Bài viết mới | Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 21:37
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:17
KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Thu 21 Nov 2024, 16:45
KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22
Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22
NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20
KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08
Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54
Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10
7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10
Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21
Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13
Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07
Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36
Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09
Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46
Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06
Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04
DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19
Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37
Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17
CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05
Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39
Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41
Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
|
| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Việt Đường
Tổng số bài gửi : 2141 Registration date : 21/08/2009
| Tiêu đề: Re: Thơ Thái Bá Tân Sun 31 May 2020, 14:50 | |
| NHỮNG THÍ DỤ THÂM SÂU
Đức Phật, như ta biết, Khi giảng đạo cho người, Đưa ra nhiều thí dụ Thâm sâu và dạy đời.
Đó là những câu chuyện Sinh động và thông minh Giúp người nghe chiêm nghiệm, Rút bài học cho mình.
Ngài nói, sẽ vô ích Nếu ta muốn giúp đời Mà tự mình không muốn Tu dưỡng để thành người.
Chẳng khác gì đêm tối Đèn của ta hết dầu Mà ta muốn chiếu sáng Giúp người khác qua cầu.
Nấu canh ăn cũng vậy, Canh không bao giờ sôi Khi bếp không có lửa, Khuấy mãi cũng thế thôi.
Những ai trong cuộc sống Tìm cái vui nhất thời Ngài ví như con trẻ Còn nhỏ tuổi, ham chơi.
Chúng thích liếm mật ngọt Trên lưỡi dao - điều này Sẽ làm chúng sớm muộn Cũng đứt môi, đứt tay.
Cuộc đời là bể khổ, Ngài dạy thế nhiều lần. Khổ vì Lão, Bệnh, Tử, Khổ vì Tham, Si, Sân.
Cuộc đời là đêm tối, Bốn xung quanh màu đen. Chỉ ít giây sung sướng Khi tia chớp lóe lên.
* Ngài bảo các đệ tử: “Hãy nhìn kìa, bầy sâu Đang ăn quả táo thối. Mà cắn xé, tranh nhau.
Chúng tưởng chúng hạnh phúc Ăn thứ nhơ bẩn này. Ta, người thường, thấy chúng Là loài đáng thương thay.
Còn những người giác ngộ Thì thấy người vô minh Như sâu ăn táo thối, Rất hài lòng với mình.”
* Để răn người keo kiệt Và tham lam trên đời, Ngài kể một câu chuyện Rằng xưa có một người
Bỗng nhiên bị mất hết Cả nhà cửa, ruộng đồng, Rồi vợ con cũng chết, Cuối cùng trơ tay không.
Hơn thế, do khinh xuất Ông bị giam suốt đời. Vậy mà lạ, trong ngục, Ông thấy mình thảnh thơi,
Thậm chí còn hạnh phúc Vì thấy được tự do. Không còn gì để mất, Nên không gì để lo.
Thế đấy, Đức Phật dạy, Chính vì lo làm giàu Và vì lo giữ của Mà con người khổ đau.
* Một người hỏi Đức Phật: Để đạt được chân thiền, Vì sao cứ nhất thiết Phải ngồi lâu, ngồi yên?
Ngài sai lấy chậu nước Nhúng tay, quấy một vòng, Ôn tồn hỏi người ấy: “Con có thấy gì không?”
“Bạch, không, chỉ thấy nước.” Chờ nước lặng. Vỗ vai, Ngài nói: “Con nhìn lại.” “Bạch thầy, con thấy Ngài!”
“Giờ chắc con đã hiểu Để đạt được chân thiền, Vì sao phải im lặng Ngồi lâu và ngồi yên.”
* Ngài nói, mưa chỉ một, Và chia đều cho nhau: Bãi cỏ và vườn thuốc, Ruộng lúa và nương dâu.
Nhưng các cây hút ẩm Lại rất khác, thế là Có loài thì lụi chết, Có loài lại ra hoa.
Có loài biết cách hút Tinh túy của đất trời Để thành cây thuốc quí Giúp chữa bệnh cho người.
Cũng vậy, giáo lý Phật Không phân biệt nghèo giàu, Dòng dõi và đẳng cấp. Ai cũng hưởng như nhau.
Thế mà có người ngộ, Có người vẫn vô minh, Có người không thoát khổ, Có người giải phóng mình.
Có người đi theo đạo Để hành đạo giúp đời. Cũng có người theo nó Để phá đạo, hại người.
Thái Bá Tân |
| | | Việt Đường
Tổng số bài gửi : 2141 Registration date : 21/08/2009
| Tiêu đề: Re: Thơ Thái Bá Tân Sun 31 May 2020, 14:52 | |
| TIỀN KIẾP CỦA PHẬT THÍCH CA
Ngày xưa ở Ấn Độ Có một vị vua già. Tên ngài là A Dục, Con là Câu Nà La.
Câu Nà La có nghĩa Mắt chim câu hiền lành, Vì thái tử nước ấy Rất hiền và thông minh.
Vua là ông vua tốt. Thái tử được dân yêu Vì chàng rất khiêm tốn, Trung thực, hiểu biết nhiếu.
Không may hoàng hậu chết, Vua cưới thêm một người, Đẹp thì rất xinh đẹp, Nhưng độc ác, hợm đời.
Mụ rất ham quyền lực, Không ngần ngại điều gì, Thích thao túng mọi chuyện. Tên mụ là Xích Di.
Bỗng nhiên vua lâm bệnh, Các thầy thuốc bó tay, Thế mà mụ tài giỏi Cứu được vua lần này.
Suốt đời mụ mong ước Con mụ nối ngôi cha, Nên dễ hiểu, mụ ghét Thái tử Câu Nà La.
Nhân chữa vua khỏi bệnh, Mụ xin được một ngày Vua cho giữ quốc ấn. Vua chiều mụ điều này.
Quốc ấn của vương quốc Là vật bất ly thân, Nó dùng để đóng dấu Các lệnh truyền, công văn.
Mụ xúi dân làm loạn Ở một thành phía Tây, Khuyên vua cho thái tử Đến cai trị nơi này.
Thế là chàng phải đến Một nơi đầy hiểm nguy, Bất chấp lời can gián Của vợ, Ma Đa Vì.
Chàng vừa đi hôm trước Thì hôm sau, lạ thay, Có lệnh vua mật gửi Các quan ở thành này.
Lệnh niêm phong, khẩn cấp, Có quốc ấn triều đình, Bắt móc mắt thái tử Rồi bẩm báo về kinh.
Các quan thấy lệnh lạ Chưa dám vội thi hành, Mà đem trình thái tử. Chàng đọc nó, giật mình,
Rồi đau buồn, chàng nói: “Đây đúng lệnh vua cha, Lại có thêm con dấu, Vậy cứ móc mắt ta!”
Nhưng quả không ai nỡ. Cuối cùng, một người say, Sau khi được ban thưởng, Đang tâm làm việc này.
Chàng còn bảo dân chúng Nhất thiết không giúp chàng, Vì lệnh cấm điều đó. Dân thương khóc, bàng hoàng.
Thế là chàng thái tử Ngồi giữa nắng một mình. Con ngựa quí chàng cưỡi Lặng lẽ chạy về kinh.
Vợ chàng nhìn thấy nó Biết có chuyện không hay, Liền báo vua A Dục, Vua phái người đi ngay.
Thế là rõ mọi chuyện. Vua cho gọi Xích Di, Lệnh phải đem xẻo thịt, Xẻo hết, chẳng chừa gì.
Bỗng nhiên chàng thái tử Lại bênh mụ, xin tha. Chàng nói người lương thiện, Chân tu và thật thà
Có thể bị trừng phạt Vì tiền kiếp của mình. Rồi chàng kể câu chuyện Về cái ác, vô minh.
* Ngày xưa, đã lâu lắm, Một thợ săn vui mừng Vì một lúc bắt được Năm mươi con dê rừng.
Nhưng nếu giết tất cả, Không mang hết thịt về Nên quyết định móc mắt Cả năm mươi con dê.
Vì bị mù nên chúng Luôn quanh quẩn rất gần, Chỉ chờ anh ta đến Bắt từng con ăn dần.
“Tâu phụ hoàng, người ấy, Móc mắt không ghê tay, Chính là con kiếp trước, Nên mới nông nỗi này.
Việc con bị móc mắt Không hẳn tội Xích Di, Vậy mong ngài suy xét Mà tha chết cho dì.
Nếu những gì con kể Mà ngài vẫn chưa tin Và dùng dằng chưa quyết, Thì xin mời ngài nhìn.”
Nói đoạn, chàng vái lạy, Rồi ngồi xuống, uy nghi: “Nếu lời tôi nói đúng, Mắt sáng lại tức thì!”
Lập tức mắt thái tử Trở lại sáng như xưa. Xích Du bị đầy ải, Chàng được nối ngôi vua.
Câu chuyện này có thật. Thái tử Câu Nà La Chính là người tiền kiếp Của Đức Phật Thích Ca.
Thái Bá Tân |
| | | Việt Đường
Tổng số bài gửi : 2141 Registration date : 21/08/2009
| Tiêu đề: Re: Thơ Thái Bá Tân Sun 31 May 2020, 14:56 | |
| DIÊM VƯƠNG VÀ ĐỊA NGỤC
Diêm Vương trong tiếng Phạn Là Ya-ma-ra-ja. Khi dịch sang tiếng Hán, Thành Diêm Ma La Già.
Nguyên gốc là như thế, Nhưng sau, trong đời thường, Người ta thích gọi tắt - Diêm La Vương, Diêm Vương.
Trong giáo lý Đạo Phật, Do Đức và do Tâm, Ngài được giao trọng trách Quản lý cả Cõi Âm.
Diêm Vương, theo truyền thuyết, Là vua Vệ Xá Li, Một người cũng từng mắc Cái thói Tham Sân Si.
Trong một trận đánh lớn, Quân ông thua, và ông Trước khi chết chỉ có Duy nhất một ước mong,
Là cai quản Địa Ngục. Chư Phật rủ lòng thương Cho ông được toại nguyện, Trở thành Diêm La Vương.
Ông, cùng chín vị tướng Và chín mươi nghìn quân, Phải rũ sạch tội cũ Bằng cách ngày ba lần
Bị bắt há to miệng Để nuốt đồng đun sôi. Họ phải chịu đau đớn Đến sạch tội mới thôi.
Chín vị tướng tài giỏi Sau thành người đứng đầu Chín tầng của Địa Ngục. Còn binh sĩ về sau
Trở thành lính cai ngục Dữ dằn và vô tâm. Một đội quân đông đúc Thường trực dưới cõi âm.
Diêm Vương, khi đến hẹn, Thông báo với mọi người Giờ chết và cái giá Họ phải trả cho Đời.
Ngài là người chính trực, Xét xử rất công minh. Thiện Ác, Công và Tội Rất có lý, có tình.
Ngài có bà em gái Tên gọi là Ya-mi, Được giao việc cai quản Các tội nhân nữ nhi.
* Địa Ngục, trong tiếng Phạn Gọi là Na-ra-ka. Tiếng Hán là Nại Lạc, Hoặc Na Lạc, Na La.
Người đời, sau khi chết, Tùy theo tội của mình Bị đưa xuống Địa Ngục Để Diêm Vương anh minh
Xét xử theo tội lỗi, Sẽ đày đến tầng nào Trong chín tầng Địa Ngục, Từ tầng thấp lên cao.
Cả chín tầng Địa Ngục Đều khủng khiếp, ngoài ra Có mười sáu ngục phụ, Sâu và rộng bao la.
Trong đó kinh khủng nhất Là ngục gọi A Tỳ, Nơi đầy đọa những kẻ Phạm tội ác cực kỳ.
1 Tầng đầu địa ngục
Ở tầng đầu địa ngục, Sau khi xét, những người Có công ngang bằng tội Được chuyển đến tầng mười.
Tức là tầng, ở đó Sau một thời gian dài Tu niệm Phật, và họ Được chuyển kiếp đầu thai.
Tuy là tầng nhẹ nhất, Tội nhân ở tầng này Chịu cực hình tra tấn, La hét suốt đêm ngày.
Người rượu chè, cờ bạc, Làm người thân đau lòng Phải leo những chiếc cột Được nung đỏ, bằng đồng.
Người giết mổ động vật Để xiên nướng trước đây, Giờ phải nằm giường lửa Trên chông nhọn và dày.
Tội được coi nặng nhất Là tội tự giết mình, Không phụng dưỡng bố mẹ Và chăm sóc gia đình.
Tiếp đến là các tội Bất hiếu, buôn bán gian, Tà dâm và nói dối, Lười biếng, thích an nhàn…
2 Tầng thứ hai
Người phạm tội, khi chết Bị bắt xuống tầng này Càng bị đánh, tra tấn, Đầy đọa suốt đêm ngày.
Mà sự đầy đọa ấy Lặng lẽ dưới cõi âm, Cứ kéo dài liên tục, Một trăm hay nghìn năm.
Sống, lấy que sắt nhọn Xiên động vật, chúng sinh. Chết, bị giáo nung đỏ Đâm xuyên qua người mình.
Đâm đến nát cơ thể, Chết, sống lại, và rồi Lại bị giáo đâm tiếp, Cứ thế mãi không thôi.
Sống, ai dùng dao kiếm, Khiêu khích gây chiến tranh, Cậy mạnh, hiếp kẻ yếu, Làm khốn khổ dân lành,
Thì chết, xuống địa ngục, Một thanh kiếm khổng lồ Sẽ thái mỏng người họ Thành từng miếng nhỏ to.
Ai sống mà ác khẩu, Sẽ bị một lưỡi câu Nung đỏ, móc vào lưỡi, Rồi kéo, như kéo trâu.
Ai khi sống dẫm đạp Những con vật nhỏ nhoi, Thì chết sẽ bị đánh Bằng gậy và bằng roi.
Ai ăn thịt có máu Hoặc phạm tội sát sinh, Người ấy bị thái nhỏ Sau khi chịu nhục hình.
Ai ăn uống phung phí, Để một hạt cơm rơi, Mà không chịu cúi nhặt, Phải ăn một bát dòi.
Loại dòi cứng như đá, Trong nước tiểu, trong phân Luôn bốc mùi hôi thối. Mỗi ngày ăn mười lần.
Người ăn nói hỗn láo, Làm bố mẹ buồn đau, Sẽ bị thiêu trong lửa Và nhúng vào vạc dầu.
3 Tầng thứ ba
Ở tầng này Địa Ngục Tất cả các tội nhân Bị tra tấn, đày đọa Rùng rợn hơn nhiều lần.
Ai làm quan, tham nhũng Và chôm chỉa của đời, Bị dơi và quạ đói Hút hết máu trong người.
Làm quan không liêm khiết, Cướp miếng ăn của dân, Kẻ đào trộm mồ mả, Kẻ phá hoại hôn nhân,
Đều chung một hình phạt Là một sợi xích to Móc vào đầu, bắt kéo Những tảng đá khổng lồ.
Ai bắt cóc phụ nữ Hoặc giở trò hiếp dâm, Sẽ bị treo trên lửa Thiêu sống một nghìn năm.
Cướp tài sản người khác Bằng giấy giả, khai man, Sẽ bị móc hai mắt Và moi hết ruột gan.
Phụ nữ mà dâm loạn, Lẳng lơ với chồng người Sẽ bị rút gân cốt, Giã trong cối suốt đời.
4 Tầng thứ tư
Ở tầng này chủ yếu Giam giữ các tội nhân Đã phạm các trọng tội Khi còn ở dương trần.
Nếu may, được siêu thoát, Lần nữa lại đầu thai, Họ vẫn bị bệnh tật Và xấu xí hình hài.
Kẻ làm, buôn bạc giả, Kẻ phỉ báng thánh thần Sẽ phải chịu tùng xẻo, Bắt đầu từ tay chân.
Kẻ lột da loài vật Hoặc làm nghề sát sinh, Bị bắt cầm dao sắc Để tự lột da mình.
Kẻ cố tình ngược đãi Con riêng của vợ, chồng, Sẽ bị nghiền nát vụn Dưới bánh xe lửa hồng.
Để tranh dành tài sản Mà anh em kiện nhau, Sẽ bị xẻo tai mũi Và lột hết da đầu.
Người đố kỵ, ác khẩu, Đặt điều vu người ngay, Sẽ bị dòi ăn lưỡi, Từng tí một hàng ngày.
Người khi sống lười biếng, Không dạy dỗ con mình, Còn vũ phu với vợ, Hỗn với bố mẹ mình,
Khi chết xuống địa ngục, Bị ném xuống tầng này, Bị nướng trên chảo lửa, Ngâm vào vạc dầu đầy.
5 Tầng thứ năm
Kẻ bội bạc, thất nghĩa, Chuyên lấy oán báo ân, Đầu nghĩ điều thất đức Mà giọng lưỡi ân cần,
Hàng ngày phải chịu cảnh Bầy quỉ đói tranh nhau Móc lục phủ, ngũ tạng, Luộc chín trong vạc dầu.
Kẻ vì tiền, làm giả Thuốc chữa bệnh cho người, Bị bắt nuốt dao kéo Và gươm nhọn suốt đời.
Kẻ đang tâm ăn thịt Và uống máu chó mèo, Sẽ bị ăn, xâu xé Bởi một bầy chó mèo.
6 Tầng thứ sáu
Bị nghiền trong cối đá Nếu mắc tội ngoại tình. Những người nhiều thê thiếp, Suốt đời phải nuốt đinh.
Những ai đã có vợ Còn tán tỉnh vợ người, Thì thận và hòn dái Làm mồi cho lũ dơi.
Ai săn bắn động vật Hay làm vỡ trứng chim, Sẽ bị các loài thú Đến móc mắt, moi tim.
Người đang tâm đánh trẻ, Bị lột hết da đầu, Sau đó, đúng một tháng Bị luộc trong vạc dầu.
Chồng mà nỡ đánh vợ, Thì cả ngày lẫn đêm Bị một bầy quỉ cái Đánh bằng roi da mềm.
7 Tầng thứ bảy
Ai xúi dục người khác Kiện cáo để kiếm tiền, Sẽ bị cắt cụt lưỡi Làm mồi cho kền kền.
Con dâu mà độc ác, Làm hại bố mẹ chồng, Sẽ bị lột quần áo, Bắt nằm trên bàn chông.
Con trai mà nghe vợ, Hỗn với bố mẹ mình, Suốt đời bị tùng xẻo Và chịu các nhục hình.
Bất hiếu là trọng tội, Loại lớn nhất trên đời. Thậm chí cả quỉ dữ Không xem họ là người.
Họ sẽ bị đày đọa Suốt cả đêm lẫn ngày, Và bị kinh tởm nhất Ở tầng địa ngục này.
8 Tầng thứ tám
Tội nhân bị đầy xuống Tầng thứ tám thì thôi, Coi như không lối thoát. Sẽ ở đây suốt đời.
Còn nếu được hóa kiếp, Sau nghìn năm cực hình, Sẽ biến thành ngạ quỉ, May lắm, thành súc sinh.
Những người thích dùng lửa Đốt tổ kiến, tổ ong Hay hun chuột, hun cáo, Giết sinh vật ngoài đồng,
Thì sẽ bị nướng chín Trong một chiếc lò hầm, Lật trên rồi lật dưới, Trong suốt một nghìn năm.
Ở tầng tám Địa Ngục Nhiều hình phạt rợn người Chờ những kẻ phạm tội Khi còn sống ở đời:
Quỳ Bàn Chông sắc nhọn Dành cho kẻ gian tà, Tham nhũng và hối lộ, Chuyên ăn hiếp đàn bà.
Người bị Cắt, Cưa, Xẻ Là hình phạt cho ai Trộm cắp, chơi bạc bịp, Và phụ nữ phá thai.
Bị Rắn Lửa đày đọa Dành cho tội ki bo, Không cúng tiền, bố thí, Chỉ nhận mà không cho.
Uống Nước Đồng Sôi Đỏ, Mà phải uống suốt đời, Là hình phạt cho kẻ Chuyên ác khẩu hại người.
9 Tầng thứ chín
Tầng thứ chín Địa Ngục, Còn gọi là A Tỳ, Là tầng có hình phạt Ghê rợn và cực kỳ.
Đây là tầng sâu nhất, Rộng lớn, nhiều tầng ngầm, Xung quanh rừng rực lửa, Nơi đày đọa nghìn năm
Những kẻ phạm trọng tội, Như tội giết mẹ cha, Mưu mô làm người khác Phải tan cửa nát nhà.
Tội lừa thầy, phản bạn, Cấu kết với ngoại bang, Rước voi dày mả tổ, Giết bà con xóm làng.
Tội đầu cơ lương thực Khi hạn hán, mất mùa. Tội không giúp người đói, Còn bày trò trêu đùa.
Tội làm nhân chứng giả, Dám đặt điều khai man. Tội quan ăn của đút Rồi thiên vị, xử oan.
Tội a dua, nịnh hót, Để chiều lòng bề trên, Tìm mọi cách hãm hại Người hơn mình, tài hiền…
Hình phạt thì ghê gớm, Đến không nói nên lời. Tội nhân phải gào thét Và đau đớn suốt đời.
Họ bị rắn, bọ cạp Gặm từng tí hàng ngày, Người bị ép thành bột, Bị tháo khớp chân tay.
Bị một hòn núi lớn Giã liên tục vào đầu. Bị cởi trần hứng chịu Những trận mưa kim khâu…
* Tầng thứ mười: Qua cầu Nại Hà, ăn cháo đầu thai
Qua chín tầng Địa Ngục, Bị đầy đọa, tội nhân Gột sạch hết tội lỗi, Đầu thai lên dương trần.
Từ Địa Ngục, ma quỉ Đưa họ lên tầng mười, Nơi họ được xem xét Tùy tội và tùy người.
Người phước nhiều ác ít Sẽ đi qua Cầu Vàng. Theo công tội, lần lượt, Cầu Bạc, cầu Ván Ngang.
Cầu cuối cùng đợi họ Gọi là Cầu Nại Hà, Mà ai đầu thai tiếp Cũng phải bước chân qua.
Khi vượt qua cầu ấy, Đích thân Chuyển Luân Vương Tay cầm gậy, thong thả Đi trước để dẫn đường.
Sau đó, mỗi người húp Một bát cháo Mạnh Bà Để quên các kiếp trước Và tội lỗi vừa qua.
Ít người được thoát tội, Lại đầu thai thành người. Phần lớn thành ngạ quỉ Và súc sinh suốt đời.
Thái Bá Tân |
| | | Việt Đường
Tổng số bài gửi : 2141 Registration date : 21/08/2009
| Tiêu đề: Re: Thơ Thái Bá Tân Wed 09 Sep 2020, 17:49 | |
| TỲ BÀ HÀNH
Tư mã Bạch Cư Dị Một thị hào đời Đường Lần nọ có công chuyện Đi qua bến Tầm Dương.
Đêm gió thu lành lạnh Cây phong ngủ mơ màng Dưới trăng lau xào xạc Dòng sông buồn mênh mang.
Chủ khách giờ ly biệt Nâng chén lòng không say Đứng trên thuyền tư lự Buồn cái buồn chia tay.
Bỗng nghe trên mặt nước Vang vọng tiếng tỳ bà Chủ không buồn quay lại Khách không muốn đi xa.
Tiếng đàn sao réo rắt Lúc đùng đục lúc trong Lúc chậm lúc dồn dập Nghe như xé cõi lòng.
Rồi tiếng đàn chợt tắt Người chơi đàn ngừng tay Lặng người Bạch Cư Dị Muốn gặp con người này.
Gọi năm lần bảy lượt Người chơi đàn mới ra Đó là một thiếu phụ Tay ôm chiếc tỳ bà.
Buồn buồn hơi bẽn lẽn Khép vạt áo nàng ngồi Lên dây đàn nhè nhẹ Ngừng một dây và rồi.
Hơi ngẩng đầu chút ít Hơi nhiu nhíu đôi mày Bằng một động tác múa Nàng khẽ chạm vào dây.
Cả không gian chìm đắm Trong tiếng nhạc êm đềm Lúc như giông như bão Lúc mưa phùn ban đêm.
Như châu rơi mâm ngọc Như long lanh giọt sương Lục yêu là bài trước Sau đến bài nghê thường.
Tiếng nhỏ to xen kẽ Rào rào rồi tỉ tê Nghe có tiếng oanh hót Tiếng nước chảy dưới khe.
Tiếng gươm đao loảng xoảng Tiếng ngựa hí sa trường Tiếng phòng the lụa xé Tiếng thầm thì yêu thương.
Chợt đàn đừng bài hết Bạch Cư Dị ôm đầu Choáng váng vì bản nhạc Âm vang lâu rất lâu.
Bốn xung quanh im lặng Mọi người ngồi bần thần Bên ngoài sông bàng bạc Ánh trăng thu trắng ngần.
Người chơi đàn lặng lẽ Cài que đàn vào dây Sửa vạt áo đứng dậy Khẽ cúi chào chắp tay.
*
Là gái kinh kỳ gốc Thiếp đến tuổi mười ba Đã thông thạo các ngón Trong nghề chơi tỳ bà.
Thường được xếp thứ nhất Trong ban hát giáo phường Đàn hay nhiều kẻ phục Nhan sắc lắm người thương.
Hát xong luôn được thưởng Cơ man nào là quà Dân chơi ngũ lăng đến Nghe tặng nhiều lụa là.
Gõ nhịp cành trâm gãy Rượu đổ áo quần hoen Đời dễ dàng vui vẻ Nhiều khi cũng có tiền.
Rồi bỗng dì thiếp chết Em đi lính quan san Tháng năm trôi lặng lẽ Nhan sắc thiếp phai tàn.
Về già thiếp làm vợ Một người lái buôn xa Chồng thiếp lo kiếm lợi Chẳng mấy lúc ở nhà.
Cả tháng nay chồng thiếp Buôn chè ở phù lương Để mình thiếp vò võ Bến sông này mù sương.
Lúc nãy buồn ứa lệ Mới chồn tay cầm đàn Thương một thời son trẻ Một thời nay đã tàn.
*
Thi hào Bạch Cư Dị Trầm tư im lặng ngồi Bùi ngùi lúc nghe nhạc Giờ bùi ngùi gấp đôi.
Một kỹ nữ bạc mệnh Cay đắng kiếp má hồng Như đời ông trôi nổi Đầy vất vả long đong.
Xứ Tầm Dương lạnh lẽo Ông bị bệnh nằm dài Chỉ tiếng quyên rỉ máu Tiếng vượn hót bi ai.
Đất bồn thành ẩm ướt Phải uống rượu một mình Không bạn không tiếng nhạc Trăng kém phần lung linh.
Thế mà rồi bất chợt Được nghe nàng chơi đàn Những tiếng lòng ai oán Của một kiếp hồng nhan.
Thi hào Bạch Cư Dị Quan tư mã Giang Châu Giật mình thấy vạt áo Đẫm Những Giọt Lệ Sầu.
Thái Bá Tân |
| | | Việt Đường
Tổng số bài gửi : 2141 Registration date : 21/08/2009
| Tiêu đề: Re: Thơ Thái Bá Tân Wed 09 Sep 2020, 23:42 | |
| LỤC VÂN TIÊN
1 Cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu Với cuốn Lục Vân Tiên Được người dân Nam Bộ Coi như bậc thánh hiền.
Cụ là người khẳng khái, Rất trọng nghĩa, thương dân, Một tấm lòng yêu nước, Bậc anh tài thơ văn.
Như tính người Nam Bộ, Bộc trực và chân tình, Thơ Cụ tuy mộc mạc, Mà tỏa sáng lung linh.
Là ông đồ, Cụ dạy Đặt “trung hiếu làm đầu,” Phải “dữ răn việc trước” Và “lành dè thân sau.”
“Lục Vân Tiên” được viết Khi Cụ đã mù lòa. Hai nghìn câu lục bát, Dân dã mà thăng hoa.
Tuy công bằng mà nói, Đôi khi, cũng không nhiều, Chắc bí từ, nên Cụ Ép vần, nghe thật yêu.
Đây là cuốn tiểu thuyết Về luân lý, tình thương, Kiểu “văn dĩ tải đạo” Về “đạo nghĩa, luân thường.”
Giờ tôi xin viết lại Cốt truyện Lục Vân Tiên, Một việc làm, tôi nghĩ, Hơi khùng và vô duyên.
Nhưng như Kiều, có lẽ Nó cũng cần cho người Muốn đọc văn thơ cổ Mà lại bận, hay lười.
Thì đây, xin mời đọc Tóm lược cuốn sách này. Tôi nhận mọi phần dở, Nhường Cụ Đồ phần hay.
2 Ở Đông Thành, huyện nọ, Nhờ tu đức, tích hiền, Nhà kia sinh cậu bé Gọi là Lục Vân Tiên.
Cậu lớn lên, khỏe mạnh, Lại chăm chỉ, miệt mài, Nên khi mười sáu tuổi Đã văn võ toàn tài.
Nghe tin vua năm ấy Thông báo mở khoa thi, Chàng xin thầy xuống núi Để ra chốn kinh kỳ.
Dọc đường, chàng chợt thấy Dân “than khóc tưng bừng”, Người lớn và con nít Dắt díu, chạy vào rừng.
Hỏi ra thì mới biết Có phường cướp Phong Lai, Trước tên là Đỗ Dự, “Tụ tập chốn sơn đài”.
Chúng hàng ngày xuống núi, Bọn hảo hớn rừng xanh, Bắt hiếp con gái đẹp, Cướp của người dân lành.
Vân Tiên nghe, tức giận, Tay cầm gậy, nhào dzô, “Liều mình như chẳng có”, Nhắm vào bọn côn đồ.
Phong Lai, tên thủ lĩnh, Thì không kịp trở tay, Đã bị chàng đánh chết. Đáng đời tên cướp này.
Xong, đang định đi tiếp Thì bất chợt chàng nghe Có tiếng phụ nữ khóc, Vẫn còn ngồi trong xe.
Đó là một cô gái, Tất nhiên đẹp tuyệt trần, Vì gái xấu, ta biết, Ít được vào thơ văn.
Nàng là ai, chàng hỏi, “Phận gái có việc gì” Phải đến đây, gặp nạn, “Mà tên họ là chi?”
Nàng kia lạy rồi đáp: “Em là Kiều Nguyệt Nga, Người ở Tây Xuyên quận, Vốn ‘gia giáo con nhà’.
Bố em là tri phủ Miền Hà Khê, cũng gần. Xin mời chàng tới đó Để liệu bề tri ân.”
Lục Vân Tiên từ chối, Thoái thác phải lên đường. Rồi hai người trò chuyện, Rồi lửa tình vấn vương.
Và cuối cùng, dễ hiểu, Chuyện kết thúc thế này: Hai người đã hẹn ước, Dùng dằng tay trong tay.
Nguyệt Nga gỡ mái tóc, Trao cho chàng chiếc trâm, Cùng lời thề son sắt, Tri ngộ và tri âm.
Đến đây, cụ Đồ Chiểu Dành một đoạn khá dài Để tả cảnh ly biệt, Cũng đượm mùi bi ai.
Cả chuyện nàng xướng họa, Chàng đối, thật dễ thương. Ta bây giờ sống vội, Xưa chuyện ấy bình thường.
Tự tay nàng còn vẽ Bức chân dung của mình, Để chàng xem, đỡ nhớ. Đúng là thật có tình.
3 Lục Vân Tiên đi tiếp, Trên đường ra kinh kỳ Chàng gặp một nhân vật Cao lớn, “mặt đen sì”.
Cũng là một sĩ tử, Tên gọi là Hớn Minh, Quê ở Ô Mi huyện, Tài giỏi và thông minh.
Ở đời, như ta thấy, Ai dị thường, khác người, Thường là bậc tài giỏi, Một dạng con nhà trời.
Rất tâm đầu, ý hợp, Không phân tài thấp cao, Hai người vào võ miếu, Cùng kết bạn tâm giao.
Chàng Hớn Minh đi tiếp, Vân Tiên ghé về nhà Bấy lâu nay xa cách, Tiện đường, thăm mẹ cha.
Thật vui và cảm động Cảnh đoàn viên gia đình. Trước khi chàng khăn gói Lại lên đường về kinh,
Cha chàng cho chú nhóc Đi theo hầu, giúp chàng Cùng một bức thư nhỏ Gửi bạn ở Hàn Giang.
Ông là Võ Hồ Việt, Có con Võ Thể Loan, Tuổi “mới hai lần bảy”, “Mặn mà đường dung nhan.”
Tiếp đến là một đoạn Tả cảnh vật vui tươi, “Trên nhành chim đang hót”, “Dưới ao cá mỉm cười.”
Hàn Giang “cảnh thật đẹp,” “Gió đưa xuân sang hè” “Thong dong đường dặm liễu”, Đất trời “rộn tiếng ve.”
Vân Tiên được Hồ Việt Tiếp đón rất ân cần. Đọc xong thư bạn viết, Tình thân càng thêm thân.
Nên ông đã có ý Gả con gái cho chàng, Sau khi ngầm xem xét Tướng mạo rất kỹ càng.
Ta xem Cụ Đồ tả: “Chàng mắt phụng, môi son”, Tinh thần và cốt cách Đúng “mười phân vuông tròn”.
Rồi chủ nhà cho gọi Một người trẻ, họ Vương, Có tên là Tử Trực, Vốn giỏi bề văn chương.
Tử Trực là hàng xóm, Lần này cùng đi thi. Vui vẻ cuộc tao ngộ, Đua khoe chuyện cầm kỳ.
Sau đó họ kết nghĩa, Đồng môn và đồng hành. Lục Vân Tiên sắc sảo Nên được tôn làm anh.
Được cha dặn từ trước, Nàng Thể Loan dễ thương Dậy sớm rồi tô điểm Tiễn Vân Tiên lên đường.
Hoàn toàn không úp mở Mà thẹn thùng cũng không, Nàng tỏ ý muốn lấy Lục Vân Tiên làm chồng.
Lại còn dặn chàng nhớ “Đừng tham đó bỏ đăng” “Không ham lê nhạt lựu” Và “có đèn quên trăng.”
Nhưng Vân Tiên im lặng. Chàng chưa quên Nguyệt Nga. Thế mới biết, đôi lúc Rất vô duyên, đàn bà.
4 Lục Vân Tiên đi tiếp. Lần này đi cùng chàng Còn có Vương Tử Trực, Nên vui và nhẹ nhàng.
Hai người bạn đàm đạo Đủ mọi chuyện xưa nay, Đến mức tới kinh phủ Tự lúc nào không hay.
Ở đấy, họ kết bạn Với hai người đi thi Là Trịnh Hâm, Bùi Kiệm Lúc vừa đến kinh kỳ.
Ở chung một quán trọ, Bốn người bạn cùng nhau Đàm đạo đủ mọi chuyện, Rất ý hợp tâm đầu.
Nhưng Trịnh Hâm, xấu bụng, Thấy chàng Lục Vân Tiên Giỏi hơn mình mọi mặt Nên đem lòng thầm ghen.
Cuối cùng kỳ thi đến, Người đổ về rất nhiều. Phố xá thành chật hẹp, Toàn những chõng với lều.
Bỗng nhiên có tin dữ: Mẹ chàng mất, và chàng Lại khăn gói vội vã Kíp về nhà chịu tang.
Bạn bè xúm đưa tiễn, Trong đó có Trịnh Hâm. Hắn nói lời ngon ngọt, Mà đen tối trong tâm.
Ai cũng lấy làm tiếc Rằng chàng nhỡ khoa thi, Thôi thì đành, lần khác. Chàng vội rời kinh kỳ.
5 Đường về xa dằng dặc. Mới đi được mười ngày, Chàng thấy người khó chịu, Mắt sưng và cay cay.
Tiếp đến, chàng ốm thật, Phải lo đường thuốc thang, Rồi nhờ người ta mách Gặp được thầy Triệu Ngang.
Ông thầy này, thật tiếc, Nói một tấc đến trời, Thuốc rởm, giá lại đắt, Nên bệnh chàng không vơi.
Thế là chàng rốt cục “Tiền mất, bệnh vẫn còn,” Nơi quê người đất khách, “Xép ruột tằm héo hon”.
Vân Tiên, mù hai mắt, Được tiểu đồng dắt đi, Trải qua trăm nỗi khổ - Quả không thiếu nỗi gì.
Theo lời Cụ Đồ Chiểu, Họ gặp nhiều “tai nàn”, Tức là nhiều tai nạn. Ôi, gian nan, gian nan
Là cái việc tìm chữ Và tìm vần cho thơ. Cụ Chiểu xưa còn thế, Nói gì tôi bây giờ.
Nên đời tôi khốn khổ, Nay tóc bạc ba phần, Bụng to, chân teo tóp, Cũng chỉ vì tìm vần.
Lúc mặt trời vừa lặn, Họ tới được Đại Đề, Cũng là khi sĩ tử Thi xong, từ kinh về.
Trịnh Hâm trong số đó. Hắn gặp chàng, cho hay Tử Trực đỗ đầu bảng, Danh giá nhất lần này.
Còn hắn và Bùi Kiểm Chỉ đỗ hàng cử nhân. Lần nữa hắn thơn thớt Nói toàn chuyện nghĩa, ân.
Hắn còn hứa giúp đỡ Vân Tiên và tiểu đồng Về nhà không vất vả, Bằng thuyền, theo đường sông.
Hắn rủ rê chú nhỏ Vào rừng tìm lá cây Để chữa mắt cho chủ, Và rồi, giữa rừng dày
Hắn trói chú, tội nghiệp, Vào một gốc dương to: “Chú mày đứng đây nhé, Đợi đến lúc hổ vồ!”
Đêm hôm ấy, ngủ thiếp, Sơn Thần động lòng thương, Cởi trói, cho ăn uống Rồi đưa chú ra đường.
Chú quay về tìm chủ, Tìm hỏi mãi, người ta Bảo có người ốm nặng Vừa mới chết hôm qua.
Xét theo lời mô tả, Chú đoán Lục Vân Tiên Đã chết thật, và chú Đòi ra xem mộ liền.
Chú vật vã than khóc Bên “nầm mồ le te”, Rồi quyết định ở lại Suốt đời không về quê,
Để sớm chiều rau cỏ, Chăm sóc mộ chủ mình. Một chú bé thật tốt, Chí nghĩa và chí tình.
Trong khi đó, lại nói, Trịnh Hâm lừa Vân Tiên, Chú bị hổ ăn thịt. Chàng tin, rất ưu phiền.
Rồi chàng, được hắn dắt, Cùng đi ra bờ sông, Nhân khi chàng sơ ý, Xô ngã xuống giữa dòng.
6 Một số phận oan nghiệt, Một kiếp đời đắng cay. Lục Vân Tiên, thử hỏi, Sao phải chịu điều này.
Tôi nhớ hồi còn nhỏ, Bà ngoại đọc tôi nghe, Đến đoạn này, bà khóc, Nước mắt ướt dầm dề.
Nghe nói thời con gái Bà đã học thuộc làu Tập thơ này đồ sộ, Những hơn hai nghìn câu.
Thế mà tôi, học giả, Nhiều lắm được mươi dòng. Đến cháu tôi, có lẽ Con số là số không.
Ừ, mà sao thế nhỉ? Có cớ để băn khoăn. Thực tế là, vốn cổ Đang bị lãng quên dần.
Nhưng mà thôi, quay lại Với chàng Lục Vân Tiên. Hy vọng trời thương xót Những ai ăn ở hiền.
Vậy là, lòng hiểm độc, Trịnh Hâm đã xô chàng Ngã xuống dòng nước xiết Con sông dữ Hàn Giang.
May trời còn có mắt, Vội cho thần Giao Long Kíp bơi đến cứu vớt, Đưa chàng lên bờ sông.
Lúc ấy trời vừa rạng, Có ông ngư phủ già, Thấy thế, liền thương hại, Đưa chàng vào trong nhà.
Vợ chồng ông nhóm lửa Sưởi cho chàng ấm thân, Còn lựa lời an ủi, Cho uống rồi cho ăn.
Họ mời chàng ở lại, “Ngươi hãy sống cùng ta,” Dù bữa no, bữa đói, Nhưng “vui cửa, vui nhà.”
Không còn cách nào khác, Chàng ở lại mấy ngày, Tình cờ, chàng được biết Rằng cũng ở gần đây
Là nhà Võ Hồ Việt Và con gái Thể Loan, Vốn nơi quen biết cũ, Tình xưa cũng nồng nàn.
Chàng nhờ lão ngư phủ Đưa đến gặp Võ Công. Ông kia khuyên cẩn thận, Vì ai thấu ai lòng.
“Chớ tin sông bến cũ,” “Mấy ai người hảo tâm,” Ít người “khi gặp nắng, Còn nhớ lúc mưa dầm.”
Chàng không nghe, ông lão Đành phải đưa chàng đi. Tới nơi, thấy người cũ, Võ Công không nói gì.
Hắn tìm gặp con gái, Bảo Vân Tiên đã về, Nhưng mù hai con mắt, Lại rách rưới, ủ ê,
Và rằng nàng có muốn Lấy anh ta làm chồng? Thể Loan nhăn nét mặt, Không một chút động lòng.
“Làm sao con có thể Lấy một thằng mù lòa, Để khổ đau, nhục nhã, Để phí một đời hoa?
Nghe nói chàng Tử Trực Lần này là khôi nguyên. Vậy, con chờ đến lúc Được cùng chàng nên duyên.”
Cha nàng nghe nói vậy Liền hứa với Vân Tiên Đưa chàng về quê cũ Cũng đường sông, bằng thuyền.
Rồi ngay đêm hôm ấy, Khi trống điểm canh ba, Chàng lên thuyền cùng hắn Và một lũ lâu la.
Thuyền cứ đi, đi mãi, Chầm chậm theo dòng sông, Bốn xung quanh trời tối, Thuyền đến hang Thương Tòng.
Đó là một hang tối, Rất sâu, cây mọc dày. Lục Vân Tiên bị chúng Bỏ một mình ở đây.
Đã mù lòa, lại ốm, Hỏi chàng biết làm gì Ngoài việc chờ chết đói, Ôi lòng người thị phi.
Trong, “lưng dựa phiến đá”, Ngoài, “lác đác mưa rơi”, Gió lạnh như cắt thịt, “Đói khát năm ngày trời.”
Chợt Du Thần nhìn thấy, Bèn đem lòng xót thương, Đưa chàng ra khỏi động, Đặt nằm bên vệ đường.
Vô tình cũng lúc ấy Có một lão tiều phu Đi ngang qua, nhìn thấy, Động lòng thương người mù,
Lấy thức ăn của lão Cho chàng ăn no nê, Rồi dẫu thân già yếu Lão cõng Vân Tiên về.
Trên đường về nhà lão Họ bỗng gặp vô tình Một người rất to lớn, Thi ra là Hớn Minh.
Hớn Minh kể trước đó, Trên đường ra kinh kỳ, Gặp con quan họ Đặng, Cậy thế giàu, khinh khi,
“Hắn ngang nhiên ỷ thế, Cưỡng con gái thường dân” Chàng tức giận, quật ngã, Còn “bẻ gãy một chân”.
Rồi bị quan phủ bắt, “Án đày ra Sóc Phang,” Chàng vượt ngục, tìm đến Ngôi chùa bên Hàn Giang.
Chàng mai danh ở đó Một mình bấy lâu nay. Đúng là trời run rủi Cho gặp nhau nơi này.
Chàng lấy hai lạng bạc, Quỳ lạy, đưa ông già, Mong đền ơn cứu bạn, Một chút ít gọi là.
Ông lão không chịu nhận, Cáo lỗi, vào rừng ngay Để còn kiếm chút củi Ra kịp bán chợ ngày.
Hớn Minh liền đưa bạn Về am chùa của mình, Cho ăn uống, nghỉ dưỡng, Chăm sóc rất tận tình.
7 Lại nói, thi lần ấy, Tử Trực đỗ thủ khoa, Rồi ngựa xe, cờ trống, Chàng vinh qui về nhà.
Võ Công cho chàng biết Rằng bạn chàng, Vân Tiên, Không may ốm, đã chết, Rằng “đứt gánh nhân duyên.”
Hắn còn vờ than khóc, Thương tiếc chàng khôn nguôi, Rồi an ủi Tử Trực: “Thôi, thì việc đã rồi,”
“Tủi duyên hai con trẻ,” Ta cũng thương lắm thay. Tử Trực nay đã đến, Thì “xin ở lại đây,”
Để cùng con gái lão, “Sớm sum vầy thất gia.” Tử Trực nghe, tức giận Bèn quát bảo lão già:
“Hồ đồ, lão thừa biết Ta và Lục Vân Tiên Đã kết tình huynh đệ, Từng ‘giao ước lời nguyền.’
Lão hứa gả con gái Cho Vân Tiên từ đầu, Thể Loan, nay chàng chết, Với ta là chị dâu!”
Khác với “loài cầm thú”, Người “nặng tình nhân duyên”, Ta không phải Lã Bố, Đừng chơi thói Điêu Thuyền!”
Võ công nghe, xấu hổ, Ốm nặng, nằm thu lu, Được năm ngày thì chết, Để tiếng xấu nghìn thu.
Tử Trực lau nước mắt, Sắm lễ tới Đông Thành Để thăm viếng nhà bạn Nhỡ con đường công danh.
8 Trong khi đó, lại nói, Bố con Kiều Nguyệt Nga Sống ở Hà Khê huyện Rất phẳng lặng, yên hòa.
Bố nàng được cất nhắc Lên hàng chức thái khanh, Rồi vua ban chiếu chỉ Chuyển sang huyện Đông Thành.
Ở đấy, nàng được biết Ốm nặng, Lục Vân Tiên Đã chết, nằm đâu đó, Thế là nhỡ tình duyên.
Nàng vô cùng đau khổ, Khóc, thưa với Kiều ông, Rằng một khi đã vậy Nàng quyết không lấy chồng.
Rằng “lẻ bầy loan phụng”, “Thân con đứng giữa trời”, Xin “giữ trọn tiết hạnh”, “Con thờ chàng suốt đời!”
Đúng là gương tiết nghĩa Về tứ đức, tam tòng. “Tòng phu” với người chết, Thậm chí chưa là chồng!
Ở triều đình lúc ấy, Thái sư rất quyền hành, Nghe tiếng nàng xinh đẹp, Đem lễ đến Đông Thành
Xin cưới nàng làm vợ Cho con trai của mình. Nhưng nàng quyết không chịu, Thà một lòng quyên sinh.
Tức giận vì trả lễ, Thái sư bắt Nguyệt Nga Đem làm lễ dâng tặng Cho vua nước Ô Qua.
Khi thuyền tới biên giới, Nàng gieo mình xuống sông, Quyết một lòng tuẫn tiết, Vì đạo nghĩa vợ chồng!
“Quân hầu đều đã ngủ, Vân Tiên, chàng có hay, Tình trăm năm gửi lại, Một chút ở sông này!”
Quên một điều chưa nói: Để nhớ người phương xa, Nàng tạc bức tượng nhỏ, Luôn giữ nó, vậy là
Nhảy xuống sông lần ấy Nàng mang theo Vân Tiên Để suối vàng, dưới ấy, Cùng hội ngộ nhân duyên.
Lần nữa trời có mắt: Phật Quan Âm động lòng, Cho sóng dâng, nàng nổi, Dạt vào vườn Bùi Công.
Bùi Công, cha Bùi Kiệm Vốn trước cùng đi thi, Cùng Vân Tiên, Tử Trực, Gặp nhau chốn kinh kỳ.
Bùi Công, vốn nhân ái, Nhận nàng làm con nuôi. Mấy ngày sau Bùi Kiệm Trở về nhà, và rồi
Thấy Nguyệt Nga xinh đẹp, Bèn đem lòng thương yêu. Nàng từ chối, không được, Nên quyết định phải liều.
Đêm khuya, nàng bỏ trốn, “Qua truông, lại lên đèo”, “Giày sành, đạp đá sỏi”, “Dế ri rỉ, sương gieo...”
Gần sáng, nàng bỗng gặp Chống gậy, một bà già. Bà hỏi: “Đây có phải Là nàng Kiều Nguyệt Nga?”
Số là đêm trước đấy, Bồ Tát báo về nàng, Dặn bà phải đi đón Và hết lòng cưu mang.
Bà làm nghề dệt vải, Sống trong làng gần đây. Dẫu lòng còn nghi vấn, Nàng đi theo bà này.
9 Lại nói, ở chùa nọ, Nơi chàng Lục Vân Tiên Cùng Hơn Minh sống ẩn Như một đôi bạn hiền.
Một đêm, đang say ngủ, Chàng mơ thấy tiên ông Đưa cho mấy viên thuốc, Sáng dậy, vừa uống xong,
Lập tức mắt sáng hẳn, Sáng như người bình thường. Chàng liền sụp xuống đất, Ơn Phật rủ lòng thương.
Vậy là, chao, thấm thoắt Đã sáu năm trôi qua, Chạnh lòng nhớ quê cũ, Chàng “muốn trở về nhà.”
Hớn Minh đưa tiễn bạn Đi hơn ba dặm đường, Rồi trở lại am cũ Mịt mùng trong bóng sương.
Vân Tiên đi một tháng Mới về tới Đông Thành. Thật may, còn đang sống, Dẫu chưa tròn công danh.
Rồi mừng mừng, tủi tủi Cảnh sum họp gia đình. Hàng xóm đến đông đúc, Ăn ở thật có tình.
Chàng được cha cho biết Rằng nhờ nàng Nguyệt Nga Luôn giúp đỡ tiền bạc, Nên “đỡ khó việc nhà.”
Vân Tiên mang lễ mọn Đến tạ nhà Kiều Công, Nghe ông già kể chuyện Mà đau thắt trong lòng.
10 Quyết sôi kinh, nấu sử, Miệt mài học, Vân Tiên Trong kỳ thi tiếp đó Đã đỗ đầu Trạng Nguyên.
Vua liền ban áo mũ, Được vinh quy về nhà. Sau đó có chiếu chỉ Đi dẹp giặc Ô Qua.
Vân Tiên là chánh tướng, Phó tướng là Hớn Minh, Người được vua tha tội, Cho gọi về triều đình.
Đến đây, Cụ đồ Chiểu Tả một đoạn khá dài Về các trận giao chiến Của các vị tướng tài.
“Tướng Phiên có hai gã, Hỏa Hổ và Thần Long”, Phe ta có “hổ tướng Hớn Minh đi tiên phong.”
Nơi khác thì “Cốt Đột Bị Vân Tiên đuổi theo” Bỏ gươm giáo mà chạy, Những “sáu núi, bảy đèo”.
Rồi hắn bị chàng chém. Ta thắng trận, hả hê, Nhưng Vân Tiên mãi đuổi, Bị lạc đường quay về.
Trong rừng sâu, đi mãi, Cuối cùng gặp ngôi nhà, Chàng xuống ngựa, vào hỏi, Thì gặp Kiều Nguyệt Nga.
Vậy là kết có hậu. Nguyệt Nga và Vân Tiên, Sau rất nhiều oan trái, Thành chồng tốt, vợ hiền.
Rồi triều đình biết chuyện, Cho trả oán, đền ân. Do làm điều sai trái, Thái sư thành thường dân.
Trịnh Hâm đáng tội chết, Nhờ khéo nói, được tha. Nhưng thuyền chìm, chết đuối Khi hắn trở về nhà.
Rồi ông lão chài lưới Và tiều phu, tiểu đồng, Cùng cụ bà dệt vải Đều được thưởng, tùy công.
Theo lời Cụ đồ Chiểu, “Thằng Bùi Kiệm máu dê”, Xấu hổ vì tán gái, “Mặt chảy như lợn xề”.
Kiều Công bị oan trái, Được phục hồi chức danh, Và lại làm tri phủ Ở huyện cũ, Đông Thành.
Kiều Nguyệt Nga tiết hạnh Được phong Quận Chúa Bà. Cũng “kiệu vàng, lọng bạc” Được vinh quy về nhà...
11 Vậy là tôi chép hết, Không sai, sót ý nào, Một áng thơ dân tộc, Dân dã mà thanh tao.
Thơ cụ Nguyễn Đình Chiểu, Như phượng múa, long vần. Thơ của tôi, thật tiếc, Là văn nói có vần.
Vì thế, chất nghệ thuật Chẳng lấy gì làm cao. Chỉ là bài tóm lược, Đành thế, biết làm sao.
Lần nữa, mong bạn trẻ Đọc vốn cổ cha ông. Tạm thời đọc tóm lược, Kẻo tôi buồn mất công.
Rồi nhất thiết phải đọc Nguyên bản tập thơ này. Xin nhắc lại: Thơ Cụ Dân dã mà rất hay.
Thái Bá Tân |
| | | Việt Đường
Tổng số bài gửi : 2141 Registration date : 21/08/2009
| Tiêu đề: Re: Thơ Thái Bá Tân Wed 09 Sep 2020, 23:49 | |
| ĐẦU NĂM, NÓI CHUYỆN ĐẠO
1 SƠ LƯỢC LỊCH SỬ
Phật Giáo được du nhập Vào Việt Nam nước ta Trực tiếp từ Ấn Độ, Khoảng thế kỷ thứ ba (trước CN).
Từ Buddha, tiếng Phạn - Bậc Giác Ngộ Tối Cao, Lúc ấy dịch thành Bụt, Trong cổ tích, đồng dao.
Do ảnh hưởng Trung Quốc, Về sau từ Buddha Gọi là Phật, Đức Phật, Phật Đồ hoặc Phật Đà.
Tương truyền Chử Đồng Tử Học đạo nhiều năm liền Một nhà sư Ấn Độ Thời kỳ đầu Công Nguyên.
Thủ phủ quận Giao Chỉ Ngày ấy là Luy Lâu, Thành trung tâm Phật Giáo, Ở Bắc Ninh, Chùa Dâu.
Chùa còn lưu truyền thuyết Về sư Khâu Đà La, Về Man Nương Phật Mẫu Và Thạch Quang Phật Đà.
Đạo Phật được phổ biến, Gần như khắp toàn dân Vào thời điểm cực thịnh, Đời nhà Lý, nhà Trần.
Nhưng sau đó Nho Giáo Lại lấn lướt mọi bề. Phật Giáo bị o ép, Suy thoái, thời Hậu Lê.
Cuối thế kỷ mười chín Phật Giáo mới bắt đầu Được chấn hưng trở lại Từ trung tâm Chùa Dâu.
Theo số liệu chính thức, Hiện có bảy triệu người Là tín đồ Phật Giáo, Sống nửa đạo nửa đời.
2 THIỀN TÔNG
Đầu thế kỷ thứ sáu, Sư Bồ Đề Đạt Ma, Vốn gốc người Ấn Độ, Thành lập ở Trung Hoa
Một tông phái Phật Giáo Được gọi là Thiền Tông. Thiền là Tâm tĩnh tại. Tiếng Hán gọi là Zen.
Theo Thiền Tông, Phật tử Phải dành nhiều thời gian Ngồi định thiền, bất động Để chứng Phật Niết Bàn.
Cuối thế kỷ thứ sáu, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Nhà sư gốc Ấn Độ Đến làm sư trụ trì
Một chùa ở Giao Chỉ, Là Chùa Dâu hiện nay. Và ông đã thành lập Thiền Tông Việt ở đây.
Dòng Thiền Tông thứ nhất Vậy là đã ra đời, Hình thành và phát triển Liên tục mười chín đời.
Đầu thế kỷ thứ chín, Thiền sư Võ Ngôn Thông, Cũng là người Trung Quốc, Lập thêm một Thiền Tông.
Trung tâm tông phái ấy Vốn là chùa Kiến Sơ Trên đất xã Phù Đổng, Huyện Gia Lâm bây giờ.
Dòng Thiền Tông kế tiếp, Tức là dòng thứ ba, Do một người Trung Quốc Là Thảo Đường lập ra.
Thảo Đường vốn là tướng Bị bắt ở Chăm-pa, Được vua Trần giải cứu Nhưng không về Trung Hoa,
Mà xin được ở lại Để khất thực hàng ngày, Rồi trụ trì, truyền đạo, Chùa Trấn Quốc, Hồ Tây.
Năm Một Hai Chín Chín, Đức vua Trần Nhân Tông, Cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ, Đã từ bỏ ngai rồng
Lên tu núi Yên Tử, Và chỉ trong mấy năm Tập hợp các Thiền Phái, Lập Thiền Phái Trúc Lâm.
Thiền Phái Trúc Lâm ấy Đánh dấu một mốc vàng Trong Phật Giáo dân tộc, Với vua là Phật Hoàng.
3 TỊNH ĐỘ TÔNG
Tịnh Độ Tông là phái Thịnh hành ở nước ta, Tu dựa trên tha lực Của Phật A-di-đà.
Có một nơi tách biệt, Xa thế giới con người, Là Thế Giới Cực Lạc, Bất tử và chói ngời.
Đây là chốn thanh tịnh, Phong cảnh đẹp bốn mùa. Mọi người tích đức phước Bằng hành lễ nhà chùa.
Vì là nơi cực lạc, Không ai phải khổ đau Vì luân hồi, chuyển kiếp, Hạnh phúc sống bên nhau.
Để đến được nơi ấy, Đầy ánh sáng và hoa Phật tử luôn tụng niệm Nam Mô A-di-đà.
4 ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA
Đại Thừa, âm Hán - Việt Là Ma Ha Diễn Na, Bắt nguồn từ tiếng Phạn Ma-ha-y-a-na.
Đại, ta biết, là lớn. Thừa nghĩa là bánh xe. Tức là Bánh Xe Lớn Chở Đạo Phật đi về.
Tiểu Thừa, theo tiếng Phạn, Hi-na-y-a-na, Tức là Bánh Xe Nhỏ, Truyền thừa đạo Thích ca.
Cả hai, Đại và Tiểu, Đều có chung một nguồn Từ người khởi xướng Đạo, Là Phật, Đức Thế Tôn.
Sự khác nhau chủ yếu Chỉ ở cách thực hành Các giáo pháp Đạo Phật Và ở cách xưng danh.
Nhật, Việt Nam, Trung Quốc Thuộc về dòng Đại Thừa. Miến Điện, Miên, Lào, Thái Lại theo dòng Tiểu Thừa.
Chùa Đại Thừa mái ngói, Luôn cổ kính, rêu phong. Chùa Tiểu Thừa mái nhọn Thường được mạ vàng ròng.
Áo vàng và khất thực Chỉ là sư Tiểu thừa. Áo nâu, không khất thực Thường là sư Đại thừa.
Đáng tiếc, vẫn âm ỉ Mối bất hòa từ xưa Giữa hai phái Đạo Phật, Đại Thừa và Tiểu Thừa.
Cái tên Đại và Tiểu Dễ hiểu lầm, mất lòng Nên người ta còn gọi Là Bắc Tông, Nam Tông.
ĐẦU NĂM, NÓI CHUYỆN ĐẠO - 2
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát - là viết tắt Phát âm sang tiếng ta, Chữ Bồ Đề Tát Đóa. Gốc - Bodhisatva.
Bồ Tát là những bậc Trí huệ và từ bi, Giúp chúng sinh giác ngộ, Thoát vòng Tham Sân Si.
* Quán Thế Âm Bồ Tát, Avalokitesvara, Một vị Đại Bồ Tát, Chỉ sau Phật Thích Ca.
Quán thế âm, tiếng Hán, Là thấu mọi âm thanh, Để nghe, hiểu, an ủi Và cứu độ chúng sinh.
Ở Việt Nam, Trung Quốc, Cũng có thể do nhầm, Ngài được gọi cách khác, Ngắn gọn là Quan Âm.
Ngài là vị Bồ Tát Của tấm lòng vị tha, Với trăm tay nghìn mắt, Ngự ở cõi Ta Bà.
Ngài linh hiển, xuất hiện Dưới dạng một Phật Bà Ở thế đứng, nhìn xuống, Hoặc ngự trên đóa hoa.
Tay trái Ngài đôi lúc Cầm lọ nước Cam Lồ Để rót xuống cõi thế Giúp loài người ấm no.
MƯỜI HAI LỜI NGUYỆN CỦA QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
1 Quán Thế Âm Bồ Tát Là ta, từ hôm nay, Ta nguyện nghe, thấu hiểu Cứu giúp cõi đời này.
2 Ta nguyện phát tâm thiện, Có mặt ở Biển Đông, Cứu giúp người đi biển Trong bão táp, mưa dông.
3 Chúng sinh đang chìm đắm Trong đau khổ triền miên. Ta nguyện, nghe tiếng họ, Sẽ hạ giới, ngồi bên.
4 Đời còn nhiều yêu quái, Gây lắm trò nhiễu nhương. Ta nguyện giác ngộ chúng, Không làm hại dân thường.
5 Ta nguyện sẽ thấu hiểu Để tưới nước Cam Lồ Cho chúng sinh, vạn vật Tươi mát và ấm no.
6 Ta nguyện không ngưng nghỉ Phát Tâm Bồ Đề Thiền Để thương yêu tất cả, Không phân biệt sang hèn.
7 Dưới chín tầng địa ngục Bị đầy đọa nhiều người. Ta nguyện sẽ cứu họ Sớm trở lại cõi đời.
8 Nhiều người bị giam giữ, Tù gông, chết mỏi mòn. Ta nguyện sẽ cứu họ, Cả thể xác, tâm hồn.
9 Phép tu hành vất vả, Thuyền Bát Nhã gian nan, Ta nguyện giúp Phật Tử Cập được bến Niết Bàn.
10 Ta nguyện đưa Phật Tử Trong tiếng nhạc và hoa Tới Tây Phương Cực Lạc Của Phật A Di Đà.
11 Ta nguyện nhắc Phật Tử Muốn đến được Tây Phương Phải tinh tấn tụng niệm Trong cuộc sống đời thường.
12 Mười hai lời Đại Nguyện Được phát từ tâm ta. Ta nguyện sẽ thực hiện Ở cõi đời Ta Bà.
ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN ĐẠO - 3
ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
Địa Tạng Vương Bồ Tát Là vị Bồ Tát Vương Được tôn thờ chủ yếu Ở Phật Giáo Đông Phương.
Ngài, theo các Kinh Phật Chính là Mục Kiền Liên, Một “Thập Đại Đệ Tử” Của Thích Ca đại Thiền.
Ngài đã từng phát nguyện Cứu độ các chúng sinh Bị đày dưới Địa Ngục, Còn gọi chốn U Minh.
Hơn thế, Ngài còn nguyện Không đắc đạo một khi Còn người bị đày đọa Dưới Địa Ngục, âm ty.
Trong văn hóa Nhật Bản, Bồ Tát Địa Tạng Vương Còn là thần bảo trợ Những đứa trẻ đáng thương
Bị đau ốm, bệnh tật, Hoặc chết trong bào thai. Tất cả trẻ, lớn nhỏ, Bình an trong tay Ngài.
Ngài thường được miêu tả Dưới dạng một nhà sư Đầu trọc có vầng sáng, Khuôn mặt đẹp, nhân từ.
Một tay cầm tích trượng Để mở cửa cõi âm. Tay kia - Ngọc Như Ý Phát sáng, xua tối tăm.
SỰ TÍCH LỄ VU LAN
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo, Báng bổ cả người hiền.
Bà không tin Đức Phật, Không tin cả Pháp, Tăng. Tam Bảo và Ngũ Giới, Bà cho là nhố nhăng.
Nên bà, sau khi chết, Vì tội lỗi của mình, Bị đày xuống địa ngục, Chịu bao nỗi cực hình.
Về sau thành La Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên, Đạt lục thông, ngũ nhãn, Nhìn thấu hết mọi miền.
Ông thấy mẹ đang đói Dưới địa ngục âm u, Bát cơm ăn chẳng có, Bị đói khát, cầm tù.
Ngay lập tức tôn giả Liền mở phép thần thông, Lần xuống đáy địa ngục, Đưa cơm cho mẹ ông.
Bà này khi còn sống Từng tranh ăn với con, Bây giờ xuống địa ngục Thói xấu ấy vẫn còn.
Bà vội lấy vạt áo Che bát cơm to đầy, Định lẻn đi ăn mảnh Một mình sau gốc cây.
Nhưng vừa đưa lên miệng, Bát cơm ấy, than ôi Đã biến thành cục lửa, Cháy hết răng và môi.
Vốn là người hiếu thảo, Lại đệ nhất thần thông, Mà tôn giả bất lực, Không giúp được mẹ ông.
Ông quay về Tịnh Xá Tìm gặp Phật Thích Ca, Nhờ Ngài chỉ giùm cách Cứu giúp bà mẹ già.
Đức Phật nghe rồi đáp: “Mẹ ngươi quá lỗi lầm, Nên ngươi không thể cứu. Chờ tháng Bảy, ngày Rằm,
Ngày chư Phật hoan hỷ, Hãy làm lễ Vu Lan. Mời chư tăng đến dự, Mâm cỗ phải đầy bàn.
Trước hết cúng Tam Bảo, Rồi sau mời mọi người. Họ ăn xong, hy vọng Sẽ cứu được mẹ ngươi.”
Ngay lập tức tôn giả Đúng theo lời Thích Ca, Làm lễ Vu Lan lớn, Cứu được người mẹ già.
Và mọi người từ đấy, Vào ngày này hàng năm, Tổ chức lễ xá tội Cho tổ tiên lỗi lầm.
Về sau, chính tôn giả Đã tự nguyện thành người Trông coi chuyện âm phủ Đầy oan trái sự đời.
Khi làm lễ xá tội Cho tổ tiên lầm đường, Người ta cúng tôn giả Và Bồ Tát Địa Vương.
Thái Bá Tân |
| | | Việt Đường
Tổng số bài gửi : 2141 Registration date : 21/08/2009
| Tiêu đề: Re: Thơ Thái Bá Tân Sun 11 Oct 2020, 22:37 | |
| Việt Nam lược sử diễn ca MẠC ĐĂNG DUNG (1483 – 1541)
1 Theo truyền thuyết kể lại, Thì xưa Mạc Đăng Dung Vốn dòng dõi quyền quí Nhưng sau thành bần cùng.
Ông làm nghề đánh cá, Bố mẹ nghề chèo đò. Bến sông ấy rất rộng, Thường sóng lớn, gió to.
Có một thầy địa lý, Nghe đâu là người Tàu, Được hai người cứu sống, Nên mang nặng ân sâu.
Để trả ơn, họ mách Phải táng mộ ông bà Vào chỗ có long mạch, Sau sẽ thành vương gia.
Mạc Đăng Dung lập tức Đem cốt tổ tiên mình Táng vào nơi được chỉ, Mong có ngày hiển vinh.
Năm sau, thầy địa lý Quay lại và bảo ông Đem một quan tiền mới, Tức đúng một trăm đồng
Ra ngồi trên con dốc Cách không xa bến đò, Thấy ai vác chữ “khẩu” Trên lưng mình, thì cho.
Ông chờ mãi, chỉ thấy Một ông lão ra sông, Đeo trên vai chiếc dặm. Ông cho ba mươi đồng.
Chiều tối, ông lão ấy Quay về, ông lại cho Thêm ba lăm đồng nữa, Rồi đi xuống chèo đò.
Tối về, nghe kể lại, Thầy địa lý lầm bầm: “Vậy nhà ông chỉ được Làm vua sáu lăm năm.”
2 Đức vua Mạc Thái Tổ Tên húy Mạc Đăng Dung, Quê nơi nay là đất Huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.
Theo các tài liệu sử, Ông là cháu bảy đời Một trạng nguyên nổi tiếng - Mạc Đỉnh Chi hơn người.
Ông thời bé nghèo khổ, Chuyên chài lưới kiếm ăn, Sau lớn lên, khỏe mạnh, Đỗ “Lực sĩ xuất thân.”
Rồi thành quân túc vệ Vào thời nhà Hậu Lê, Đời vua Lê Uy Mục, Đang rối ren trăm bề.
Nhờ thông minh, tài giỏi, Được hoàng gia tin yêu, Ông nhanh chóng thăng chức Thành quan lớn trong triều.
Nhà Hậu Lê thời ấy Yếu hèn và rối tung, Và dần dần quyền lực Vào tay Mạc Đăng Dung.
Năm một năm hai bảy, Ông tiếm ngôi nhà Lê, Lấy hiệu Mạc Thái Tổ, Lúc thọ địch bốn bề.
Ông đúc tiền Thông Bảo, Lo chấn chỉnh triều đình. Thành Hải Dương được chọn Làm kinh đô - Dương Kinh.
Năm một năm hai bảy Ông nhường con ngai vàng. Mạc Thái Tông kế vị, Ông thành Thái thượng hoàng.
Năm một năm bốn mốt Mạc Đăng Dung băng hà, Hưởng thọ năm chín tuổi, Và trước lúc đi xa
Ông dặn Mạc Phúc Hải Không lập đàn ma chay, Mà lo việc xã tắc, Xây dựng nước sau này.
Như thầy địa lý nọ Có lần đã lầm bầm, Các vua Mạc cai trị Tất cả sáu lăm năm.
3 “Toàn thư” nói nhà Mạc Đem đất đai nước mình, Gồm hai châu Quy, Thuận, Nhục nhã dâng nhà Minh.
Thực ra hai châu ấy Thủ lĩnh Nùng Trí Cao Và anh, Nùng Trí Hội, Dâng Tống từ đời nào.
Người đời sau xác nhận Ông chỉ nhường ngoại bang Năm hang động không lớn Thuộc vùng đất Cao Bằng.
Mà rồi năm hang ấy Vốn không phải đất mình, Mà do Đại Việt lấn, Giờ trả lại nhà Minh.
Ông còn bị chê trách Vì tự trói, đầu hàng, Dâng cho giặc đồ cống Cùng hai bức tượng vàng.
Vì sao ông làm vậy? Vì nhà Lê, hai lần, Cầu nhà Minh đánh Mạc, Mất nước và khổ dân.
Thấy lực mình đang yếu, Muốn tránh cảnh can qua, Vua Mạc đành nén nhục, Quì gối xin giảng hòa.
Nhục, một mình vua chịu, Mang tiếng xấu với đời, Nhưng dân tình thoát khỏi Cảnh máu chảy, đầu rơi.
Sau cái nhục lần ấy, Tự trói mình xin hòa, Ông xấu hổ, lâm bệnh Một năm rồi băng hà.
Giống như Trần Thủ Độ Và cả Hồ Quý Ly, Ông tiếm ngôi người khác, Hoàn toàn không khác gì.
Vua các triều đại trước Đã mục ruỗng, yếu hèn. Theo qui luật lịch sử Thì triều khác sẽ lên.
Tuy nhiên, có điều khác: Truất ngôi Lê Cung Hoàng, Mạc Đăng Dung không giết Các đại thần quy hàng.
Ông cũng không hề giết Một ai trong hoàng gia. Một sự kiện hiếm có Trong lịch sử nước nhà.
Những di sản kiến trúc Và văn hóa Lê Sơ Ông không hề phá hủy, Nên còn mãi đến giờ.
5 Đức vua Mạc Thái Tổ Có một thanh Long Đao Bây giờ còn giữ được, Thật quí giá nhường nào.
Cháu con ông giữ nó Suốt năm trăm năm qua, Nay thờ ở Kiến Thụy Như vật báu quốc gia.
Đao dài hai mét rưỡi, Nặng gần ba mươi cân, Cán làm bằng sắt rỗng Có chạm hình long vân.
Thanh đao của Quan Vũ Được nói đến nhiều lần, Tức Long Đao Yển Nguyệt, Cũng chỉ ba bảy cân.
Châu Á giờ chỉ có Hai long đao thế này. Đao kia thuộc nước Tống, Ở Trung Quốc ngày nay.
Thái Bá Tân |
| | | Việt Đường
Tổng số bài gửi : 2141 Registration date : 21/08/2009
| Tiêu đề: Re: Thơ Thái Bá Tân Sun 11 Oct 2020, 22:50 | |
| TÌNH BUỒN
Thị trấn ấy bé nhỏ, Thơ mộng và buồn buồn. Có một đôi trai gái Cùng nhau ngắm hoàng hôn.
Cùng đợi mặt trời mọc, Cùng dạo giữa cánh đồng. Vai tựa vai, lơ đãng Nghe chim hót trên không.
Họ yêu nhau say đắm. Không biết gì ngoài yêu. Nghiêm túc và lãng mạn Như những áng mây chiều.
Bỗng chàng trai ốm nặng, Nằm bất tỉnh dài ngày. Ngồi bên chàng, cô khóc, Tay không rời bàn tay.
Đêm, một mình, giá rét, Nàng quì trong nhà thờ Cầu cho chàng khỏe mạnh, Suốt nhiều giờ, nhiều giờ.
Chúa hiện hình, và nói: “Con có tình, có tâm Nếu con chịu chấp nhận Làm kiếp bướm ba năm,
Ta sẽ cho tỉnh lại Người mà con thương yêu.” Cô gái nghe, đồng ý, Không cần suy nghĩ nhiều.
Hôm sau, chàng trai tỉnh, Rồi khỏe mạnh bình thường. Có điều chàng không thấy Khuôn mặt nàng thân thương.
Giờ đến lượt chàng khóc, Không biết nàng ở đâu. Chỉ thấy một con bướm Cánh sặc sỡ nhiều màu.
Con bướm chạm vào má Nhẹ nhàng như nụ hôn. Đôi cánh màu sặc sỡ, Mà đôi mắt buồn buồn.
Thời gian trôi chậm chạp, Nhưng cũng hết một năm, Rồi thêm một năm nữa, Mà nàng vẫn biệt tăm.
Chàng cất công tìm kiếm, Hết miền Đông, miền Tây. Con bướm luôn bên cạnh, Luôn thầm thì: “Em đây!”
Tiếc, giọng nó quá bé. Tiếc, chàng không thể nghe. Chàng cứ tìm, tìm mãi, Đông hết rồi xuân về.
Tiếc, còn mấy tháng nữa Là hết năm thứ ba, Mệt mỏi và tuyệt vọng, Chàng đã trở về nhà.
Lần nữa, chàng lại ốm, Lại bất tỉnh. Lần này Ngoài con bướm, còn có Một cô gái đêm ngày
Túc trực bên giường bệnh Để chữa trị cho chàng. Đó là cô bác sĩ, Xinh đẹp và dịu dàng.
Lần nữa, chàng tỉnh lại. Và một sáng đẹp trời Chàng cùng cô bác sĩ Vào nhà thờ, tươi cười.
Hạnh phúc và thật đẹp Cả chủ rể, cô dâu. Con bướm nhỏ tội nghiệp Buồn buồn bay theo sau.
Hôm ấy là ngày cuối Của cái hạn ba năm. Chúa Trời ái ngại nói: “Con có tình, có tâm.
Nếu muốn, ta làm phép Con trở lại thành người. Cùng chàng làm lễ cưới, Sống hạnh phúc suốt đời.”
Con bướm ngước đôi mắt, Đang ngấn lệ long lanh: “Dạ, con đang hạnh phúc, Chỉ mong Chúa lòng lành
Cho con được mãi mãi Làm con bướm thế này.” Rồi không hề ngoái lại, Nó bay vào rừng cây.
Đôi cánh bướm sặc sỡ, Nhẹ nhàng như nụ hôn, Chấp chới bay, để lại Dìu dịu một nét buồn.
Thái Bá Tân |
| | | Việt Đường
Tổng số bài gửi : 2141 Registration date : 21/08/2009
| Tiêu đề: Re: Thơ Thái Bá Tân Thu 04 Feb 2021, 12:43 | |
| TRUYỆN KIỀU
1 Cuốn “Kim Vân Kiều Truyện” Của Thanh Tâm Tài Nhân Được Nguyễn Du viết lại Thành thơ Việt, có vần.
Tức là thơ lục bát, Ba nghìn hai trăm câu, Bằng chữ Nôm mộc mạc, Âm vang mãi trong đầu.
Tên gốc của tác phẩm Là “Đoạn Trường Tân Thanh”, Còn “Kiều”, do người đọc Gọi ngắn gọn mà thành.
Ôi, “Tiếng Kêu Đứt Ruột”. Ôi, Thúy Kiều, Thúy Kiều, Đọc mà lòng tê tái, Viết chắc đau hơn nhiều.
Sách viết khi Cụ Nguyễn Đi sứ nhà Thanh về, Đi ba năm ròng rã, Vất vả đủ trăm bề.
Thơ chữ Hán của Cụ, Tôi dịch cũng khá nhiều, Bây giờ xin viết lại Nội dung cuốn Truyện Kiều.
Số là nay giới trẻ Sống trong thời a còng, Nhiều đứa không chịu đọc - Mất thì giờ, tốn công.
Chúng bảo, thơ dài quá, Đầy điển cố nước Tàu, Rằng hay thì hay thật, Nhưng khó hiểu, đau đầu.
Đúng là bọn ưa dễ, Thích văn hóa ăn liền. Cháu con tôi cũng thế, Hời hợt và vô duyên.
Chúng bảo tôi viết lại, Hay tóm lược nội dung, Đơn giản và dễ hiểu - Một việc làm điên khùng.
Vậy mà tôi chiều chúng. Giờ bố mẹ, than ôi, Con nói gì, không cãi, Bảo ngồi đâu cứ ngồi.
Và đây, xin tóm lược Rất nôm na, Truyện Kiều. Được, chỉ có cốt truyện, Mất thì nhiều, rất nhiều.
Nên tóm thì cứ tóm, Nhưng bọn trẻ chúng mày Phải đọc Kiều nguyên bản Được đính kèm theo đây.
Một áng thơ tuyệt đẹp, Một viên ngọc lung linh Trong vườn thơ quốc nội, Về chữ hiếu, chữ tình.
Có lẽ người dân Việt, Không ai không từng yêu Hoặc ngâm nga, học thuộc Một vài câu trong Kiều.
Thế mà, thưa Cụ Nguyễn, Lớp trẻ giờ ít người Đọc và yêu thơ Cụ. Đơn giản vì chúng lười.
Thành ra con mạn phép, Tóm lược Kiều ra đây. Kính mong Cụ lượng xá Tha cho tội láo này.
2 Thời nhà Minh, Trung Quốc, Có gia đình họ Vương, Sống hòa thuận, thanh bạch, Gia sản cũng “thường thường”.
Bố mẹ già đáng kính, Ba người con trưởng thành. Vương Quan là con út, Chuyên lo chuyện học hành.
Lo nữ công gia chánh, Hai cô chị đáng yêu, Nổi tiếng rất xinh đẹp - Thúy Vân và Thúy Kiều.
Thúy Kiều là chị cả, Đẹp nết, đẹp cả người, Như Nguyễn Du đã nói, Đúng “mười phân vẹn mười”.
Một hình mẫu lý tưởng Người đẹp thời bấy giờ, Dịu dàng và trong trắng, Tiết nghĩa và ngây thơ.
Cô em nàng cũng đẹp, Kiểu nhí nhảnh, hồn nhiên, Kiều thì đẹp kiểu khác, Buồn buồn và dịu hiền.
Lại mùa xuân nữa đến, Hoa lá rợp trên cành. Cả nhà đi dự hội, Tên hội là Đạp Thanh.
Vốn là người đa cảm, Khi thấy mộ Đạm Tiên, Nàng khóc người kỹ nữ, Một tài sắc kiếp tiền.
Thế mà giờ nấm mộ, Không hương khói, úa tàn, Ôi, đớn đau, chua xót Kiếp “bạc mệnh hồng nhan”.
Đêm, Đạm Tiên báo mộng, Bảo đời Kiều sau này Sẽ long đong nhiều nỗi, Đầy oan nghiệt, chua cay.
Vốn thường buồn, tư lự, Kiều hay tin, bần thần, Thấp thỏm lòng đa cảm Kiếp bèo bọt, trầm luân.
Cũng buổi chiều hôm ấy, Khi bóng đã xế tà, Nàng gặp chàng Kim Trọng, “Phong nhã” và “hào hoa”.
Chàng thư sinh Kim Trọng Vốn “thuộc nhà trâm anh”. Bạn Vương Quan từ nhỏ, Quen nhau qua học hành.
Chàng từ lâu nghe tiếng, Đã thầm yêu Thúy Kiều, Giờ may mắn được gặp, Yêu lại càng thêm yêu.
Không một lời trao đổi, Hai người còn rụt rè, Nhưng “tình trong như đã” Tuy “mặt ngoài còn e”.
Nàng Kiều thì tự vấn: Chao, “gặp gỡ làm chi”, Như Đạm Tiên bạc mệnh, Liệu “biết có duyên gì?”
Kim Trọng thì mê mẩn Quên mọi chuyện vì yêu, Chàng tìm cớ dọn đến Ở cạnh nhà Thúy Kiều.
Một hôm chàng nhặt được Chiếc kim thoa, và chàng Lấy đó làm cái cớ Để trò chuyện với nàng.
Rồi hai người hò hẹn. Rồi nàng Kiều, thật ghê, Vốn bẽn lẽn, gia giáo, Thế mà “buông rèm che”,
Nàng “xăm xăm băng lối” Sang nhà chàng Kim Lang. “Bóng trăng vàng đã xế” “Giấc mộng xuân mơ màng”.
Rồi hai người thề thốt, Trao kỷ vật cho nhau, Nguyện suốt đời chung thủy Đến răng long, bạc đầu.
Để chiều lòng Kim Trọng, Nàng đã đàn một bài, Bài “Bạc Mệnh” day dứt, Não lòng và bi ai.
Tiếng đàn buồn đến mức Kim Trọng “lúc chau mày, Lúc ôm đầu, tựa gối” Thấy “ngậm ngùi, đắng cay”.
Rồi tình nồng, duyên đượm, Đêm, lại chỉ hai người, Nên “xem ra Kim Trọng Đã có phần lả lơi”.
Nhưng nàng Kiều lúc ấy Nghĩ tới chuyện Trương Quân Và Oanh Oanh ngày trước Mà không chịu trao thân.
Mới lần đầu gặp mặt, Mà Kim Trọng, ghê chưa, Đã lả lơi chuyện ấy. Cũng là tay không vừa.
Hôm sau, có tin khẩn Nhắn Kim Trọng, rằng chàng Có ông chú vừa mất, Phải về nhà chịu tang.
Than ôi, tình mới bén, Giờ đã phải chia tay. Lại thề non, hẹn biển, Lại dài ngắn dãi bày.
3 Rồi bất ngờ tai họa Ập xuống đầu Vương gia: Các em và bố mẹ Vừa ăn cỗ, về nhà
Thì bỗng bọn nha lại Kéo đến bắt Vương ông. Toàn một lũ trâu ngựa, Đánh đập rất đau lòng.
Hỏi ra thì mới biết Do một thằng bán tơ Đã dựng chuyện vu cáo, Thật vô lý, bất ngờ.
Chẳng còn cách nào khác, Nàng bán mình, chuộc cha. Ôi, chua xót, đau đớn, “Đau đớn phận đàn bà.”
Thúy Kiều ôm mặt khóc: “Kim Lang hỡi, Kim Lang, Thôi thôi, thế là thiếp Phải phụ bạc tình chàng!”
Nàng gọi Thúy Vân lại, Cúi thấp lạy, ân cần: Em hãy lấy Kim Trọng, Hằng sửa túi, nâng khăn.
Romeo, Juliet, Yêu đến thế là cùng, Nhưng theo tôi được biết, Chưa đến mức chồng chung.
Đúng, người xưa nhân nghĩa. Ta, hiện đại, cũng yêu, Say đắm nữa là khác, Nhưng mấy ai bằng Kiều?
4 Bỏ ra bốn trăm lạng, Mã Giám Sinh mua Kiều. Hắn là tên vô lại, Gian tà và rất kiêu.
Hứa lấy nàng làm lẽ, Thực ra hắn lõi đời Mua nàng làm kỹ nữ Để tiếp khách làng chơi.
Còn Tú Bà, vợ hắn, Chủ thanh lâu Lâm Truy, Sai nàng ra tiếp khách, Nhưng Kiều không chịu đi,
Nói, nàng là vợ lẽ Của ngài Mã Giám Sinh. Mụ Tú Bà nghe vậy Liền “nổi cơn tam bành”.
Mụ bảo nàng quyến rũ Thằng chồng mụ, và rồi Cho đánh nàng tàn nhẫn Bằng gậy và bằng roi.
Nhục nhã và phẫn uất, Nàng liền rút con dao, Đinh tự vẫn thì ngất, Và trong cơn chiêm bao
Kiều gặp lại người cũ, Tức là nàng Đạm Tiên. Nàng dặn, khoan, chưa chết, Hẹn gặp ở sông Tiền.
Còn Tú Bà thì nghĩ Mất nàng là mất lời, Cho ra lầu Ngưng Bích Để nàng tạm nghỉ ngơi.
Một mình trên lầu vắng, Sông nước bốn xung quanh, Kiều thực sự mừng rỡ Khi gặp chàng Sở Khanh.
Hắn có vẻ nho nhã, An ủi rất ân cần, Còn hứa giúp trốn thoát, Nên nàng đã trao thân.
Mấy hôm sau, trời tối, Hắn đưa ngựa đón nàng, Giữa đường, bỏ nàng lại, Lo sợ và hoang mang.
Tú Bà liền xuất hiện Cùng một lũ đầu trâu, Bắt nàng vì tội trốn, Còn đánh đập rất đau.
Nàng đã phải van khóc Xin Tú Bà ngừng tay, Hứa nhẫn nhục tiếp khách, Không trốn khỏi nơi này.
“Thân lươn đâu sợ bẩn”, Xin hầu hạ sớm trưa. “Ôi tấm lòng trinh bạch, Nguyện từ nay xin chừa”.
Thì ra chính mụ Tú Đã thuê thằng Sở Khanh, Lừa nàng, đưa vào bẫy. Thôi, trót nhỡ thì đành.
Tên hắn kể từ đấy Có thêm nghĩa xấu xa, Tức là thằng chim gái, Kẻ thù các cô, bà.
5 Vậy là Kiều cam chịu Để số phận an bài, Ở thanh lâu nổi tiếng Cả về sắc, về tài.
“Sớm tiễn đưa Tống Ngọc”, “Chiều vui với Tràng Khanh”, “Lúc tiệc tan, tỉnh rượu, “Giật mình, lại thương mình”.
Ở thanh lâu, Kiều gặp, Tiếp một khách làng chơi, Rất hào hoa, phong nhã, Tử tế và thương người.
Lúc đầu chỉ ong bướm, Người ấy, tên Thúc Sinh, Sau yêu Kiều thực sự, Thương cảm và chân tình.
Định lấy Kiều làm lẽ, Đưa tiền cho Tú Bà, Chàng đem Kiều giấu kín, Sau khi chuộc nàng ra.
Vốn người huyện Vô Tích, Chàng cùng cha, Thúc ông, Đến Lâm Truy buôn bán, Khá ý hợp, tâm đồng.
Cha chàng, khi biết chuyện, Trách mắng rất nặng nề, Bắt trả về nhà chứa, Nhưng chàng không chịu nghe.
Với Kiều, ông kết tội, Đã quyến rũ Thúc Sinh, Rồi nhờ quan xét xử Thật chí lý, chí tình.
Quan sai đem Kiều đánh, Nhưng Thúc Sinh vội vàng, Đứng ra bênh, biện bạch Đủ điều tốt về nàng.
Nghe nói nàng gia giáo, Lại am tường thơ văn, Quan bảo nàng thử vịnh Chiếc cùm đeo dưới chân.
Nàng đọc thơ, quan huyện Rất khâm phục trong lòng, Bèn xử cho nàng thắng, Lựa lời khuyên Thúc ông.
Thúc ông đành chịu nhún, Không cản trở hai người, Phần vì “thương nết hạnh”, Phần vì sợ chê cười.
Sau nửa năm chung sống, Kiều khuyên chàng về quê Nói mọi chuyện với vợ, Rồi tính kế, liệu bề.
6 Hoạn Thư, vợ chàng Thúc, “Ăn ở, nết cũng hay”, Về khoản ghen mà nói Thì nàng rất cao tay.
Biết chồng có vợ lẽ, Tỉnh bơ, không nói gì, Lại chiều chồng nhất mực, Không mảy may hoài nghi.
Vì thế chàng do dự, Không dám kể sự tình Như nàng Kiều đã dặn. Ôi, ôi, chàng Thúc Sinh.
Tiễn chồng quay trở lại Với vợ hai, Thúy Kiều, Hoạn Thư liền sang mẹ, Than và khóc khá nhiều.
Rồi họ sai Ưng, Khuyển Cùng một bầy lâu la Kíp đến gặp Kiều trước Rồi phóng lửa đốt nhà.
Chúng ném một xác chết Vào nhà nàng, thật ghê, Đưa nàng tới Vô Tích Trước khi Thúc Sinh về.
Thấy nhà mình bị cháy, Lại thêm một xác người, Tưởng rằng Kiều đã chết, Chàng ôm mặt kêu trời.
Lại nói bọn Ưng, Khuyển, Đưa nàng Kiều về quê, Nàng bị Hoạn Thư mẹ Đánh một trận ê chề,
Rồi bắt nàng hầu hạ Như con ở trong nhà, Luôn bị đánh, bị chửi, Ngẫm mà lòng xót xa.
Mỗi lần Hoạn Thư đến, Nàng cũng phải theo hầu. Nàng kia cười, ngon ngọt, Không trách cứ một câu.
Đàn bà ghen, không lạ, Thường vẫn thế xưa nay, Nhưng Hoạn Thư ghen khác, Thật cao tay nàng này.
Cứ công bằng mà nói, Ấy cũng là sự thường. Hoạn Thư, ghét thì ghét, Nhưng cũng thấy thương thương.
Hỏi bây giờ, thậm chí, Thời bình đẳng, bình quyền, Mấy ai đủ bình tĩnh Như nàng này khi ghen?
Một năm sau, chàng Thúc Về quê thăm vợ hiền. Nàng Hoạn Thư cười nụ Trong bữa tiệc đoàn viên,
Rồi vẫy tay cho gọi Mời Kiều ra hầu chàng, Phải rót rượu cung kính, Phải đi đứng nhẹ nhàng.
Thúc Sinh lòng tê tái, Biết mình là nạn nhân Một âm mưu thâm độc, Ngồi đực mặt, bần thần.
Sợ vợ, chàng gạt lệ, Không dám nhận nàng Kiều, Vẫn cười cười, nói nói Với bà vợ thân yêu.
Tất nhiên chàng đáng trách, Nhưng xin hỏi thực lòng, Nếu ta, gặp cảnh ấy, Ta làm khác được không?
Làm nhục thế chưa đủ, Hoạn Thư còn bắt nàng Ngồi phệt xuống, rũ tóc, Cầm đàn gẩy tình tang.
Và Kiều, ôi, nhẫn nhục “Trước rèm the, vặn đàn”, “Bốn dây kêu như khóc” Khiến “cõi lòng nát tan”.
Cho những người trong cuộc, Cùng “một tiếng tơ đồng”, Người thì “ngoài cười nụ”, Người “khóc thầm bên trong”.
Cả Hoạn Thư, tôi nghĩ, Như Kiều, cũng xót xa, Vì cùng chung một phận, “Xót xa phận đàn bà.”
Một thời gian sau đó, Khi thấy Kiều chịu thua, Hoạn Thư cho nàng sống Và chép kinh trong chùa.
Một lần, vợ đi vắng, Thúc Sinh lén thăm Kiều, Lại mừng mừng, tủi tủi, Lại thề thốt thương yêu,
Mà không biết ngoài cửa Hoạn Thư đang cả cười, Rồi bước vào, nhỏ nhẹ, Khen, vỗ về hai người.
Thế mới thật đáng sợ, Thế mới là cao tay. Lần nữa phải nhắc lại: Hiếm ai như nàng này!
Kiều thì lại càng sợ, Để mất - chẳng còn gì, Nên ngay tối hôm ấy Nàng vượt tường trốn đi.
7 Thương cho Kiều bạc mệnh, Phiêu dạt kiếp thăng trầm. Dài, còn dài trước mặt Bể khổ mười lăm năm.
Ôi, vì sao số phận Luôn cay đắng, phũ phàng? Nàng chạy trốn? Thử hỏi, Cái gì đang chờ nàng?
Lần nữa trời dun dủi Kiều bước vào cửa thiền. Đó là chùa Chiêu Ẩn, Trụ trì là Giác Duyên.
Sư trụ trì rộng lượng Cho nàng trú nơi này, Tưởng nàng người nhà phật, Lại từ xa đến đây.
Khi trốn khỏi Vô Tích, Nàng lấy của nhà chùa Chiếc chuông và chiếc khánh, Gọi là để làm bùa.
Một hôm có thí chủ Nói với sư trụ trì, Chiếc chuông và khánh ấy Giống hệt, chẳng khác gì
Với chuông khánh chùa nhỏ Trong vườn nhà Hoạn Thư. Sư bà gọi Kiều đến Để làm rõ thực hư.
Kiều đành phải thú thật Tung tích mình, thế là Được Giác Duyên cho đến Sống tạm với Bạc bà.
Bạc bà là phật tử, Hay đến chùa dâng hoa, Thấy Thúy Kiều xinh đẹp, Liền nảy ý gian tà.
Mụ đánh nàng, dọa dẫm, Cũng có lúc van nài Lấy cháu mụ, Bạc Hạnh, Một người ở châu Thai.
Bạc Hạnh vờ cưới, hỏi, Đưa nàng về Thai châu. Ở đấy, lại lần nữa, Kiều rơi vào thanh lâu.
8 Trong may có cái họa, Trong họa có cái may. Sự đời thường vẫn vậy, Cả xưa và cả nay.
Số là nơi mới đến, Khi tiếp khách làng chơi, Kiều ngẫu nhiên được gặp Rất đặc biệt, một người.
Người đó là Từ Hải, Đúng một “đấng anh hào”, Loại “râu hùm, hàm én”, Vai rộng, “mười thước cao.”
Chàng là một chiến tướng Người thuộc vùng Việt Đông, Thích “đội trời, đạp đất”, “Vùng vẫy khắp non sông”.
Anh tài và giai nữ Thế là được gặp nhau, Bén tình và bén nghĩa, Rất ý hợp tâm đầu.
Từ Hải bỏ tiền chuộc, Thúy Kiều về nhà chàng, Nửa năm sống hạnh phúc, Đậm đà tình tao khang.
Rồi một mình, một ngựa, Từ Hải lại lên đường, Hẹn ngày quay trở lại Với người mình yêu thương.
Xong đại sự, Từ Hải, Tức khoảng một năm sau, Cho người về đón vợ Theo nghi lễ vương hầu.
Thanh thế chàng lúc ấy Lừng lẫy một phương trời. Một võ tướng phản loạn, Thu phục trăm vạn người.
Một hôm, nhân rỗi việc Kiều kể lại với chồng Cảnh hàn vi ngày trước, Nước mắt chảy hai dòng.
Từ Hải nghe, phẫn nộ, Liền cho người đi ngay Tới Lâm Truy, Vô Tích, Lo nhanh chóng việc này.
Khi mọi người có mặt, Ngồi cao giữa trung quân, Kiều công bằng xét xử, Báo oán và đền ân.
Nàng hậu thưởng chàng Thúc, Cụ Giác Duyên nhân từ, Bà quản gia tốt bụng Trong nhà mẹ Hoạn Thư.
Rồi nàng ra lệnh chém Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà và Bạc Hạnh, Bọn Ưng Khuyển, Sở Khanh.
Ân oán thế là rõ, Nhưng máu đổ cũng nhiều. Đành rằng ác trả ác, Ôi ôi, nàng Thúy Kiều.
Còn Hoạn Thư, đáng lẽ Phải chết như Tú Bà, Vì “chính danh thủ phạm”, Thế mà Kiều lại tha.
Vì nàng kia khôn khéo Tự bào chữa cho mình. Rằng “đàn bà nhẹ dạ, Ghen tuông cũng thường tình.”
Rằng “càng cay nghiệt lắm,” Thì “càng oan trái nhiều.” Rằng “chồng chung ai dễ Nhường cho ai khi yêu...”
Kiều nghe nàng nói vậy, Phải chép miệng mà rằng: Dẫu trong lòng độc ác, Nhưng “giỏi bề nói năng”;
Rằng giết thì đáng giết, Có ác, phải có đền, Nhưng giết khi nói phải, “E là người nhỏ nhen.”
Vậy là Hoạn Thư thoát. Thật đúng là cao tay. Nói rồi, xin nói lại: Hiếm ai như nàng này!
9 Quyền uy của Từ Hải Cứ lớn dần, lớn dần. Chàng xưng vương, lập quốc, Cai trị cả muôn dân.
Chàng chia đôi thiên hạ Với vương triều nhà Minh, Triết Giang và Phúc Kiến Coi như đất của mình.
Rồi năm năm sau đó, Vua nhà Minh vội vàng Sai tướng Hồ Tôn Hiến Đem quân đến đánh chàng.
Biết Từ Hải dũng mãnh, Đấng anh hùng vô biên, Khó dùng binh mà thắng, Nên hắn lập kế hèn.
Hắn cho người mang lễ Gồm rất nhiều bạc vàng Cùng lời hứa trọng dụng Để dụ chàng ra hàng.
Hắn còn sắm lễ vật Dành riêng cho Thúy Kiều, Cốt nhờ nàng nói hộ - Cũng hứa hẹn rất nhiều.
Phần vì lễ quá hậu, Phần chưa hiểu sự tình, Nàng đã khuyên Từ Hải Ra đầu hàng triều đình,
Để muôn dân đỡ khổ, Để thành quan đại thần, Để nàng về quê cũ Mong gặp lại người thân.
Dẫu còn nghi, Từ Hải Vẫn nghe vợ, tiếc thay. Các ông chồng có lẽ Nên học bài học này.
Từ Hải mặc nhung phục Rời doanh trại, đầu hàng. Hồ Tôn Hiến lập tức Cho quân ra giết chàng.
Ôi, “râu hùm, mày én”, Ôi, một “đấng anh hào”, Từng “đội trời đạp đất”, Thế mà chết buồn sao.
Lại thêm bài học nữa: Không được tin chính quyền. Xưa hay nay cũng vậy. Chúng, một lũ đê hèn.
10 Đêm ấy, Hồ Tôn Hiến Mở tiệc mừng rất to. Hắn bắt Kiều rót rượu, Hết vò lại đến vò.
Khi ngà ngà quá chén, Hắn bắt nàng chơi đàn. Cả “bốn dây nhỏ máu,” “Gió thảm, mưa tuôn tràn.”
Hắn ngồi nghe, tư lự, Rượu và đàn cùng say. “Thật lạ cho mặt sắt, Cũng vì tình, biết ngây.”
Rồi lâng lâng, loạng choạng, “Vì rượu và vì tình,” Hắn giữ Kiều ở lại, Bắt ăn nằm với mình.
Sáng hôm sau, tỉnh dậy, Nghĩ mình bậc cao sang, Vướng vào Kiều không tiện, Hắn quyết định gả nàng
Cho một thổ quan nhỏ, Và rồi lễ tơ hồng Giữa Kiều và quan thổ Được tổ chức trên sông.
Lòng ê chề nhục nhã, Hận chồng chết vì mình, Nàng Thúy Kiều bạc mệnh Quyết một lòng quyên sinh.
“Ôi, Đạm Tiên, nàng hỡi, Dưới suối vàng có hay, Nàng hẹn ta, thì đấy, Xin đón ta nơi này!”
Và rồi, giữa sông nước, Khi trời còn đầy sương, Nàng ôm hận, lặng lẽ Nhảy xuống sông Tiền Đường.
11 Lại nói, sau hậu thưởng, Sư trụ trì Giác Duyên Gặp đạo cô Tam Hợp, Một tín đồ Đạo thiền.
Tam Hợp báo sư biết Chuyện ở sông Tiền Đường, Khuyên nhanh chóng đến đấy Cứu nàng Kiều đáng thương.
Sư Giác Duyên vội vã Thuê ngư phủ nhiều giờ Rà quét khúc sông ấy, Vớt được nàng lên bờ.
Thật may, Kiều còn sống. Nằm bất động trên thuyền, Trong cơn mê nàng thấy Bóng hình nàng Đạm Tiên.
Nàng báo: Trời đã thấu Nỗi khổ và lòng nàng, Và rằng đã đến lúc Cuộc đời mới sang trang.
Kể từ đấy sư cụ Và cháu bà, nàng Kiều, Bên sông, trong am cỏ Cùng vui vầy sớm chiều.
12 Vậy là biển cũng lặng, Và trời cũng ngớt giông. Sóng gió không còn nữa, Sóng cũng lặng trong lòng.
Đời Kiều nay đã khác, Như vừa nói - sang trang . Thư thản và yên tĩnh. Ta hãy mừng cho nàng.
Lại nói chàng Kim Trọng, Sau khi chịu tang về, Hay tin Kiều bị bán, Mà nước mắt dầm dề.
Vương ông cho chàng biết Rằng Kiều đã buộc lòng Nhờ Thúy Vân thay chị Lấy Kim Trọng làm chồng.
Sau nhiều lần từ chối, Tìm Kiều không thấy đâu, Cuối cùng, bị thúc dục, Hai người đã cưới nhau.
Rồi Kim Trọng thi đậu, Được bổ về Lâm Truy, Nơi Thúy Kiều ngày trước Buộc phải làm ca nhi.
Ở đấy, các nha lại Kể chàng nghe một phần Cuộc đời Kiều đã chịu, Cơ cực và gian truân.
Chàng không biết lúc ấy Ở tít vùng Thai Châu Thúy Kiều và Từ Hải Đang vui sống bên nhau.
Khoảng năm năm sau đó, Nhận được chiếu triều đình, Chàng đi nhậm chức mới, Làm quan huyện Nam Bình.
Vương Quan thi, cũng đỗ, Được bổ về Phú Dương, Nên hai người lần ấy Đi cùng lúc, cùng đường.
Đến Hàng Châu, bất chợt Họ hay tin, rùng mình, Rằng Từ Hải bị giết, Còn Kiều thì quyên sinh.
Họ quay về, lập tức Hai gia đình Kim, Vương Soạn lễ, mang đến cúng Bên bờ sông Tiền Đường.
Giác Duyên, nhân có việc, Đi ngang, thấy tên Kiều Trên bài vị giải oán, Dừng lại hỏi đôi điều.
Hóa ra Kiều còn sống! Kiều còn sống, mừng sao! Mắt mở, nhìn thấy rõ, “Mà những tưởng chiêm bao!”
Vậy là dẫu chìm nổi Số phận một cuộc đời, Vẫn có cái kết hậu Cho nàng và mọi người.
Trong buổi tiệc đoàn tụ Thúy Vân ép chị mình Phải lấy chàng Kim Trọng, Mới hợp lý, hợp tình.
Kiều thoạt đầu không chịu, Bảo “tấm thân ngọc ngà” Giờ không còn trong trắng Mà “dư thừa xấu xa.”
Cuối cùng nàng chấp nhận, Nhưng trong đêm động phòng Nàng không cho Kim Trọng Ân ái như vợ chồng.
“Tấm thân thiếp ô uế, Không đáng được gần chàng.” Biết làm sao, đành vậy. Tội nghiệp chàng Kim Lang.
Từ đấy họ hạnh phúc Sống bên nhau trọn đời, Chàng Kim cùng hai vợ (Thực ra chỉ một người!)
Mười lăm năm lưu lạc, Mười lăm năm trầm luân, Giờ lòng Kiều phẳng lặng Như nước lặng hồ xuân.
Và đều đều cứ chảy Dòng nước sông Tiền Đường, Rửa sạch bao oan trái Một kiếp sống đoạn trường...
13 Thế là tôi kể hết, Giản dị và trung thành Truyện “Tiếng Than Đứt Ruột,” Tức “Đoạn Trường Tân Thanh.”
Truyện có nhiều bài học, Về thế thái, nhân tình. Đọc đi, các bạn trẻ, Rồi ngẫm người, ngẫm mình.
Thái Bá Tân |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Thơ Thái Bá Tân | |
| |
| | | |
Trang 4 trong tổng số 4 trang | Chuyển đến trang : 1, 2, 3, 4 | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |