 ra ngày 12-7-1936, ta mới thấy xuất hiện truyện dài Những ngày vui trong đó Khái Hưng đã tiểu thuyết hóa việc thành lập Tự Lực văn đoàn và báo Phong Hóa qua lối viết hóm hỉnh của ông, với những chi tiết hiếm quý, chưa từng thấy.
Ngày Nay số 16 (12-7-1936) là một số báo quan trọng, tương tự như Phong Hóa số 14 trước đây. Bởi vì, sau số 190 (5-6-1936), Phong Hóa bị đình bản hẳn, Tự Lực văn đoàn dồn toàn lực vào Ngày Nay số 16, như một sự phản hồi.
Kịch Chết trên Ngày Nay số 16
Ngày Nay số 16, trang đầu in vở kịch chính trị ngắn tựa đề Chết của Khái Hưng do Nguyễn Gia Trí minh họa, như một bài xã luận, xác định lập trường sau khi Phong Hóa chết. Khái Hưng viết rất kín đáo nên ty kiểm duyệt không hiểu để… kiểm duyệt.
Tác phẩm mô tả cái chết của Lực (tượng trưng cho tờ Phong Hóa). Trước khi chết Lực dốc sức tàn, trăng trối với các bạn:
"Công việc chúng ta cùng nhau theo đuổi… trong bốn năm ròng… anh em đều hiểu rõ… hiểu rõ như tôi… Nay đã có cơ sở vững bền… và nó sẽ vững bền vì chúng ta muốn thế (…) Điều quan trọng mà tôi… mà anh em nhiều lần nhắc đến… hẳn anh em còn nhớ. Là công cuộc chúng ta theo đuổi… vẫn tiến hành như thường… dù xẩy ra việc gì mặc lòng… dù một người trong bọn ta chết đi… người chết đi là ai cũng vậy (…) Chỉ cái chết của ý tưởng… là đáng sợ…là đáng phàn nàn… Còn cái chết của người!"
Thông điệp thật rõ ràng và quyết liệt: trong bốn năm ròng [từ PH số 1 (16-6-1932) đến PH số 190 (5-6-1936)] chúng ta đã tranh đấu, đã có cơ sở vững vàng, nay tờ báo chết, mọi việc phải tiếp tục tiến hành như thường.
Kịch Chết chồng chất hai ý nghiã: tờ báo chết hay chính một người trong chúng ta có chết đi, thì người khác vẫn phải tiếp tục. Và Phong Hóa liền được thay thế bằng Ngày Nay. Kịch Chết mang lời di chúc có tính cách triết học của bậc đàn anh: "Chỉ cái chết của ý tưởng là đáng sợ… còn cái chết của con người!" (có nghiã lý gì).
Cùng với những dòng chữ quyết liệt này, Khái Hưng đã ghi lại lịch sử sự thành lập báo Phong Hóa trong tiểu thuyết Những ngày vui, mà chúng tôi sẽ trình bày trong kỳ tới.
_______________________
[1] Trích bài: 22/9/32 Kỷ niệm ngày báo ra 22/9/35, tiểu đoạn Hai thời kỳ, in trên Phong Hóa số 154 (20-9-35), trang 2.
[2] Tứ Ly, Bên đường dừng bước, Phong Hóa số 154, ra ngày 20-9-1935, trang 2-3.
[3] Trích Sống Và Viết với… của Nguyễn Ngu Í, do Ngèi Xanh (chữ của Nguyễn Ngu Í) xuất bản năm 1966, tại Sài Gòn, Xuân Thu chụp và in lại tại Hoa Kỳ, không đề năm.
[4] Bài hồi ký này in trong Tạp chí Văn học số 5-6/1988 và số 1/1989); in lại trong Tự Lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2000, trang 125-158.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Fri 28 May 2021, 12:22 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Sự thành lập Tự Lực văn đoàn và Phong Hóa
Phần II
Những ngày vui của Khái Hưng
Trở lại Ngày Nay số 16 (12-2-36) là tờ báo mà Tự Lực văn đoàn dồn toàn lực vào sau khi Phong Hóa bị đóng cửa vĩnh viễn, như để chứng tỏ: Chúng tôi chưa chết đâu. Trên tờ báo này, liền theo kịch Chết của Khái Hưng đăng ở trang nhất thay bài xã luận, là hai tiểu thuyết Những ngày vui của Khái Hưng và Lạnh lùng của Nhất Linh[1].
Lạnh lùng là một trong những tác phẩm chủ yếu của Nhất Linh, chúng tôi sẽ có dịp trở lại. Những ngày vui là tác phẩm thứ yếu của Khái Hưng, được viết trong bối cảnh Phong Hóa bị đe dọa đóng cửa; chắc hẳn với mục đích ghi lại "sự tích" Tự Lực văn đoàn, nếu một mai, tờ Ngày Nay cũng bị đóng cửa nốt.
Những ngày vui đăng trên Ngày Nay từ số 16 (12-7-1936) đến số 29 (11-10-1936), được nhà xuất bản Đời Nay in thành sách năm 1941. Nhà Phượng Giang tái bản ở Sài Gòn năm 1958. Bản in trên Ngày Nay số 20, Nguyễn Gia Trí vẽ cảnh Leung-Fat-Fa đang đứng bán hàng.
Việc Nhất Linh cho in lại tác phẩm thứ yếu này của Khái Hưng, dường như ngoài ý ghi ơn ân nhân Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên, người đã thầm kín giúp vốn để cải tổ Phong Hóa, còn muốn tưởng niệm Khái Hưng, vinh danh Nguyễn Gia Trí và nhớ lại những ngày vui thành lập Tự Lực văn đoàn thủa trước.
Những ngày vui khi đăng trên báo Ngày Nay năm 1936, do Nguyễn Gia Trí minh họa. Bản Phượng Giang sửa vài chỗ, nhưng việc sửa chữa này có từ năm 1941, trên bản Đời Nay hay là Nhất Linh sửa năm 1958? Nhưng những chỗ sửa không quan trọng mấy. Tóm lại, Những ngày vui đã được ba nhân vật chính: Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh viết, minh họa và in lại, có thể với mục đích để lại dấu vết việc "khai sinh" Tự Lực văn đoàn cho đời sau.
Những ngày vui, Ngày Nay số 20 Tóm tắt cốt truyện Những ngày vui
Phương [Khái Hưng] là con trưởng một gia đình giàu, Lan vợ chàng, con quan, nhà giàu chẳng kém gì nhà chàng. Những năm 1928-1930, ai về chơi đồn điền của Phương cũng phải kinh ngạc, đường đi rộng rãi, nhà cửa cao ráo, sáng sủa, bởi Phương đã cải tiến đời sống của dân làng. Nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra, dân quê túng thiếu, vợ chồng chàng tìm cách giúp đỡ để nâng cao đời sống của họ. Thấy việc buôn sơn do người Tàu và người Nhật độc quyền, Phương nghĩ ra cách kinh doanh mới: trồng cây sơn và lập xưởng pha sơn để lấy lại nguồn lợi cho dân. Phương chuyển những nơi trồng mía, khoai, sắn, sang trồng sơn, lập nhà máy chế tạo. Chàng bỏ ra gần mười vạn bạc vốn, nhưng vì chưa có kinh nghiệm lại bị sự cạnh tranh kịch liệt của người Tàu và Nhật. Kết quả, bốn năm sau, đồn điền cùng các xưởng thợ, nhà máy của chàng đều bị chủ nợ tịch biên bán đấu giá. Phương khánh kiệt gia tài, phải về sống nhờ trong từ đường nhà vợ tại Lũng Thượng[2]. May được người bạn minh hương là Nguyễn Văn Tiên Léang fat Houa (khi in thành sách sửa là Leung-Fat-Fa) giúp đỡ. Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên – khi còn nghèo khổ đã được Phương giúp cho mấy trăm bạc – muốn trả ơn chàng. Leung-Fat-Fa có một cuộc đời đầy thăng trầm, sóng gió, nhưng cuối cùng được hưởng gia tài của cha, người Tàu, chủ một hiệu tạp hóa lớn ở Hà Nội. Anh mượn Phương làm sổ sách, lương 30 đồng. Phương nhận lời, đưa gia đình rời Lũng Thượng về Hà Nội.
Đến Hà Nội, Phương đang đi lang thang tìm nhà thuê, thì gặp lại Duy họa sĩ [Nguyễn Gia Trí] bạn thân, Duy cho biết đã thuê nhà sẵn cho Phương rồi. Nhà có 5 phòng, thuê 40 đồng một tháng. Hiện đã có Điển, thầu khoán, đến ở cùng.
Sở dĩ Duy có tiền, vì chàng đang làm đại lý bán xe hơi cho một hãng ô tô lớn, lương 50 đồng, cộng thêm hoa hồng mỗi chiếc xe bán được khoảng hai, ba chục bạc. Mỗi tháng Duy kiếm được từ trăm rưởi trở lên, hơn tiền bán tranh nhiều, vì thế Duy mới có tiền thuê nhà cho bạn ở để làm báo[3].
"Ngoài công việc bán ô tô, nếu còn thừa thời giờ Duy vẽ tranh. Còn Điển và Phương – tuy Phương bận bán hàng tạp hóa – sẽ cùng nhau theo đuổi công việc soạn văn, dịch sách, gửi đăng các tạp chí trước khi cho xuất bản" [4].
Phương và Điển viết văn, dịch sách, Duy vẽ. Nhưng thức suốt bao đêm mà tác phẩm của hai "nhà văn" chẳng được báo nào đăng.
Một hôm Duy dõng dạc tuyên bố: "Bài vở các anh cứ để đấy, sẽ có chỗ đăng". Duy đã dụ được ông chủ hãng xe hơi ra một tờ báo nhà để quảng cáo các loại ô tô, khỏi cần gửi đăng quảng cáo ở các báo khác. Ông chủ bằng lòng, cho anh mỗi tháng 200 đồng tương đương với số tiền ông phải bỏ ra đăng quảng cáo trên báo.
"Thế rồi ngày mồng một tháng mười, như lời "kính cáo" gửi cho các bạn đồng nghiệp. Tự Động ra số đầu "chào quốc dân". Báo "Tự Động" là tờ báo đầu tiên bọn Phương làm với số tiền trợ cấp của ông chủ hãng ô tô. Nhưng báo Tự Động không khá được, mặc dù Duy đã hết sức trổ tài "hùng biện", đi các tỉnh để thuyết phục những vị chức sắc có tiền mua báo.
Bỗng Phượng [Nhất Linh] xuất hiện (trong sách đổi tên là Phúc). Phượng là giáo sư cử nhân mới ở Pháp về, nổi tiếng với những "projet" dựng báo rất "hoành tráng" được chàng rao giảng khắp Hà thành. Phượng thuyết phục Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên. Phượng thao thao bất tuyệt với Duy. Nhưng vì không có tiền để lăng-xê, Tự Động vẫn hoàn toàn bế tắc, nếu không có biến cố bất ngờ xảy ra: Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên bị bệnh nặng, thầy thuốc bó tay. Tiên gọi hai bạn Phương, Duy đến đề nghị biếu một vạn để làm báo. Phương từ chối. Tiên bèn nghĩ cách khác:
"… Tôi biết tôi sắp chết. Vậy trong chúc thư tôi nói cho các anh vay số một vạn bạc, bao giờ có tiền thì các anh trả lại cho vợ con tôi. Không bao giờ có tiền thì coi như món nợ ấy không có… Vậy các anh bằng lòng như thế nhé?"
Duy sợ Phương từ chối liền trả lời:
- Như thế thì có lẽ được.
Tiên vui mừng giơ hai tay ra bắt tay hai người…
Hai tuần lễ sau, báo Con Người của bọn Phương, Duy ra đời" (sđd, trang 166).
*
Đây là tiểu thuyết, vậy có phần hư cấu. Nhưng chúng ta có thể loại bỏ dễ dàng những điều hư cấu để chỉ giữ lại những điểm phù hợp với thực tế:
1- Khoảng 1928-1930, có thể Khái Hưng đã giúp dân cải tổ lại làng mình theo lối mới. Ông viết lại kinh nghiệm này trong 7 bài xã luận in trên Phong Hóa, từ số 80 (5-1-1934) đến số 87 (2-3-1934), tựa đề Một bản chương trình, chủ trương xây dựng lại nông thôn.
2- Việc Khái Hưng buôn sơn là có thật, ông buôn với người bạn Nhật, việc này ông kể lại trong truyện ngắn Kong-Ko Đai-Jin, in trên Phong Hóa số 14 (22-9-1932).
3- Về căn nhà Duy thuê cho Phương: Nhà có 5 phòng, thuê 40 đồng một tháng. Có thể là trụ sở đầu tiên của Phong Hóa, ở phố Đường Thành, như Khái Hưng có nhắc lại ở một chỗ khác trong Những ngày vui; mà cũng có thể là căn nhà số 1 Boulevard Carnot, trụ sở chính thức của báo Phong Hóa từ số 1 (16-6-1932) đến số 126 (30-11-1934), toà soạn và trị sự mới chuyển về số 80 Avenue du Grand Bouddha (Quan Thánh).
4- Việc Duy dụ được ông chủ bán xe hơi, bỏ tiền ra làm báo, phù hợp với việc ông Phạm Hữu Ninh (hiệu trưởng trường Thăng Long) hay ông Nguyễn Xuân Mai (Giám đốc sáng lập tờ Phong Hóa) "trợ cấp" cho bọn Phương 200 mỗi tháng để làm báo.
5- Có tiền 200 đồng, Phương Duy làm tờ Tự Động. Chữ Tự Động này có hai nghiã: chỉ tờ Phong Hóa từ số 1 đến số 13, khi Khái Hưng một mình tự biên tự diễn, và Tự Động cũng chính là Tự Lực, hạt nhân đầu tiên của Tự Lực văn đoàn.
6- Bỗng Phượng xuất hiện, Phượng là giáo sư cử nhân ở Pháp về, với những dự định làm báo lớn lao, thì đúng là Nhất Linh. Nhưng chưa có tiền, phải đợi đến khi Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên, để di chúc cho một vạn, thì báo Con người mới ra được. Con người chính là tờ Phong Hóa từ số 14 trở đi. Số tiền 10.000 đồng là cái vốn để Nhất Linh cải biến hoàn toàn tờ Phong Hóa.
Nếu cái chết đột ngột của Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên và việc anh để lại số tiền lớn lao cho Tự Lực làm báo, không được tự nhiên mấy, khiến ta có thể nghi ngờ, thì tôi xin đưa ra giả thuyết thứ nhì: tiền này phải chăng là tiền riêng của bà Khái Hưng, vì gia đình cụ thân sinh ra bà, Tuần phủ Lê Vân Đính, rất giàu, có biệt thự ở Sầm Sơn; bà lại được mẹ cho một số ruộng ở Hải Hậu?[5] Kể cả việc Khái Hưng thuê biệt thự 80 Quan Thánh làm cơ sở cho Phong Hóa Ngày Nay (và trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng sau này) có thể cũng do vốn của bà Khái Hưng chăng? Dù sao chăng nữa, việc Phong Hóa có tiền để cái tổ tờ báo, là do nguồn Khái Hưng.
Theo Những ngày vui thì Tự Động số 1, in 5.000 số, tiền in: 75 đồng, lương toà soạn kiêm trị sự bốn người hết 100 đồng. Linh tinh: 50 đồng. Tổng cộng, chi: 225 đồng.
Tiền bán báo (trừ hoa hồng): 30 đồng. Tiền phụ cấp của hãng ô tô: 200 đồng. Tổng cộng: thu 230 đ. Lãi: 5 đồng (sđd, trang 112).
Việc Tự Động số đầu ra 5.000, chắc là hư cấu, sự thật chắc chỉ có 3.000 số, vì Nhất Linh, trong bài Nói truyện cũ, trên Phong Hóa số 154, đã trích dẫn trong phần I, cho biết: "Lúc chúng tôi sắp nhận làm báo Phong Hóa thì các tuần báo không có vẻ thịnh vượng, ít tờ xuất bản được tới hai nghìn số. Chúng tôi lúc đó mong ba nghìn và đã tự cho là "tham lam vô độ".
Còn tiền chi tiêu được kê khai có thể đúng với Phong Hóa thời kỳ đầu, từ số 1 đến số 13, khi còn nhận trợ cấp hàng tháng của ông Phạm Hữu Ninh hay ông Nguyễn Xuân Mai.
Trên Phong Hóa số 58 (4-8-1933), có biên bản về Phong Hóa số 47 (19-5-1933) cho biết: Phong Hóa 47 phát hành 10.150 số. Như vậy, nếu Phong Hóa 14 (22-9-1932) in 3000 số, thì chưa đầy một năm sau, báo đã in hơn gấp ba lần số phát hành đầu tiên.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Sat 29 May 2021, 09:18 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Sự thành lập Tự Lực văn đoàn và Phong Hóa
Phần II
Chân dung Khái Hưng
Những ngày vui mô tả ba người: Khái Hưng "trong vai" Phương, Nguyễn Gia Trí trong vai Duy, Nhất Linh trong vai Phượng (khi in thành sách đổi là Phúc).
Chúng ta biết rất ít về quãng đời trước khi làm báo của Khái Hưng. Nguyễn Tường Bách, em út Nhất Linh, một trong những người gần gũi Khái Hưng trong giai đoạn 1945-1946, viết:
"Cuộc đời của Khái Hưng Trần Khánh Giư có thể gọi là kỳ lạ. Anh đã đậu Tú tài ban Triết học, độ ấy còn rất hiếm, nhưng không ra làm quan hay một công chức cao cấp nào, một việc rất dễ cho anh – ông thân sinh là Tuần phủ và nhạc phụ là Tổng Đốc. Tại sao không chạy một chân tri huyện, mà lại xoay sang làm nghề dạy học và nghề làm báo nghèo kiết bấp bênh? Một lần, tôi có gạn hỏi thì anh chỉ cười đáp:
- "Cũng chẳng hiểu tại sao cả. Thích làm báo thì làm báo chớ sao?"
Đó cũng là câu trả lời chung của mấy anh em.
Nghe nói, nhà tiểu thuyết xã hội, lãng mạn trước kia đã từng đi… buôn, làm đại lý cho một hãng dầu xăng, chắc muốn giàu to. Song chắc đầu óc nghệ sĩ không thích hợp lắm với lối buôn bán quắt quéo, nên chỉ thua lỗ (cũng may, nếu phát tài thì Việt Nam không có nhà văn Khái Hưng!).
Từ Ninh Giang[6] anh lên Hà Nội, làm giáo sư trường tư thục Thăng Long. Ngay hồi đó anh đã viết cho tờ Duy Tân những truyện vui hay xã thuyết, cùng với nhà văn Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, nhà văn Tchya[7] Đái Đức Tuấn, một số bài nữa đăng trên tờ Phong Hóa (cũ, trước khi sang tay Nhất Linh quản lý) và tờ Văn Học tạp chí của anh em Dương Bá Trạc.
Nhất Linh sau đó lại vào dạy trường Thăng Long. Hai người hiểu nhau rất nhanh, rất tâm đắc, có cái nhìn chung về xã hội, về văn học."[8]
Đấy là Khái Hưng dưới mắt Nguyễn Tường Bách, người em út trong gia đình Nhất Linh.
Trong Những ngày vui, Khái Hưng mô tả mình trong vai Đỗ Như Phương, nói quá lên một chút về gia cảnh: "Phương là con trưởng một gia đình cự phú", còn gia tài chàng được hưởng chắc là không sai mấy: một cái ấp ở Phú Thọ rộng ba nghìn mẫu vừa ruộng vừa đồi và vài toà nhà cho thuê ở Hà Nội" và cả về người vợ cũng thế: "Lan, vợ chàng là con quan, nhà cũng giàu có chẳng kém gì nhà chàng" (sđd, trang14).
Hành động và tư tưởng của Phương thì đúng là Khái Hưng: ngay từ hồi trẻ, Phương đã hoạch định một chương trình xã hội để nâng cao đời sống dân quê, trước hết về nhà cửa đường phố:
"Chàng nhờ một người bạn kiến trúc sư vẽ kiểu nhà thích hợp với dân quê, rồi bắt các nông phu điền tốt trong ấy làm theo. Nếu có quá tốn kém thì chàng chu cấp cho ít nhiều.
Hồi mấy năm 1928-1930, ai về chơi đồn điền của Phương cũng phải kinh ngạc, khi ngắm qua những đường đi rộng rãi, những phố xá sạch sẽ, và những lớp nhà lợp ngói, lợp tranh cao ráo, sáng sủa, hay khi tò mò để mắt tới những đứa trẻ y phục gọn gàng cắp sách đi học" (Những ngày vui, trang 15).
Đọc những dòng này ta có thể tưởng tượng cảnh làng Cổ Am, quê Khái Hưng, trước khi bị Pháp dội 57 quả bom ngày 16-2-1930 và hiểu tại sao Khái Hưng chống Pháp.
Nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế [1929] ập tới, thóc lúa bị đình trệ không bán được, giá thóc gạo mỗi ngày một hạ, nông phu không kiếm đủ tiền ăn và tiền nộp thuế, nên bắt buộc phải trả lại ruộng cho chủ. Đất bỏ hoang, Phương bèn tính đến phương sách thứ hai: chàng quay ra trồng sơn ở đồn điền, bỏ vào 10 vạn rồi vay thêm ngân hàng bằng cách ký quỹ đồn điền. Lại thất bại. Phương mất cả đồn điền, thêm nợ nần, phải trở về sống nhờ ở từ đường nhà vợ.
Trong lúc khó khăn này, chàng được Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa, giúp đỡ, Phương đưa gia đình về Hà Nội, làm thủ quỹ cho hiệu Leung-Fat-Fa. Leung-Fat-Fa là hiệu tạp hóa lớn ở phố hàng Ngang của Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa. Khái Hưng đã giải thích việc này như sau:
"Lòng tử tế của Tiên tỏ ra rằng Tiên là một người Tàu, người Tàu thuộc thời Xuân Thu Chiến Quốc hay Tiền Hán, Hậu Hán. Không phải lòng tử tế của bọn phi thường, nhưng lòng tử tế Tàu kia.
Đối với Phương, Tiên tự coi như người chịu ơn sâu, đời đời không thể trả hết, và mấy trăm bạc Phương giúp chàng ngày xưa, chàng đặt ngang hàng với bát cơm của bà Phiếu Mẫu giúp Hàn Tín khi anh tể tướng còn hàn vi" (trang 94).
Như vậy, trong Những ngày vui, những nét đời thật của Khái Hưng lộ khá rõ, được sửa đổi và thêm thắt đôi chút, nhưng giữ nguyên nền chính: Khái Hưng và vợ đều là con quan. Ông đã từng lập xưởng kinh doanh sơn ở Phú Thọ và bị lỗ vốn. Việc buôn sơn được ông nhắc đến trong truyện ngắn Kong-Ko Đai-Jin. Sau đó ông ra Hà Nội dạy trường Thăng Long, gặp Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh… Việc Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa cho tiền để làm báo, được Khái Hưng coi là lòng tử tế của người Tàu, trả ơn bát cơm Phiếu Mẫu mà ông đã giúp Tiên ngày trước.
Chân dung Nguyễn Gia Trí
Vào truyện Những ngày vui, Khái Hưng tả cảnh ba người bạn Ngạc, Điển, Duy và Xuyến, tình nhân của Ngạc, đi ô tô đến Lũng Thượng để dự lễ tiệc do Phương mời. Giữa đường, xe chết máy, Ngạc lúi húi cúi xuống hý hoáy tìm cách sửa. Trong khi ấy Duy đem bút chì và giấy ra vẽ.
"Ngạc ngửng lên trông thấy, gắt:
- Trời ơi, anh còn vẽ được!
- Truyện! Chín năm "Mỹ thuật" của người ta!
Ngạc thì thầm bảo Điển:
- Động một tý là nó giở chín năm trường Mỹ thuật của nó ra.
Xuyến vừa soi gương bôi sáp môi vừa hỏi:
- Anh Duy học chín năm ở Beaux Arts thực đấy à?
Duy, giọng tự phụ:
- Lại chả thực!
Mà kể thì cũng thực.
Là vì học gần hết năm thứ hai và sau một cuộc cãi lý kịch liệt với giáo sư, Duy cáu tiết bỏ trường, tuy chàng là một thanh niên rất có hy vọng học.
Hai năm sau, một hôm gặp Duy đi lang thang trên đường vùng quê với đủ các họa cụ đeo trên lưng, ông đốc trường Mỹ thuật liền hỏi (thiếu mấy chữ) Duy nên lại vào trường tòng học.
Duy vâng lời. Nhưng đến năm thứ ba, được dăm tháng, vì một điều chẳng quan hệ mấy, Duy lại bỏ học.
Rồi ít lâu lại vào học. Lần sau cùng, Duy chính thức từ giã trường Mỹ Thuật, vì chàng trúng tuyển kỳ thi ra.[9]
Tính góp lại, thời kỳ học tập của Duy vừa đúng chín năm.
- Vô lý! Chín năm!
- Ấy là kể cả nghỉ hè nữa đấy chứ nếu không thì làm quái gì đủ chín năm.
Xuyến nghiêng đầu sửa mái tóc, mỉm cười hỏi:
- Anh học vẽ chín năm; chắc phải giỏi. Nhưng anh bắt đầu vào trường từ năm anh lên mấy?
- Từ năm mười bẩy, lúc ấy tôi vừa đậu thành chung. Vị chi năm nay tôi hăm bẩy. [...]
- Này, nhưng chữa xe làm gì nữa, lại đây xem tranh của tôi hơn. Các anh phải biết "Một công trình tuyệt tác!"
Điển và Ngạc chán nản ngồi xuống vệ đường dưới bóng một cây đề lớn. Duy đem tranh lại khoe:
- Đó, các anh coi: Dã man không? Vô nhân đạo không?"[10]
Duy vẽ cảnh: hai người đàn bà lưng cúi gò, vai khoác dây thừng, kéo cái bừa do một người đàn ông đẩy.
Duy vẽ hai người đàn bà kéo bừa trên Ngày Nay số 16. Đoạn văn trên đây rất quan trọng, vì nó cho ta biết thêm về tiểu sử Nguyễn Gia Trí. Tuy nhiên nếu đặt nó vào bối cảnh năm 1932, khi Phong Hóa sắp ra đời, thì lúc đó Nguyễn Gia Trí chưa ra trường, Khái Hưng không thể đưa vào miệng Duy câu: "Truyện! Chín năm "Mỹ thuật" của người ta!" Câu này chỉ có thể nói năm 1936, khi Khái Hưng viết truyện này.
Nhưng nếu bỏ qua chi tiết vô lý này, ta có thể rút ra một số thông tin về Nguyễn Gia Trí.
Khái Hưng sinh năm 1896, Nhất Linh sinh 1906, còn Nguyễn Gia Trí, thường ghi sinh năm 1908; nhưng không ai biết chắc. Năm ông đỗ vào trường Mỹ Thuật cũng mù mờ: Sách Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1925-1990) ghi Nguyễn Gia Trí học khóa IV (1928-1933) rồi bỏ dở, trở lại học khóa VII (1931-1936). Theo thư Nguyễn Gia Trí gửi Mai Thọ Truyền[11], ta được biết: tình cờ đi xem hội chợ (1935) thấy tranh sơn mài của Trần Quang Trân đẹp, ông bèn quay về trường, học sơn mài. Theo Lê Phổ[12], Nguyễn Gia Trí học cùng lớp với Lê Thị Lựu, tức là khóa III (1927-1932).
Theo Những ngày vui, Nguyễn Gia Trí vào trường Mỹ thuật năm 17 tuổi. Học chín năm (kể cả thời gian nghỉ). Những điều này chắc đã được Nguyễn Gia Trí kiểm lại, cho phép ta rút ra những nhận xét sau đây:
1- Việc ông ra trường năm 1936, phù hợp với hoạt động của ông trong Tự Lực văn đoàn, vì kể từ năm 1936, Nguyễn Gia Trí vẽ tranh công khai và quyết liệt hơn thời kỳ chưa ra trường.
2- Vì ông ra trường năm 1936, và ông học 9 năm (kể cả những lúc bỏ dở), vậy ông vào trường năm 1927, cùng lớp với Lê Thị Lựu, đúng như lời Lê Phổ.
3- Năm 1927, ông 17 tuổi, vậy ta có thể cho rằng: Nguyễn Gia Trí sinh năm 1910.
4- Theo Những ngày vui, Nguyễn Gia Trí bỏ học hai lần, vì cãi nhau với giáo sư (Tardieu). Lần đầu, năm thứ hai (1928) và lần sau năm thứ ba (1929). Tổng cộng thời gian "học" là 9 năm, vậy ông nghỉ học 4 năm trong khoảng từ 1928 đến 1936, vì mỗi khóa trường Mỹ thuật là 5 năm.
Như thế, vai trò của Nguyễn Gia Trí trong Tự Lực văn đoàn, không chỉ ở mức độ cộng tác thường xuyên mà còn ở chỗ khác nữa: có thể nhờ tiền bán tranh và sống độc thân, nên Nguyễn Gia Trí luôn luôn lo việc "kinh tài" cho Tự Lực văn đoàn và Quốc Dân Đảng. Trước tiên cho Phong Hóa, lúc mới thành lập, như Khái Hưng viết trong Những ngày vui. Rồi từ 1939-1940 ông mua và tích trữ vũ khí cho đảng Đại Việt Dân Chính, bị Pháp bắt quả tang để trong phòng vẽ, theo lời họa sĩ Hoàng Tích Chù[13]. Sau cùng, ông góp phần "nuôi" các đồng chí trong thời kỳ bôn ba ở Hương Cảng, những năm 1948-50, vẫn bằng hội họa của mình.
(còn tiếp)
|
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng | |
| |
| | | |
Similar topics | |
|
Trang 1 trong tổng số 8 trang | Chuyển đến trang : 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |