Bài viết mới | Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 06:59
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:17
KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Thu 21 Nov 2024, 16:45
KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22
Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22
NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20
KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08
Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54
Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10
7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10
Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21
Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13
Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07
Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36
Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09
Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46
Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06
Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04
DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19
Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37
Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17
CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05
Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39
Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41
Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
|
| Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng | |
| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Fri 23 Jul 2021, 09:10 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Hành trình đổi mới của Khái Hưng và Nhất Linh
Bỏ những khóc lóc sướt mướt, chưa đủ.
Bỏ lối văn biền ngẫu, chưa đủ.
Đổi mới ngôn ngữ như Hoàng Tích Chu viết câu ngắn gọn, vẫn chưa đủ.
Nhà văn còn phải đổi mới cả kỹ thuật viết tiểu thuyết, từ cổ điển bước sang hiện đại.
Ở đây, tôi dùng chữ hiện đại mà không dùng chữ lãng mạn, để tránh hiểu lầm. Bởi vì lãng mạn dịch từ chữ romantisme, chữ này để chỉ trào lưu tư tưởng Âu châu, xuất hiện giữa thế kỷ XVIII ở Anh, ở Đức rồi truyền sang Pháp, Ý, Tây Ban Nha trong thế kỷ XIX. Lãng mạn chủ trương tự do diễn tả cảm giác cá nhân của cái tôi, chống lại lý tưởng phổ quát cổ điển của cái ta, tức cái chung chung của nhân loại. Phát xuất từ Anh với tiểu thuyết của Richardson, thơ của Ossian, định hình ở Đức với Goethe, Novalis và Holderlin, rồi truyền sang Pháp với Lamartine, Victor Hugo, Alfred de Vigny, Alfred de Musset…
Cuộc đổi mới văn học ở Việt Nam, thập niên ba mươi thế kỷ XX, không có tính cách chuyển thể từ cổ điển sang lãng mạn, bởi vì bối cảnh văn chương và tư tưởng Việt Nam không giống bối cảnh Âu châu. Sự phân chia trường phái ở châu Âu không có nghiã gì khi áp dụng vào văn chương Việt Nam. Cuộc cách mạng văn học ở nước ta, thời đó, chỉ đơn giản là để lập ra một nền văn chương quốc ngữ hiện đại mà chúng ta chưa có.
Thế nào là hiện đại? Chữ moderne của Pháp có hai nghiã: thứ nhất, những gì thuộc về thời nay và thứ hai, những gì tân tiến. Ta thường dịch là hiện đại, như thế thiếu mất nghiã tân tiến. Cho nên có lẽ nên phiên âm là mô-đéc thì đúng ý hơn và nếu ta dùng chữ hiện đại thì phải hiểu trong nghiã hiện đại và và tân tiến.
Không cần lý thuyết dài dòng, chỉ cần trích văn của hai nhà văn Pháp nổi tiếng trong thế kỷ XIX: Stendhal (1783-1842) và Balzac (1799-1850), ta sẽ thấy rõ sự khác biệt giữa hai lối viết cổ điển và hiện đại này.
Trong truyện Le Père Goriot (Già Goriot) in năm 1835, Balzac mở đầu tác phẩm bằng câu:
Bà già Vauquier, sinh ở Conflans, từ 40 năm nay trông nom một nhà trọ cho thị dân khá giả, ở Paris, tại phố mới Sainte-Geneviève, giữa khu La tinh và ngoại ô Saint-Marcel.
Balzac thường kể chuyện, ông chỉ rõ xuất xứ: quê quán nơi sinh, địa chỉ, nghề nghiệp của nhân vật trước khi vào truyện. Lối viết này được coi là cổ điển.
Stendhal, khác hẳn, trong tiểu thuyết La Chartreuse de Parme (Tu viện thành Parme) in năm 1839, ông mở đầu tác phẩm bằng câu:
Ngày 15, tháng năm, 1796, Tướng Bonaparte cầm đầu đoàn quân trẻ tuổi vượt cầu Lodi tiến vào Milan, tỏ cho thế giới biết – sau nhiều thế kỷ- César và Alexandre đã có người kế vị.
Stendhal không giới thiệu xuất xứ nhân vật mà đi thẳng vào truyện: Cảnh Bonaparte tiến quân mở ra trước mắt ta như một hiện hữu. Ông cũng không kể chuyện, mà ông mô tả, nên văn ông sống động hơn nhiều. Stendhal được coi là người khai phá lối viết hiện đại ở Pháp.
Cách viết này, ở nước ta, Hồ Biểu Chánh đi tiên phong với truyện Ai làm được viết năm 1912, in lần đầu năm 1915, và Phạm Duy Tốn tiếp nối với truyện ngắn Sống chết mặc bay, in trên Nam Phong số 18, tháng 12-1918. Đó là chuyện tình cờ chứ chưa chắc Phạm Duy Tốn đã đọc Hồ Biểu Chánh. Sự nghiệp tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đồ sộ, nhưng ông ở trong Nam, ít có ảnh hưởng ra Bắc, nhất là người Bắc vẫn có lối kiêu kỳ coi thường văn chương Nam bộ. Phạm Duy Tốn khai phá lối viết tả chân xã hội ở Bắc trong 4 truyện ngắn: Câu chuyện thương tâm (Bực mình) (Đông Dương tạp chí số 55, 1914), Sống chết mặc bay (Nam Phong số 18, tháng 12-1918), Con người sở khanh (Nam Phong số 20, tháng 2-1919) và Nước đời lắm nỗi (Nam Phong số 23, tháng 5- 1919). Trong số đó, Sống chết mặc bay là một tuyệt tác, còn ba truyện kia vẫn viết theo lối kể chuyện; Phạm Duy Tốn lại mất sớm (1924) vì bệnh lao, nên không tạo được một phong trào.
Để thấy rõ cái mới của Hồ Biểu Chánh và Phạm Duy Tốn, ta chỉ cần so sánh văn hai ông với những người cùng thời:
– Tân Dân Tử, trong Gia Long Tẩu Quốc, in năm 1915, viết:
Đức Nguyễn Ánh lạc bước phong trần.
Nơi Phật tự gặp người phò tá.
Đất Việt Ba Kỳ, trời Nam một góc, tang thương mấy độ, cuộc hưng vong dường thể chiêm bao; sự tích ngày xưa, gương trị loạn còn ghi lịch sử.
– Nguyễn Chánh Sắt, trong tiểu thuyết Nghĩa hiệp kỳ duyên, tức Chăng Cà Mun, in năm 1919, viết:
Lần hồi ngày lụn tháng qua, bóng thiều quang đưa rất lẹ; thoắt chút mà Phi Đáng đã 18 tuổi đầu, hình dung yểu điệu, cốt cách phương phi, bá mị thiên kiều, ngư trầm lạc nhạn. Mà ba mươi đời cái kiếp hồng nhan bạc mạng là lẽ tự nhiên..
– Hoàng Ngọc Phách, trong Tố Tâm, viết 1922, in 1925 viết:
Thôi, hôm nay là ngày từ biệt của ngòi bút chung tình này, từ đây sẽ vắng tanh tin nhạn, bao nhiêu chuyện tình xưa nghĩa cũ, sẽ theo mây bay gió thổi mà mơ màng như giấc chiêm bao. Những khi canh tà giăng xế, khi mưa sa trước cửa, khi gió thổi bên màn, khi em soi gương thấy bóng…
– Nguyễn Tường Tam trong Nho Phong, viết 1924, in 1926 viết:
‘Lê Nương năm ấy tuổi mới trăng tròn,’ ‘Nhưng bóng hoa thấp thoáng, dáng liễu thanh tân, làm cho chàng cũng phải nhiều phen man mác trong long.’
Khi Hồ Biểu Chánh cầm bút, cục diện văn chương Việt Nam thay đổi hẳn, ông vào truyện Ai làm được bằng câu:
Khiếu Nhàn bước vào kéo ghế mà ngồi, ngó quanh quất không thấy khách ăn uống, duy có một người trai trạc chừng mười bẩy, mười tám tuổi, đương ngồi tại bàn gần cửa mà viết.
Và trong Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn mở đầu bằng câu:
Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng***, thuộc phủ***, xem chừng núng thế lắm: hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất.
Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn; kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ [đóng cọc], bì bõm dưới bùn lầy, ngập quá khỉu chân, người nào người ấy, lướt thướt như chuột lột”[1].
Ta thấy ngay: những câu văn trích trong Gia Long tẩu quốc, Chăng cà mun, Tố Tâm, Nho Phong, trên đây, đều có thể gạch bỏ, mà không thiệt hại gì cho tác phẩm. Ngược lại, câu văn của Hồ Biểu Chánh và Phạm Duy Tốn, không thể bỏ được. Bởi vì lối viết hiện đại đi thẳng vào thực chất của vấn đề, không có những lời kể lể cà kê, huê dạng.
Điểm thứ nhì, Hồ Biểu Chánh và Phạm Duy Tốn mô tả trực tiếp con người (Khiếu Nhàn) hoặc bối cảnh (vỡ đê), không qua lời kể của tác giả (hay của nhân vật chính). Khi Hồ Biểu Chánh viết: “Khiếu Nhàn bước vào kéo ghế mà ngồi” là ông đã xóa cái tôi kể chuyện cổ điển.
Ví dụ câu: “Lê Nương tuổi mới trăng tròn” của Nguyễn Tường Tam, nếu được viết lại theo lối mô-đéc của Hồ Biểu Chánh, thì sẽ có thể là: “Cái Lê, quần bò, áo thun bó sát, ưỡn ẹo vừa đi vừa huýt sáo”, chẳng hạn.
Tóm lại, để nhập vào cách viết hiện đại, nhà văn phải bỏ câu văn bóng bẩy, hoa hoè, biền ngẫu, kiểu Tố Tâm: Những khi canh tà giăng xế, khi mưa sa trước cửa, khi gió thổi bên màn”, bỏ lối kể chuyện, kiểu Nho Phong: Lê Nương năm ấy tuổi mới trăng tròn, để mô tả trực tiếp sự vật, để sự vật (hay nhân vật) tự sống, tự hành động. Đó là cái mới trong tiểu thuyết hiện đại.
Khái Hưng, Nhất Linh, hai nhà văn cột trụ của Tự Lực Văn Đoàn, đã phải dứt bỏ lối viết cổ này, để đổi mới văn học. Khái Hưng mở đầu với Hồn bướm mơ tiên, Nhất Linh kết thúc với Bướm trắng, trước khi bỏ văn chương đi làm cách mạng. Đó là hai tác phẩm nền móng, đi tiên phong và đoạn hậu, cũng là hai kiệt tác. Họ đã chỉ cần tám năm để xây dựng một nền tiểu thuyết hiện đại. Trái hẳn với lo lắng của Phạm Quỳnh: văn học ta còn kém xa đến ba trăm năm, so với văn học châu Âu.
Con đường khai phá của Khái Hưng
Hiện nay, vì thiếu tư liệu, tôi chưa tìm được bài văn nào của Khái Hưng viết trước khi làm Phong Hóa, nên tạm coi sự nghiệp văn chương ông bắt đầu từ khi làm Phong Hóa số 1.
Đoản thiên tiểu thuyết Mưu sâu đã dắp [rắp] đăng trên Phong Hóa số 1(16-6-1932) ký tên Kỳ Hoa là truyện ngắn đầu tiên của Khái Hưng. Truyện này bắt đầu bằng câu:
Trong một ngôi chùa cổ có tiếng ở gần đất Thăng Long bỗng một hôm có câu tục tằn thốt ra: ‘Thế mà mày vẫn mở mồm khoe ra là trinh phụ. Rõ quân đê mạt không biết xấu. Có đường có nẻo thì bước ngay. Từ rầy đừng có mong nhìn mặt tao. Đồ đĩ dại nên tự sử [xử] lấy là hơn.’
Câu này chứng tỏ Khái Hưng đã nhập vào lối viết hiện đại, ngay từ tác phẩm đầu tay. Ông dùng cảnh và đối thoại để mở đầu, bỏ lối kể chuyện, không giới thiệu xuất xứ nhân vật.
Mưu sâu đã dắp là truyện một người thiếu phụ bị chồng (cờ bạc, mê gái) ruồng bỏ, lập mưu hãm hại. Cấu trúc truyện còn sơ sài, câu văn đôi chỗ còn cân đối, nhưng Mưu sâu đã dắp có ba yếu tố căn bản của tiểu thuyết: dùng sự mô tả, tính bất ngờ và tính bi đát.
Trên Phong Hóa số 2 (23-6-32) có đoản thiên tiểu thuyết Mùa hoa gạo ký tên Kỳ Hoa. Đây là một tự truyện về quãng đời học chữ nho của Khái Hưng từ 5 đến 10 tuổi. Sau ông viết lại truyện này thành Thế giới cũ mực tầu giấy bản ký tên Nhị Linh, đăng trên Phong Hóa từ số 24 (2-12-32) đến số 35 (24-2-33). Tác phẩm vẽ lại khung cảnh trẻ con học chữ nho thời xưa và cho biết phương pháp dạy của thầy đồ: Cậu bé Linh (Nhị Linh) đã bị đánh bao nhiêu roi quắn đít, đã phải học thuộc lòng Tứ thư, Ngũ kinh, học làm câu đối… như thế nào. Đó là một trang tuổi thơ đầu thế kỷ XX, sống động và bi hài.
Sau đó ông viết đoản thiên Tôi không ngờ ký tên Bán Than trên Phong Hóa số 7 (28-7-32), tự truyện về thời kỳ mới viết văn, nhưng chưa làm báo, cho biết ông ở phố Henri d’Orléans. Chi tiết này giúp ta đoán được, căn phòng đó có thể là cơ sở đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn, và sẽ trở thành tòa soạn Phong Hóa, cùng lúc với trụ sở chính ở số 1 đường Carnot, trong gần bốn tháng, từ Phong Hóa số 14 (22-9-32) đến Phong Hóa số 30 (13-1-33).
Trên Phong Hóa 14 (22-9-32), số báo đầu tiên do Tự Lực Văn Đoàn chủ trương, Khái Hưng viết truyện Kong-Ko Đai-Jin, lần đầu ký tên thật Trần Khánh Giư và cũng là lần đầu hai chữ “chuyện ngắn” xuất hiện trên báo Phong Hóa, thay cho bốn từ Hán-Việt “đoản thiên tiểu thuyết“. Truyện này chứng tỏ Trần Khánh Giư bắt đầu “thấy mình viết được”, nên ông ký tên thật, để xác nhận tác phẩm của mình.
Truyện ngắn Kong-Ko Đai-Jin, Phong Hóa số 14 Kong-Ko Đai-Jin[2] viết về chuyến đi buôn sơn của tác giả với người bạn Nhật, hiệp sĩ, tên là Độ-Bộ-Thất-Lang, theo đạo Kong-Ko Đai-Jin.
Tác phẩm bắt đầu bằng câu:
Chiếc thuyền nan còn cách bến Phố Én độ mười thước thì bỗng lọt vào tai chúng tôi câu hát:
‘Sông Thao nước đục người đen, Ai lên phố Én thì quên đường về.’
Giọng hát véo von lanh lảnh, theo sau chuỗi cười ròn như tiếng nhạc ngựa…
Với câu văn này, Khái Hưng đã bỏ hẳn lối viết cổ điển, bước vào văn cách hiện đại bằng âm thanh và quang cảnh. Tuy vẫn có giọng của người xưng tôi, nhưng tôi ở đây cũng là một nhân vật như những nhân vật khác, và cách mô tả hoàn toàn mới lạ, sống động:
Nhìn ra phiá ngoài thì một cái bàn tay to, đen, đương từ từ mở cánh cửa, rồi thò vào cái đầu đội mũ cát-két, che kín mắt… rồi cả người rón rén bước qua ngưỡng cửa. Một người cao lớn, lực lưỡng dữ tợn. Tôi rùng mình, rợn tóc gáy… Người ấy giơ tay, vẫy một cái: tức thì một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bẩy người mặc toàn một loạt quần áo nâu, lần lượt theo sau, bước vào… Tôi thấy chân tay tôi run lẩy bẩy, trống ngực đánh thình thình… Quay lại nhìn Độ-Bộ để định hỏi ý kiến, thì ông không phải là ông bạn già thường nhật nữa, mà rõ ra một vị Samourai quả quyết sắp xuất trận: mắt ông không chớp, chăm chăm nhìn tên “cát-két”, tay trái chống cạnh sườn, tay phải, quấn chiếc “mùi xoa”, cầm con giao con giơ lên trước ngực, trông có vẻ mãnh liệt uy phong.
Bây giờ đọc những dòng này, ta tưởng không có gì đặc biệt, thật ra, từ lối viết du dương trầm bổng trong Tố Tâm “Những khi canh tà giăng xế, khi mưa sa trước cửa” cách đấy vài năm, đến giọng tả chân bí hiểm trong Kong-Ko Đai-Jin: “một cái bàn tay to, đen, đương từ từ mở cánh cửa, rồi thò vào cái đầu đội mũ cát-két, che kín mắt“, Khái Hưng đã thực hiện một bước tiến lớn lao. Và tôi chắc chắn Khái Hưng đã đọc Hồ Biểu Chánh. Nghệ thuật mô tả của ông thực sành sỏi: thay vì viết bẩy người mặc áo nâu, ông đếm: “một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bẩy người mặc toàn một loạt quần áo nâu”. Cách đếm này có tác dụng mạnh mẽ như ma só, quái đản hơn mấy chữ bẩy người mặc áo nâu rất nhiều. Khái Hưng đã nắm vững bí quyết làm người đọc giật mình. Một lối văn mới vừa xuất hiện.
Cách mở truyện bằng ca dao trong Kong-Ko Đai-Jin cũng sẽ trở lại trong Hồn bướm mơ tiên. Vì vậy, Kong-Ko Đai-Jin chính là truyện ngắn hiện đại đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn, tiếp nối cách viết Ai làm được của Hồ Biểu Chánh và Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn. Nội dung truyện ngắn này còn cho biết Khái Hưng đã từng “đi buôn sơn” với Độ-Bộ-Thất-Lang, một hiệp sĩ Samourai, từ khi chưa bước vào nghề văn; như vậy Khái Hưng quen người Nhật rất sớm. Ông biết khá sâu văn hoá Nhật Bản trong truyện ngắn Ada Kwaben, in trên Phong Hóa số 19. Sự kiện này giải thích tại sao Tự Lực Văn Đoàn thân Nhật: bởi vì Khái Hưng đã có mối liên hệ với người Nhật qua tình bạn và sự tìm hiểu nền văn hoá Nhật, từ trước khi làm báo Phong Hóa. Mối liên hệ này, về sau, sẽ bị người ta khai thác, bóp méo để buộc tội Tự Lực Văn Đoàn.
Trên Phong Hóa những số 15, 16, 17 và 18, số nào cũng có một hay hai truyện ngắn của Khái Hưng viết theo lối mới: Đi Nam Kỳ, ký T.K.H. (Trần Khái Hưng), Cái thù ba mươi năm, ký T. Khái Hưng (đây là truyện ngắn đầu tiên ký tên T. Khái Hưng), Sóng gió Đồ Sơn ký T. Khái Hưng, Cái thống đời Tống, ký T. Khái Hưng, nhất là truyện Tình tuyệt vọng ký Khái Hưng, rất nổi tiếng, nhờ bài thơ Tình tuyệt vọng Khái Hưng dịch thơ Arvers.[3]
Đặc biệt, trên Phong Hóa số 19 (27-10-1932) có truyện ngắn Ada Kwaben, mở đầu như sau:
Một giờ đêm tại Hạp-bắc. Suốt hai dẫy phố Tsin-Tsang cửa đóng kín mít. Ngoài đường tối đen như mực. Tuy thế trận không còn dữ dội như buổi sáng, song tiếng súng nghe vẫn liên thanh. Thỉnh thoảng quả trái phá rơi, làm rung động một góc thành. Theo liền tiếng tường nhà đổ, tiếng mái nhà sụp.
Với truyện ngắn này, Khái Hưng đã bỏ lại sau lưng những do dự ban đầu, ông đã hoàn thành lối viết mới của mình: chính xác, đầy tự tin, mạnh mẽ. Ada Kwaben là truyện một mối tình Hoa-Nhật bị tan vỡ vì cuộc chiến giữa hai nước, xẩy ra trong trận đánh Hạp-bắc. Văn phong sắc bén, ngắn gọn, viết về sự va chạm hai nền văn minh Hoa-Nhật, làm lộ thái độ cực đoan về danh dự và lòng yêu nước của người Nhật Bản trong động tác harakiri. Ada Kwaben, người con gái Nhật yêu kiều, vì thấm nhuần đạo đức Samurai, đã trở nên mù quáng, giết người yêu, đồng thời giết cả mối tình của nàng và mối tình giữa hai dân tộc. Ada Kwaben xác định Khái Hưng là nhà văn Việt Nam tiên phong có tác phẩm mang tính cách triết học, có tính bi đát về thân phận con người.
Sự tiến triển bút pháp của Khái Hưng trong gần 4 tháng, từ Phong Hóa số 1 (16-6-1932) đến Phong Hóa số 19, với Ada Kwaben và PH số 20, với Hồn bướm mơ tiên, là một phép lạ. Không cần hai thế kỷ như Nguyễn Mạnh Tường tiên đoán cho một nền văn học hiện đại của Việt Nam. Tự Lực Văn Đoàn do Khái Hưng khởi xướng đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt văn chương Việt Nam, trong một khoảng thời gian ngắn hơn nhiều.
Hồn bướm mơ tiên, tranh của Đông Sơn, PH số 20 Hồn bướm mơ tiên đăng trên Phong Hóa từ số 20 (4-11-1932) đến số 29 (6-1-1933) do Đông Sơn (Nhất Linh) minh họa, là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn, được Trần Thanh Mại nhiệt tình chào đón như một kiệt tác. Liền theo đó là Nửa chừng xuân, đăng trên Phong Hóa từ số 36 (1-3-1933) đến số 63 (8-9-1933). Hai tác phẩm đầu tiên của Khái Hưng và Tự Lực Văn Đoàn, sẽ làm thay đổi diện mạo nền văn chương quốc ngữ.
Khái Hưng với sức viết sung mãn, mỗi tuần ngoài những mục thường thức (nhặt sạn trên báo, dịch văn thơ, viết phê bình, xã luận, làm thơ, văn trào phúng…) còn viết ít nhất một truyện dài và một, hai truyện ngắn hay kịch. Khái Hưng không những là người anh cả về mặt sáng tác trên Phong Hóa mà còn “làm chủ” văn đàn thời bấy giờ.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Mon 26 Jul 2021, 09:19 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Hành trình của Nhất Linh
Con đường đổi mới của Nhất Linh khó khăn hơn.
Nhất Linh đã có tác phẩm in ra từ trước khi làm Phong Hóa. Tiểu thuyết Nho Phong, viết năm 1924, in 1926, trước khi ông đi Pháp du học, sáng tác theo lối cổ điển. Tiếp đến tập truyện ngắn Người quay tơ, in năm 1927, cấu trúc mới hơn nhiều, nhưng cách viết vẫn chưa dứt khỏi lối văn kể chuyện: “Tôi đương mang tấm lòng như thế, thời đến một nơi gọi là Từ Lâm”.
Và Nhất Linh đã phải vất vả lắm mới vượt qua được lối viết này.
Giết chồng… báo thù chồng, PH số 14 Nhất Linh bắt đầu sáng tác trở lại trên Phong Hoá bằng truyện trinh thám.
Giết chồng… báo thù chồng, ký tên Ngô Tâm Tư, là truyện ngắn đầu tiên, in trên Phong Hóa số 14 (22-9-1932). Để gợi sự chú ý của độc giả, bên cạnh tít, ông đề thêm ba chữ: chuyện Trinh thám với hai chú thích: (Truyện một người con gái nhà quê Annam tự đi trinh thám để báo thù chồng) và (Truyện có thật xẩy ra độ ngoài ba mươi năm nay. Lần đầu, một người đàn bà Annam đi trinh thám một cách khôn khéo nhẹ nhàng, êm thấm như không). Những lời chú này, chắc để gây sự chú ý của độc giả, nhưng lại làm giảm tính bất ngờ của truyện trinh thám.
Liệt, người phụ nữ có chồng bị giết, tìm cách trả thù: nàng tự điều tra và tìm ra hung thủ, rồi chịu làm vợ y để thu thập đủ chứng cớ đưa y vào tù. Truyện này bố cục chặt chẽ, văn phong mới hơn Người quay tơ, nhân vật nữ quyết định và hành động, nắm vận mệnh của mình, nhưng vẫn viết theo lối cổ điển: giới thiệu quê quán nhân vật bằng cách kể chuyện:
Cô [Liệt] nức tiếng là xinh nhất làng Nghi Hồng! Một làng thuộc phủ Ninh Giang, đôi khi quán sớm chợ chiều, cái sắc đẹp tươi tắn, cái vẻ duyên mặn mà của cô đã làm sêu [xiêu] lòng bao khách đi đường.
Cá tính mạnh mẽ của cô Liệt báo hiệu sự xuất hiện của cô Loan trong Đoạn tuyệt sau này, tuy nhiên Giết chồng… báo thù chồng, vẫn còn nằm trong quỹ đạo cổ điển, cả về văn phong lẫn cốt truyện.
Những truyện tiếp theo trên Phong Hóa các số 15, 16, 17, đều ký Ngô Tâm Tư, như Tiếng chó sủa (PH số 15, 29-9-32), truyện hai vợ chồng đi đào của, suýt bị kẻ gian phỗng tay trên, nhưng cuối cùng họ bầy mưu, bắt được thủ phạm. Vẫn viết theo lối kể chuyện, mở đầu bằng câu: Thôn Quan Dương là một cái thôn nhỏ dựa vào sườn đồi (…) Ở đầu thôn Quan Dương có một cái sơn trại nho nhỏ, mái danh [gianh] còn mới. Chủ cái nhà đó là một người ở nơi khác…” nhưng Ngô Tâm Tư đã tạo được không khí bí mật của trinh thám.
Truyện Cái hoa chanh (PH số 16, 6-10-32) cũng vẫn theo lối cũ, mở đầu bằng câu: “Hai vợ chồng dân kia mới lấy nhau thương yêu nhau lắm. Vợ chồng mới cùng nhau ân ái được năm ngày, thì bỗng có giấy quan về gọi người chồng ra lính đánh giặc.”
Người chồng đi lính, để vợ mới cưới ở nhà. Nàng có thai, bị gia đình chồng vu tội ngoại tình, đuổi đi. Chồng về, tin là thực. Nàng sinh một đứa bé trai, bàn tay nó nắm chặt không chịu mở. Tin đồn đến tai người chồng, chàng đến thăm, bảo: “Con ơi! con có phải là con của cha thì mở tay ra.” Đứa bé mở nắm tay, trong lòng bàn tay bé bỏng có một đoá hoa chanh. Trong truyện này, Ngô Tâm Tư muốn cách tân cổ tích, ông đưa cái hoa chanh vào như một yếu tố mới lạ, có tính cách lãng mạn hoang đường.
Đến truyện Tiếng gọi ở cõi âm (PH số 17, 13-10-1932), Ngô Tâm Tư đã tiến dần vào lối viết hiện thực, đã tạo được không khí âm u, ma quái. Nhân vật chính vẫn là tôi, một người kể chuyện, nhưng cái tôi này đã trở thành một nhân vật, đến viếng một người bạn mới chết, thắt cổ tự tử. Mẹ bạn cho biết: Vì bà nội chết phải giờ “trùng” nên bà “về” gọi cháu theo. Không tin dị đoan, tôi bèn ở lại, điều tra. Đêm hôm đó, có tiếng gọi “cháu ơi” ngoài cổng, bà mẹ và cô con gái cực kỳ sợ hãi:
Người con gái, mặt tái ngắt, nhìn mẹ, thở không ra hơi, kêu rú lên như để trả lời tiếng gọi ngoài ngõ! rồi vùng tay ra, bước nhanh ra cửa: một bóng trắng thoáng qua sân, một tiếng động ngoài ngõ.
Trong nhà người mẹ ngã gục xuống phản, giơ hai tay như với lấy bóng cột, kêu lên một tiếng rồi ngất đi. Tôi vùng đứng dậy, một tay cầm lấy cây đèn, một tay giắt con giao [dao] con, lên tiếng gọi người nhà. Không ai trả lời, tôi chẳng nghĩ gì nữa, bước nhanh ra ngoài sân, chạy ào ào làm ngọn đèn lung lay nhìn không rõ. Ngoài cổng như có tiếng người ngã.
Đến nơi, trong bóng tối, tôi thoáng thấy có vật gì trăng trắng nằm dài ở bực cửa. Tay phải cầm chắc con giao, tay trái cầm cây đèn rơ [dơ] lên soi. Người con gái nằm sấp trên mặt đất như cái thây chết. Dưới mái tóc rũ rợi, một giòng máu đen chẩy lai láng ra đất. Tôi trông thấy giật nẩy mình, cây đèn cầm ở tay rơi xuống vỡ tan. Giời tối đen lại, tôi trông ra ngõ, không thấy ai, mà có tiếng người gọi “cháu ơi” ngay ở ngoài ngõ. Hay là tôi mê hoảng chăng? Không có lẽ nào không có người mà có tiếng gọi được. Tôi định tâm, tay cầm vững con giao, mở phăng cổng nhìn ra, tứ phiá vắng vẻ, không thấy một bóng người, một luồng gió lạnh thổi qua làm tôi rùng mình sởn óc…
Tôi trở vào, nhắc đầu người con gái xem thì hơi thở đã lạnh, lúc tôi ngửng lên toan gọi người nhà, thấy một con mèo đen to ngồi lù lù trên mái cổng.
Ngô Tâm Tư đã tạo được lối viết hiện thực của riêng ông, sự mô tả đã nhuần nhuyễn trong phong cách pha trộn giữa truyện ma và trinh thám. Ngô Tâm Tư không giải thích, nhưng làm cho ta hiểu: con ma, thật ra chỉ là con mèo; tiếng mèo kêu trong đêm giống hệt tiếng người, làm kinh hoảng hai mẹ con đã bị thần hồn nát thần tính. Người con gái, hoảng chạy, tay cầm dao, ngã sấp lên lưỡi bén mà chết. Tiếng gọi ở cõi âm là một thành công.
Vẫn viết tiếp trinh thám, nhưng Nhất Linh đổi tên, kể từ Phong Hóa số 24 (2-12-32), ông bắt đầu loạt truyện ký tên Bảo Sơn, với truyện ngắn Con hai bố: Người mẹ trước khi chết viết thư kể lại cho con biết người bố không phải là bố ruột. Sự bí mật này dẫn đến những tình cảnh éo le, khó giải quyết. Tiếp theo là Vết máu… (PH số 26, 6-12- 32), truyện một ông huyện điều tra cái án giết người với lập luận sắc bén và hợp lý.
Truyện trinh thám của Nhất Linh có sắc thái đặc biệt, chặt chẽ, lô-gic, hay hơn trinh thám của Thế Lữ rất nhiều. Nhưng sau đó ông ngừng, không viết trinh thám nữa. Tại sao?
Tôi tạm giải thích như sau: bởi vì Thế Lữ gửi đăng truyện ngắn Thây ma xuống thang gác, in trên Phong Hóa số 27 (23-12- 1932), nên Nhất Linh thấy đã có người “thay thế” mình, nên ông bỏ trinh thám, từ sau truyện Vết máu… đăng trên Phong Hoá số 26.
Nhất Linh là giám đốc Phong Hóa, ông đã nhìn thấy: muốn thu hút độc giả, phải có gì lôi cuốn, và không gì lôi cuốn hơn truyện trinh thám, nhất là lúc bấy giờ Sherlock Holmes của Conan Doyle đang làm mưa gió trên thị trường trinh thám toàn cầu. Phạm Cao Củng cũng là một trong những cây bút trinh thám thời đó. Ông viết trinh thám theo lối phân tích tâm lý, tìm hiểu môi trường xã hội, dùng lời khai của nhân chứng để giải mã bí mật, kiểu Georges Simenon (Simenon đã từng đến sở liêm phóng 36, Quai des Orfèvres ở Paris, để học nghề), nên truyện của Phạm Cao Củng rất giá trị. Nhất Linh có mời Phạm Cao Củng, nhưng không hiểu vì lý do gì, ông chỉ tham gia mục Giòng nước ngược, ký tên Phạm Thị Cả Mốc, thỉnh thoảng làm thơ xướng họa cùng Tú Mỡ. Phải đến Phong Hóa số 187 (15-5-1936) Phạm Cao Củng mới xuất hiện lần đầu trên Phong Hóa với Chiếc tất nhuộm bùn.
Trở về cuối năm 1932, khi Thế Lữ gửi truyện Thây ma xuống thang gác đến Phong Hóa, chắc Nhất Linh thấy trúng ý mình nên đăng ngay.
Bỏ truyện trinh thám sang truyện tình cảm
Khi đã có người viết trinh thám thay mình, Nhất Linh mới chuyển sang truyện tình cảm. Vì vậy, liên tiếp trên hai số Phong Hóa 28 (30-12-32) và 29 (6-1-33) có truyện ngắn Nước chảy đôi giòng và Cô áo tím ký tên Bảo Sơn, rất lãng mạn: Nước chảy đôi giòng kể chuyện Lê Sinh, tình cờ đi đò đêm, gặp người con gái chèo đò xinh đẹp, chàng say đắm tỏ tình… Mười năm sau, chàng đã có vợ con, tình cờ lại gặp nàng trên một chuyến đò, nàng cũng đã có chồng, con… “Lê Sinh bùi ngùi, cúi mặt ngắm giòng nước chẩy, ngắm mấy cái rác trôi theo giòng nước, tan tác mỗi cái trôi về một phía… khác nào hình ảnh cuộc đời của Lê Sinh với cuộc đời của người con gái chở đò, mỗi bên đi về một ngả, không bao giờ gặp nhau“.
Truyện Cô áo tím, cũng trong không khí thơ mộng: mấy cậu thanh niên rủ nhau đi chùa Bút Tháp, xem tượng. Có một bức tượng gỗ đẹp tuyệt trần, làm các cậu xao xuyến tâm hồn. Ra cửa, lại gặp một người con gái mặc áo tím cùng mẹ đi vãng cảnh chùa, nàng đẹp giống như bức tượng… Truyện Cô áo tím có hậu, vì người đẹp sẽ làm vợ một chàng trong bọn. Tuy nhiên hai truyện ngắn này, tuy văn hay, nhưng tâm lý hời hợt, đánh dấu việc Nhất Linh bỏ truyện trinh thám để bước vào địa hạt tình cảm, đúng lúc Phong Hóa đã đăng xong Hồn bướm mơ tiên và sắp đăng Nửa chừng xuân của Khái Hưng.
Thêm một sự kiện đáng chú ý nữa là trên Phong Hóa số 31 (24-1- 33) số Xuân, có truyện ngắn Dưới bóng hoa đào của Khái Hưng và Bảo Sơn viết chung, lần đầu. Truyện này hay hơn hai truyện trước của Bảo Sơn. Sau đó, Bảo Sơn viết Bóng người trên sương mù (PH số 32, 3-2-33) trên nền cổ tích, rất thành công; cùng với Hồn hoa (PH số 32) và Gái vùng lim (PH số 33, 10-2- 33) cả hai vào loại trung bình.
Đến Phong Hóa số 37 (10-3-33) có Nắng mới trong rừng xuân, bắt đầu khởi sắc, truyện người con gái bị bệnh lao, trốn người yêu về quê. Người yêu từ Hà Nội về thăm. Biết mình sắp chết, chỉ có một ngày đi chơi với chàng, nàng đã sống hết mình. Sau này Nhất Linh sẽ mở rộng và đào sâu đề tài này trong Bướm trắng.
Những truyện ngắn trên đây, đều có không khí tình yêu nhẹ nhàng lãng mạn, Bảo Sơn chưa thay đổi được chủ đề và cách viết, nên sau Nắng mới trong rừng xuân, ông trải qua một thời kỳ bế tắc: ngừng viết truyện ngắn, chuyển sang làm thơ và viết tiểu luận.
Bắt đầu trên Phong Hóa xuân (số 31, 24-1-33), với hai bài thơ mới, Gượng vui và Cái vui ở đời ký tên Tân Việt. Đến số PH 36 (1-3-33) có bài thơ Im lặng ký tên Tân Việt, và bài tiểu luận Thế nào là thơ mới ký tên Nhất Linh. Thơ cũng bình thường, tiểu luận không có gì đặc sắc, vì Nhất Linh không rành lý thuyết thơ. Trên PH số 38 (17-3- 33) lại có bài thơ dài Hai thế giới ký tên Nhất Linh, cảm hứng từ truyện Mực tầu giấy bản của Khái Hưng về hai thế giới cũ, mới.
Vì bài thơ xã luận Dân quê (PH số 39, 24-3- 33) ký tên Tân Việt, tố cáo đời sống tối tăm của dân quê, Phong Hoá suýt bị đóng cửa, nên Nhất Linh quyết định không làm thơ nữa.
Trong vòng một năm, kể từ tháng 3-1933 đến tháng 3-1934, ông chỉ viết thêm có ba truyện ngắn, ký tên Bảo Sơn, đó là: Đầu đường só chợ (PH số 51, 16-6-33) viết theo lối hiện thực xã hội, tả cảnh nghèo đói, khá vụng về vì không phải sở trường của ông; Tháng ngày qua (PH số 52, 23-6-33) và Ngày thu… (PH số 52, 23-6-33) hai truyện tình cảm lãng mạn, không khí cũng giống những truyện đã viết trước.
Không hiểu chuyện gì đã xẩy ra?
Ta chỉ có thể phỏng đoán: Nhất Linh bị bế tắc. Và Khái Hưng đã cầm tay đưa bạn trở lại bàn viết, bằng cách viết chung với Nhất Linh. Cho nên, sau khi Nửa chừng xuân vừa chấm dứt ở Phong Hóa số 65 (22-9-33), người ta thấy trên PH số 66 (29-9-33) xuất hiện tiểu thuyết Gánh hàng hoa của Khái Hưng và Bảo Sơn. Và khi Gánh hàng hoa chấm dứt ở số 88 (9-3-34), liền sau đó, lại thấy Đời mưa gió của Khái Hưng và Nhất Linh, đăng trên Phong Hóa số 89 (16-3-34) đến số 112 (24-8-34).
Tôi cho rằng sự viết chung này đã giúp Nhất Linh thoát khỏi lối kể chuyện cổ điển để nhập vào tiểu thuyết hiện đại. Nhiều người không tìm hiểu kỹ, lại tưởng Nhất Linh là tác giả chính của hai tập truyện này. Nhưng nếu để ý ta sẽ thấy, về tư tưởng, Liên trong Gánh hàng hoa gần gũi với tâm hồn cao thượng và sự hy sinh hạnh phúc cá nhân của Lan, Mai trong Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân hơn là sự tranh đấu cho tự do và hạnh phúc cá nhân của Loan, Nhung, trong Đoạn tuyệt, Lạnh lùng. Đến truyện Đời mưa gió, Tuyết thể hiện sự tự do toàn diện từ thân xác đến tâm hồn, hòa hợp tư tưởng tuyệt vời giữa hai ngòi bút Khái Hưng Nhất Linh, chúng ta có một tuyệt tác.
Nguyễn Vỹ là người biết sự “bí mật” này, ông kể lại như sau:
Trong thời gian này [tức là thời gian dạy ở trường Thăng Long], Nguyễn Tường Tam cũng có viết tiểu thuyết trong Phong Hóa với bút hiệu Nhất Linh, nhưng phải nhờ Khái Hưng sửa chữa nhiều. Những tác phẩm song hành ấy đều ký cả hai tên: Khái Hưng và Nhất Linh, theo lời Nguyễn Tường Tam nói với tôi. Cũng một đôi quyển truyện của Nguyễn Tường Tam đã được Khái Hưng sửa lại, nhưng Khái Hưng không đề tên mình. Nguyễn Tường Tam, Cử nhân khoa học, bắt đầu viết tiểu thuyết dưới sự hướng dẫn của nhà văn Khái Hưng.[4]
Và sau khi Đời mưa gió ký tên Khái Hưng và Nhất Linh chấm dứt trên PH số 112 (24-8-34), Nguyễn Tường Tam, lần thứ hai ký tên Nhất Linh, dưới truyện vừa Nắng thu, in trên Phong Hóa số 113 (31-8-34), một truyện khá tầm thường; nhưng đến Phong Hóa số 124 (16-11-34), tiểu thuyết Đoạn Tuyệt ra đời, một thành công lớn. Bắt đầu một giai đoạn mới của Tự Lực Văn Đoàn.
Thế rồi một buổi chiều
Nhưng trước khi có Đời mưa gió ký tên Nhất Linh và Khái Hưng, Nguyễn Tường Tam đã viết truyện Thế rồi một buổi chiều, ký tên Nhất Linh, mà tập I được in thành phụ bản PH số 91, 30-3-34. Đây là lần đầu tiên người ta thấy tên Nhất Linh ký dưới một truyện vừa, như muốn xác định: ông đã tìm thấy đường đi của mình.
Thế rồi một buổi chiều, phụ trương PH số 91 Sự kiện Nguyễn Tường Tam ký tên Nhất Linh dưới truyện Thế rồi một buổi chiều, một năm rưỡi sau khi in truyện ngắn đầu tiên Giết chồng… báo thù chồng (PH số 14, 22-9-1932), cần được tìm hiểu. Sự thể có lẽ như thế này: trong một thời gian dài, ông ký tên Ngô Tâm Tư, rồi Bảo Sơn, vì thấy mình vẫn chưa bỏ được lối viết cổ điển. Thế rồi một buổi chiều ra đời, đánh dấu việc Nhất Linh đã thoát cổ điển.
Tác phẩm bắt đầu như sau:
Lê Dũng rảo bước trên con đường làng.
Ban trưa, đường vắng, tiếng gió thổi kẽo kẹt trong những rặng tre già lẫn với một vài tiếng gà gáy xa xa đưa lại và tiếng trong trẻo của mấy đứa trẻ nô đùa dưới ánh nắng ấm áp. Dũng cắm đầu bước liều, tuy chàng vẫn biết rằng lần này khó lòng mà thoát được: từ nửa đêm đến giờ chàng đã chồn chân, đi hết làng này sang làng khác, nhưng không có một nơi nào để chàng tạm ẩn.
Bên đường, cạnh mấy gốc thông già, mấy người con gái súm quanh một cái giếng khơi đương kéo gầu lấy nước. Dũng khát ráo cả cổ, nhưng vẫn không giám ngừng lại xin nước uống, sợ người ta nhận biết mặt mình. Chàng cắm đầu đi, văng vẳng nghe sau lưng tiếng gió reo trong rặng thông, tiếng cười nói của mấy cô con gái và tiếng nước trong chảy từ gầu xuống giếng sâu.
Lời văn giản dị mà sâu lắng, có hồn. Bỏ tôi, bỏ lối kể chuyện, Nhất Linh thực sự bước vào tiểu thuyết hiện đại với những dòng quốc ngữ trên đây: Dũng hiện ra, trong bối cảnh làng quê yên bình, thơ mộng, nhưng lòng chàng nổi sóng. Một cuộc đối chất triền miên: giữa nội tâm và ngoại cảnh; giữa những đứa trẻ và những cô gái quê hồn nhiên, vô tội, với Dũng, một thanh niên bị ruồng bắt, có tội. Nhất Linh mô tả một Dũng, cách mạng, đang trốn, mà không dùng một chữ nào lộ liễu, liên quan đến kháng chiến. Nói mà không nói. Những lời vô âm này, chỉ người Việt đọc mới hiểu. Kiểm duyệt Pháp không hiểu. Dũng đi trốn cũng là Nhất Linh đi trốn. Nhưng ở đây, Nhất Linh không kể chuyện “tôi đi trốn” như thế nào, mà ông để những cử chỉ và suy nghĩ của Dũng làm việc đó. Nhất Linh đã “vào trong” Dũng. Ông đã nhập tiểu thuyết hiện đại. Dũng sẽ trở thành nhân vật chính trong Đoạn tuyệt và Đôi bạn.
Những truyện ngắn khác viết từ trước đến giờ, Ngô Tâm Tư và Bảo Sơn vẫn chỉ kể lại những câu chuyện khác nhau, dưới hình thức trinh thám hoặc tình cảm, cho nên chưa được “công nhận”. Chỉ khi Nguyễn Tường Tam thấy mình đã hoá thân trong nhân vật, ông mới ký tên Nhất Linh. Sự ký tên này như để nói: Tôi bây giờ mới đích thực là nhà văn Nhất Linh. Việc này không dễ dàng, bởi có nhiều nhà văn suốt đời không ra khỏi cái tôi kể chuyện.
Thế rồi một buổi chiều là tác phẩm đầu tiên Nhất Linh hoàn toàn thoát khỏi cổ điển, bước vào hiện đại. Dũng bị lùng bắt, cùng đường, chạy vào chùa sư nữ, được ni cô giấu ở gác khánh sau chùa. Mối tình giữa ni cô và Dũng, có chút ảnh hưởng Hồn bướm mơ tiên.
Nhưng sự khác biệt sâu xa giữa Khái Hưng và Nhất Linh đã lộ rõ trong tác phẩm nhỏ bé này: Khái Hưng nhìn ra ngoài, nhìn vào người khác để nhận xét con người, với đôi mắt đầy thương cảm, ông đưa ra những mẫu người hy sinh, chịu đựng. Nhất Linh nhìn mình, nhìn vào nội tâm của mình để viết, để tìm cách cho cá nhân thoát khỏi sự tù hãm của xã hội lỗi thời. Sự khác biệt sâu xa giữa hai nhà văn này là như thế. Nhưng từ Hạnh và Bướm trắng, Khái Hưng và Nhất Linh lại đi cùng một con đường, nghiã là cùng chĩa ngòi bút vào nội tâm con người.
Ở những bước đầu, Khái Hưng đã cầm tay, hướng dẫn Nhất Linh ra khỏi lối viết cổ điển. Tới đây ta mới hiểu được tại sao Nhất Linh “cho” Khái Hưng người con trai thứ hai của mình, như một ân tình, một cảm tạ, bởi vì sự hòa hợp giữa hai người đã trọn vẹn, trong tác phẩm. Mà tác phẩm là phần tinh túy nhất của con người.
(Còn nữa)
Thụy Khuê
[1] Nam Phong số 18 (tháng 12-1918).
[2] Kong-Ko Đai-Jin (Konkokyo) là tên một đạo mới, do Bunjiro Kawate (1814-1883) thành lập năm 1859, thoát thai từ Thần đạo.
[3] Đi Nam Kỳ, ký T.K.H. (Trần Khái Hưng) và Cái thù ba mươi năm, ký T. Khái Hưng, in trên PH số 15 (29-9-1932); Sóng gió Đồ Sơn ký T. Khái Hưng (in lại trong Anh phải sống) trên PH số 16 (6-10-1932). Cái thống đời Tống, ký T.Khái Hưng, trên PH số 17 (13-10-1932). Tình tuyệt vọng, ký Khái Hưng trên PH số 18 (20-10-1932).
[4] Nguyễn Vỹ, Văn thi sĩ tiền chiến, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1969, trang 129.
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Thu 29 Jul 2021, 07:38 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Hoàng Đạo
Là cây bút tài hoa nhất trong ba anh em Nguyễn Tường: viết gì cũng được, viết hay ngay từ đầu, không cần qua thời kỳ “luyện văn”, Hoàng Đạo thản nhiên bước vào lối viết hiện đại, ngay trong truyện ngắn đầu tay Nùng Chi Lan ký Tòng Lương, đăng trên Phong Hóa số 14 (22-9-32), câu đầu như sau:
“Đêm đã muốn tàn. Trong rừng sâu, dần dần sáng rõ. Bến đò yên lặng, chỉ nghe thấy tiếng chim xa gõ mõ, giọt sương nặng rơi ty tách” đã mở ra một bối cảnh thơ mộng khác thường, thiên nhiên đậm hồn nhân sinh, thoát xa cổ điển; kèm sự cách tân ngôn ngữ rất đặc biệt của người làm thơ, nhờ chữ muốn. Hoàng Đạo không viết: “Đêm đã tàn“, để chỉ một trạng thái, mà ông viết: “Đêm đã muốn tàn,” để chỉ một hành động, tức là ông đã biến đêm thành một chủ thể sống động như con người. Rồi câu kế tiếp: Trong rừng sâu, dần dần sáng rõ, không “đúng văn phạm”, đáng lẽ phải viết: “Trong rừng sâu, trời dần dần sáng rõ”, nhưng ông đã bỏ chữ trời đi, lại cũng là một thủ pháp của thơ. Vì không có trời, nên ta không biết ánh sáng từ đâu tới, ai rọi, không khí trở thành bí mật hoang đường, đúng hệt như những gì ta cảm nhận khi bước vào rừng sâu. Nếu Hoàng Đạo tiếp tục viết truyện ngắn thì chưa biết, lối sáng tạo câu, chữ của ông sẽ đưa văn chương tới đâu.
Nùng Chi Lan ký tên Tòng Lương (Tường Long nói lái), tuy cốt truyện còn thô sơ, nhưng nhiều câu văn như thơ, đẹp lạ lùng, ý tưởng lại rất bạo, rất mới, với những câu: “tôi thương cô, tôi yêu cô” hay “Chàng hồi tưởng lại cái môi thoa son… mà ngậm ngùi nhớ tiếc…” ở vào thời điểm ấy, viết như thế là “sexy” lắm.
Bông hoa thủy tiên
Trên Phong Hóa số 31 (24-1-1933), số báo Xuân đầu tiên, do Tự Lực Văn Đoàn đặt ra, có truyện ngắn Bông hoa thủy tiên của Tứ Ly, ít ai để ý, nhưng là truyện ngắn tân kỳ nhất của Tự Lực Văn Đoàn và của văn học Việt Nam lúc bấy giờ.
Bông hoa thủy tiên là một bài thơ trong không gian liêu trai Lưu Nguyễn. Tứ Ly giao hòa kỷ niệm với hiện thực. Đêm ba mươi Tết, Vân sinh đứng cạnh giò thủy tiên chàng vừa tỉa xong ban chiều, sực nhớ lời Lê Dung dặn sau giao thừa nhớ đến xông nhà nàng:
… [C]hàng liền khoác áo tơi mở cửa bước ra. Cơn gió mạnh làm chàng rùng mình.
Chàng đi theo mấy giãy phố vắng tanh, lần đến nhà Lê Dung. Bước vào cái cổng ngỏ, chàng không thấy hai chậu hoàng lan ở bên ngõ mà chàng thường đứng xem. Hơi lấy làm lạ, chàng định kiến nhìn kỹ lại cảnh vật chung quanh, giật mình lẩm bẩm: “có lẽ ta nhầm… không phải nhà Lê Dung.”
Nhưng con đường sỏi chàng đang đứng như chàng đã qua lại nhiều lần rồi. Chàng ngửng đầu lên nhìn qua mấy cây tường vi lá lăn tăn, thấy một toà nhà trắng chung bóng in xuống dưới cái ao bán nguyệt trước mặt, lung linh như thực như hư. Chàng sực nhớ rằng xưa kia chàng đã từng vin cành tường vi hái hoa, tắm mát ở dưới ao nước trong, liều giảo [rảo] bước lên thềm, đi qua một giẫy lan can bằng xứ, chàng vừa định gõ cửa vào, thì cánh cửa từ từ mở ra…”
Những gì Vân sinh đang sống trong giây phút này, là mộng hay thực, không thể biết được, vì sự pha trộn thực mộng ở đây đã nhuần nhuyễn đến mức thượng thừa: Chàng đi theo mấy giãy phố vắng tanh, không biết là chàng có đi thật, hay chỉ đi trong mộng du; bởi vì đã bước vào cổng ngõ nhà Lê Dung rồi, mà chàng không thấy hai chậu hoàng lan, rồi chàng định kiến lại, và tự hỏi hay là ta nhầm?
Tiếp theo đó, chàng lại gần như chắc chắn: con đường sỏi chàng đang đứng như chàng đã qua lại nhiều lần rồi, vậy con đường này nằm trong trí chàng chứ không phải là con đường thật. Rồi đến quang cảnh tiếp theo, khi chàng ngửng đầu lên nhìn qua mấy cây tường vi lá lăn tăn, thấy một toà nhà trắng chung bóng in xuống dưới cái ao bán nguyệt trước mặt, lung linh như thực như hư thì đúng là hư ảo, bởi vì chàng sực nhớ rằng xưa kia chàng đã từng vin cành tường vi hái hoa, tắm mát ở dưới ao nước trong. Sự giao thoa thực ảo tài hoa và tế nhị như vậy chỉ có thể từ bàn tay một bậc thày chữ nghĩa, nhưng không, đó là từ ngòi bút của người thanh niên viết truyện ngắn lần thứ nhì trong đời.
Khó có thể hiểu, mới vài năm trước, tiếng Việt còn ở mức “từ đây sẽ vắng tanh tin nhạn,” mà bây giờ, Tứ Ly thao túng chữ nghĩa như vào chốn không người.
Nói rõ hơn, trong Bông hoa thủy tiên, Tứ Ly đã dùng thứ chữ nước đôi để ảo hóa một cảnh thực và thực hóa một cảnh ảo: Vân sinh tưởng đã đến nhà Lê Dung, bước qua cái cổng ngỏ, chàng không thấy chậu hoàng lan, bèn nhìn kỹ chung quanh, lẩm bẩm: ”có lẽ ta nhầm…,” nhưng trí nhớ cãi lại: con đường này ta đã qua lại nhiều lần. Rồi chàng nhìn xuyên qua đám tường vi, thấy một toà nhà trắng in hình dưới ao bán nguyệt. Tất là mơ rồi. Nhưng không. Trí nhớ lại mách: xưa ta đã từng vin cành tường vi hái hoa, ta đã từng tắm mát dưới ao nước trong… Ở đây, tưởng tượng giao hòa với thực cảnh, quá khứ lồng trong hiện tại, tạo ra một không gian tuyệt vời, đắm say, mê sảng. Chúng ta vừa bị lôi cuốn theo Vân Sinh vào khung cảnh mơ màng, hư hư thực thực trên cung quảng với những mỹ nữ dạo khúc nghê thường, nhưng chỉ một thoáng sau, những nàng tiên trở lại thực thân, chỉ là đoá thủy tiên vừa nở thành tiên nữ. Thần tiên. Mộng ảo. Đừng tỉnh lại. Đừng hỏi: có thật không? Hỏi vậy là vô ích, bởi lúc nào quá khứ cũng sống trong hiện tại, nhắc ta cảnh ấy, cảnh nọ, ta đã trải qua, không kiếp này thì kiếp trước…
Bông hoa thủy tiên chính là truyện Tú Uyên Giáng Kiều, trong tiếng Việt hiện đại của Tự Lực Văn Đoàn, mà Tứ Ly vừa sáng tạo, cũng là truyện ngắn huyền ảo (fantastique) hiện đại đầu tiên của nước ta, viết trước Nhập Thiên Thai của Vũ Khắc Khoan hơn hai mươi năm; thanh thoát, tế nhị, không lời lẽ cầu kỳ, lập luận phiền phức như Khoan tôi, cũng không kiểu cách như Marquez máu mê, tàn bạo.
Tiếc rằng tác phẩm sau in lại trong tập Tiếng đàn (1941) đã bị sửa hoàn toàn, trở thành một truyện ngắn hiện thực, bằng cách thêm vào đầu truyện một đoạn rất dài, viết về Vân: ngồi trong nhà một đêm giao thừa, bên bàn thờ khói hương nghi ngút, Vân rất yêu hoa thuỷ tiên, chàng chọn hoa như thế nào, ủ hoa như thế nào, v.v… thừa thãi và thiếu nghệ thuật. Cái tựa Bông hoa thủy tiên bị đổi thành Hoa thủy tiên, tức là đổi một bông hoa thuỷ tiên đã nở ra các nàng tiên thành hoa thủy tiên chung chung, không có nghĩa gì. Vân sinh [người học trò tên Vân] bị đổi thành Vân và Lê Dung đổi thành Dung; và mở đầu truyện bằng câu:
Vân ngồi yên lặng để sự bình tĩnh thấm vào người. Điếu thuốc lá hút dở để trên đĩa sứ bốc khói lên thành vệt xanh lam….
Trong khi Bông hoa thủy tiên bắt đầu bằng câu:
Vân sinh mở cửa sổ cho khói pháo bay ra. Trời tối, hai dẫy phố mầu đen sẫm in lên vùng trời sâu thẳm.
Những sự thay đổi này làm mất tính cách liêu trai trong tác phẩm, biến một truyện có tính cách tiên phong đầy chất sáng tạo trở thành bình thường như các truyện ngắn cùng thời. Tôi không nghĩ Hoàng Đạo làm, vì năm 1941, Hoàng Đạo đã phải trốn, rồi sau bị bắt. Vậy Thạch Lam làm chăng? Không có lẽ, vì Thạch Lam sành văn, và lúc đó ông đã chớm lao rồi. Sau này, nếu có dịp in lại truyện này, ta nên lấy lại bản gốc trên Phong Hóa số 31 (24-1-33).
Phong Hóa số 34 (17-2-33) có truyện Cánh buồm trắng của Tứ Ly, viết theo lối tình cảm lãng mạn, nhẹ nhàng mà sâu sắc. Nhưng sau đó, không thấy ông viết tiếp, mãi tới báo Ngày Nay, mới có thêm vài truyện ngắn nữa.
Tứ Ly có làm ít nhất một bài thơ, trên Phong Hóa số 32 (3-2-33). Bài thơ mới rất dài tựa đề Trên sông Đáy, lấy người kỹ nữ bến Tầm Dương của Bạch Cư Dị làm phông cho một buổi hát cô đầu bên sông:
Đêm hôm ấy trăng trong vừa mọc Cảnh trăng thu như cảm xúc tới hồn thơ Hai anh em giạo gót thẫn thờ Kìa đã đến bên bờ sông Đáy Theo giòng nước gió thu hây hẩy Như vàng gieo, gợn chạy lăn tăn. Bên nhịp cầu mấy chiếc thuyền nan, Nằm ngủ ở dưới bóng trăng êm ái.
Nghe ca nương than thở thân phận tủi hổ của mình, hai người khách cũng là hai anh em (Hoàng Đạo, Nhất Linh chăng?) khuyên nàng đừng buồn vì thời nay ca hát không còn là cái nhục. Tuy là thơ “tuyên truyền” (ca nương thấy báo chí kêu gào “ngũ luân, ngũ thường” mà đời nàng không có gì hợp với luân thường cả, hai anh em bèn lựa lời khuyên giải) nhưng lời thơ đẹp, nhạc và ý hay hơn thơ Tân Việt (Nhất Linh) và thơ Phạm Huy Thông lúc bấy giờ.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Wed 04 Aug 2021, 08:53 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Tuồng cổ tân thời
Nhất Linh chủ trương một tờ báo hài hước, nhưng ông không viết được hài hước, Thạch Lam cũng không có óc khôi hài. Khái Hưng có duyên hơn. Tú Mỡ làm thơ hài hước chuyên nghiệp, bài bản, đọc qua vài bài là thấy chán. Tất cả mới lạ trong tiếng cười, dựa trên vai hai người: Hoàng Đạo trong văn và Nguyễn Gia Trí trong tranh. Cả hai đều có óc sáng tạo phi thường. Nguyễn Gia Trí sẽ nói đến sau. Tác phẩm hài hước có giá trị trong thời kỳ đầu tiên này là của Tứ Ly với Tuồng cổ tân thời.
Tuồng cổ tân thờí, PH số 38 (17-3-1933)
Tuồng cổ tân thời, in trên 5 số Phong Hóa, bắt đầu từ Phong Hóa số 38 (17-3-1933), đến số 42 (4-4-33), sau này bị Thanh Lãng lên án với những lời tàn tệ: “Nhưng không ở đâu Hoàng Tăng Bí và Nguyễn Khắc Hiếu được mô tả một cách tồi tàn, gàn dờ, quê kệch, nhất là đê hèn như trong vở tuồng “Tuồng cổ tân thời” (Xem chương Sự tiếp nhận Tự Lực Văn Đoàn).
Thực ra, đây là một tác phẩm độc đáo, soạn theo lối tuồng cổ, mô tả trận thư hùng Tân-Cổ giao tranh: Một bên Hoàng tiên sinh oai phong lẫm lẫm, một bên là bọn Phong Hóa nhố nhăng nổi loạn. Các vị tiền bối thua trận, chạy có cờ.
Không phải Tứ Ly viết tuồng hú họa mà chơi, đây là một vở tuồng có nghiên cứu đàng hoàng. Khái Hưng đã từng cho rằng: viết kịch là khó, khó nhất trong mọi thể loại, vì tất cả đều ngụ trong lời nói. Viết tuồng có lẽ khó hơn, và viết Tuồng Cổ, tức Hát Bội, còn khó hơn vạn bội. Vậy mà người thanh niên Tây học này, dám xông vào Tuồng Cổ. Tức là ông phải nghiên cứu kỹ về tuồng cổ.
Tuổng cổ hay hát bội có hai điệu: một là cách nói và một là cách hát.
Cách nói cũng lại có hai điệu:
Hường là những câu nói chính, phải thét to, đặt theo thể nói lối.
Tán là những câu phụ, đệm cho những câu hường, nói nhỏ, đặt theo thể văn xuôi.
Cách nói dùng vào những việc sau đây:
– Giáo đầu: lời mở đầu của trùm phường, chào khán giả, tóm lược câu chuyện.
– Xưng danh.
– Nói chuyện hoặc kể việc.
Cách hát, cũng có hai điệu: hát Nam và hát Bắc.
Hát Nam câu làm theo thể thơ song thất lục bát, thể văn riêng của ta.
Hát Bắc, là những câu làm theo thể thơ, thể phú mượn của người Tầu.
Hát Bắc dùng để đặt các câu: Bạch (lời nói của một vai mới ra trò, làm theo thể thơ), Loạn (câu bổ ý, làm theo thể thơ hoặc phú), Xướng (trần tình) làm theo thể phú, Than (tỏ tình bi ai, làm theo thể thơ. Ngâm (là bài thơ, một vai đọc ra để tỏ tình mình)[1]
Hoàng Đạo đã sáng tác vở tuồng cổ này theo đúng quy luật phức tạp của hát bội, và có lẽ ông muốn nhại vở tuồng cổ Tân diễn Đệ bát tài tử hoa tiên ký của Hoàng Tăng Bí.
Sân khấu mở vào dinh cơ cụ Hoàng[2] với hai vị tham mưu Tả Vĩnh, Hữu Hiếu, và mấy tên lâu la. Dưới đây xin chọn mấy trích đoạn:
Chủ trại Hoàng Tăng Bí ra ngồi nghĩ việc quan.
Chủ trại ngồi bạch tán: “Như ta nay: Hồng Hoàng chủ trại, tên gọi Hoàng Tăng. Nặng đôi vai gánh chữ nho phong, bền một dạ ghi điều cổ lễ.”
Thét: Nhưng rứa mà, đất bằng nổi sóng, gây việc can qua, Phong Hóa đâu mới nẩy nòi ra, đem hết thẩy mọi người công kích, đặng làm trò múa rối vui chơi. Văn ta hay, cứ chế rỡn hoài, không hề thấy một lời khen tặng. Cười nhạt, nói: ha ha! Thét hường: một đầm mấy con cá lớn, xổ lầu ngại lúc voi xô.
Tán: Rứa như ta, từ thủa múa cây bút sắt, dư luận cầm cân, trong cẩm nang sẵn có mưu thần, trừ Phong Hóa âu ta phải dụng a!”
Và đây là chân dung Nguyễn Văn Vĩnh:
Tả tham mưu Nguyễn Văn Vĩnh ra bạch:
Người đời thay ý kiến, như chong chóng quay- quay thế mà nghĩ cũng hay hay; tít mù tắt hết ngày hết tháng.
Tán: Ta tên Văn Vĩnh, chủ báo Annam, đường văn minh đi bước tiên phong, tư tưởng mới giốc lòng truyền bá.
Thét hường: Rứa mà khi nhàn rỗi, còn thú đánh tổ tôm. Lại giỏi nghể bấm độn cát hung, tìm long mạch cùng là xem số, quyết, đem tài thi thố mà phò chủ trại Hoàng. Theo phương trâm “quốc túy bảo tồn,” cho thiên hạ biết ta thủ cựu.
Và đây là Hữu tham mưu Nguyễn Khắc Hiếu:
Hữu tham mưu Hiếu rót rượu uống.
Tán: “Say chuyếnh choáng non xanh còn chẳng thấy, thời mưu cao kế diệu biết đâu tìm, hay bây giờ bọn ta hóa ra chim, theo giấc mộng bay về nơi tiên cảnh, hay bây giờ ta đem rượu cúc rử quân thù đặng chén say sưa, bao giờ cho say đứ say đừ, khi ấy sẽ ra tay trừ khử!”
Nói đến đây, Hữu tham mưu túy lúy, gục xuống bàn không còn biết gì nữa. Chủ trại nhìn hữu tham mưu ra ý thương hại. Ngâm:
Thử thị Đà-giang phi Xích-Bích Dã vô Gia-Cát giữ Chu Lang.
Sau khi giới thiệu các nhân vật và sự bàn bạc chiến lược dẹp quân thù bên Hoàng trại chủ, đến phần II, mới nói đến bên Phong Hóa: Tứ Ly ngồi chễm chệ trên thành hút thuốc lá, đội mũ Khổng Minh, còn Nhát Dao Cạo (Khái Hưng) oai phong cầm bút thần ra giao chiến:
Nhát Giao Cạo ra khiêu chiến:
Như ta nay: Tán: Sắc như nước, bóng như gương, ngọn bút thần soi mới bả văn chương, lấy giao, cạo những lời vô nghiã. Bớ bọn kia: Chẳng biết thân ván cùn bút rỉ, dám khoe khoang mẫn thế ưu thời. Điều lỗi lầm ta vạch mắt cho coi, lời chỉ giáo như nước trôi đầu vịt.
Các vị đầu lĩnh bên Hoàng trại chủ sợ mất vía, chẳng ai dám ra tỷ thí, có Nguyễn Phùng liều mạng, được vài hèo, thua chạy có cờ, phu nhân bèn ra tiếp sức:
Cô Việt An than:
Chàng ôi, tài thao lược chàng còn phải chạy, tài mọn này thiếp đâu dám xông pha, âu là ta nên trở lại nhà, duyên văn tự từ rầy thôi hết dám.
Nhát Dao Cạo đứng ngâm:
Anh hùng đáng mặt anh hùng. Việt An mất viá, Nguyễn Phùng rẽ cương. Hỏi ai còn dám tranh cường. Còn ai dám viết văn chương lạ đời.
Nguyễn Công Tiễu nhân danh nhà khoa học, liều chết xông ra, cũng chỉ được vài hèo rồi thua chạy. Lê Công Đắc liều mình tiếp chiến.
Việt Sinh ra bạch: Anh Nhát Dao Cạo! hãy dừng tay lại, để mỗ ra tài.
Lê Công Đắc và Việt Sinh giao tranh, Đắc thua chạy.
Việt Sinh đứng tán: Ngẫm xem cuộc thế như đám mây chiều, gió chạy mây theo, thiên hình vạn trạng. (…)
Ngâm: Lò cừ nung nấu sự đời Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương
Nguyễn Tiến Lãng ra bạch- Thét Bớ Việt Sinh! Ai khiến mi thương, ai cầu mi sửa.
Như ta đây hay than hay thở, trông hoa xoan rụng lòng ta không nỡ, thấy ve sầu kêu nước mắt khó cầm, thì sao ngươi không cứ mặc ta khóc thầm, mặc ta kéo thiếu niên vào cõi đời sầu khổ.
Vở kịch viết theo đúng quy luật tuồng hát bội. Chữ nghĩa đối chát. Cách mô tả nhân vật gần như toàn bích:
Hoàng Tăng Bí: Nặng đôi vai gánh chữ nho phong, bền một dạ ghi điều cổ lễ.
Nguyễn Văn Vĩnh: Đường văn minh đi bước tiên phong, tư tưởng mới giốc lòng truyền bá.
Tản Đà: Say chuyếnh choáng non xanh còn chẳng thấy, thời mưu cao kế diệu biết đâu tìm.
Khái Hưng: Sắc như nước, bóng như gương, ngọn bút thần soi mới bả văn chương, lấy dao, cạo những lời vô nghiã.
Tứ Ly vẽ chân dung tài tình gần được như … Nguyễn Du. Tác phẩm giễu cái cổ nhưng phục tài người cũ. Dùng biền ngẫu để nhại biền ngẫu: gậy ông đập lưng ông. Lấy giọng các cụ bỏ miệng các cụ để các cụ tự giễu, đó là lối cưỡng bách tự trào, có hiệu ứng công phá mãnh liệt.
Tứ Ly mở đầu lối hài hước độc đáo bằng tuồng hát bội, hình thức này chưa có ở Việt Nam lúc bấy giờ. Tuồng cổ tân thời trở thành “cổ điển” ngay từ khi mới ra đời, ngày nay chúng ta đọcvẫn còn thích thú. Thích hơn đọc tuyệt tác Sơn hậu:
Phàn Định Công bạch:
Xuống xa so đức Thuấn Lên vai nối nhân Nghiêu Dân không lời kẻ ức kêu vang Ngục chẳng tiếng người oan than khóc
Nguyễn Tường Long dùng hai bút hiệu chính: Tứ Ly (mặc dù là) giờ xấu nhất, quyết đứng lên cải tổ Phong Hóa, và Hoàng Đạo (giờ tốt nhất) để phụng sự Ngày Nay. Còn tên thật Tường Long biến thành Tòng Lương, Tùng Lương hoặc Tứ Linh, Tống Sĩ….
Tứ Ly-Hoàng Đạo là người có tư tưởng canh tân nhất về mọi phương diện trong Tự Lực Văn Đoàn. Nhưng phải đợi đến khi Phong Hóa bị đóng cửa; uất ức, Tứ Ly mới trở thành Hoàng Đạo, lý thuyết gia của Tự Lực Văn Đoàn và Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Trong Tứ Ly còn có chữ Tứ, ý chỉ người con thứ tư trong gia đình Nguyễn Tường. Trên Phong Hóa số 17 (13-10-1932) khi Khái Hưng ký tên Nhị Linh, để công nhận Nhất Linh là chủ soái Văn Đoàn, thì Nhất Linh cũng vội ký tên Tam Linh, để tỏ ý mình là em đứng sau Nhị Linh. Hoàng Đạo, ký tên Tứ Linh, trên PH số 20 (4-11-1932) xác nhận mình là em hai vì sao bắc đẩu. Tất cả những tế nhị này chứng tỏ, họ không màng chiếu trên chiếu dưới, họ sống với nhau trong tình huynh đệ tương kính, và khi Nhất Linh cho Khái Hưng một đứa con, thì sự kết nghĩa trở thành thiêng liêng, cao thượng. Và họ ở với nhau như vậy, trọn đời.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Thu 05 Aug 2021, 07:06 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Thạch Lam
Vào làm việc ở Phong Hóa ở tuổi 22, Việt Sinh làm phụ tá cho chủ bút Khái Hưng trông coi bài vở, đọc, lựa, trả lời thư độc giả, viết tin thời sự hàng tuần[3], sau điểm báo và điểm sách xen kẽ với Lê Ta (Thế Lữ), nhưng ông đã học nghề văn bằng cách viết phóng sự.
Nguyễn Tường Lân, bắt đầu viết trên Phong Hóa từ số 14, ký T.L [Tường Lân viết tắt], từ Phong Hóa 15, ký Việt Sinh. Đến Phong Hóa số 98 (18-5-34), lần đầu tiên ký tên Thạch Lam dưới một bài điểm báo. Và đến PH số 109 (3-10-34), số đặc biệt có chủ đề Sóng lam cát trắng, bút hiệu Thạch Lam được ký dưới bài tùy bút đầu tiên Sóng lam cát trắng và bài tạp bút Bên làn sóng, mô tả cảnh và người tắm bể Đồ Sơn.
Văn bản đầu tiên, in trên Phong Hóa số 14 (22-9-32) là Lệ Hồng quyên sinh, ký tên T.L, kể chuyện cô Lệ Hồng suốt ngày chỉ buồn rầu nghĩ đến tử tử, bắt đầu bằng câu:
Lệ Hồng đã ngoài đôi mươi, lúc nào cô cũng buồn, nét mặt đăm đăm như chìm đắm vào trong một thế giới đầy những gió trăng hoa mộng, riêng cái sác [xác] thịt còn vướng víu đến cõi trần bạc bẽo vô duyên này. Từ đó, cô mới có cái ý tưởng lìa sác thịt bay lên thế giới mộng ảo. Cho được như ý muốn, chỉ có quyên sinh.
Lệ Hồng bốn lần quyên sinh không chết: lần đầu, cô mua hoa hồng về chất đầy phòng, sáng sau ngủ dậy vẫn thấy mình chưa chết. Lần thứ hai, cô mua thuốc phiện về nếm thử, thấy đắng quá, vứt đi. Lần thứ ba cô ra hồ Hoàn Kiếm định trầm mình, trông nước xanh lè, rêu bám thành váng có mấy con đỉa lượn lờ, sợ quá, sợ điả, sợ rét, cô lại không biết bơi, đành về nhà, mắc dây lưng lụa lên cửa sổ, thòng cổ vào, nhưng dây đứt, cô rơi xuống đất khá đau…
Lúc đó, Phong Hóa phát động chiến dịch chống sầu thảm, Thạch Lam tiếp tay Khái Hưng với bài xã luận Sầu thảm nhiều rồi, ký tên Việt Sinh, chủ trương “quét sạch” sầu thảm bằng tiếng cười trên Phong Hóa số 15 (29-9-32). Sau đó, ông viết truyện ngắn thứ hai Nữ sĩ Lệ Hoa (PH số 16, 6-10-32) ký tên Việt Sinh, để chế giễu cô Lệ Hoa, chỉ viết truyện bi thảm bịa đặt.
Hai truyện ngắn Lệ Hồng quyên sinh và Nữ sĩ Lệ Hoa là bài tập, chưa có gì đáng kể.
Bài ký Một năm Cao đẳng, in trên Phong Hóa từ số 17 (13-10-32) đến số 23 (25-11-32), khá hơn, viết về giai đoạn học trường Canh Nông, cho thấy mấy nét đặc biệt của Thạch Lam: Chú ý đến chi tiết, đến hoàn cảnh, đến thái độ của bạn cùng lớp, đến cử chỉ, sự vui buồn của họ… Tuy lời văn còn vụng về, nhưng sự thành thực và óc quan sát đã có trong bài ký này.
Hà Nội ban đêm
Ngòi bút Việt Sinh nổi trội hơn với loạt phóng sự dài Hà Nội ban đêm viết chung với Tràng Khanh (từ PH số 37, 10-3-33 đến PH số 60, 18-8-33). Theo Nguyễn Tường Bách thì Tràng Khanh là một người bạn hay đi chơi đêm, về kể chuyện cho Việt Sinh viết lại.
Hà Nội ban đêm, PH số 37 (10-3-33)
Hà Nội ban đêm bộc lộ khuynh hướng xã hội của Thạch Lam: người thanh niên 23 tuổi đã cúi xuống thân phận tối tăm của những cô gái điếm: phần lớn đều là gái quê, muốn trốn cuộc hôn nhân ép buộc, hoặc bị lấy chồng tàn tật, bị sở khanh quyến rũ rồi bỏ, bị đối xử tàn nhẫn trong gia đình, bị những mụ tú bà tân thời dụ dỗ ra tỉnh để được mặc áo đẹp, lấy chồng sang… Bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu cảnh đời, khi ngang trái, khi giả tạo, dối gian… Tác giả vén màn lên nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống nhà săm [chambre] ổ điếm, cách tiếp khách của mỗi “tổ chức”, mỗi tú bà, cả những “nạn nhân” cũng sáng tạo nhiều thủ đoạn để rút tiền khách làng chơi. Hà Nội ban đêm là bức tranh đen tối đầu tiên về Hà Nội ngàn năm văn vật. Thạch Lam đã nhận được những lời phê phán gắt gao vì dám “bôi nhọ” Hà thành.
Ở đây xin nói qua về lịch sử văn phóng sự: Tam Lang bắt đầu với phóng sự Tôi kéo xe, in trên Ngọ Báo khoảng tháng 6-1932. Lúc đó Phong Hóa số 1 mới ra đời. Chín tháng sau, Việt Sinh bắt đầu phóng sự Hà Nội ban đêm trên Phong Hóa số 37 (10-3-1933) và hơn năm sau, Vũ Trọng Phung viết Cạm bẫy người trên Nhật Tân số 2 (9-8-1933). Đó là những phóng sự đầu tiên, với ba phong cách hoàn toàn khác nhau, đều chiếu vào những khía cạnh đen tối nhất của xã hội: Tam Lang lật mặt trái nghề kéo xe. Việt Sinh chiếu vào ngõ ngách của nghề làm điếm và Vũ Trọng Phụng điều tra nghề cờ bạc bịp.
Sáng tạo thể văn tuỳ bút
Tình cờ Việt Sinh (Thạch Lam) trở thành người sáng tạo ra tùy bút hiện đại.
Việt Sinh được Nhất Linh chỉ định (hay tự chọn) viết phóng sự? Không thể biết được.
Nhưng, như ta sẽ thấy, phóng sự của Thạch Lam khác hẳn với các loại phóng sự khác cùng thời, nó là một thứ tuỳ bút văn chương.
Ngay từ Phong Hóa số 33 (10-2-33) phóng sự Trên đồi Lim, ngày giỗ Tổ đã hiện dần những nét riêng của Thạch Lam. Ngày 13 tháng giêng là ngày giổ Tổ (Hùng Vương), được tổ chức ở cả một vùng đồi Lim. Dân thành thị, thôn quê đổ về xem hội, quần áo quê, tỉnh, mỗi kiểu một vẻ. Họ về xem các cuộc chơi: con gái, đánh đu, hát đúm. Tiếng hát là ngôi sao sáng của ngày hội:
Ai nấy yên lặng một lát, lắng tai nghe Tiếng hát cất lên dịu dàng, thong thả – các cô con gái nhìn nhau, con mắt say sưa, bao nhiêu tinh thần đều để vào câu hát, các cô ngâm dài ra và gióng tiếng cho đều:
Hỡi người nhân tình đấy ơi… Áo hoa ướt đầm, này ấy, ai ơi…giòng nước xuôi…
Tiếng hát khi lên cao, xuống thấp, trong và sang sảng, ngân dài ra như dư âm văng vẳng của tiếng chuông…
Bài phóng sự được Đông Sơn (Nhất Linh) minh họa, cho thấy cảnh hội bầy ra trước mắt, đông vui, tình tứ, từ sáng đến chiều. Bỗng trời đêm giáng xuống, mọi sự thay đổi, nhẹ nhàng trắng biến thành đen:
Trời đã bắt đầu gần tối, sương mù xuống bao bọc lấy đồi Lim làm tiếng nói nghe như khẽ và xa. Còn cô con gái thấy đứng một mình là nguy hiểm, cứ quanh quẩn sát lấy nhau, kéo khăn vuông lên rồi thu hai tay vào bọc đứng yên lặng.
Trong bóng tối nhấp nhoáng, ta lại thấy bóng người sô đẩy nhau, một cô hàng cá bị hai người chòng ghẹo, gỡ mãi không ra, thúng cá đổ tung, mấy con cá giếc lấp lánh sáng trên cỏ ướt sương.
Trong cái không khí yên lặng của đêm xuân đầm ấm, ta nghe thấy tiếng thì thầm to nhỏ, tiếng quần áo sột soạt, những lời âu yếm van xin, thỏ thẻ trong sương mù…
Tất cả nhạy cảm và tế nhị của Thạch Lam đã hiện ra trong câu văn ngắn ngủi này: Lợi dụng bóng đêm, phần tối của con người hiện ra, đồng loã, trong không gian hững hờ, trong bất lực hoàn toàn của mấy con cá giếc nhỏ bé, vô tội.
Không một nhà báo viết phóng sự nào làm như thế, bởi vì họ chưa phải là nhà văn.
Phong Hóa số 34 (17-2-33) có bài Nghe hát quan họ một đêm ở Lũng giang: tiếp tục sau một ngày trẩy hội, đêm về nghe hát đúm. Việt Sinh vẫn không viết phóng sự như mọi người, nghiã là như một nhà báo chép lại các sự kiện mình thấy, mà ông viết với ngòi bút của một nhà văn nhạy cảm, lắng nghe từng tiếng động, từng hơi thở, chụp lại từng bức tranh, bởi ông chú ý đến thân phận con người, đến cảnh sống của những cô gái quan họ, ông đến đó để tìm hiểu và ghi lại tâm sự, nỗi buồn của họ.
Tiếp đó, tới Phong Hóa số 77 (15-12-33), Việt Sinh sáng tạo ra ra một loại phóng sự khác, trong bài Xoè của các cô nàng, viết về múa Xoè của người Mường ở Hoà Bình. Ông cho biết: hai anh em ông Đinh Công Nhiếp và Đinh Công Niết, Chánh quan lang đã lấy điệu “múa xòe giải lụa” ở vùng Phong Thổ, dạy các cô Mường Hoà Bình:
“Xoè giải lụa” hay là “múa quạ” đều chú trọng vào cái vẻ linh động của giải lụa mùi hay cánh quạt mở ra gấp lại cho khéo, giống như cánh con bươm bướm chờn vờn trên bông hoa. (…) Nếu ta là khách quý lên chơi chốn quê hương các cô nàng, các cô nàng sẽ đem những điệu múa ấy ra mừng, tay tung giải lụa, miệng chúm chím ca:
…Chào quan như ngọc lư ly… Như tiên hạ giới biết đi đằng nào… Chào quan như tấm lụa đào… Như tiên hạ giới, như sao trên giời… Chào quan có bấy nhiêu lời… Như tiên hạ giới, như người trên cung…
Bấy nhiêu lời cũng đủ diễn cho ta biết cái thi vị lạ lùng u uẩn của vùng đồi cây rậm, của những suối réo dưới khe đá hay những rừng sim rộng rãi bao la mà chiều chiều, các cô nàng đeo giỏ đi hái hoa. Không phải vì nghĩa lý của câu hát, nhưng vì cái giọng hát thanh thanh mà nhẹ nhàng, buồn bã mà lạnh lùng, như tiếng vượn kêu trong rừng khuya.[/i]
Nhưng tiếc thay: “Sau khi biểu diễn trước Hoàng Thượng, thấy công chúng hoan nghênh, ông Đinh Công Huy [cựu Án sát tỉnh Hoà Bình] mang các cô nàng lên sân khấu rạp Quảng Lạc diễn lấy tiền giúp… hội Quảng Lạc. Rồi bọn xòe ấy có lẽ đi Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, diễn như một gánh hát tuồng!”
Việt Sinh luôn luôn nhẹ nhàng, se sẽ luồn vào hồn ta những nhận xét có vẻ hững hờ mà đớn đau như thế. Trong bài Phong dao Mường (PH số 78, 22-12-33), ông sưu tầm được bài Mười yêu của người Mường, âu yếm và tha thiết hơn bài Mười thương của người Việt:
Một yêu khăn lượt vòng giây, Hai yêu yêu cả đôi giầy bàn chân.
Ba yêu xé lụa may quần. Bốn yêu xé nhiễu may chăn đắp cùng
Năm yêu yêu lạ yêu lùng. Sáu yêu em muốn cùng chung một nhà,
Bẩy yêu phận đẹp duyên hòa, Tám yêu yêu cả mẹ cha nhà chàng…
Chín yêu se sợi chỉ vàng, Mười yêu chỉ cốt lấy chàng mà thôi!
Và đây là lời anh chàng bị người yêu phụ tình:
Yêu em em nỡ lấy chồng Để anh về chốn nhà không anh chờ Chờ em biết đến bao giờ Quạ kêu khe suối, giăng mờ đầu non…
Các cô Mường đều nói được tiếng Việt nên không có sự “bất đồng ngôn ngữ”
Bài Xoè của các cô nàng pha trộn văn chương và nghiên cứu, cho thấy nhà biên khảo có thể nhận xét vũ điệu bằng con mắt nhà thơ, để tạo ra một thể văn mới, đó là tùy bút văn chương. Thạch Lam đã ảnh hưởng sâu sắc đến tùy bút Nguyễn Tuân sau này, đặc biệt khi ông viết bài Xòe trong tập tuỳ bút Sông Đà (1960).
Đầu năm 1935, khi Nhất Linh quyết định ra báo Ngày Nay, ông giao cho Nguyễn Tường Cẩm, người anh, làm chủ nhiệm và Thạch Lam làm chủ bút (số 1 ra ngày 30-1-35), Thạch Lam không phải phụ trách những mục thường xuyên như viết tin hàng tuần, điểm báo, điểm sách nữa, mới có thì giờ và tự do hơn trong công việc, có điều kiện để mở rộng tài năng của mình trên ba phương diện:
– Trở thành cây bút chuyên về mỹ thuật của Tự Lực Văn Đoàn.
– Viết truyện ngắn giá trị đầu tiên: Đói.
– Thực hiện phóng sự lịch sử: Bóng người Yên Thế.
Để mở đầu cho thời kỳ phóng sự trên báo Ngày Nay, với những ngòi bút: Nhất Chi Mai (Thế Lữ), Tường Bách (em út Nhất Linh) và nhất là Trọng Lang, người sẽ trở thành cây bút số một về phóng sự của Ngày Nay. Chúng tôi sẽ nói đến giai đoạn này trong một chương sau.
Đói, là truyện ngắn đầu tiên của Việt Sinh trên Ngày Nay, xuất hiện một lối viết mới: hiện thực tâm lý xã hội: “Cơn đói lại sôi nổi dạy như cưa ruột, xé gan, mãnh liệt át hẳn cả nỗi buồn… Sinh thấy người lả đi, mệt nhọc dựa vào lưng ghế… chàng muốn chống cự lại, muốn quên đi, nhưng không được, cái cảm giác đói đã lan cả khắp người như nước triều tràn trên bãi cát… Mỗi lần cơn gió, mỗi lần chàng ngửi thấy mùi ngậy béo, cái mùi thơm của chiếc bánh cóng… Mũi tự nhiên nở ra, hít mạnh vào, cái mùi thơm thấu tận ruột gan, như thấm nhuần vào xương tuỷ.”
Bây giờ ta tưởng là thường, nhưng đó chính là những chữ quốc ngữ đầu tiên soi vào lục phủ ngũ tạng con người bị cái đói hành hạ, những chữ của một kẻ xẻ ruột để tìm xem, trước cái đói, còn có cái gì quan trọng hơn, như thể diện, nhân cách?
– Không. Tất tất cả mọi vấn đề khác đều không còn giá trị gì. Chỉ một cái đói bao trùm, làm chủ, nó xuyên suốt tâm hồn và thể xác. Đó là tuyệt phẩm đầu tiên, in trên Ngày Nay số 7 (5-4-35) và số 8, (16-4-35), định vị Thạch Lam trong Tự Lực Văn Đoàn và trong văn học Việt.
(Còn tiếp)
Thụy Khuê
_____________________________
[1] Theo Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Bộ Quốc Gia giáo dục xuất bản, 1960, trang 163-166.
[2] Cụ Hoàng Tăng Bí, (1883-1939), một trong những nhà nho sáng lập trường Đông Kinh Nghiã Thục; sau cộng tác với Trung Bắc Tân Văn.
[3] Theo Thế Lữ, Lê Ta làm báo, PH số 103 (22-6-34) đến PH số 113 (31-8-34).
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Tue 10 Aug 2021, 08:25 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Chân dung Tú Mỡ Tú Mỡ
Tú Mỡ kể lại với Lê Thanh năm 1943: Ông tên thật là Hồ Trọng Hiếu, sinh ngày 14-3-1900 tại phố Hàng Hòm, Hà Nội. Năm tuổi học chữ nho với ông nội, học hết Tam Tự Kinh, Dương Tiết, thì ông nội chết, cha cho học tư trường cụ giáo Quý, rồi các trường Hàng Bông, Hàng Vôi, đến hết bậc tiểu học. Đậu bằng sơ học Pháp-Việt năm 1914. Học trường Bưởi, cùng lớp với Hoàng Ngọc Phách. Tú Mỡ làm thơ từ năm thứ ba, 16 tuổi, bắt đầu vịnh cái chuông xe điện, vịnh các viên giám thị… để nhạo báng. Năm sau (1917) mê thơ Tản Đà, Tú Xương. Từ “thầy” Tú Xương, lấy biệt hiệu Tú Mỡ.
Đỗ bằng Thành Chung năm 1918, vào làm sở Phi-Năng (Finance, Tài chính). Sau hai năm làm việc, thấy những điều “trái tai gai mắt,” chuyển sang làm thơ trào phúng. Bài thơ đầu tiên là “Bốn cái mong của thầy phán” gửi đăng tạp chí Việt Nam Thanh Niên:
Làm nghề thầy ký với thầy thông Sống ở bên đời có bốn mong: Mong tháng chóng qua tiền chóng lĩnh, Mong giờ mau hết, việc mau xong, Mề-đay mong được dăm mười chiếc Lương bổng mong tăng sáu bẩy đồng. Hãy tạm thời nay mong thế thế. Còn bao mong nữa xếp bên lòng.
Về thời kỳ Phong Hóa, Tú Mỡ kể lại với Lê Thanh:
Trước hết, chúng tôi chỉ có mấy người, đầu có anh Tam, anh Long (anh anh Tam, tức là Hoàng Đạo) anh Lân em anh Tam, tức là Thạch Lam) và tôi.
Mấy tháng sau mới có Khái Hưng và một năm sau, anh Thế Lữ.
Anh Tam thuê một cái nhà ở dưới ấp Thái Hà để mấy anh em làm việc. Tôi đi làm thì chớ, về là đến đấy bàn bạc về cái “tôn chỉ” của tờ báo và soạn bài vở dự bị cho đủ in trong sáu tháng. Anh Tam vừa viết vừa vẽ…. Anh đặt ra mục này mục nọ, giao cho mỗi người. Anh có cái óc làm việc rất khoa học, anh đã giao cho ai việc gì thì chỉ chuyên làm việc ấy.
Nhiều lúc tôi ngỏ ý viết những bài thuộc về loại khác, anh khuyên chỉ nên chuyên về một lối. Có lẽ là một điều rất hay cho chúng tôi.
Tôi có thể nói anh Tam là người đã tạo ra Tú Mỡ vậy.”[1]
Đoạn văn trên đây có lẽ ông viết rất thực tình, chứng tỏ ông là người hiền lành có sao nói vậy. Tuy nhiên cũng lại cho thấy Tú Mỡ không biết rõ anh em Nguyễn Tường nên ông tưởng Nhất Linh là em Hoàng Đạo; và trí nhớ của ông không tốt, những việc xẩy ra trước đó có 11 năm (Phong Hoá số 14 ra ngày 22-9-32), mà ông đã nhớ nhầm, những điều ông tưởng: mấy tháng sau mới có Khái Hưng, hay tôi đi làm về là đến đấy bàn bạc về cái tôn chỉ tờ báo đều sai cả, vì theo lời Trần Khánh Triệu thuật lại thì Tú Mỡ ở xa, trong tuần đi làm, cuối tuần mới ghé qua toà soạn.
Nhất Linh, quen với ông từ trước, cần người làm thơ trào phúng, nên đã mời ông vào làm báo Phong Hóa, ngay từ số 14, là số báo đầu tiên do Tự Lực Văn Đoàn chủ trương. Có lẽ Tú Mỡ lầm tờ Phong Hoá số 14, với tờ Tiếng Cười, trước đó Nhất Linh đã định ra nhưng không thành vì thiếu tiền. Và Tú Mỡ cũng không biết Khái Hưng đã “ở trong” Phong Hoá từ số 1. Vì vậy, chúng ta nên thận trọng khi dùng những lời tự thuật, ngay cả của những người đã từng “ở trong Văn Đoàn.”
Tác phẩm thành công và nổi tiếng nhất của Tú Mỡ là Tự thuật “Thất ngôn thập bát cú!” bài thơ đầu tiên của ông đăng trên Phong Hóa số 14 (22-9-1932) cùng với bài Phụ nữ với quần vợt của Bán Than (Khái Hưng), trong mục Giòng nước ngược:
Tự thuật
Ở sở Phi-Năng có một thầy, Người cao rong rỏng lại gầy gầy. Mặc thường soàng xĩnh, ưa lành sạch, Ăn chỉ thều thào, thích tịnh chay.
Tom chát quanh năm vài bốn bận, Say sưa mỗi tháng một đôi ngày. Tính vui trò truyện cười như phá, Lòng thẳng căm hờn nói toạc ngay.
Siên sỏ vào tay hơi khá khá Ở ăn thì nết cũng hay hay! Yêu người chân thật, người hòa hiệp, Ghét kẻ chui luồn, kẻ quắt quay,
Võ vẽ hay làm văn quốc ngữ, Si sô ít nói tiếng âu tây. Bạn mà bàn đến thi cùng cử Thời vội van luôn: Tớ lạy mày!
–Tú Mỡ
Dòng nưóc ngược, Phong Hóa số 20 Thơ Tú Mỡ không có cá tính đặc biệt, ông bắt chước được nhiều giọng, khi Tú Xương, khi Xuân Hương, khi Tản Đà…. Ông là nhà thơ bẩm sinh, đặt bút ra thơ. Đôi khi làm nhiều quá, dễ dãi hóa nhàm. Nhưng một tờ báo trào phúng không thể thiếu thơ trào phúng, đó chính là lý do Nhất Linh mời Tú Mỡ đầu tiên.
Ở những số báo đặc biệt có chủ đề: chống cái cũ, chế giễu nghị viên, chống kiểm duyệt, chống thực dân… thơ Tú Mỡ góp phần giải toả những căng thẳng trong sự đối đầu, biến những lập luận khô khan thành tiếng cười thư giãn, hài hước hóa những bạo lực, đán áp. Khi Mẹ Mốc (Phạm Thị Cả Mốc tức nhà văn trinh thám Phạm Cao Củng) ở Nam Định, “hâm mộ” tài năng, gửi rau muống (giả làm rau sắng) tặng nhà thơ, với lời hò hẹn, đăng trên Phong Hóa số 20 (4-11-32):
Đọc thơ bạn tơ vò chín khúc Người chưa quen bỗng chốc nên quen Thẹn mình má phấn răng đen Quê mùa đâu xứng mối duyên tình cờ.
khiến cho “bà Tú Mỡ” nổi cơn ghen, câu chuyện trở nên thú vị.
Tóm lại, Khái Hưng, Phạm Cao Củng, cũng có thể làm được thơ như vậy.
Nhưng Tú Mỡ là nụ cười thường trực cần có, trên Phong Hóa Ngày Nay.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Thu 12 Aug 2021, 12:05 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Chân dung Thế Lữ
Thế Lữ
Theo tiểu sử Thế Lữ đọc cho Xuân Diệu ghi [2], ông sinh ngày 6-10-1907, tại Thái Hà Ấp, Hà Nội, tên thật là Nguyễn Đình Lễ, sau đổi là Thứ Lễ, vì là con thứ hai. Quê cha làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; quê mẹ Nam Định. Cha làm sếp ga Lạng Sơn, mẹ bán vải, lụa trên tàu hỏa. Hai người gặp và lấy nhau nhưng gia đình không nhận, bà nội bắt cha ông phải lấy người khác làm vợ Cả. Thủa nhỏ, Thế Lữ sống với cha và bà Cả đến 9 tuổi ở Lạng Sơn, sau đó về với mẹ đẻ, buôn bán ở Hải Phòng. Mẹ cưới cô Nguyễn Thị Khương cho ông khoảng 1927.[3] Ông học đến năm thứ ba ban Thành Chung thì bỏ (1929).
Ông kể: “1929-30, tôi lên Hà Nội thi vào trường Mỹ thuật, không đỗ loại chính thức, cho nên theo học với tư cách ‘bàng thính tự do.’ Tưởng rằng vào trường Mỹ thuật thì tự do thoải mái, ai ngờ cũng phân biệt giáo sư Tây, giáo sư ta, tôi vẽ giỏi, tuy nhiên, qua một ông giáo lối dạy hết sức gò gập “vẽ trang trí thì chép nhiều mẫu cổ để cho nhiễm vào mình” và với người giám hiệu Pháp khi đó khinh học sinh Mỹ thuật Việt Nam, chưa đầy một năm, tôi thôi học vẽ.” [4]
Câu này ông thêm thắt nên sai rất nhiều. Khi lên Hà Nội, năm 1929, ông chỉ có thể ghi tên vào học lớp dự bị thi vào trường Mỹ thuật. Bởi vì trường Mỹ thuật Đông Dương có hai ban: Kiến trúc và Hội họa. Muốn thi vào ban Kiến trúc, thí sinh phải có bằng Cao đẳng tiểu học (tức bằng Thành Chung), còn thí sinh thi vào ban Hội họa, không bắt buộc phải có văn bằng gì cả [5]. Hàng năm trường mở kỳ thi tuyển vào mùa hè ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Phnom-Pênh và Vientiane. Khoá đầu 1925, không có lớp dự bị, các thí sinh thi trực tiếp vào trường, kể từ năm 1926, trường mở lớp dự bị một năm cho học trò học trước khi dự cuộc thi tuyển vào trường.
Thế Lữ lên Hà Nội năm 1929, vậy ông chỉ mới theo lớp dự bị thi vào trường Mỹ thuật. Lớp này do một hướng dẫn viên (moniteur) phụ trách, Nam Sơn hướng dẫn lớp này từ năm 1927. Nhưng trong bài hồi ký tự thuật, ông lại nói ông học lối bàng thính tự do tức là ông dịch chữ auditeur libre. Trường Mỹ thuật Đông dương không có lối học này và không thấy sách nào ghi lại. Điều đó dễ hiểu, vì mỗi kỳ thi tuyển ở khắp Đông dương, chỉ khoảng 10 người đỗ. Hầu hết những cựu sinh viên trường Mỹ thuật Đông dương, như Lê Phổ, Nguyễn Tường Tam, Vũ Cao Đàm, Tô Ngọc Vân… đều ghi ơn giáo sư Tardieu (xem chương: Trường Mỹ thuật Đông dương trong một kỳ tới). Và theo lời kể lại của họa sĩ Vũ Cao Đàm, thì ba giáo sư chính, nhất là giáo sư Tardieu, hiệu trưởng, chăm học trò như chăm con (phải học cật lực từ sáng đến chiều), còn thì giờ đâu lo cho học trò bàng thính?
Nhưng những điều Thế Lữ kể đã được nhiều người chép lại, nên sau này người ta cứ hiển nhiên ghi người này người kia, như Phạm Duy, Văn Cao… học lối bàng thính tự do là sai cả.
Tóm lại, Thế Lữ chỉ mới học lớp dự bị thi tuyển vào trường Mỹ thuật, chưa được một năm thì bỏ. Lớp này do moniteur hướng dẫn. Ông chưa đỗ vào trường, nên chưa được học các giáo sư thực thụ như Victor Tardieu hay Inguimberty… vậy mà ông kể: “Tưởng rằng vào trường Mỹ thuật thì tự do thoải mái, ai ngờ cũng phân biệt giáo sư Tây, giáo sư ta, tôi vẽ giỏi, tuy nhiên, qua một ông giáo lối dạy hết sức gò gập “vẽ trang trí thì chép nhiều mẫu cổ để cho nhiễm vào mình” và với người giám hiệu Pháp khi đó khinh học sinh Mỹ thuật Việt Nam, chưa đầy một năm, tôi thôi học vẽ. ”
Than là mình học giỏi nhưng bị phân biệt giáo sư Tây, giáo sư ta, giám hiệu khinh học sinh Việt Nam… Giám hiệu này là ai? Có phải Tardieu không?
Đây là lối viết bịa đặt để kể tội Tây, bằng bất cứ cách nào. Thật đáng buồn và xấu hổ, nhất là lại được nhiều người chép lại.
Vẫn theo bài Hồi ký tự thuật, từ hồi còn học dự bị trường Mỹ thuật, Thế Lữ đã viết ba truyện: Một chuyện báo thù ghê gớm, Tiếng hú hồn của mụ ké và Tiếng nói thầm của người chết, đưa nhà Tân Dân in, ký tên Nguyễn Thế Lữ (Thứ Lễ nói lái).
Ông bỏ Hà Nội về Hải Phòng khoảng 1930, bắt đầu làm văn, thơ. Rồi ông bị lao, mẹ cho ông ra Đồ Sơn hai năm để dưỡng bệnh. Trong thời gian này, nhân đi chơi Chùa Hang, cảm hứng không khí hang dơi ở đây, về Hải Phòng, ông viết truyện Vàng và máu (khoảng 1932) gửi đăng Hà Thành Ngọ Báo.
Bút hiệu Nhất Chi Mai
Thế Lữ gửi bài cho Phong Hóa rất sớm, với bút hiệu Nhất Chi Mai, từ giữa năm 1932, lúc còn ở Hải Phòng. Phong Hóa số 4 (7-7-32) đã đăng bài Quần trắng, áo lam. Tiếp đó là Một buổi diễn kịch làm phúc (PH số 5, 14-7-32) và đoản thiên tiểu thuyết Bả phồn hoa (PH số 6, 21-7-32).
Quần trắng, áo lam viết về mốt áo dài lam quần trắng của phụ nữ, đang thịnh hành thời ấy. Lời văn Nhất Chi Mai rất mới và bay bướm: “các bà các cô tha thướt quần trắng áo lam. Trận gió mát thoảng qua trắng lam bay lộn đã khéo khiến cho các bà, các cô tương tự như tiên nữ ở chốn non bồng.”
Một buổi diễn kịch làm phúc tường thuật buổi diễn tuồng cải lương “Tủi cho hoa,” tối thứ bẩy 9-7-1932 ở nhà hát Tây Hà Nội (nhà Hát Lớn), lấy tiền giúp nạn lụt miền Trung. Bài này cho thấy sự đam mê của Thế Lữ đối với kịch trường, ngay từ năm 1932, đã có những nhận xét sắc sảo của một nhà đạo diễn.
Đoản thiên tiểu thuyết Bả phồn hoa là một truyện ngắn hiện thực xã hội, viết theo lối kể chuyện, giọng văn sắc sảo, chứng tỏ thời ấy Thế Lữ viết văn đã có tay nghề. Sau đó, không thấy bút hiệu Nhất Chi Mai xuất hiện trên Phong Hoá nữa.
Thế Lữ xuất sắc trong những bài thơ mới đầu tiên
Thế Lữ trở lại Phong Hóa từ số 27 (23-12-32) với truyện trinh thám Thây ma xuống thang gác. Truyện này gửi đến toà soạn đúng lúc Nhất Linh đang muốn bỏ trinh thám, nên được đăng ngay. Ba tuần sau, Phong Hóa số 30 (13-1-33) đăng truyện Con châu chấu ma, hay hơn truyện trước.
Thế Lữ “vào” Tự Lực Văn Đoàn như thế nào?
Trong bài Phóng bút của Lê Ta,[6] ông kể lại: “Lần đầu tiên tôi gặp anh [Tú Mỡ] là ngày tòa soạn còn ở đường Henri d’Orléans, một cái nhà không có vẻ tòa báo một chút nào hết.” Ta lại biết rằng, địa chỉ này (nay là phố Phùng Hưng) chỉ tồn tại từ Phong Hóa số 14 (22-9-32) đến Phong Hóa số 32 (3-2-33). Vậy Thế Lữ đến tòa soạn để lĩnh tiền nhuận bút, vì ông vừa có hai bài được đăng trên PH số 27 và số 30, chứ không phải do Tú Mỡ giới thiệu, như nhiều nơi thuật lại.
Sau đó, Thế Lữ gửi đăng liên tiếp ba bài thơ. Bài đầu Con người vơ vẩn đăng trên Phong Hoá Xuân, số 31 (24-1- 33) (đề tặng Trần Bình Lộc) có bốn câu thật hay, sau này rất nổi tiếng:
Cơn gió thổi… là bàng rơi lác đác Rơi theo loạt nước đọng trên cành. Những cây khô đã chết cả mầu xanh Trong cái phút lạnh lùng tê tái ấy
Phong Hóa số 37 (10-3- 33) có Lựa tiếng đàn, bài thơ thứ hai của Thế Lữ, làm tặng các bạn trường Mỹ thuật Hà Nội, có những câu:
Các anh hãy để giọng buồn, thương, ta thán Cho bọn tôi là một lũ nhạc công Trăm ngàn năm rút mãi sợi tơ lòng Cả những khúc sầu vui việc thiên hạ
PH số 42 (14-4-33) đăng Người phóng đãng bài thơ thứ ba của Thế Lữ, có những câu:
Gió thổi, tối dần, đường vắng vẻ Thi hứng nồng nàn, tôi cứ tiến lên.… Cho đến khi Hà Nội sáng chưng đèn Mới sực nhớ đêm nay không chỗ trọ.
Và PH số 44 (28-4-33) đăng Tiếng chuông chùa, bài thứ tư, lời thơ hay hơn trước, nhịp điệu và âm nhạc mới lạ:
Sương lam deo cái buồn mênh mông trên đồng vắng Nắng chiều xuân rung rinh trong cảnh trời yên lặng Bỗng thong thả rơi một tiếng chuông chùa Ở chân trời hay trong cõi hư vô
Bốn bài thơ này xác nhận Thế Lữ là nhà thơ tài hoa nhất trong thời điểm mở đầu của thơ mới. Những trích đoạn trên đây cho thấy Thế Lữ đã dùng những cảm xúc lạ, những chữ mới, âm nhạc mới rất khác người, để làm những câu thơ như: Những cây khô đã chết cả mầu xanh hay Sương lam deo cái buồn mênh mông trên đồng vắng, trong lúc thơ còn quen với những câu rất ước lệ Trời thu xanh ngắt một mầu của Tưong Phố.
Bài thơ Con người vơ vẩn, tuy được đăng trên số xuân (số 31), số đặc biệt lần đầu giới thiệu Thơ mới của Phong Hoá, với Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Tân Việt (Nhất Linh) và Thanh Tâm, nhưng nó được xếp vào một chỗ rất khiêm nhượng, tuy Thế Lữ có những câu thơ hay hơn những người được đề cao. Sau đó, ông gửi thêm ba bài kế tiếp: Lựa tiếng đàn (PH số 37), Người phóng đãng (PH số 42) và Tiếng chuông chùa (PH số 44), bấy giờ Nhất Linh mới nhận thấy tiềm năng thơ của Thế Lữ, nên ông viết bài Nguyễn Thế Lữ, một nhân vật mới trong làng thơ mới, in trên Phong Hóa số 54 (7-7-33), giới thiệu rất nhiệt thành.
Thực ra, Nhất Linh chỉ muốn khuyến khích một tài năng mới; nhưng ông bị báo chí đổ xô chỉ trích là thiên vị “người nhà” (Thế Lữ có bài in trên Phong Hóa), bởi vì lúc đó, những bài thơ hay nhất của Thế Lữ chưa in trên Phong Hóa, như bài Hổ nhớ rừng được Nhất Linh trích dẫn và nhắc đến nhiều lần trong bài viết, cũng chưa thấy xuất hiện. Phải đến Phong Hóa số 69 (20-10-33) mới có Tiếng trúc tuyệt vời, rồi số 85, báo Xuân (11-2-34), mới có: Tiếng sáo Thiên thai, Cây đàn muôn điệu, và PH số 95 (27-4-34), mới có Hổ nhớ rừng. Cho nên, Nhất Linh bị công kích cũng là phải.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Sat 14 Aug 2021, 09:34 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Annam Xuất Bản Cục in Vàng và Máu
Nếu thơ Thế Lữ xuất sắc ngay từ đầu, thì truyện ngắn không được như thế. Ông có bốn truyện được đăng trên Phong Hóa: Thây ma xuống thang gác (PH số 27), Con châu chấu ma (PH số 30), Cô Bụt (PH số 44), và Giòng máu đứt quãng (PH số 53).
Trong bốn truyện này, chỉ có hai là khá: Con châu chấu ma và Giòng máu đứt quãng. Tuy vậy, Phong Hóa số 56 (21-7-1933) đã vội quảng cáo: sắp in Vàng và máu của Thế Lữ và Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng do Annam xuất bản cục xuất bản.
Hai quảng cáo sắp in cho Vàng và máu & Hồn bướm mơ tiên, PH 56 Điều này rất lạ, vì hai lẽ: trên Phong Hoá, người ta chưa nghe nói đến Vàng và máu bao giờ, cả tên Thế Lữ cũng còn rất mới, trong khi Khái Hưng đã là một tên tuổi lớn (lúc đó, Phong Hóa đã đăng xong Hồn bướm mơ tiên, sắp hoàn tất Nửa chừng xuân, cả hai truyện đều được độc giả hết sức hoan nghênh).
Tất cả xẩy ra rất nhanh, tưởng như Thế Lữ sắp trở thành một “cột trụ” của Tự Lực Văn Đoàn, với sự đãi ngộ thượng đẳng. Nhưng rồi mọi sự có vẻ như khựng lại. Phải gần một năm sau, Vàng và máu mới được in ra. Tại sao?
Xét kỹ lại những biến chuyển này, ta có thể hiểu như sau:
Tự Lực Văn Đoàn – hạt nhân đầu tiên có từ Phong Hóa số 1 (xem chương: Sự thành lập Phong Hóa và Tự Lực Văn Đoàn) — được thành hình trước Phong Hóa số 14, với Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam và Tú Mỡ. Nhưng “Văn Đoàn” này mới chỉ ở trong vòng thân mật của ban biên tập, mới chỉ là Văn Đoàn nói miệng, chưa thể trình làng, vì chưa có tác phẩm.
Phải đợi đến khi Phong Hóa đăng xong hai tiểu thuyết nền móng Hồn bướm mơ tiên, từ số 20 (4-11-32) đến số 29 (6-1-33) và Nửa chừng xuân, từ số 36 (1-3-33) đến số 63 (8-9-33), thì họ mới tính đến chuyện in sách để có tác phẩm.
Vì thế Annam Xuất Bản Cục ra đời, quảng cáo trên Phong Hóa số 45 (5-5-33), địa chỉ: số 1 Avenue Carnot, cũng là địa chỉ tòa soạn Phong Hóa. Annam Xuất Bản Cục là tiền thân của nhà xuất bản Đời Nay.
Khi Tự Lực Văn Đoàn đã có nhà xuất bản, đã in tác phẩm rồi, thì mới có thể ra mắt độc giả. Vì vậy, trên Phong Hóa số 56 (21-7-33), lần đầu xuất hiện hai khung quảng cáo, ở trang 5: Tự Lực Văn Đoàn sắp ra Hồn bướm mơ tiên và Tự Lực Văn Đoàn sắp in Vàng và máu.
Hồn bướm mơ tiên là phải rồi, nhưng tại sao Vàng và máu? Truyện này chưa từng xuất hiện trên Phong Hóa?
Sự thật có thể chỉ đơn giản như thế này: Thế Lữ đem đến toà soạn truyện Vàng và máu. Hoặc Khái Hưng hay Nhất Linh khám phá ra Vàng và máu, trên Ngọ Báo, nhưng không được chú ý. Hai ông đọc thích quá, định cho in ngay cùng với Hồn bướm mơ tiên.
Nhưng Vàng và máu không đủ dày, phải có thêm vài truyện ngắn nữa mới thành sách được. Kẹt một điều: sự cách biệt giá trị quá xa giữa Vàng và máu và hai truyện Thế Lữ mới viết: Thây ma xuống thang gác và Con chấu chấu ma, khó có thể nghĩ là cùng một tác giả. Vì vậy, ta có thể đoán là đã có sự trao đổi (chắc là khá gay go) giữa Khái Hưng và Nhất Linh về việc nên đưa Thế Lữ vào Văn Đoàn chưa? Hay phải dừng lại, đợi Thế Lữ có những tác phẩm khá hơn? May mắn là Thế Lữ đã sáng tác những bài thơ có giá trị để xác định mình.
Cho nên đến số Xuân (11-2-34), PH 85, mới thấy in quảng cáo: Tự Lực Văn Đoàn đã xuất bản: Hồn bướm mơ tiên (tái bản), Vàng và máu, Anh phải sống và Nửa chừng xuân.
Và sau khi đã xuất bản bốn tác phẩm giá trị, Tự Lực Văn Đoàn mới có lý do để chính thức ra mắt với bản tuyên ngôn Tự Lực Văn Đoàn, in trên Phong Hóa số 87 (2-3-34), dưới đây.
Bản tuyên ngôn TLVĐ trên PH số 87
Tất cả đều xẩy ra theo một trình tự đã sắp sẵn: Phải có tác phẩm thì mới có Văn Đoàn!
Riêng Thế Lữ còn phải qua thử thách một thời gian nữa mới được nhận vào làm việc ở Phong Hóa từ số 91 (30-3-34). Ông kể lại “sự chờ đợi” này trong loạt bài Lê Ta làm báo[7], bằng giọng nửa đùa nửa thật: trong gần hai năm ông phải học làm báo mà không thể xin được vào “tờ báo lớn nhất” thời bấy giờ, như thế nào. Có thể vì thế mà Thế Lữ trở thành cay đắng, như lời Nguyễn Vỹ nói với Nhất Linh sau đây:
– Tôi nghe nhiều anh em nói Thế Lữ nó vẫn than phiền rằng anh [Nhất Linh] coi nó như “parent pauvre” (người bà con nghèo) anh và Khái Hưng hất hủi nó phải không?
– Láo! Thế Lữ nó hưởng đầy đủ mọi thứ quyền lợi cũng như tôi và Khái Hưng. Nhưng tính nết của Thế Lữ không thích hợp lắm với tôi. Khái Hưng thường cãi nhau với hắn. Ngoài ra, chẳng có gì Thế Lữ hay Tú Mỡ phàn nàn bọn này cả. Sau Thế Lữ tách ra làm ban kịch với Đoàn Phú Tứ, Tự Lực Văn Đoàn vẫn ủng hộ về tinh thần. Nhưng không phải của Tự Lực Văn Đoàn vì Khái Hưng không đồng ý kiến.
– Còn anh?
– Tôi cũng không thích ban kịch của Thế Lữ.
– Tại sao Thế Lữ nó đả kích tôi trong Phong Hoá?
– Thế Lữ đâu có ưa anh. Anh nên nhớ rằng trong Phong Hoá, Khái Hưng và tôi không đả kích anh bao giờ nhé. Trừ những mẩu chuyện khôi hài và những tranh vẽ đùa thôi.
– Ai cũng biết” [8].
Thế Lữ đã mô tả rất kỹ con người Thạch Lam (Bách Linh) người bạn thân đã cho ông ở chung, đã chia sẻ cơm áo, đã “vận động” cho ông vào Phong Hóa. Thế Lữ vẽ một chân dung khá đặc sắc về Thạch Lam, đầy đủ tính tình, sống động, và còn cho thấy không khí tòa báo hồi đó: xin được vào “yết kiến” ông Giám đốc Nhất Linh không phải chuyện đùa! Thế Lữ còn viết bài phóng sự thứ hai Phóng bút của Lêta in trên Phong Hóa số 154 (22-9-35) số kỷ niệm ba năm Phong Hóa, tả cảnh bên trong tòa báo, dĩ nhiên là có tô điểm thêm chân dung mỗi nhân vật, tính tình, kể lại những cuộc cãi vã và dàn hoà giữa Khái Hưng Nhất Linh và đời sống hàng ngày trong tòa báo. Đó là những tư liệu quý về đời sống bên trong Tự Lực Văn Đoàn.
Vàng và máu
Vàng và máu, truyện hay nhất của Thế Lữ, viết trong lúc xuất thần, lời văn độc đáo sau này không thấy xuất hiện lại. Mở đầu như sau:
Kể từ châu Kao Lâm ở phiá đông và miền bản Slay ở phiá tây mà đến, từ mạn bản Pắc đi xuống, và từ bản Hạ trở lên, cách non mười dặm chung quanh chỉ có quả núi Văn Dú là cao lớn nhất.
Sự xác định vị trí bằng tọa độ, chỉ dùng trong hàng hải, cho lính đi hành quân, phi cơ chiến đấu, tình báo… chưa từng thấy trong văn chương. Tọa độ Văn Dú làm ta giật mình. Toàn thể tác phẩm đều dùng lối văn như thế: Không có ma. Không có đầu lâu. Không cả bóng tối… Đó chính là nghệ thuật. Vàng và máu là tác phẩm kinh dị độc đáo nhất của Thế Lữ và của văn học Việt Nam. Một kiệt tác. Sự kinh dị tỏa ra từ cách viết tiếng Việt, không khí nằm trong mỗi chữ, chứ không phải do những câu văn có những chữ oan khiên, khủng khiếp, kiểu: “mỗi cảnh vật đều có một sự tích oan khiên hay khủng khiếp… tôi nghe tiếng ngọn suối ban đêm như than khóc” hay là lấy đầu lâu, sọ người ra dọa, như trong truyện Bên đường Thiên Lôi, hoặc các truyện ngắn khác của Thế Lữ.
Thế Lữ là nhà kể chuyện có tài. Ông có tài đặt tên truyện, lạ lùng, rùng rợn, lôi cuốn: Con châu chấu ma, Cái xác đuổi người, Lưỡi tầm sét, Bên đường Thiên Lôi… Nhưng Thế Lữ chỉ là người kể chuyện: Thây ma xuống thang gác là chuyện đám học trò dọa ma nhau, tuy có không khí rùng rợn do anh chủ nhà cố tình kể chuyện ma để hù các bạn.
Cái xác đuổi người (PH số 66, 29-9-33) cũng là chuyện sinh viên nội trú dựng xác chết lên để dọa bạn.
Con châu chấu ma (PH số 30, 13-1-33), hay hơn, tạo được không khí bí mật của trinh thám: chính thằng nhỏ phát giác xác chết, khám phá ra sự thật. Tuy kết luận hơi gượng ép, khó tin: nạn nhân ném câu liêm để đuổi con trâu, vô tình ném ngược, bị luỡi liêm cắt cổ!
Giòng máu đứt quãng (PH số 53, 30-6-33) viết về một án mạng bí mật, không thể tìm ra thủ phạm, phải dùng cách điều tra kiểu Sherlock Holmes, để giải thích một cách “khoa học”: thủ phạm là con mèo nhẩy vọt qua, làm xác chết bật dậy thành quỷ nhập tràng!
Lưỡi tầm sét (PH số 91, 30-3-34) và số 92, 7-7-34), kể chuyện một người con gái bị sét đánh lột hết quần áo (mà không chết!).
Lối viết của Thế Lữ rất khéo, rất lôi cuốn, ông biết cách kéo dài sự chờ đợi trong căng thẳng, nhưng thường làm ta thất vọng vì sự giải thích vô lý, không có gì là khoa học cả. Nhờ uy tín của Tự Lực Văn Đoàn, ông trở thành cây bút trinh thám có sách bán chạy nhất thời đó.
Những nhà trinh thám có tác phẩm trụ được lâu dài, như Agatha Christie hay Georges Simenon, còn là nhà văn xã hội nữa. Câu truyện án mạng của họ, không những dựa trên tình tiết ly kỳ, mà Agatha Christie còn mô tả xã hội trưởng giả, quý tộc Anh, Georges Simenon điều tra môi trường bình dân tăm tối của xã hội Pháp và Bỉ.
Tác phẩm hay nhất của Thế Lữ là Vàng và Máu, trở thành một giá trị vĩnh cửu nhờ lối viết bí mật, khác thường và Thế Lữ còn là nhà thơ sáng giá nhất trong buổi bình minh của thơ mới.
Kể từ khi vào làm việc cho Phong Hóa từ số 91, Thế Lữ chọn bút hiệu Lê Ta, ký dưới các bài điểm sách, điểm báo và phóng sự. Bút hiệu này, có lẽ cảm hứng từ bức tranh Ba ông táo: Táo Ta, Táo Tây, Táo Tầu, (không ký tên, có lẽ của Nguyễn Gia Trí) in trên bìa Phong Hóa số 84 (2-2-34). Sau này chữ Lê-Ta được Thế Lữ giải thích là do chữ Lễ nghiã là Lê thêm dấu ngã, mà ngã là ta, cho nên có Lê Ta, có vẻ gượng ép. Chuyện ông ngẫu hứng từ bức tranh Ba ông Táo có vẻ tự nhiên hơn.
Tên Lê Tây ông chỉ ký hai lần, dưới bài Chợ phiên Kiến An phóng sự của Lê Ta và Lê Tây (Ngày Nay số 145, 14-1-39) và Tin Hải Phòng (Bức thư tốc hành của Lê Tây gửi cho Lê Ta (Ngày Nay số 169, 8-7-39).
Trên Phong Hóa số 72 (10-11-33) có bài thơ Đoàn lực sĩ của Nhất Chi Mai. Đó là lần đầu tiên Thế Lữ dùng lại bút hiệu Nhất Chi Mai. Bút hiệu này còn xuất hiện trên Phong Hóa hai lần nữa: trong bài Từ viện dân biểu cho đến ô tô hàng, PH số 122 (2-11-34) và phóng sự Đi thăm mấy ngôi mả sống ở Thái Bình, PH số 124 (16-11-34).
Khi Nhất Linh quyết định ra báo Ngày Nay, giao cho Thạch Lam làm chủ bút, Thế Lữ được cử làm việc với Thạch Lam ngay từ Ngày Nay số 1 (30-1-35). Lúc đó, ông ký lại tên Nhất Chi Mai với lời đề ở dưới: Phóng viên của Ngày Nay. Thời gian này, ông viết một số phóng sự, có hai bài hay là Buôn người (Ngày Nay từ số 2 (10-2-35) đến số 8 (16-4-35) viết về đường dây mẹ mìn bắt cóc người buôn sang Tàu ở Móng Cáy, và Ngày Nay điều tra Ăn cướp, viết chung với Trọng Lang, từ Ngày Nay số 7 (5-4-35) đến số 13 (21-5-35).
Đó là những đóng góp giá trị của Thế Lữ nhưng không mấy ai biết đến.
Cái dở của Tự Lực Văn Đoàn
Cái dở của Tự Lực Văn Đoàn là tính bè phái, mà ba cây bút trẻ Tứ Ly (Hoàng Đạo), Việt Sinh (Thạch Lam) và Lê Ta (Thế Lữ) là tiêu biểu. Hai ông anh, Khái Hưng, Nhất Linh, thường đứng ngoài, trừ những vụ phải trả lời trực tiếp những bài đánh Phong Hoá “có tầm cỡ.”
Bắt đầu từ ba mục Từ nhỏ đến lớn, Từ cao đến thấp, Bàn ngang, do Tứ Ly phụ trách, đôi khi công kích cá nhân, rồi tới những bức tranh châm biếm, những lời chế giễu đùa cợt.
Từ Phong Hóa số 35 (24-2-33), có thêm mục mới Bức tranh vân cẩu do Việt Sinh [Thạch Lam] phụ trách, thỉnh thoảng gây sự, bút chiến với các báo khác. Mới đầu là đùa vui, sau sang đùa nhả, quá trớn. Dĩ nhiên là bị trả đũa, lại càng nóng máu, anh em bênh nhau, cãi cối cãi chầy, không ra thể thống gì cả. Có lần Hoàng Đạo đã đe đánh phe “đối nghịch”. Thực là:
Có tài mà cậy chi tài Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Nhưng tệ nhất là từ khi có các mục: Cuộc điểm sách, Cuộc điểm báo, do Lê Ta phụ trách chung với Việt Sinh.
Cách phê bình của Lê Ta rất đặc biệt: Trên Phong Hóa số 91 (30-3-34) trong bài Cuộc điểm sách, lần đầu tiên khai bút, Lê Ta, đánh cuốn văn xuôi Trên núi voi của Lưu Trọng Lư tơi bời: “Gấp sách lại, tôi còn thấy rơm rớm nước mắt: đó là vì tôi đã quá cười” và ông kết luận:”Kể không hiểu thì cả truyện lẫn văn của ông Lư không ai hiểu đứt đi rồi. Nhưng còn như yêu văn ông, thì thú thực, tôi không thể nào yêu được.”
Lại cũng như thế, đối với Tchya, trong bài điểm sách trên Ngày Nay số 79 (8-10-37), ký Người Điểm Sách, nhưng đọc thì biết là của Thế Lữ, đầu bài ông phê ngay: Thần hổ “truyện dài rùng rợn” của Tchya, các bạn đã có người đọc rồi chứ. Thật không có câu chuyện nào ngớ ngẩn bằng.” Chẳng có nhà phê bình đứng đắn nào lại nhằm những cuốn sách mà mình cho là “tồi tệ” nhất, đem ra điểm sách để “giới thiệu” với độc giả. Thế Lữ làm như vậy với những nhà thơ cùng thời như Lưu Trọng Lư, Nguyễn Vỹ, Phạm Huy Thông… với những người ông ghét, và cả với những người mới làm thơ chưa có tiếng tăm gì, ông cũng tìm những cuốn thơ dở của họ đưa ra chỉ trích. Như thế sao gọi là phê bình?
Tự Lực Văn Đoàn mang tiếng xấu chẳng khen ai cả, phần lớn vì những bài “điểm sách”của Lê Ta.
Nhà văn, ngoài tài năng, còn phải có “đạo đức nghề nghiệp” nữa.
(Còn tiếp)
Thụy Khuê _________________________
[1] Lê Thanh, Cuộc Phỏng vấn các nhà văn, Nxb Đổi Mới, Hà Nội, 1943, trang 134-144.
[2] Trong bài Hồi ký tự thuật của Thế Lữ do Xuân Diệu ghi, in trong cuốn Thế Lữ, cuộc đời trong nghệ thuật, Hoài Việt sưu tầm và biên soạn, nxb Hội Nhà Văn, 1991, từ trang 1 đến trang 20.
[3] Có nơi ghi năm 1924, ông 17 tuổi. Con đầu lòng là đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, sinh năm 1928.
[4] Hồi ký tự thuật của Thế Lữ do Xuân Diệu ghi (sđd, trang 13).
[5] Theo Đặng Hữu Thụ, Làng Hành Thiện thời Tây học cho đến năm 1954, Quyển Thượng, tác giả tự xuất bản, Melun, Pháp, 1999, đoạn viết về Trường Mỹ thuật Đông dương, trang 146 và 151.
[6] In trên Phong Hóa số 154 (20-2-35).
[7] In trên Phong Hóa từ số 103 (29-6-1934) đến Phong Hóa số 113 (31-8-1934).
[8] Nguyễn Vỹ, Văn thi sĩ tiền chiến, Nhà sách Khai Trí, Sài gòn, 1969, trang 161.
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Wed 18 Aug 2021, 09:16 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Cách đây hơn hai mươi năm, nhà văn Đặng Trần Huân (1929-2003), một người rất quan tâm đến Tự Lực Văn Đoàn, viết:
Chỉ mới thành lập năm 1933 mà tổ chức Tự Lực Văn Đoàn tưởng như đã xa xưa lắm vì cho tới nay có lẽ vẫn chưa có ai trả lời được là Văn Đoàn này gồm có những ai? Về sau có thêm bớt ai không? Những người liên quan tới TLVĐ có một số còn sống nhưng mỗi người nói một cách, có khi mâu thuẫn nhau, chẳng biết đâu mà tin. Một Văn Đoàn có tác phẩm để đời khá nhiều, ảnh hưởng sâu đậm tới văn hóa Việt Nam, thế mà lai lịch của nó tới nay vẫn mù mờ như huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử hay Mỵ Châu Trọng Thủy vậy. Độc giả giở sách báo cũ hay hồi ký ra để tìm hiểu thì càng mung lung hơn và bắt đầu đi vào mê lộ[1].
Đặng Trần Huân viết rất đúng và tình trạng mù mờ này dường như vẫn còn kéo dài đến ngày nay, có lẽ bởi vì người Việt ít khi chịu nghiên cứu đến nơi đến chốn một vấn đề gì. Khi soạn sách lại hay dùng giai thoại đã đọc được trên sách này sách kia, rồi viết lại như sự thực, đó là lối nhà văn Nhật Thịnh[2] thường làm trong cuốn Chân dung Nhất Linh, kể cả nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ trong bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên cũng không tránh khỏi. Còn Đặng Trần Huân, tuy ông than phiền như vậy, nhưng sau khi tài liệu Mấy lời nói đầu của Nhất Linh được công bố năm 2002, ông có viết thêm một bài khác, tựa đề Viết thêm về Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn[3], ngỏ ý thỏa mãn với những điều Nhất Linh viết trong di cảo này, và xác nhận (như hầu hết mọi người) rằng Tự Lực Văn Đoàn gồm bẩy người: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Tú Mỡ, Thạch Lam, Thế Lữ và Xuân Diệu, mà không cần tìm hiểu kỹ càng hơn.
Như chúng tôi đã trình bầy trong các chương trước, tất cả mọi vấn đề đều không đơn giản như vậy. Muốn trả lời câu hỏi: Tự Lực Văn Đoàn đích thực có những ai? Chúng ta cần phải khảo sát lại, bởi vì một tài liệu, dù chính Nhất Linh viết ra, cũng cần được đọc và phân tích cặn kẽ.
Bài Mấy lời nói đầu của Nhất Linh
Tài liệu đáng chú ý nhất, liên quan tới việc Tự Lực Văn Đoàn có những ai, được Nguyễn Tường Thiết, con trai út Nhất Linh công bố khoảng năm 2000, là bài Mấy lời nói đầu cho cuốn Đời làm báo, bản chụp dưới đây:Đời làm báo-Mấy lời nói đầu của Nhất Linh
Nếu đọc kỹ Mấy lời nói đầu, viết cho cuốn sách Đời làm báo, ta sẽ thấy văn bản này không trả lời câu hỏi: Tự Lực Văn Đoàn có những ai? Ở đây, Nhất Linh chỉ kê khai tên những người đã cộng tác với hai báo Phong Hóa và Ngày Nay, và trong số đó, người nào được ông xác nhận là thành viên Tự Lực Văn Đoàn thì bên cạnh tên, ông chua thêm mấy chữ: có chân trong Tự Lực Văn Đoàn, để ở trong ngoặc.
Mấy lời nói đầu là bài tựa cuốn Đời làm báo Nhất Linh dự định viết, hay đã viết nhưng bị thất lạc. Năm 2002, bài này được in trong phần phụ lục cuốn Việt Nam một thế kỷ qua (Hồi ký cuốn một)[4] của Nguyễn Tường Bách và năm 2006, in trong phần phụ lục cuốn Nhất Linh cha tôi[5] của Nguyễn Tường Thiết. Văn bản này được lưu trữ trên trang mạng sưu tập Phong Hóa và Ngày Nay của Thư viện Người Việt và Thư viện Diendan.org, trong bài Bút Hiệu của Tự Lực Văn Đoàn.
Nhà văn Nguyễn Tường Thiết cho tôi biết: ông đã tìm thấy Mấy lời nói đầu trong một sấp giấy rời, thuộc phần di cảo của cha, nhưng ông không thấy trang nào khác về cuốn Đời làm báo. Như vậy có hai trường hợp: Hoặc Nhất Linh mới viết tựa, chưa viết sách. Hoặc Nhất Linh đã viết sách mà bị thất lạc. Sự thất lạc này đã từng xẩy ra với bản thảo Xóm Cầu Mới, và phải mười năm sau, Nguyễn Tường Thiết mới tìm lại được[6].
Mấy lời nói đầu chỉ là một bản nháp, chưa hoàn chỉnh; Nhất Linh viết theo trí nhớ, nhiều chỗ gạch xoá, có chỗ (tháng, năm) bỏ trống hoặc viết dở, chắc ông đợi khi nào có tài liệu đầy đủ trước mắt, sẽ điền vào sau. Và chắc Nhất Linh cũng không thể ngờ có ngày chúng ta sẽ đem ra phân tích, bởi đối với ông “nó” chỉ là bản nháp, chưa thể trình làng được. Ta cần hiểu rõ bối cảnh như thế, trước khi dùng.
Tuy không giúp ta biết rõ danh sách những người ở trong Tự Lực Văn Đoàn, nhưng Mấy lời nói đầu vẫn rất quan trọng, bởi vì nó giúp ta khám phá ra một số thông tin đến nay vẫn chưa được soi rạng. Chúng tôi đánh máy lại những dòng Nhất Linh viết tay, chỉ bỏ những chữ ông đã xoá. Và đây là nguyên văn:
Mấy lời nói đầu
Đây là cuốn Ký ức về đời làm báo của tôi về hai tờ báo khôi hài, châm biếm, văn chương: Tờ Phong Hóa (193… -193…) và tờ Ngày Nay (193 -194 ) và về những người trong tòa soạn hai tờ báo đó: Nguyễn Tường Tam tức Nhất Linh, Đông Sơn, Tam Linh, Lãng Du, Bảo Sơn, Tân Việt. Giám đốc và chủ bút báo PH từ số 14 cho đến khi báo bị đóng cửa và Ngày Nay từ số… cho đến… (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn) Trần Khánh Giư tức Khái Hưng, Nhị Linh, Hàn đãi…đậu. Giám đốc Ngày Nay từ số 80 (10-10-1937) (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn) Nguyễn Tường Long tức Tứ Ly, Hoàng Đạo, Tường Vân, chủ bút báo Ngày Nay từ số… (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn) Nguyễn Đình Lễ tức Thế Lữ, Lê Ta (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn) Nguyễn Tường Lân tức Thạch Lam, Việt Sinh, Thiện Sĩ, chủ bút báo Ngày Nay từ số 99 (27-2- 38) (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn) Hồ Trọng Hiếu tức Tú Mỡ (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn) Nguyễn Tường Cẩm, Giám đốc tờ Ngày Nay từ số 1 đến số … Nguyễn Tường Bách; Giám đốc tờ Ngày Nay trong khi Khái Hưng và Hoàng Đạo ở trại giam và Nhất Linh ở hải ngoại từ số… (Trong số 8 người này, có hai người đã qua đời và 5 người biệt tăm tích, vậy còn lại có một, tức mình Nhất Linh). Tuy là cuốn sách về báo và người viết báo, nhưng những người viết báo đó lại là những người viết văn (tiểu thuyết, thơ…) nên trong cuốn Ký ức này, không thể không nói đến phần viết văn của những người viết báo.
Tác giả.
Dưới đây là tên những người không ở trong tòa soạn nhưng thường có bài đăng ở hai tờ báo:
Lê Thạch Kỳ tức Chàng Thứ 13 (viết bài khôi hài về khoa học) Đỗ Đức Thu (tiểu thuyết) Xuân Diệu (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn) (thơ mới) Huy Cận (thơ mới) Trọng Lang (phóng sự) Bùi Hiển (truyện ngắn) Tô Hoài (truyện ngắn) Đinh Hùng (tranh khôi hài) Nguyễn Công Hoan (truyện ngắn) Vi Huyền Đắc (kịch) Phạm Thị Cả Mốc (tên thật là Phạm Cao Củng) thơ khôi hài Mụ báo Sài Gòn (tên thật: không có) Bút Sơn ở Sài Gòn (người đã đẻ ra Xã Xệ) (tên thật chưa biết). Xin ông Bút Sơn (nếu ông còn sống) hoặc các bạn ông cho biết tên thật. Nguyễn Khắc Hiếu (dịch Đường Thi) Nhất Sách (tranh khôi hài)
Các hoạ sĩ đã từng vẽ giúp:
Nguyễn Gia Trí Tô Ngọc Vân Trần Bình Lộc Nguyễn Cát Tường Trần Văn Cẩn Lưu Văn Sìn
Nhận xét đầu tiên: Nhất Linh quên tên khá nhiều người đã cộng tác với Phong Hóa Ngày Nay như: Đoàn Phú Tứ, Vũ Đình Liên, Phạm Huy Thông, Huyền Kiêu, Nguyễn Bính, Thanh Tịnh, Tế Hanh, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Khoát… cả Lưu Trọng Lư cũng viết mấy bài. Nguyễn Xuân Khoát, ngoài nhạc bản, còn có loạt bài nghiên cứu: Kho tàng âm nhạc Việt Nam. Nhưng Nhất Linh lại nhớ có Tô Hoài, mà Tô Hoài không có bài nào trên Phong Hóa Ngày Nay cả (vì ông này mãi tới năm 1940 mới bắt đầu viết cho Hà Nội Tân Văn, lúc đó Ngày Nay đã đóng cửa). Nhất Linh cũng nhắc tên Đinh Hùng vẽ tranh khôi hài nhưng tôi tìm không thấy tranh nào ký tên Đinh Hùng. Bùi Hiển có truyện ngắn Nằm vạ in trên Ngày Nay số cuối cùng 224 (7-9-40) với lời giới thiệu của Thạch Lam, đây là một trong những truyện ngắn hay nhất của ông. Nguyễn Công Hoan, chỉ có một truyện ngắn duy nhất Chiều khách, in trên Phong Hóa số 25 (9-12-32). Rồi thôi. Năm 1936, ông cho in tiểu thuyết Cô giáo Minh (Tân Dân, Hà Nội) cốt truyện giống Đoạn tuyệt, nhưng kết luận mẹ chồng nàng dâu hòa hợp với nhau. Phong Hóa “bình phẩm” là giống, Nguyễn Công Hoan tức giận chê Đoạn tuyệt. Lời qua tiếng lại trên mấy số báo (PH số 177, 180, 188). Có lẽ Khái Hưng nói đúng hơn cả: chẳng cần tranh luận, khi hai cuốn sách giống nhau, cuốn nào sống lâu hơn, là có giá trị hơn. Bây giờ Đoạn tuyệt đã trở thành tác phẩm cổ điển, ít ai nhớ đến Cô giáo Minh.
Trở lại bài Mấy lời nói đầu của Nhất Linh trên đây, chúng tôi thấy có mấy điểm quan trọng:
1- Nhất Linh không xác định các thành viên của Tự Lực Văn Đoàn là ai, ông chỉ ghi trong ngoặc như chú thích “có chân trong Tự Lực Văn Đoàn“.
2- Qua câu: “đời làm báo của tôi về hai tờ báo khôi hài, châm biếm, văn chương: Tờ Phong Hóa (193… -193…) và tờ Ngày Nay (193 -194)” Nhất Linh đã nhớ đúng tính chất của hai tờ Phong Hóa Ngày Nay: khôi hài, châm biếm, văn chương.
Điểm này cốt yếu cho việc nghiên cứu Tự Lực Văn Đoàn, vì từ trước đến nay, người ta chỉ chú trọng đến khía cạnh văn chương và bỏ rơi khiá canh khôi hài châm biếm.
3- Nhờ câu: “Trong số 8 người [làm trong tòa soạn] này, có hai người đã qua đời và 5 người biệt tăm tích, vậy còn lại có một, tức là mình Nhất Linh”, ta có thể đoán chắc rằng, Nhất Linh đã viết Mấy lời nói đầu khi ông ở Hương Cảng, sau khi Hoàng Đạo mất. Vì lúc đó ông chưa biết rõ số phận những người đã từng làm việc trong tòa soạn hai tờ báo này, ai còn ai mất. Ông chỉ biết chắc hai em ruột ông: Thạch Lam và Hoàng Đạo đã qua đời[7], năm người còn lại, ông ghi là “biệt tăm tích”, kể cả Nguyễn Tường Bách, người em út đã sang Tầu và ở cùng với ông một thời gian (việc ông “quên” Nguyễn Tường Bách, là có lý do khác, sẽ nói đến sau).
Mấy lời nói đầu cũng không thể viết sau khi Nhất Linh trở về nước cuối năm 1950[8], vì khi về đến Hà Nội, ông đã có thể biết về số phận Tú Mỡ và Thế Lữ, dù ông và họ, lúc ấy mỗi người một chiến tuyến, chắc không liên lạc lại với nhau nữa.
Sau cùng, ông cũng không thể viết những dòng này trong những ngày cuối đời ở Sài Gòn, vì ở miền Nam, thập niên 1960, mọi người đều biết rõ số phận những thành viên trong tòa soạn Phong Hóa-Ngày Nay, kể cả những người ở lại ngoài Bắc.
4- Nhất Linh không nhớ Thạch Lam làm Chủ bút báo Ngày Nay từ số 1, và cũng không nhớ ông làm Giám đốc báo Ngày Nay từ bao giờ. Nhưng ông lại nhớ rất rõ hai việc:
– Khái Hưng làm Giám đốc Ngày Nay từ số 80 (10-10-1937).
– Nguyễn Tường Lân làm chủ bút báo Ngày Nay từ số 99 (27-2-1938).
Hai điểm này rất quan trọng, bởi vì nó cho chúng ta hiểu rõ hơn hành trình cách mạng của Nhất Linh.
Khi quyết định ra báo Ngày Nay, Nhất Linh để Nguyễn Tường Cẩm, anh ông, làm Giám đốc, và Thạch Lam làm chủ bút, từ số 1 (30-1-35) đến số 5 (10-3-35), sau đó Nguyễn Tường Cẩm rút ra, có thể vì không đủ kinh nghiệm làm báo. Từ số 6 (2-4-35), Nguyễn Tường Tam thay thế Nguyễn Tường Cẩm làm Giám đốc, Nguyễn Tường Lân vẫn làm chủ bút, mượn thêm Nguyễn Văn Thức làm Quản lý, nhưng ông Thức sẽ biển thủ, làm cho Phong Hóa Ngày Nay bị lụn bại tài chính (Xem chương 3: Khái Hưng và Phong Hóa).
Tóm lại, Ngày Nay từ số 1 đến số 15 (3-4-36) trong hơn một năm, gặp nhiều khó khăn vì in nhiều hình ảnh nên bị lỗ, chỉ ra được 15 số báo.
Khi Phong Hóa số 190 (5- 6-36) bị đóng cửa vĩnh viễn, toàn bộ ban biên tập Phong Hóa dồn sang Ngày Nay số 16 (12-7-36) và Nhất Linh đã hoàn toàn thay đổi từ nội dung đến hình thức tờ báo như ông đã làm với Phong Hóa số 14. Vậy Ngày Nay số 16 là một cái mốc rất quan trọng. Nhưng tại sao Nhất Linh lại không nhớ đến cái mốc này?
Để hiểu rõ lý do, chúng ta cần nhìn lại mấy sự kiện quan trọng được công bố trên báo Ngày Nay năm 1937:
– Tháng 7-1937: Hội Ánh Sáng được phép thành lập với sự đỡ đầu của Thống Sứ Yves Châtel[9]. Ánh Sáng là tổ chức làm nhà rẻ tiền cho dân nghèo, do hai kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện và Hoàng Như Tiếp viết bài và vẽ kiểu. Chương trình nhà Ánh Sáng được quảng bá hàng tuần trên báo Ngày Nay từ năm 1936.
– Tối 16-8-37, Nguyễn Tường Tam diễn thuyết ở Nhà Hát Lớn Hà Nội về ý nghĩa xã hội của Hội Ánh Sáng.
Đến đây, mới thấy hé lộ chủ đích chính trị của Nhất Linh: Việc gây quỹ nhà Ánh Sáng có lẽ chỉ là giải pháp ngoài mặt giúp đỡ dân nghèo, bên trong là phương tiện xây dựng đảng Hưng Việt, giúp ông có thể đi sâu vào quần chúng, bằng những buổi hội họp, diễn thuyết tổ chức văn nghệ để quyên tiền, ở khắp nơi, lại công khai nhận được sự bảo trợ của chính quyền bảo hộ. Tóm lại, Nhà Ánh Sáng cũng là cơ hội để ông đi các tỉnh vận động mà không bị phòng nhì Pháp chú ý.
Vì thế, chương trình nhà Ánh Sáng chỉ được Tự Lực Văn Đoàn cổ động mạnh mẽ trong 2 năm, rồi họ từ chức quản trị ngay từ năm 1939, nhường cho một ban quản trị khác[10], vì lúc đó họ đã chuyển hẳn sang hoạt động cách mạng rồi và chính quyền bảo hộ cũng nhìn thấy, nên đã đình chỉ việc cấp giấy phép xây nhà rẻ tiền. Việc này chúng tôi sẽ đào sâu hơn trong chương viết về Nhà Ánh Sáng.
Tóm lại, mục đích của Nhất Linh trong thời điểm này là sẽ làm chính trị và lập đảng, nên ông chỉ nhớ những mốc chính trị mà thôi:
– Hai tuần sau khi Nhất Linh diễn thuyết ở nhà Hát Lớn, thì ngày 29-8-37, báo Ngày Nay số 74 bắt đầu đăng loạt bài Vấn đề thuộc địa của Hoàng Đạo, và in những biếm họa của Nguyễn Gia Trí, chỉ trích mạnh mẽ chính sách cai trị của thực dân.
Cũng trên số báo này, trường Thăng Long lại quảng cáo tên Nguyễn Tường Tam trong danh sách giáo sư cử nhân cho niên khoá 37-38. Nhất Linh tuy làm báo, nhưng không bỏ hẳn dạy học. Theo quảng cáo của trường Thăng Long đăng trên Phong Hóa năm 1933, thì ông vẫn dạy, đến năm 1935 mới ngừng, rồi tiếp tục dạy lại năm 1937[11].
Vậy Nguyễn Tường Tam chỉ ngừng dạy trong hai niên khoá 1935-1936 và 1936-37, rồi ông trở lại dạy niên khoá 1937-38, vào đúng lúc ông phát triển phong trào nhà Ánh Sáng.
Phải chăng Nhất Linh trở lại dạy Thăng Long chỉ để gặp gỡ thanh niên và thuyết phục họ đi theo cách mạng? Phải chăng đây là một kế hoạch đã chuẩn bị từ rất lâu, từ ngày 17-6-1930, khi Nguyễn Thái Học và các đồng chí lên đoạn đầu đài: Khái Hưng, Nhất Linh đã trở thành những giáo sư đầu tiên của trường Thăng Long gieo mầm ái quốc cho học sinh. Và sau này trường Thăng Long sẽ tiếp nối truyền thống này, trở thành ổ cách mạng với những Hoàng Minh Giám, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp…
Trở lại câu hỏi đã nêu ra ở trên: Tại sao Nhất Linh lại nhớ rõ hai việc:
– Khái Hưng làm Giám đốc Ngày Nay từ số 80 (10-10-37).
– Nguyễn Tường Lân làm chủ bút báo Ngày Nay từ số 99 (27-2- 38).
Bây giờ ta có thể trả lời, bằng nhận xét sau đây:
– Trên đầu báo Ngày Nay số 77 (19-9-37) còn thấy ghi Nguyễn Tường Tam là Giám đốc; nhưng sang số 78 (26-9-37) ông trở thành người sáng lập, với dòng chữ sau đây: Nguyễn Tường Tam, Sáng lập chủ nhân. Trần Khánh Giư, Giám Đốc. Nguyễn Tường Lân, Quản lý.
– Và tới Ngày Nay số 80 (10-10-37), Nhất Linh rút hẳn tên mình khỏi tờ báo, chỉ đề: Giám đốc Trần Khánh Giư.
Đó là một quyết định quan trọng, nên hơn mười năm sau, Nhất Linh còn nhớ rõ và ghi lại trong bài Mấy lời nói đầu.
– Rồi tới Ngày Nay số 99 (27-2-38), tức là hơn bốn tháng sau, lại rút cả tên Trần Khánh Giư. Sau đó, chỉ đề ngân phiếu gửi về M. le Directeur du Ngày Nay.
Hai quyết định này rất quan trọng nên Nhất Linh nhớ rõ, vì đó là hai ngày: Nhất Linh và Khái Hưng ngừng để tên công khai trên báo Ngày Nay. Nên ta có thể xác định:
Kể từ tháng 2-1938, Nhất Linh và Khái Hưng đã lập đảng Hưng Việt, sau đổi tên thành Đại Việt Dân Chính. Vì thế hai người lần lượt rút tên là Giám đốc báo Ngày Nay để tránh hậu họa cho tờ báo.
Việc này, Nguyễn Tường Bách và Hoàng Văn Đào chỉ ghi đại lược: năm 1938, Nguyễn Tường Tam lập đảng, nhưng không ai nói rõ ngày tháng. Còn Nguyễn Vỹ lại cho rằng, từ 1936 Khái Hưng đã lập Việt Nam Dân Chính Đảng, rồi kéo Nhất Linh theo[12], điều này cũng không biết đúng sai như thế nào, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong chương: Việt Nam Quốc Dân Đảng (1939-1945). Ở đây ta chỉ có thể xác định rằng:
Kể từ tháng 2-1938, Nhất Linh và Khái Hưng đã bỏ tên trên đầu báo Ngày Nay, để ra lập đảng và họ vẫn sát cánh nhau như lúc làm báo.
(còn tiếp)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng Wed 01 Sep 2021, 10:21 | |
| TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
Thuỵ Khuê
Bài Tiểu sử Nhất Linh của Nguyễn Ngu Í
Tài liệu đáng tin cậy hơn cả về Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn là bài Nhất Linh (1906-1963) của Nguyễn Ngu Í[13]. Chính trong bài này, Nhất Linh đã xác định tên những người trong Tự Lực Văn Đoàn.
Bài này chia làm hai phần:
1- Phỏng vấn Nhất Linh, ở dưới ghi: Thủ đô nước Việt đầu mùa mưa 1954, Nguyễn Ngu Í thực hiện cho mục “Gia đình văn nghệ” của báo Phương Đông, mấy ngày trước khi ký hiệp định Genève. Đến năm 1961, một phần được Nguyễn Ngu í trích in trên báo Bách Khoa[14].
2- Tiểu sử Nhất Linh, với lời chú thích: “Tiểu sử này, do chính Nhất Linh đọc cho tôi viết và đã xem lại trước khi in, tôi xin giữ trọn vẹn và không thêm đoạn đời từ thu 1954 đến thu 1963, để giữ chút kỉ niệm về anh. Khi tái bản sẽ in bổ túc.”[15] Như vậy, phần tiểu sử này, do Nhất Linh đọc cho Nguyễn Ngu Í viết, bẩy năm sau khi trả lời bài Phỏng vấn.
Nhất Linh tự vận ngày 7-7-1963. Nguyễn Ngu Í qua đời tháng 8 năm 1977 tại Sài Gòn, sách của ông chưa kịp tái bản, nên ta không có phần tiểu sử Nhất Linh từ 1954 đến 1963, như ông đã hứa.
Bài Nhất Linh (1906-1963), cho tới nay là tài liệu đầy đủ và ít sai lầm nhất, nhờ sự làm việc cẩn trọng của Nguyễn Ngu Í, và vì Nhất Linh đã đọc lại phần tiểu sử trước khi in. Trước hết chúng tôi lưu ý đến hai câu trong bài Tiểu sử Nhất Linh này:
– “Về nước năm 1930, cùng Hoàng Đạo, Thạch Lam xin ra tờ báo trào phúng “Tiếng cười”, nhưng vì gặp cảnh không tiền nên “tráng sĩ đành năm co”. Quá hạn, bị rút giấy phép”.
– “Đã có vốn ít nhiều, lại có thêm đồng chí, nên dầu làm báo lúc bấy giờ có khổ như cái gì, cũng quyết không lui. Sẵn có tờ “Phong Hóa” ra tới số 13, lối văn cổ không được hoan nghênh, và người bỏ tiền ra muốn giao lại, anh [Nhất Linh] bèn lãnh lấy, có Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí phụ lực (1932). Sau đó vài tháng, thêm Thế Lữ.”[16]
Điểm đáng chú ý nhất ở đây là lời Nhất Linh: Tự Lực Văn Đoàn có bẩy người Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Thế Lữ.
Một mặt khác, như chúng tôi đã trình bày trong chương Sự thành lập Phong Hóa và Tự Lực Văn Đoàn: Nhờ những điều Khái Hưng kể lại trong tiểu thuyết Những ngày vui, ta được biết: Khái Hưng và Nguyễn Gia Trí là hai sáng lập viên đầu tiên, làm báo Phong Hóa từ số 1.
Bài Tiểu sử Nhất Linh, còn ghi thêm một số thông tin khác:
– Từ khi về nước năm 1930, Nhất Linh đã có ý định cùng hai em Hoàng Đạo và Thạch Lam, làm báo trào phúng.
– Nhất Linh xin được phép ra tờ báo “Tiếng cười”, nhưng vì không có tiền nên đành “nằm co”, đến lúc quá hạn, bị rút giấy phép.
Câu “Đã có vốn ít nhiều, lại có thêm đồng chí” dẫn đến nghi vấn: vốn ở đâu ra?
Câu hỏi này lại được Khái Hưng trả lời trong tiểu thuyết Những ngày vui: Nhờ số tiền 10.000 đồng của Nguyễn Văn Tiên Léang fat Houa trước khi qua đời, di tặng.
Nguyễn Ngu Í ghi tiếp:”Anh [Nhất Linh] bèn lãnh lấy [tờ báo] có Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí phụ lực (1932). Sau đó vài tháng thêm Thế Lữ.”
Câu này, một lần nữa lại nêu rõ đích danh những thành viên xây dựng báo Phong Hóa từ số 14 (22-9-32) sau thêm Thế Lữ, thành viên thứ bẩy.
Và Khái Hưng trong Những ngày vui coi Nguyễn Gia Trí là bạn đồng hành từ những ngày đầu, trước cả Nhất Linh.
Cả bà Nguyễn Thị Thế cũng nhớ: “Trong thời kỳ này (1933) anh Tam lập nhóm Tự Lực Văn Đoàn cùng Khái Hưng, Hồ Trọng Hiếu, Thế Lữ, Hoàng Đạo, Thạch Lam và Nguyễn Gia Trí sau có thêm Nguyễn Cát Tường tức họa sĩ Le Mur“[17] Bà Thế cũng không nhớ sai, vì Nguyễn Cát Tường vẽ cho Phong Hóa một bức biếm họa trên số 13, rồi trở lại vẽ Phong Hóa từ số 27 (cùng với Thế Lữ). Nhưng Cát Tường chỉ là một trong những họa sĩ cộng tác với Phong Hóa, không phải là họa sĩ chính và là người sáng lập như Nguyễn Gia Trí cùng với Khái Hưng.
Sau này, người ta hay tự tiện bỏ tên Nguyễn Gia Trí ra ngoài, có lẽ vì nghĩ ông là họa sĩ. Điều này hết sức sai lầm, vì Phong Hóa Ngày Nay nếu không có Nguyễn Gia Trí, cũng không hoàn toàn là Phong Hóa Ngày Nay.
Tóm lại, sau khi kết hợp tài liệu của Nhất Linh và Khái Hưng, chúng ta có thể quả quyết rằng:
– Tự Lực Văn Đoàn có bẩy người: Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ và Thế Lữ.
– Tự Lực Văn Đoàn thành lập trong khoảng thời gian từ Phong Hóa số 11 (25-8-32) đến Phong Hóa số 13 (8-9-32), tức là những ngày cuối tháng tám đầu tháng chín năm 1932.
– Bốn chữ Tự Lực Văn Đoàn được in lần đầu trên báo Phong Hóa số 56 (21-7-33).
– Bản truyên ngôn Tự Lực Văn Đoàn được in trên báo Phong Hóa số 87 (2-3-1934).
Nhưng vẫn còn môt câu hỏi chưa được giải đáp:
Nhất Linh, trong bản Tiểu sử không nhắc đến Xuân Diệu, tại sao?
Trường hợp Xuân Diệu
Xuân Diệu
Phong Hóa đi tiên phong trong việc giới thiệu Thơ mới, ngay từ số 16 (16-10-32), Nguyễn Tường Tam đã làm bài thơ mới đầu tiên Điệu thơ cụt, ký tên Nhất Linh. Rồi trên báo Xuân Phong Hóa (số 31, 24-1-33), Thơ mới chính thức được “lăng-xê” với chín bài: Phan Khôi với Tình già; Lưu Trọng Lư, với bốn bài: Trên bãi biển, Giấc mộng tình, Lại nhớ Vân, Vì sương thu đổ; Tân Việt (Nhất Linh), hai bài: Gượng vui, Cái vui ở đời; và Ngày xuân vắng khách của Thanh Tâm. Thế Lữ tham dự với bài thơ đầu tiên Con người vơ vẩn.
Phạm Huy Thông bắt đầu có thơ in trên Phong Hóa từ số 62 (1-9-33). Vũ Đình Liên, từ số 98 (18-5-34). Nguyễn Bính, từ Phong Hóa số 116 (21-9-34) và năm 1937, ông được giải thưởng khuyến khích thơ của Tự Lực Văn Đoàn, với tập Tâm hồn tôi. Như vậy sự công nhận của Tự Lực Văn Đoàn đã nâng đỡ nhà thơ trong bước đầu rất nhiều.
Xuân Diệu có bài Những bàn tay ấy đăng trên Phong Hóa số 158 (18-10-35), với những câu thơ tuyệt đẹp:
Một tối vòm trời chẳng bợn mây, Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy, Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ Nghiêng xuống làn rêu: một tối đây[18]
Những lời huyền bí bốc lên trăng Những ý bao la toả xuống trần Nhưng tiếng ái tình hoa bảo gió, Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân.
Bóng chiều đi vụt. Bỗng, đêm nay, Tôi lại đa mang hận tháng ngày. Dưới ánh trăng cười tôi kiếm mãi Dấu bàn tay ấy ở trên tay.
Sau Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu là người thứ nhì đưa sự Giao cảm giữa con người và thiên thiên vào thơ, mà Baudelaire gọi là Correspondances. Xuân Diệu được chấp nhận ngay như một tài năng trẻ, nhạy cảm, có ngôn ngữ thơ mới lạ.
Xuân Diệu lúc đó đang học tú tài I ở Hà Nội, có hai bài thơ được đăng tiếp theo là Nụ cười xuân (PH số 182, 10-4- 36) và Vì sao (PH số 185, 1-5-36), được Thế Lữ nâng đỡ.
Bài Vì sao có bốn câu, sau này sẽ rất nổi tiếng:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu! Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, Bằng mây nhẹ nhẹ, gió hiu hiu…
Trọn năm 1937, Xuân Diệu trở về Huế học thi Tú Tài II, chỉ gửi đăng có hai bài: truyện ngắn Mèo hoang (NN số 81, 17-10-37) và bài thơ Phải nói (NN số 84, 7-11-37). Thời gian này Xuân Diệu kết thân với Huy Cận.
Năm 1938, Xuân Diệu ra Hà Nội ở chung với Huy Cận. Xuân-Huy góp bài cho Phong Hóa nhiều nhất, nhưng Xuân Diệu được ưu đãi hơn. Mỗi tuần Xuân Diệu gửi cho Phong Hóa một bài văn xuôi, thỉnh thoảng mới có thơ. Văn xuôi của Xuân Diệu khá nhạt nhẽo nhưng vẫn được Thạch Lam, lúc đó làm chủ bút, đăng.
Tập Thơ Thơ của Xuân Diệu được quảng cáo: sẽ in, trên Ngày Nay số 96 (30-1-38), nhưng phải đến cuối năm 1938, Tự Lực Văn Đoàn mới in xong. Sang năm 1939, Xuân Diệu góp bài ít hẳn đi. Và năm 1940, đỗ tham tá nhà đoan ở Mỹ Tho, nên gần ông như ngừng hẳn, không gửi bài nữa.
Sự đóng góp của Xuân Diệu cho tờ Ngày Nay không hơn những đóng góp của các nhà thơ, nhà văn có tài khác như: Nguyễn Bính, Huy Cận, Nguyên Hồng, Trần Tiêu, Đỗ Đức Thu… Xuân Diệu được chọn vào Tự Lực Văn Đoàn vì thơ ông bạo và lạ hơn, là phải. Tuy nhiên, về thơ, Huy Cận, Nguyễn Bính sâu sắc hơn. Về văn, Nguyên Hồng với Bỉ vỏ và Những ngày thơ ấu đã là một tài năng lớn, chưa kể Trọng Lang về phóng sự, Vi Huyền Đắc về kịch.
Vậy sự quyết định đưa ai vào Tự Lực Văn Đoàn thời ấy ra sao? Không rõ. Có lẽ vì lúc ấy, Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, bận lo chính trị, không còn thì giờ để ý đến văn chương như trước nữa.
Chúng ta tin vào mấy chữ của Nhất Linh trong bài Mấy lời nói đầu: “Xuân Diệu (có chân trong Tự Lực Văn Đoàn)”, nhưng Nhất Linh nhớ nhầm khá nhiều. Còn Hoài Thanh trong Thi Nhân Việt Nam cũng ghi Xuân Diệu có chân trong Tự Lực Văn Đoàn[19].
Vậy Xuân Diệu có thể là thành viên thứ tám của Tự Lực Văn Đoàn, kể từ 31-12-38, ngày phát hành tập Thơ Thơ[20].
Ta lại biết, mỗi thành viên, khi in sách, đều được hân hạnh đề thêm mấy chữ: Trong Tự Lực Văn Đoàn, dưới tên tác giả.
Vậy mà, theo Đặng Trần Huân, cuốn Thơ Thơ không có năm chữ này, ông viết: “Năm 1938, khi nhà xuất bản Đời Nay của Tự Lực Văn Đoàn in Thơ Thơ và đoản văn Phấn Thông Vàng cũng chưa thấy dòng chữ Trong TLVĐ, ghi dưới tên tác giả Xuân Diệu”[21].
Thế mới kỳ lạ. Tuy nhiên Đặng Trần Huân viết như thế, thì ta có thể tin rằng ông đã có hoặc đã nhìn thấy bià này.
Chúng tôi bèn tìm trên Internet, quả nhiên thấy được bìa sách Thơ Thơ do Đời Nay in năm 1938 sau đây:
Vậy Xuân Diệu có thực sự ở trong Tự Lực Văn Đoàn hay không? Việc này vẫn còn tồn nghi.
Riêng cuốn Phấn Thông Vàng, Đời Nay không in, có lẽ vì dở.
Nhưng Xuân Diệu chưa phải người chót đã được vào hay chưa được vào Tự Lực Văn Đoàn, Đỗ Tốn là thành viên thứ tám hay thứ chín.
Thụy Khuê
_______________________________
[1] Đặng Trần Huân, Huyền thoại Tự Lực Văn Đoàn, in trong cuốn Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, phần 1, do Nguyễn Thạch Kiên sưu tập, giới thiệu và xuất bản, Phượng Hoàng, California, 1997, t. 273-274.
[2] Nhà văn Nhật Thịnh đã qua đời ngày 5-6-2020 tại Sacramento, California, Hoa Kỳ.
[3] Bài này đăng trên báo Đại Chúng số 105, ra ngày 1-9-2002.
[4] Việt Nam một thế kỷ qua, Nxb Thạch Ngữ, Hoa Kỳ, 1998, tái bản năm 2002, in trong phần phụ lục.
[5] Nhất Linh cha tôi, Nxb Văn Mới, California, Hoa Kỳ, 2006.
[6] Sự thất lạc được Nguyễn Tường Thiết kể lại trong bài Lời nhà xuất bản in ở cuối tiểu thuyết Xóm Cầu Mới, tập 2, (Phượng Giang, Sài Gòn 1973). Trong câu chuyện riêng với chúng tôi, ông kể rõ nguyên nhân sự thất lạc, liên hệ tới một nhà văn nữ nổi tiếng (đã qua đời). Vậy nếu có dịp, mong ông viết ra, vì câu chuyện đã thuộc về văn học sử.
[7] Thạch Lam mất năm 1942 vì bệnh lao ở Hà Nội, và Hoàng Đạo mất năm 1948, trên chuyến xe lửa từ Hồng Kông đến Quảng Châu.
[8] Theo Nguyễn Tường Thiết, Nhất Linh cha tôi, Văn Mới, California, 2006, t. 13.
[9] Ngày Nay số 66 (4-7-37).
[10] Theo bài Đính chính in trên báo Ngày Nay kỷ nguyên mới số 2 (12-5-45).
[11] Trên Phong Hóa số 62 (1-9-33), trường Thăng Long quảng cáo: Nguyễn Tường Tam Directeur des cours (Giám học). Trên Phong Hóa số 110 (10-10-34), danh sách giáo sư niên khoá 34-35 vẫn có tên Nguyễn Tường Tam đứng đầu. Đến Phong Hóa số 154 (20-9-35), trong danh sách toàn thể các giáo sư trường Thăng Long, mới không còn tên Nguyễn Tường Tam nữa.
[12] Nguyễn Vỹ, Tuấn chàng trai nưóc Việt, quyển II, tác giả xuất bản, 1970, t. 250.
[13] In trong cuốn Sống Và Viết với… của Nguyễn Ngu Í, do Ngèi Xanh xuất bản năm 1966, tại Sài Gòn, Xuân Thu chụp và in lại tại Hoa Kỳ, không đề năm.
[14] Bách Khoa số 109 (15-7-1961), trang 84.
[15] Nguyễn Ngu Í, Sống Và Viết với… t. 23, chú thích 1.
[16] Nguyễn Ngu Í, Sống Và Viết với… t. 21.
[17] Nguyễn Thị Thế, Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, Văn Hóa Ngày Nay, Santa Ana, 1996, trang 117.
[18] Bản Phong Hoá 158 ghi: một tối đây, sau này sửa thành một tối đầy, hay hơn.
[19] Thi Nhân Việt Nam, Đông Nam Á chụp lại, từ bản Nguyễn Đức Phiên, 1943, Hà Nội, t. 115.
[20] Dựa theo quảng cáo in trên Ngày Nay số 143 (31-12-38).
[21] Đặng Trần Huân, Huyền thoại Tự Lực Văn Đoàn, in trong cuốn Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, Quyển 1, Hồn bướm mơ tiên, t. 280).
(còn tiếp)
|
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng | |
| |
| | | |
Similar topics | |
|
Trang 4 trong tổng số 8 trang | Chuyển đến trang : 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |