Bài viết mới | Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 01:16
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:03
KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Yesterday at 16:45
KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22
Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22
NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20
KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08
Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54
Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10
7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10
Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21
Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13
Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07
Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36
Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09
Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46
Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06
Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04
DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19
Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37
Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17
CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05
Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39
Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41
Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
|
| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Wed 16 Nov 2011, 11:24 | |
| NghiệpNghiệp bệnh ung thư, phần 1 Bệnh tật là một trong bốn nỗi khổ (sinh, lão, bệnh, tử) mà chúng sinh sinh ra trong thân xác người phải chịu. Hiện nay, có rất nhiều chứng bệnh lạ mà y học hoàn toàn chịu bó tay. Theo Kinh Nhân quả thì người mang nhiều bệnh hay bị chết yểu đều do từ nguyên nhân sát sanh mà chịu quả. Bệnh ung thư là một trong những trọng bệnh cướp đi mạng sống con người thể hiện rất rõ tính sát sanh của nghiệp. Nghiệp sát tạo ra chết yểu và mang nhiều chứng bệnh Kinh Địa tạng Bồ Tát Bản nguyện nêu rõ: Này Bốn ông Thiên vương Ngài Địa Tạng Bồ Tát nếu gặp kẻ sát hại loài sanh vật, thời ngày dạy rõ quả báo vì ương luỵ đời trước mà phải chết yểu ….Nếu gặp kẻ dùng nước sôi hay lửa chém. Chặt giết hại sinh vật thời ngài dạy rõ quả báo phải luân hồi thường mạng lẫn nhau….Những chúng sanh trong cõi Diêm phù đề từ nơi thân khẩu ý tạo ác kết quả trăm nghìn muôn sự báo ứng như thế. Mỗi một loại bệnh đều có những dấu hiệu và tiến trình của căn bệnh khác nhau. Nhưng có lẽ căn bệnh ung thư là một trong những trọng bệnh có diễn tiến gần nhất trong việc trả nghiệp sát của chúng sinh. Quan sát những dấu hiệu từ lúc bắt đầu cho đến lúc người bệnh mất ta thấy, Đầu tiên là sắc mặt thâm đen, nếu nhìn được từ trường xung quanh cơ thể sẽ thấy chuyến sang mầu xám khói. Hào quang bị rút lại. Lòng mắt trắng lộ ra. Người bệnh cảm thấy mệt mỏi không muốn làm gì. Tính tính trở nên khó chịu và thể trọng người tự nhiên sút ký không rõ nguyên nhân. Khi căn bệnh xẩy đến, người bệnh sụt ký từng ngày, mất máu liên tục và người ngày một gầy yếu đi cứ như một sức mạnh vô hình nào đó đang ăn thịt, ăn máu của người bệnh. Sức mạnh vô hình đó chính là khối u ác tính ngày một lớn lên do hút máu, ăn thịt người bệnh. Khi người bệnh sắp ra đi thì bắt đầu cảm thấy đau đớn vô cùng, như có ai đang xẻ thịt lột da mình và cuối cùng người bệnh gần như chỉ còn da bọc xương. Thật là đau xót. Bất kỳ cơ quan nào trên cơ thể con người đều có thể bị ung thư. Các dấu hiệu và tiến trình xẩy ra không có sự khác biệt nhiều. Theo y học hiện đại thì nguyên nhân của bệnh ung thư chính là sự tương tác giữa các yếu tố chủ thể của gien với các tác nhân bên ngoài như điều kiện môi trường, chế độ sinh hoạt ăn uống…. Thành công nhất đối với y học hiện nay không phải là tìm ra phương thuốc chữa bệnh ung thư mà họ đã tìm ra nguyên nhân gây ra căn bệnh ung thư đó chính là sự sắp xếp sai lệch của chuỗi AND trong cơ thể con người. Sự sắp xếp sai lệch đó khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ phát triển thành gien đột biến, sản sinh ra các tế bào lạ nhiễu loạn, phá hoại các tế bào lành và hình thành những khối u còn gọi là u ác tính. Như vậy, sự biến di của các gien là nguyên nhân cơ bản hình thành các khối u ác tính, môi trường và chế độ ăn uống chỉ là những điều kiện thích hợp cho sự phát triển của những tế bào lạ. Để dễ hiểu hơn ta có thể đưa ví dụ : Không phải 100% người hút thuốc lá đều bị ung thư phổi. Chỉ có những người mang gien biến dị này thì mới mắc bệnh ung thư phổi. Như vậy , hút thuốc lá chỉ là điều kiện, hay duyên để cho ung thư bộc phát. Một con người sinh ra, nếu mang gien đột biến này thì khó có thể tránh khỏi mắc phải căn bệnh nan y này. Nếu người đó giữa gìn cẩn thận, ăn uống điều độ có cuộc sống lành mạnh thì chỉ khi nào cơ thể suy yếu hoặc khi về già căn bệnh mới bộc phát. Còn với những người có cuộc sống bừa bãi thì ngay từ trẻ đã mắc bệnh ung thư do tạo điều kiện cho u ác tính bộc phát sớm. Cơ sở khoa học này là một minh chứng khá thuyết phục cho quan điểm của Phật giáo khi nói về nghiệp sát là nguyên nhân chính gây ra những căn bệnh nan y tạo nên sự chết yểu của con người. Theo quan điểm Phật giáo, chúng sinh sinh ra trong thân người là do nghiệp dẫn dắt. Nghĩa là sinh ra để thọ quả báo, trả nợ những gì mà họ đã gieo nhân trong kiếp trước. Ngay sau khi nhập thai, đứa trẻ sẽ chọn lấy những gien của bố, của mẹ phù hợp với nghiệp của mình. Những gien đó được sắp xếp theo một trình tự nhất định (sắp xếp của chuỗi AND) để hình thành nên thân tướng, cơ thế vật chất con người. Cơ thể Béo, gầy, cao thấp…gần như đã được quy định ngay trong sự sắp xếp của chuỗi gien AND khi đứa trẻ mới sinh ra. Ở Tây Tạng người ta con nhìn được thể vía của một đứa trẻ mới sinh ra. Nghĩa là nhìn được hình dạng khi đứa trẻ đã là người trưởng thành. Trong lời thuyết giảng của Pháp Sư Tịnh Không có đoạn: Thân tướng con người từ khi sinh ra cho đến lúc 40 tuổi chịu sự chi phối của nghiệp kiếp trước. Sau 40 tuổi cho đến lúc chết thì chịu sự chi phối của kiếp hiện tại. Sức khoẻ và bệnh tật của con người cũng vậy. Chuỗi gien AND cũng quy định sức khoẻ và một số loại bệnh mà con người dễ và sẽ mắc phải trong cuộc sống sau này. Vì nhân gieo khác nhau nên nên kết qủa cũng muôn nghìn trùng sự báo ứng. Trong Kinh nhân quả - Phật nói Kinh Nghiệp báo sai biệt cho Trưởng Gia Thủ Ca những người chết yểu, hay mang nhiều bệnh là do những nhân như sau: Mười nghiệp bị quả báo chết yểu. 1. Tự mình sát sanh. 2. Bảo người sát sanh. 3. Khen ngợi sự giết. 4. Thấy giết vui sướng. 5. Đối với người oán ghét thì muốn tiêu diệt. 6. Thấy người oán của mình bị tiêu diệt rồi trong lòng sung sướng. 7. Làm hư thai tạng của người khác. 8. Dạy người hủy hoại (thai tạng). 9. Xây dựng miếu thờ trời để giết hại chúng sanh. 10. Dạy người đánh nhau để hai bên bị tàn hại. Mười nghiệp bị quả báo nhiều bệnh. 1. Thích đánh đập tất cả chúng sanh. 2. Khuyên người đánh đập 3. Khen ngợi sự đánh đập. 4. Thấy đánh đập thì hoan hỷ. 5. Làm não loạn cha mẹ khiến cha mẹ buồn rầu. 6. Não loạn Thánh Hiền. 7. Thấy người oán của mình bị bệnh khổ, trong lòng vô cùng vui sướng. 8. Thấy người oán của mình lành bệnh, trong lòng không vui. 9. Đối với bệnh của kẻ oán thù, cho không đúng thuốc trị bệnh. 10. Đồ ăn cách đêm khó tiêu lại ăn vào. Từ những nhân trên ta có thể suy luận một chút, do tự tay sát sanh hoặc ủng hộ người sát sanh… mà những oan gia trái chủ đã đòi mạng bằng cách tác động vào chuỗi AND của con người khi nhập thai tái sinh. Sự tác động này đã tạo sự sắp xếp sai lệch chuỗi AND và chính điều đó khi gặp điều kiện thích hợp những tế bào ung thư sẽ phát triển. Nợ máu phải trả bằng máu, nợ thịt phải trả bằng thịt. Khi con người mắc chứng bệnh này chẳng ai lấy máu lấy thịt của mình cả. Chính khối u trong cơ thể mình tự ăn mình. Có lẽ đó chính là các oan gia trái chủ đã đến đòi nợ. Nhìn cảnh giết chóc sinh vật dã man, người ta liên tưởng đến những bệnh nhân bị hành hạ đau đớn mất máu,thịt trong tương lai. Đó là chưa kể đến những con vật sau khi lên được thân người sẽ tiến hành những cuộc thảm sát ghê gớm đến mức nào. Lịch sử loài người đã chứng kiến không biến bao nhiêu cuộc thảm sát. Theo Cư sĩ Lý Bỉnh Nam thì nghiệp sát chính là nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh hiện nay. Kinh Ðại Niết Bàn có đoạn: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng bị vô lượng phiền nảo che phủ nên chúng sinh chẳng nhậnthấy được. Ðối tượng chúng sinh trong giới cấm sát sinh của đạo Phật đó là loại hữu tình chúng sinh, tức là những chúng sinh có hệ thần kinh, có tình cảm, biết cảm giác (đua đớn và vui sướng) như người và các loài động vật trên bộ, dưới nước và trên không…Từ những thú vật lớn như voi, hổ cho đến những con và nhỏ bé như kiến, sâu trùng… Ðức Phật nó, Phật tánh của chúng sinh ở trong thân ngũ ấm, nếu sát hại ngũ ấm gọi là sát sanh. Chúng ta cũng nên biết rằng nếu một ai đó làm đau đớn hay hủy mạng sống của chúng ta thì chúng ta cũng oán hận, cũng đau đớn như vậy.
Nghiệp bệnh ung thư, phần 2 Lạy Phật tiêu nghiệp chướng
Nhiều người mắc bệnh nan y thường được mọi người khuyến nên niệm Phật. Nếu phước tốt thì khỏi bệnh, nếu không vượt qua được thì hy vọng có thể về Tây Phương Cực lạc hoặc không bị đoạ vào ba đường ác đạo. Hiện nay, ở Việt Nam cũng như một số nước châu Á khác ảnh hưởng nhiều tư tưởng Phật giáo. Không chỉ những người theo Phật mà cả người dân bình thường cũng dùng câu niệm Nam mô A Di Đà Phật thay cho lời chào khi gặp nhau. Khi tâm không bình yên hay lúc bệnh tật họ cũng niệm Phật để trấn an tinh thần. A Di Đà Phật trở thành câu niệm ăn sâu vào trong tâm thức của người dân. Nhiều người mắc bệnh nan y thường được mọi người khuyến nên niệm Phật. Nếu phước tốt thì khỏi bệnh, nếu không vượt qua được thì hy vọng có thể về Tây Phương Cực lạc hoặc không bị đoạ vào ba đường ác đạo. Thực tế có không ít người đã thoát khỏi các căn bệnh nan y nhờ niệm Phật. Chuyển tế bào từ ác tính sang lành tính. Cơ sở của sự chuyển hoá này vẫn được cho là bí ẩn, huyền diệu không thể giải thích được. Nhưng không phải ai cũng có được sự may mắn đó. Nhiều người nghi ngờ về sự hiệu nghiệm của nó. Có người còn cho đó là mê tín dị đoan không có một cơ sở khoa học nào. Để mọi người hiểu rõ thêm về sự vi diệu, bất khả tư nghì của câu niệm đại thần chú A Di Đà Phật, tôi xin được đi sâu thêm vào phần này. Qua những điều phân tích ở phần một, ta thấy rõ cơ sở bệnh tật của con người trong kiếp hiện tại trừ những bệnh cảm cúm thông thường do thời tiết, chế độ ăn uống…thì đều có nguyên nhân từ những hành vi tác tạo trong quá khứ. Muốn thay đổi được quả báo trong đời này con người phải tác động vào những nhân đã gieo trước đây. Tư tưởng của nhiều đạo giáo cho rằng, con người sinh ra đều có một số mệnh nhất định (có thể do trời định). Bộ Kinh dịch Trung quốc cũng đã đoán số mệnh này thông qua tứ trụ (năm, tháng, ngày, giờ) sinh của con người. Nho giáo, Khổng giáo… đều cho rằng số mệnh con người là khó thay đổi, nó được quy định như một sự việc bất biến mà con người phải tuân theo. Quan điểm Phật giáo không cho là như vậy. Con người sinh ra có số mệnh, nhưng không bất biến, vẫn có thể thay đổi mệnh của mình bằng việc tác động vào quy luật nhân quả. Vì sao vậy ? Vì chữ mệnh có thể hiểu là đồng nghĩa với chữ nghiệp. Nghiệp chính là những hành vi từ thân, khẩu, ý tạo nhân chính cho con người đã gieo từ các kiếp trước, đến kiếp nay bắt đầu trổ quả. Người ta có thể tác động thay đổi nhân bằng cách: Làm thui chột, thêm vào hay bới đi… những gì mà con người đã gieo trước đây. Dựa trên cơ sở này mà Phật giáo đã sử dụng các phương cách tác động vào nhân trong quá khứ đó là trì tụng Kinh Chú, lạy Phật sám hối nghiệp chướng, không sát sinh, an chay, phóng sinh các loại sinh vật… Ba tông phái chính của Phật giáo hiện nay là Mật tông, Thiền tông, Tịnh độ đều có các phương cách tịnh, trừ tiêu nghiệp chướng cho các để tử của mình. Vì nếu không tiêu được nghiệp thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong tiến trình giải thoát. Trì tụng Chú, Sám hối Lạy Phật để tiêu nghiệp là một phương pháp khoa học có cơ sở theo quy luật nhân quả của Pháp giới (vũ trụ). Thế giới chúng ta đang sống là thế giới vật chất Vật chất có quy luật của vật chất. Trong vũ trụ bao la này không chỉ có một cảnh giới mà ta đang sống Trong tam thiên đại thiên thế giới có đến 10 cảnh giới khác nhau (Phật, Bồ Tát, Bích Chi Phật, A la hán, Trời, A tu la, người, súc vật, ngạ quỷ, địa ngực). Những cảnh giới đó cũng có các chuyển động theo quy luật khác nhau. Sự tương tác giữa các cảnh giới hay còn gọi là cảm ứng đạo giao giữa con người với các cõi giới khác không theo quy luật vật lý thông thường. Thế giới tâm linh chịu sự vận hành theo quy luật của pháp giới vũ trụ. Nhiều các hiện tượng thuộc về thế giới tâm linh khoa học vật chất không thể giải thích được. Nhưng không phải vì thế mà nói nó là mê tín dị đoan, hoang tưởng và không có cơ sở …. Trì tụng Kinh Chú Phật thuộc về thế giới tâm linh. Có rất nhiều bài Chú vi diệu vô cùng. Nó có thể thay đổi được tâm thức, nghiệp thức và đạt được sự linh ứng không thể nghĩ bàn. Câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật là một câu đại thần chú bất khả tư nghì. Nếu dùng tâm để niệm bạn sẽ thấy nó như một thần lực dẹp được vọng niệm trong đầu. Khi người niệm đến nhất tâm bất loạn. Niệm mà không niệm, không niệm mà niệm thì thế giới Chư Phật thập phương cùng niệm với bạn. Lúc đó cảm giác an lạc xuất hiện một cách diệu nghiệm. Như vậy, niệm Phật và Sám hối nghiệp chướng hoàn toàn có cơ sở để chuyển nghiệp, biến khối u ác tính thành khối u xơ lành tính. Chỉ có những người có niềm tin sâu vào Phật giáo sẽ hiểu được. Niệm Phật, sám hối… phát tâm cầu nguyện được vãng sanh về Cực lạc quốc sau khi rời bỏ báo thân thuộc về pháp môn Tịnh độ Tông. Ba bộ Kinh chính trong pháp môn Tịnh Độ là Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng thọ và Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Kinh Quán Vô Lượng Thọ là bộ kinh còn có tên là Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Sanh Chư Phật tiền. Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ có đoạn: Ðức Phật bảo Tôn giả A Nan:" Nầy A Nan! Ông thọ trì lời Phật vì đời vị lai tất cả đại chúng, những người muốn thoát khổ, mà nói pháp quán địa ấy. Nếu người quán địa ấy thì trừ được tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp, bỏ thân hiện tại, đời khác quyết định thọ sanh quốc độ thanh tịnh, tâm được không nghi. …Trong quốc độ Cực Lạc diệu bửu ấy, mỗi mỗi khu vực có năm trăm ức lầu báu….Trong các âm thanh ấy đều diễn nói niệm Phật, niệm pháp, niệm Tỳ Kheo Tăng. … Nếu thấy như vậy thì trừ vô lượng ức kiếp cực trọng ác nghiệp, sau khi mạng chung, quyết định sanh nước Cực Lạc. Ngày nay các đệ tự của Phật đã dùng câu niệm Phật A Di Đà để diệt vọng tưởng và tịnh, trừ nghiệp vãng sanh về Tây Phương Cực lạc. Câu Niệm A Di Đà Phật đã trở thành một câu thần chú bất khả tư nghì mà chỉ có những người trì tụng nó một cách tinh tấn mới hiểu được công năng của nó. Trong các điển tích của Phật giáo cũng như những câu chuyện có thật trong lịch sử có rất nhiều chuyện kể về nhiều người thông qua lá số tử vi đoán biết được số mệnh chết yểu của mình. Họ đã an chay niệm Phật sám hối nghiệp chướng phóng sinh làm công đức mà tăng tuổi thọ của mình. Khổng Minh (được cho là thánh nhân) sau một trận đánh hoả công bắt Mạnh Hoạch chết hàng vô số sinh mạng. Ông hiều rằng sau trận đánh này tuổi thọ của ông sẽ giảm đi 10 năm. Cuối cùng ông chết vì lao lực kiệt sức ở 55 tuổi. Thực tế câu niệm Nam Mô A Mi Đà Phật có công năng rất lớn và rất hiệu nghiệm trong việc thay đổi tâm thức chuyển nghiệp chữa bệnh. Nhưng không phải ai cũng có thể thành công khi niệm Phật hiệu này. Nó cũng khó như việc nhiều người niệm Phật nhưng không phải ai cũng vãng sanh được về thế giới Tây Phương Cực lạc. 48 đại nguyện của đức Phật A Di Đà trong kinh Vô Lượng Thọ là tuyệt đối xác thực, vấn đề người niệm Phật có đạt đến mức nhất tâm bất loạn hay không và có thành tâm chí nguyện hay không.
Để kết thúc bài viết tôi xin được đưa lời khai thi của Pháp sư Tịnh Không khi nói về ý nghĩa của công phu niệm Phật. “Thế nào gọi là niệm Phật? Ý nghĩa của chữ niệm theo cách chiết tự là: ở trên có chữ kim, ở dưới có chữ tâm. Như vậy có nghĩa là gì? Là cái tâm hiện tại vậy. Trong nhà Phật nói một niệm hiện tiền, cái tâm một niệm hiện tiền đó là niệm. Trong cái tâm một niệm hiện tiền này có đầy đủ: chân thành – thanh tịnh – bình đẳng – chánh giác – từ bi; Có cả nhìn sâu – buông xả – tự tại – tuỳ duyên, đó gọi là niệm Phật. Như vậy, mười điều chân chánh là Phật. Vì sao gọi là chân thành? Bởi vì trong chân thành có thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi, cho đến nhìn sâu, buông xả, tự tại, tuỳ duyên, niệm Phật. Cho nên, trong một điều có đủ chín điều còn lại, kinh Hoa nghiêm nói: một tức nhiều, nhiều tức một, một và nhiều không phải hai; kinh Duy ma nói: bất nhị pháp môn.”
Nam Mô A Di Đà Phật ! Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mầu Ni Phật ! Hồng Vân |
| | | Shiroi
Tổng số bài gửi : 19896 Registration date : 23/11/2007
| Tiêu đề: Re: Ngộ Thu 17 Nov 2011, 06:19 | |
| |
| | | Moon
Tổng số bài gửi : 384 Registration date : 22/08/2011
| | | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Thu 17 Nov 2011, 10:04 | |
| - Shiroi đã viết:
- Shiroi ghiền ăn cháo mà cũng thích ăn nấm nữa, cái món này phải đi nấu liền mới được í
- Moon đã viết:
- Trùi đất ...
Hai ...ngừ đẹp nì bộ định ...nắm tay nhau đi lin ...thiên đàng huh chòy ...?
Nấm là một loại ..."sinh vạn vật học" rất độc ... nếu ăn trong khi người ko được khỏe ...no no even nấm đông cô ...hay bất cứ loại nấm hiếm quý nào khác ...
Please Shiroi ... thuyền thống cho chéc en nhen bé ... Cháo thịt heo bầm ...một đống tiêu ...That's it ...!
Allez ...nước chanh ấm pha mật ong ...đi ngủ sớm ... Chết ngộ zồi... lỡ xúi dại Shiroi!!! hãy khoan...dừng tay lai đừng nấu cháo nấm Shiroi ơi. Nếu lở nấu rồi đưa Bố húp dùm cho ...có zì thì để Bố lên ... thiên đàng sớm hông sao á ụa quên xuống địa ngục chứ hì hì miệt dưới réo um sùm hoài hà!
LH không biết vụ độc địa này, thích ăn nấm hay ăn chay nên cứ ăn tá lả. Hm... nhờ sai lầm nên mới được học hỏi thêm đó chứ! Thanks Moon for khuyên nhiều nhen hm...nói sai hình như có lời ...lợi hại thiệt M ơi....đúng là NGỘ á! Sure ... no any kind of mushroom at all... khi long thể bất an... ghi nhớ ghi nhớ!
Anyway, LH thấy có mấy bài viết này mang ra đây cùng tham khảo luôn để tránh ngộ độc nhất là bệnh cảm thì nên tránh đồ mát như Moon nói là đúng. Ở miền Bắc LH nhớ là trúng cảm thì nấu cháo trắng lõng bỏ nhiều tiêu và cắt thật nhiều lá tía tô, gừng và hành bỏ vào ăn cho ấm bụng... là chắc ăn nhất .
Nấm bổ nhưng phải biết ăn
Ai cũng biết nấm rất bổ, thậm chí nên thuốc, nhưng không phải ăn sao cũng được... Vừa là “rau sạch” vừa là “thịt sạch“Theo thống kê, trong thiên nhiên có gần 7 vạn loài nấm, nhưng chỉ hơn 100 loài có thể ăn hoặc dùng làm thuốc. Hiện nay nấm được xem là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, được ví như món ăn thời thượng, thường xuất hiện trong các thực đơn nhà hàng, tiệc cưới như lẩu nấm, bánh xèo nấm, nấm xào, gỏi nấm... Trong nấm có các thành phần dinh dưỡng tự nhiên giúp tăng cường sức đề kháng cho cơ thể, chống lão hóa, kích thích cơ thể sản sinh hoạt chất interferon (chất có khả năng ức chế sự sinh trưởng của các loại virus, ngăn chặn quá trình hình thành và phát triển tế bào ung thư trong cơ thể). Ăn nấm giúp lưu thông khí huyết, thải độc tố ra ngoài cơ thể, giảm nguy cơ ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt. Đặc biệt, nấm vừa là “rau sạch”, vừa là “thịt sạch”. - Nấm hương có tác dụng điều tiết chuyển hóa, tăng cường năng lực miễn dịch của cơ thể, ức chế tế bào ung thư, hạ huyết áp, giảm cholesterol máu, phòng ngừa sỏi mật và sỏi tiết niệu, trợ tiêu hóa. Đây là thức ăn lý tưởng cho những người bị thiếu máu do thiếu sắt, cao huyết áp, tiểu đường, rối loạn lipid máu, trẻ em suy dinh dưỡng. Chất ergosterol trong nấm hương dưới tác dụng của tia cực tím trong ánh nắng mặt trời sẽ chuyển hóa thành vitamin D2 giúp cơ thể đề phòng và chữa bệnh còi xương rất hiệu quả. - Nấm rơm, nấm bào ngư, nấm mèo trắng có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, nâng cao năng lực tạo máu của tủy xương, giảm cholesterol máu, phòng ngừa cao huyết áp, thiểu năng tuần hoàn não... Nấm mèo đen còn có khả năng ức chế quá trình ngưng tập tiểu cầu, phòng chống tình trạng đông máu do nghẽn mạch, ngăn cản sự hình thành các mảng vữa xơ trong lòng huyết quản, chống lão hóa, ung thư và phóng xạ. - Nấm kim châm rất hữu ích cho người già, người bị huyết áp cao. Loại nấm này chứa một chất có tác dụng chống ung thư rất hiệu quả. Nấm kim châm chứa nhiều lysine rất cần cho quá trình sinh trưởng, cải thiện chiều cao và trí tuệ trẻ em, hạ mỡ máu, phòng chống bệnh lý viêm loét đường tiêu hóa và bệnh gan mật. - Nấm mỡ rất thích hợp cho những người chán ăn, mệt mỏi, sản phụ thiếu sữa, viêm phế quản mãn tính, viêm gan mãn tính, hội chứng suy giảm bạch cầu, giúp hạ đường huyết, hạ cholesterol huyết và cải thiện chức năng tuyến tụy. Nguy cơ ngộ độc: 3 mức độ ngộ độc nấm- Ngộ độc cấp và tức thìxuất hiện sau 6 giờ ăn phải nấm độc, biểu hiện bằng các hiện tượng kích ứng đường tiêu hóa như buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, dị ứng da, ngứa ngáy và hội chứng thần kinh gây mệt mỏi. - Ngộ độc chậm xuất hiện sau 6-12 giờ ăn gồm ngộ độc gan, thận và gây vỡ hồng cầu, xuất huyết dưới da. - Loại ngộ độc xuất hiện sau 24 giờ hầu hết là ngộ độc thận gây bí tiểu, urê huyết tăng cao, lơ mơ, trụy tim mạch và tử vong. Tuy nhiên, khi ăn nấm cần chú ý các điều bất lợi sau đây: - Theo y học cổ truyền, nấm có vị ngọt, tính mát, nếu dùng nhiều và lâu dài có thể dẫn đến lạnh bụng, khó tiêu. Những người tì vị hư nhược, khi ăn hay đầy bụng, chậm tiêu, đại tiện lỏng, phân nát thì không nên dùng. - Trong số hơn 100 loài nấm ăn được, 10-20 loài có độc tố có thể gây chết người sau khi ăn. Thống kê cho thấy 95% ngộ độc nấm là do nhầm lẫn và 5% do chủ quan của người ăn nhầm nấm bị biến chất, hư hỏng trong quá trình bảo quản. Sự nguy hiểm của nấm độc còn tùy thuộc nhiều vào thổ nhưỡng, điều kiện phát triển, nồng độ độc tố hiện diện trong nấm và loài nấm. Đun, nấu, đông lạnh hoặc chế biến đều không làm giảm độc tính của nấm. Trẻ em, người già yếu, suy nhược thường dễ bị ngộ độc hơn những người trẻ khỏe mạnh. Nếu sau khi ăn nấm mà bị nôn mửa, toàn thân mệt mỏi, đi tiêu nhiều lần trong ngày thì đó là triệu chứng ngộ độc, cần đưa đến bệnh viện cấp cứu gần nhất. Để lâu mức độ ngộ độc nặng hơn có thể trụy tim mạch hoặc tử vong. Do vậy, cần hết sức lưu ý khi mua nấm. Các độc chất trong nấm có nhiều loại, thường là gây kích ứng đường tiêu hóa, hủy hoại tế bào gan, thận, làm tê liệt thần kinh. Đặc biệt, với những người khi uống rượu kèm ăn nấm thì nguy cơ ngộ độc rượu tăng lên vì sự tích tụ quá cao của lượng aldehyd trong máu, gây cảm giác nóng bừng mặt, nhức đầu, buồn nôn, đánh trống ngực và khó thở, nếu không điều trị kịp thời sẽ dẫn đến tử vong. Cần chú ý những trường hợp ăn nấm trong các bàn nhậu hay tiệc cưới vì luôn kèm bia rượu, nếu ăn nhầm nấm nhiễm độc tố thì hậu quả khó lường. Khi mua nấm nên chọn loại non và tươi. Nên mua ở những cơ sở có uy tín. Tốt nhất nên dùng nấm trong 12 giờ sau khi thu hái. Nấm độc có nhiều màu sắc đẹp, sặc sỡ, hay mọc nơi ẩm ướt và môi trường ô nhiễm, nhất là vào mùa mưa. Trong nấm độc có chứa nhiều nước màu trắng đục giống sữa bò. Đun nấu trong vật dụng bằng bạc hoặc kim loại, nấm độc có thể biến vật dụng này thành màu đen. Mùa mưa đến nấm thường mọc nhiều ở các vùng ẩm ướt, rừng, nương rẫy, bờ ruộng, bờ ao, vì vậy cần tuyên truyền, khuyến cáo người dân không nên ăn nấm khi không biết đó là nấm lành hay nấm độc để tránh những vụ ngộ độc chết người do nấm gây ra. DS LÊ KIM PHỤNG |
| | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| | | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Sat 19 Nov 2011, 12:02 | |
| CUỘC ĐỜI CHÍNH TRỊ CỦA TÔI Tuần báo Time số ra ngày 13 tháng Chín 2010 đăng bài trích đoạn “A Call to Greatness” lấy ra từ trong cuốn sách mới xuất bản: “A Journey: My Political Life” do cựu Thủ Tướng Anh QuốcTony Blair viết những cảm nghĩ của ông về nước Mỹ và những vị Tổng Thống Mỹ ông có dịp làm việc chung với họ.
TRONG THỜI GIAN LÀM THỦ TƯỚNG, tôi trở nên yêu qúi nước Mỹ - tôi yêu cái đặc điểm gợi nguồn cảm hứng của nước Mỹ, tôi yêu cái triết lý tự lập, xây dựng từ hai bàn tay trắng, không cần nhờ vả vào ai. Cá nhân tôi không xây dựng sự nghiệp của mình theo kiếu đó, và tôi cũng không quen biết nhiều người Mỹ khi còn nhỏ, cái thời cắp sách đi học, hay khi lên đại học. Mãi đến năm 32 tuổi tôi mới đi thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên. Nhân sinh quan của tôi về nước Mỹ hình thành qua những phim ảnh, chương trình TV, và một vài chung đụng lẻ tẻ với du khách Mỹ. Tôi có chung cái cảm nghĩ giống như nhiều dân Anh khác là hay nhíu mặt, chau mày khi nghĩ đến người anh em họ xa ở bên châu Mỹ. Nhưng vào năm 1985, tôi được tham dự trong phái đoàn đại biểu Quốc Hội Anh đi gặp Bộ Trưởng Ngân Khố Hoa Kỳ James Baker, nghe ông nói chuyện về đề tài đánh thuế hai lần, một vấn đề vừa mới nổi lên trong tình hình chung ở hai nước. Tôi không hề biết chút gì về ông Jim, song ai đó đã quyết định tôi sẽ là người phải đứng ra trình bầy với ông Bộ Trưởng Ngân Khố Mỹ về trường hợp của nước Anh, và phải thuyết trình một cách hùng hồn, mạnh mẽ. Giống như bất cứ một luật sư trẻ tuổi tài hoa vào lúc bấy giờ, tôi vội vàng thu thập tất cả những dữ kiện về đề tài, và nghiên cứu hối hả để mau trở thành một chuyên gia về đề tài đó. Kế đến, được vinh dự đi công tác bằng máy bay siêu thanh Concord làm cho tôi cảm thấy như mình là một nhân vật hết sức quan trọng.
Nhưng rồi, sau phiên họp, tôi đã phải bước ra khỏi phòng họp tả tơi như một võ sĩ bại trận. Quả thực là trước khi họp, tôi tự tin một cách chắc ăn rằng buổi nói chuyện sẽ nghiêng phần thắng về phía tôi. Trận đấu hầu như đã được sắp xếp xong, tôi sẽ hạ nốc ao đối thủ ngay ở hiệp nhì. Nào ngờ, khi lâm trận tôi gặp một địch thủ siêu đẳng, cỡ võ sĩ Rocky Mariciano, và tay này cứ thế mà đánh cho tôi biết bao nhiêu đòn đích đáng. Vâng, quả thực ông Jim đã chủ động ngay từ đầu, ông ta nắm vững từng con số, từng chi tiết một, ông giải thích cho tôi cặn kẽ từng điểm phải làm như thế nào mới là đúng, ông khiến cho tôi bẽ mặt như một con hổ giấy, và làm cho tôi như con cá chết đuối nhìn sao ở trên trời. Tóm lại, ông là một người rất thông minh. Bài học mà tôi lãnh hội ngày hôm đó là người Mỹ thông minh lắm, có những người hết sức thông minh.
Đó là một bài học hữu ích cho tôi khi tôi lên làm Thủ Tướng. Tôi có dịp làm việc chặt chẽ với hai Tổng Thống, Bill Clinton và George Bush, và biết được vị tổng thống thứ ba là ông Barack Obama, qua việc làm gần đây của tôi về tình hình ở Trung Đông. Nghệ thuật lãnh đạo là một năng khiếu riêng tư của mỗi cá nhân. Người đời thường nghĩ rằng nhà lãnh đạo là loại người duy nhất có khả năng tồn trữ những kiến thức mà người khác không có. Mặc cho giới truyền thông có xu hướng lôi đầu người lãnh đạo xuống đất đen, và phô bầy những nhược điểm của họ cho công chúng biết, nhưng hầu hết các nhà lãnh đạo, nhất là những tổng thống của Hoa Kỳ thường là những nhân vật có tài trí vượt trội lên cao, giống như người đứng từ trên đỉnh núi Olympia. Chức vụ tổng thống Mỹ thường do những cá nhân xuất chúng nắm giữ, họ khiến cho mọi người phải cảm phục.
Trong vai trò Thủ tướng nước Anh, tôi thường hay có dịp gần gũi thân mật với các tổng thống Hoa Kỳ - và khi đó bạn sẽ nhìn thấy những tính nết, đặc điểm cá nhân của từng người một. Bạn sẽ không chỉ quan sát họ dưới góc cạnh của một nhân vật đang nắm quyền lực ở xa bạn, song bạn có dịp nhìn rõ ông ta như những diễn viên bằng xương bằng thịt trong vở tuồng nhiều kịch tính của sân khấu chính trị. Trong trường hợp của tôi, tôi ở vị trí hết sức thuận lợi để nhận xét về những ông tổng thống, và cũng từ đó khiến tôi có thêm lòng kính trọng, ngưỡng mộ phẩm chất nghệ thuật lãnh đạo mà nước Mỹ đã sản sinh ra những vị tổng thống đó. Người ta thường hỏi tôi: “Ông hãy nói cho tôi nghe cảm nghĩ, hay những gì ông biết về ông Bill Clinton , và ông George Bush?”, và câu trả lời của tôi là: “Đây là sự thật mà tôi biết từ trong hậu trường, nó như sau: Hai ông ấy hoàn toàn khác hẳn nhau!.”. Nhưng cả hai đều có những ưu điểm riêng của họ.
Sức Đề Kháng và Khả Năng Nhận Xét Bén Nhậy
KHI MỚI GẶP ÔNG BILL CLINTON LẦN ĐẦU, tôi nhận thấy ông ta là một chính khách tài ba, siêu đẳng nhất mà tôi từng gặp, cho đến bây giờ ông ta vẫn còn có những đặc điểm đó. Khả năng và kinh nghiệm xuất chúng của ông trong việc am hiểu hành động chính trị nhiều khi làm cho người ta quên mất ông ta còn là một nhà tư tưởng vĩ đại. Ông có những chương trình, tư tưởng về triết lý chính trị rất rõ ràng được suy nghiệm sâu xa, đến nơi đến chốn. Ông có sự duyên dáng vô tận trong việc xã giao, làm quen với mọi người dân gỉa bình thường. Tôi nhớ hồi năm 2003, khi ông đến dự Hội Nghị thường niên của Đảng Lao Động Anh, tổ chức tại khu nghỉ mát Blackpool vùng bờ biển phía Bắc nước Anh. Buổi tối, ông ta đi ra ngoài phố, ăn hamburger tại tiệm McDonald, để thưởng thức gió chiều lành lạnh với người dân điạ phương. Chỉ trong chớp mắt, ông làm quen với dân chúng ở đây, và câu chuyện nở như pháo rang, cứ như thể là ông ta đã từng đến đây vào mỗi tối thứ Ba để ăn tối với họ. Trong nhiều năm liên tiếp phe cực hữu cố tìm cách bôi nhọ ông Bill Clinton bằng cách mô tả ông là một tay giảo hoạt chỉ có cái miệng khéo nói, trơn như bôi mỡ. Vâng, ông Bill quả thực là một chính khách có tài ăn nói giỏi. Nhưng cử tri bầu cho ông lên làm tổng thống vì họ khôn ngoan,thông minh. Họ không bầu cho ông chỉ vì ông là chính khách có tài ăn nói. Họ bầu ông lên làm tổng thống vì ông đem đến cho họ những chương trình hành động hợp lý, tân tiến, và có thể thực hiện được, dựa vào những nguyên tắc triết lý liên quan đến tình hình cuộc sống của cử tri. Trước ông, không có một ứng cử viên nào đưa ra được điều gì hay, mới lạ cả.
Ông Bill Clinton có một sức đề kháng, chống chỏi tiềm ẩn bền bỉ. (Bạn hãy nhớ lại cái giai đoạn ông bị lôi ra đòi truất phế. Quả là quá đáng, kinh khủng thật. Thế mà ông ta đã thắng lướt được. Nhờ đâu mà ông có thể bảo vệ được danh dự của mình? Làm cách nào để ông giữ được ghế tổng thống, và khi ra đi, vẫn có đến hơn 60% cử tri ủng hộ ông.). Trời cho ông ta có tính bình tĩnh, rất “cool”, cái tính này có tự bẩm sinh, và nó lộ ra vào những lúc ông bị tấn công tới tấp. Hơn thế nữa ông là một Tổng Thống rất thông minh, sáng trí. Có nhiều lần ông điều khiển chức vụ tổng thống một cách dễ dàng, thoải mái, chẳng hạn như ông chỉ đạo nền kinh tế một cách tài tình, làm được nhiều cải cách đáng khen, giải quyết cơn khủng hoảng ở Kosovo rất khéo, chứng tỏ ông là một nhà lãnh đạo tài ba. Nếu như ông còn làm tổng thống sau biến cố 9/11 khi nước Mỹ bị đánh khủng bố, ông sẽ lãnh đạo ra sao? Đó là một đề tài rất hấp dẫn nhiều người muốn bàn đến. Hoàn cảnh thế giới biến đổi rất nhanh, sự thông minh, duyên dáng của ông chưa đủ. Cần phải có một nhân vật có đủ “ca lip”, hay “cường độ cứng rắn” để đối phó với tình thế. Tôi tin rằng ông chính là người hội đủ những yếu tố này, để có thể đưa ra những quyết định tốt đep ảnh hưởng đến tình hình thế giới.
Ông George Bush là loại người trực tính, hay nói thẳng, và ông cũng rất thông minh. Nhiều tranh biếm hoạ chính trị khôi hài thường hay mô tả ông George Bush như một thằng ngố, bỗng dưng được lên làm tổng thống. Thực ra chẳng có ai bỗng dưng được ngồi vào ghế tổng thống đâu, và lịch sử về những cuộc vận động tranh cử tổng thống Mỹ cho thấy biết bao nhân vật có tiếng là thông minh cũng vẫn rơi đài la liệt, bởi vì thông minh thôi vẫn chưa đủ. Ở Hoa Kỳ cũng như ở bên Anh, trong đấu trường chính trị, nếu bạn chỉ được gọi là thông minh bạn vẫn có thể bị ăn tươi nuốt sống như thường, bạn phải vượt trội hơn ngoài sự thông minh,và sáng trí.
Ông George Bush có đặc tính là hết sức trầm tĩnh. Tôi có mặt ở Toà Bạch Cung vào chiều ngày 20 tháng 9 năm 2001 với tổng thống Bush trước khi ông ra Quốc Hội đọc diễn văn về vấn đề quân khủng bố tấn công ở New York và Washington chín ngày trước đó. Tôi thấy ông chẳng có chút gì là hoảng hốt, lo sợ, hay băn khoăn gì cả. Ông ta tỏ ra rất bình thản, ung dung. Ông có trách nhiệm hoàn thành sứ mạng của một tổng thống. Ông không bị buộc phải làm cái sứ mạng đó, và ông cũng không mong chờ nhận đón trách nhiệm này. Ông không lượm cái sứ mạng làm tổng thống ở dưới mặt đất lên. Trách nhiệm của một tổng thống đã đi tìm ông, và trao lên vai ông. Trong tâm trí của ông vấn đề hết sức rõ ràng là tình hình thế giới ngày nay đã thay đổi, và trong vai trò Tổng thống một một cường quốc mạnh nhất thế giới, ông phải xông pha ra gánh vác trách nhiệm này vì hoàn cảnh thay đổi. Tôi buột miệng hỏi ông xem ông có bối rối không. Ông trả lời thật: “Chẳng có gì phải bối rối cả. Tôi có sẵn trong tay bài diễn văn, và bản thông điệp tôi hết sức rõ ràng.”. Tôi ngạc nhiên trước thái độ bình tĩnh của ông. Tôi quan sát ông thật kỹ. Quả thực trông ông rất ung dung, bình thản.
Ông George Bush cũng có lối mẫn cảm riêng của ông. Nhưng lối mẫn cảm của ông Bush khác với lối của ông Clinton – ít có ý nghĩa về chính trị, song lại nặng về tính chất đúng hay sai, phải hay quấy nhiều hơn. Điều này không nói lên đặc điểm về khả năng phân tích sự việc, hay trình độ trí thức khác nhau của mỗi ông. Song nó chỉ là bản chất của mỗi ông. Nó là như thế đó. Vì tôi thuộc trường phái của ông Clinton , hay lo xa, và muốn mọi việc chu toàn, nên đôi lúc tôi cảm thấy bối rối, và hồi hộp nữa. Tôi sẽ có mặt cùng với Tổng Thống Bush trong buổi họp báo, ngay tại trung tâm điểm của mọi biến động làm chao đảo thế giới, tôi có định nhắc chừng ông: George, nhớ giải thích vấn đề đấy nhé, đừng có chỉ nói suông thôi.
Tuy nhiên qua thời gian quen biết ông Bush khá lâu, và suy gẫm lại những biến cố trong quá khứ, sau khi hết làm thủ tướng, tôi thấy từ từ nhận ra được những đức tính của ông Bush. Ông là một người trực tính, thẳng thừng, đơn giản và có khi liều lĩnh, táo bạo. Đó là ưu điểm và sức mạnh của ông. Thỉnh thoảng, vì chúng ta cứ mải mê lý sự với nhau, chúng ta chỉ lo đi tìm lối thoát cho một đoạn đường khó khăn ngắn ngủi, vài tuần, một năm, hai năm, mà quên đi mất tính chất lâu dài, bao la trong sự phán xét của dòng lịch sử.
Và rồi tiếp đến là ông Barack Ob ama. Ông bước lên sân khấu chính trường ngay sau khi cơn khủng hoảng tài chánh, và hai cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan xảy ra ở mức độ hết sức trầm trọng. Chưa hết, ông còn phải đối đầu với tình hình kinh tế suy thoái nhị trùng, và phải tìm cách ngăn chặn Iran trong việc nước này phát triển vũ khí nguyên tử. Và giống như nhiều vị lãnh tụ trước đây, ông là một người lãnh đạo mới, cá tính làm chính trị của ông cần phải có thời gian học hỏi kinh nghiệm, hiểu rõ tình hình. Về cá tính của ông, thì rất rõ ràng, ông là một con người có ý chí sắt đá. Người ta kỳ vọng rất nhiều nơi ông trong vai trò tổng thống. Nhưng những kỳ vọng sau này lại đi kèm với những chỉ trích quá đáng. Trong suốt quá trình làm việc, ông tỏ ra là một nhân vật tài giỏi, trầm tĩnh như từ bấy lâu nay. Và thưa các bạn, để làm được việc này không dễ đâu.Tôi chỉ giữ được tình thế ổn định, vững vàng vào lúc cuối nhiệm kỳ.
Tôi nghĩ rằng tôi hiểu được vị tổng thống mới này đang cố gắng làm những gì. Thay vì chống đối kịch liệt những việc làm của tổng thống tiền nhiệm, ông chỉ trích người đi trước rất ít, có khi còn đồng ý nữa, vì dụng đích chính trị. Phải thành thật mà nói, để cải tiến tình hình kinh tế, và bảo vệ an ninh, ông Ob ama cũng cứng rắn không thua gì ông Bush đâu. Ông ta đang tìm cách uốn nắn nền kinh tế đi vào khuôn khổ theo ý của ông. Ông tìm cách tránh những tác hại quá đáng của tình hình kinh tế, và không để Hoa Kỳ mất sự ủng hộ của đồng minh, để họ hợp tác với Mỹ trong việc đương đầu với tình hình an ninh thế giới.
Một Quan Niệm Rõ Ràng Về Quốc Gia
DĨ NHIÊN, BA ÔNG CLINTON, BUSH OBAMA có cá tính khác nhau. Nhưng cả ba ông đều có chung một điểm. Đó là họ có cùng một quan niệm rất rõ ràng về nước Mỹ. Là một cường quốc, nước Mỹ phải sử xự, phải lãnh đạo nuớc mình và thế giới như thế nào. Trên thế giới, có nhiều nhà lãnh đạo khác nhau, thuộc mọi xu hướng, cá tính khác nhau, và tôi đã từng gặp đủ loại nguyên thủ, lãnh đạo. Tôi nhớ có lần tôi ngồi họp trước mặt một vài nhà lãnh đạo, họ dở đến mức độ trong bụng tôi phải rủa thầm: “Lậy Chuá tôi, sao dân chúng của nước nào mà bất hạnh đến thế, họ có những tên lãnh tụ ngu như bò.”. Vâng, bạn sẽ gặp những nhà lãnh đạo ngu si, ích kỷ, tham lợi, nhỏ mọn, và tính khí không xứng đáng làm lãnh tụ. Có những người trông hết sức quái đản, sản phẩm của một hệ thống chính trị điên rồ,bệnh hoạn. Có những nhà lãnh đạo vừa bất tài, vừa ngô nghê, không biết tí gì về vai trò, quyền hạn của mình. Đã có lần tôi hỏi một câu hơi tàn nhẫn khi được tin về một nhà lãnh đạo qua đời: “Làm sao họ dám nói như vậy về lãnh tụ của họ?”.
Nhưng cạnh đó, lại có những nhà lãnh đạo vừa thông minh, vừa khôn ngoan và tử tế. Họ là những người làm cho bạn phải cảm phục và quí mến. Và chính ở điểm này chúng ta cần ghi nhận: Có rất nhiều người hội đủ những đức tính đó, nhiều hơn mức bạn thường nghĩ.
Theo ý của tôi, ngoài những thử thách về chính sách, óc phán xét, tài năng chính trị, và khả năng thao lược, cuộc thử thách quan trọng về tài lãnh đạo của vị nguyên thủ là thử xem ông ta có đặt quyền lợi quốc gia trên hết hay không. Ông ta có đặt quyền lợi của quốc gia dân tộc cao hơn lợi ích chính trị cá nhân của mình hay không? Đó chính là cuộc thử nghiệm tối thượng. Có rất ít vị nguyên thủ đậu được cuộc thi này. Cả ba vị tổng thống tôi vừa kể trên đều làm được chuyện đó, có điều là vì một lý do ẩn số, lòng dạ của họ không được biểu lộ ra ngoài để mọi người thấu hiểu.
Người Mỹ có thể bị tai tiếng đủ điều đối với thế giới bên ngoài, nào là kiêu ngạo, ồn ào, ích kỷ chỉ lo phận mình, hiếp đáp người khác, và nặng tay với bạn bè. Nhưng chắc chắn nuớc Mỹ vẫn là một nước giầu mạnh, hùng cường vì một lý do nào đó. Người ta vẫn nhìn vào nước Mỹ như một tấm gương để noi theo, phải chăng nước này có tinh hoa riêng của nó. Vâng, trong phẩm cách của người Mỹ có tinh thần mã thượng, hào hiệp, được hun đúc qua nhiều thế kỷ, xuất phát từ tinh thần khai phá biên cương mới để lập nghiệp, và nhiều đợt di cư của các sắc dân khắp thế giới đổ về đây, từ cuộc chiến đấu dành độc lập, đến cuộc Nội Chiến, từ nhiều biến cố lịch sử, cũng như những sự kiện tình cờ. Tất cả đã làm thành một nước Mỹ vĩ đại.
Cái tinh thần mã thượng này không có nghĩa là người Mỹ tử tế, tốt hơn, hay thành công hơn người nước khác. Nó chính là cảm nghĩ của họ về đất nước mình sống. Chính lòng nhiệt tình của họ đối với xứ sở đã phá bỏ được những ngăn cách về mầu da, giai cấp, tôn giáo, hay qúa trình trưởng thành. Lý tưởng của người Mỹ là những giá trị đạo đức mà họ ấp ủ. Lý tưởng này gồm có: Tự do cá nhân, Tôn trọng luật pháp, Dân chủ. Nó cũng nằm trong quá trình thành đạt của mỗi cá nhân: hễ giỏi là được trọng dụng, phải tự làm lấy, và siêng năng, chịu khó tất sẽ thành công.. Song có lẽ điểm quan trọng nhất phải nói là mọi người Mỹ đều ước ao duy trì cho được những giá trị trên, và ráng bảo vệ những giá trị đó. Họ coi những giá trị đó là ưu tiên hàng đầu cho cá nhân mình, sau đó là cho đất nước. Chính vì những giá trị đạo đức này, giúp cho nước Mỹ cương quyết đương đầu với những khó khăn, thử thách. Vì lý tưởng đó mà binh lính Mỹ chấp nhận hy sinh. Vì nó mà mọi người dân Mỹ du sang giầu hay nghèo hèn đều sẵn sàng đứng nghiêm chỉnh chào khi bản quốc ca “The Star-Spangled Banner” được trổi lên. Hiển nhiên là lý tưởng đó không phải lúc nào cũng được thực hiện, song mọi người đều cố gắng thực thi cho bằng được.
Người Mỹ Cần Phải Duy Trì Lòng Tự Tin.
VÀI NĂM SẮP TỚI, DÂN MỸ SẼ ĐƯỢC DỊP THỬ THÁCH VỀ TÁNH TÌNH CỦA MÌNH. Nước Mỹ sẽ không yêu mến người giữ chức tổng thống nhiều như những vị tổng thống trước đây. Nhưng nước Mỹ vẫn nên duy trì sự tin tưởng, lòng tin vào đất nước của mình. Đó là một lý tưởng, nhờ nó mà chúng ta có tinh thần lạc quan, làm được thành tích mới, hãy ráng gìn giữ nó. Sự tự tin là một bảo vật, tặng phẩm quí báu cho một quốc gia. Thế giới có thể thay đổi. Một vài nước mới trở thành cường quốc. Nhưng điều đó không làm suy giảm nhu cầu phải có lý tưởng của dân Mỹ. Lý tưởng này giúp cho nước Mỹ trẻ trung trở lại, tái xác nhận vị thế của mình, và tăng thêm trách nhiệm của nó.Bao giờ cũng hay có trường hợp thử thách xem người dân có còn muốn can dự, nhập cuộc, hay họ muốn rút lui, nhảy ra khỏi cuộc chơi.Tôi nghĩ câu trả lời trong trường hợp của nước Mỹ nằm ở lý tưởng mà dân nước này thường ấp ủ.
Tôi có một người bạn, cha mẹ của anh là người di dân sang Mỹ lập nghiệp. Họ là người gốc Do Thái ở Âu châu đến Mỹ để tìm kiếm sự an ninh. Cha mẹ của anh định cư, và sinh sống ở New York Gia đình không thuộc vào hàng khá giả cho lắm. Cha của anh chết lúc anh còn nhỏ. Mẹ của anh tiếp tục ở vậy nuôi con. Sau một thời gian, anh lớn lên, trưởng thành và trở nên giầu có. Anh thường mời mẹ anh đi chơi xa, ra ngoài nước Mỹ. Nhưng bà chẳng bao giờ chịu đi chơi đâu cả. Cuối cùng đến khi cụ mất, gia đình đi tìm cái hộp đựng nữ trang của cụ, cất gởi trong tủ sắt của ngân hàng. Trong tủ sắt này, con cháu còn tìm thấy một cái hộp nhỏ khác. Hộp này không có chìa khoá. Vì vậy họ phải dùng khoan để mở ra. Họ thắc mắc không hiểu bà cụ để món nữ trang quí giá gì ở trong đó, đến nỗi phải cất kỹ như vậy. Mở được nắp hộp ra. Trong đó có thêm một lớp giấy bao nữa, và cuối cùng là một bao thơ. Mọi người tò mò, hồi hộp không hiểu trong bao thơ đó có cái gì. Bao thơ đó đựng cái chứng chỉ trở thành Công Dân Mỹ của bà cụ Ngoài ra, không có gì khác. Chứng chỉ trở thành công dân Mỹ của bà cụ được cụ coi quí trọng như bảo vật, quí hơn bất cứ loại báu vật nào của cụ. Vâng, trở thành công dân Mỹ là điều bà cụ trân qúi nhất. Ngày nay, nước Mỹ cũng nên quí trọng đất nước, dân chúng của mình như vậy.
Cựu Thủ Tướng Anh Tony Blair (Minh Tâm dịch) Trí tuệ và khí phách lãnh đạo, Niềm Tin và Ẩn Số… Có thể gọi là duyên nghiệp chung của nhân loài?
LH
|
| | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Tue 22 Nov 2011, 06:51 | |
| Về Hạnh Bố Thí Có một lần đi xe hơi với cậu Nhân từ San Francisco về Los Angeles khoảng mười một năm trước, cậu đề nghị giúp tôi phương tiện để “chị muốn làm gì thì làm, như viết sách chẳng hạn. Ðể chị không phải vội vã đi kiếm việc lo chuyện sinh kế.” Hồi đó tôi mới nghỉ việc với Wells Fargo, dọn về sống với bố mẹ tôi lúc đó đã già. Tôi từ chối ngay đề nghị đó. Viện nhiều lý lẽ trong đó có lý “chị còn khỏe mạnh thì đi làm chứ. Sao lại để chú nuôi nhỉ.” Hồi đó cậu mới ba mươi mốt tuổi, là kỹ sư, không thích nói chuyện triết lý và hoàn toàn không biết đạo là gì, nhưng không biết từ đâu mà cậu bảo tôi: “Cả đời chị đã giúp chúng em rất nhiều, bây giờ em chỉ muốn giúp lại chị một chút thôi, trong lúc này khi hoàn cảnh cho phép. Chị biết cho thì phải biết nhận chứ. Nếu không biết nhận thì chưa chắc đã biết cho.”
Tôi tiếp tục biện luận hăng hái hơn trên suốt đoạn đường còn lại. Về chuyện “thấy vui khi cho và không nhận vì không thấy cần, không muốn ỷ lại vào ai, chứ không phải vì tự ái”, không biết tôi thuyết phục cậu hay thuyết chính mình!
Nhưng câu nói “không biết nhận thì cũng không biết cho” của cậu bỗng dưng in chặt vào đầu tôi. Nằm trong đó cùng với những câu “từ nhãn thị đại chúng”, “hãy nhìn đời bằng một con mắt lạnh như tro tàn và một trái tim nóng hổi” v.v... mà tôi đã thu thập trong những sách thiền từ hồi nào.
Rồi có một lần đọc được một chuyện ngắn của chị bạn viết là hồi Thầy Thiên Ân sắp mất, chị thường hay lại thăm Thầy và rất buồn khi thấy bệnh thân thể Thầy đau đớn. Chị thường khắc khoải không biết làm gì để Thầy vui, để Thầy bớt đau. Một hôm khi chị hỏi, “Thầy muốn con làm gì?” thì Thầy bảo chị đi mua cho Thầy chiếc mũ đội cho ấm đầu. Hôm đó là ngày cuối tuần. Ðã 7 giờ tối. Các tiệm lớn đều đóng cửa. Nhưng Thầy muốn chị đi mua ngay. Chị đành chạy ra tiệm Thrifty lúc đó còn mở cửa mua chiếc mũ đem về. Thầy nhận và tỏ vẻ vui. Còn chị thì rất vui vì làm được một việc vừa lòng Thầy. Sau đó ít lâu Thầy qua đời. Và khi chị tới giúp dọn dẹp phòng Thầy ở cũ, chị thấy ở trong tủ Thầy có cả tá mũ đủ loại rất đẹp. Chiếc mũ của chị mua biếu Thầy hôm đó trông tầm thường nhất. Chị chợt tỉnh ra. Nhìn thì tưởng chị làm CHO thầy vui. Chị là người làm phước. Thực ra chính Thầy cho chị cơ hội để chị được vui một lần chót với Thầy. Ðể chị được phước báo. Chính chị là người NHẬN, người được, người thụ ơn. Từ kinh nghiệm đó chị nhận và biết là trong cuộc đời nghĩ tới cùng thì nhiều khi người cho lại chính là người nhận. Người nhận là người cho. Không biết ai là ai. Và ai phải cám ơn ai. Thôi thì cứ cám ơn nhau vậy. Và cám ơn Ðời.
Không hiểu sao tôi thích chuyện đó vô cùng. Lâu lâu đem đọc lại. Ðến nhập tâm. Nhưng trong đời sống hàng ngày vẫn thích Làm Cho người khác chứ không thích ai làm cho mình điều gì nếu tôi có thể tránh được. Cái tính này là phải nói tôi “thừa hưởng” của ông Bố. Hơn mười năm sống gần Cụ tôi nhìn thấy thật rõ ràng. Cả cuộc đời cụ hy sinh cho vợ con. Giúp đỡ mọi người mà không kể ơn. Ðến lúc già không còn quyền thế để giúp người như trước thì cụ lại chắt chiu, tiết kiệm chi tiêu dành tiền dưỡng già gởi giúp đỡ họ hàng. Cụ cất và xếp những thư đầy tình cảm ơn nghĩa từ Việt Nam gởi sang đầy chặt ngăn kéo. Nhưng cụ không thích phải “nhờ” con cái điều gì. Mặc dầu cụ để tôi lái xe đưa đi bác sĩ, đi nhà thương, hay đi thăm mấy bà Cô ở quận Cam nhưng bao giờ cụ cũng nói “lúc nào tiện”. Nghe giọng thấy như miễn cưỡng. Những năm đầu cụ không nói cám ơn.
Cho mãi đến gần đây khi cụ đã đọc kinh sách Phật thật nhiều tôi mới nghe cụ nói “Thank you” với con cái. Ở nhà cụ vẫn nhất định tự đun nước sôi đổ vào bình. Tay cụ run run nhiều lúc nước rớt ra ngoài. Tôi và cô em đã nhiều lần dặn “cậu để đó chúng con làm cho. Không có lỡ bỏng thì phiền lắm.” Bao giờ cụ cũng trả lời “tôi làm được mà.” Dần dần tôi thấy rõ là dù đã ngoài 80 cụ vẫn không thích ai Làm Cho mình cái gì nếu cụ nghĩ là cụ còn làm được. Phiền là nhiều lúc cụ ước lượng sai về sức mình. Có thể là vì cụ vẫn thấy chuyện Cho và Nhận, Người và Ta thật khác biệt, thật minh bạch như chuyện Ngày Ðêm chăng. Tôi thỉnh thoảng cũng than phiền cụ về chuyện này với các em. Vì tôi bắt đầu thấy là những phân biệt rõ ràng như Trắng Ðen của mình và người đời, nhiều khi lại chưa hẳn là như thế.
Bắt đầu biết chuyện phân biệt cho với nhận chỉ là sản phẩm của “cái tôi” đầy tự ái, mà thực ra thì cả hai chỉ là một. Biết thế mà tôi vẫn bắt gặp mình “dẫy nẩy” lên mỗi khi các em tôi cho quà, và cứ thanh minh thanh nga là đã từ lâu mình không còn tự ái nữa. Biết thế mà tôi vẫn ghi sổ ký ức tên ân nhân và nóng lòng tìm cơ hội trả nghĩa. Cũng lại thấy rõ ràng là mình suy nghĩ và hành xử không đồng nhất. Cũng lại thấy lòng hơi bực bội mỗi khi nghe cô em út say sưa nói về chuyện “có đi có lại”, “Give and Take” như là một bí quyết giao tế tối thượng trên cõi đời này. Bực nhưng chưa thấy tại sao mình bực. Có thể là vì chính trong lòng mình đang có tranh chấp về chuyện cho và nhận, chuyện ban ơn và thụ ơn không?
Cũng trong thời gian đó thỉnh thoảng tôi đi Oxnard thăm những ruộng rau. Ngày chủ nhật thiên hạ đi nhà thờ, đi chùa hay đi Bolsa ăn phở, thì tôi đi mót rau. Những ruộng rau nhà chủ vườn đã gặt xong, bỏ lại những cây rau không đủ tiêu chuẩn đầy ruộng, để mặc cho đến mùa sau. Tôi tới ngồi giữa ruộng rau ngắm những cây rau còn đầy sức sống. Những tầu lá phía ngoài xòe thẳng, thật xanh có gân trắng chằng chịt như những nét họa tuyệt diệu. Như mạch sống đang trào ra ôm ấp bông súp lơ trắng tinh lấp ló bên trong đợt lá non chúp đầu vào nhau như bàn tay chắp búp sen lậy Phật. Tôi hít hà không khí trong lành và vùng bao la xanh ngắt vắng lặng. Từ cái yên bình của ngoại cảnh và nội tâm, tôi thấy niềm tri ân vỡ bung ra ôm trọn vẹn tôi trong cái thinh không vô cùng đó. Không biết tên ai để nhớ, để có dịp trả ơn thì làm sao đây. Gọi là Ðời, là Trời Phật ư? Nhưng làm sao trả ơn Ðời, Ơn Trời?
Mỗi lần đi như thế tôi thường khuân về hàng thùng rau đem biếu chùa và hàng xóm. Mọi người cám ơn. Nhưng trong lòng tôi thầm nghĩ chính mình phải cám ơn họ vì họ đã nhận và tiêu thụ hộ. Không có người nhận thì làm sao tôi có dịp cho. Làm sao tôi có cớ tiếp tục đi mót rau, để dần dần nhìn thấy lòng tham của mình. Nhặt cho nhiều, tội gì, không có thì phí của đi! Nhưng thực ra làm sao mà phí được khi những cây rau bỏ lại sẽ chết đi, sẽ được cầy lên vùi vào lòng đất trở lại làm phân bón cho rau mùa sau. Biết vậy nên từ đó về sau tôi thường chỉ nhặt in ít đủ nhà dùng vài ngày thôi. Còn thì ngồi chơi với ruộng rau. Nhận hưởng nắng ấm trải dài, không gian đầy ắp sức sống và những hỷ xả của Ðất Trời. Bỗng nhận thấy rằng mình vẫn nhận rất nhiều, hàng ngày của Trời Ðất mà không thắc mắc. Nhưng người với người thì tại sao nhiều vấn đề thường được đặt ra. Phải chăng vì cái ngã còn đứng ở đó đặt ra những chuyện người cho kẻ nhận. Người có người không. Người đứng trên kẻ đứng dưới v.v... Mặc dầu kinh Phật vẫn dạy rằng hạnh Bố Thí là hạnh thứ nhất của người Phật tử. Bố thí trong tinh thần không có người bố thí và kẻ được bố thí. Chỉ có việc bố thí. Ðể không còn có Người và Ta, không còn tự ái dù là tự tôn hay tự ti. Vì khi còn phân biệt giữa người và ta tức là còn có ngã. Còn nhị nguyên. Còn tính toán hơn thiệt. Còn có đi có lại. Còn rất Ðời. Chưa đi vào đường Ðạo.
Tất cả những cái thấy, những cảm nhận, những ý nghĩ, những quán chiếu, những suy tư đó nằm đầy ắp óc tôi. Nung nấu. Tôi hiểu hết mọi sự bằng óc. Nhưng chưa bằng con tim. Tất cả còn nằm đó, trên óc. Ðược dùng để suy đoán, biện luận và phán xét. Chưa di chuyển xuống tim để biến thành máu chạy khắp toàn thân. Tới tận đầu ngọn tóc, tận kẽ ngón chân để trở thành đời sống và hành động tự nhiên như hơi thở.
Cho đến khi lâm bệnh phải nằm nhà thương cả tháng. Ðầu óc nhiều lúc rất mịt mù, mất khả năng suy nghĩ mạch lạc rõ ràng. Thân thể thì hoàn toàn bất lực. Như chiếc xe hết xăng hết điện, nằm vạ giữa xa lộ! Tôi sống được hoàn toàn là nhờ sự giúp đỡ của mọi người. Tôi đã nhận rất nhiều ở từ ông bác sĩ giải phẫu, cô y tá hàng ngày vào thay thuốc đến bà dọn phòng vào đổ rác mỗi ngày và bao nhiêu người làm khác để cho thân thể tôi được phục hồi. Tôi đã nhận rất nhiều từ các em tôi, từ họ hàng, bạn hữu thân thương những giúp đỡ hữu hình và vô hình trợ lực cho tinh thần tôi không sụp đổ. Tôi nhận được từ những Linh Thiêng của Ðất Trời ân huệ cho tâm tôi mở ra. Bằng lòng đón nhận tất cả. Từ cái đau cho đến tận cùng là cái chết. Bệnh hoạn làm cho thân thể bất lực. Làm tương lai trở thành hiện tại. Mọi dự phóng không còn chỗ đứng. Vì chính sự sống cũng trở thành bấp bênh, biến hóa khôn lường. Trên bờ vực bấp bênh đó cái ngã nín thở nằm yên. Ðợi chờ. Rồi trong niềm yên lặng vô biên bên trong, và những thương yêu chân thật bao bọc bên ngoài những hiểu biết nung nấu trong óc bỗng bung ra. Tìm đường xuống tim.
Kỷ niệm một buổi tối đi nghe giảng. Rồi thiền với một nhóm người mới gặp lần đầu. Sau khi xả thiền, mọi người đứng thành một vòng tròn nắm tay nhau theo cách “Nhận Cho”. Tay trái ngửa lên cho tay người đứng bên trái mình úp xuống. Tay phải úp xuống tay trái của người đứng bên phải mình. Tất cả mọi người đều làm như vậy thành vòng tròn. Từng đôi bàn tay khum lại ôm lấy nhau. Mọi người cùng nhắm mắt trong một phút cho điện (energy) luân lưu giữa những người trong nhóm. Qua bàn tay mở ngửa, điện nhận được từ người bên trái chạy qua người mình rồi truyền đem cho người đứng bên phải, qua bàn tay mình úp xuống tay người. Truyền cho nhau thanh điện và tẩy biến những trược điện của nhau. Hôm đó ra về không những là thấy lòng vui thân khỏe mà còn thấy mình thích quá, thích quá về lối cầm tay kiểu này. Tôi thường vẫn không thích cái kiểu nắm tay nhau nhất là lại nắm chặt. Bởi vì thấy như có một sự nắm giữ làm của riêng và khi một người muốn buông tay ra, mà gặp người kia không đủ mẫn cảm để nhận biết, thì sẽ có một vẫy vùng nho nhỏ. Lối cầm tay này thật nhẹ nhàng và có ý nghĩa. Lúc đó tôi nghĩ vậy.
Kỷ niệm này trở về với tôi nhiều lần trong lúc nằm trên giường bệnh. Câu nói của cậu Nhân 11 năm về trước trên chuyến đi từ San Fran về Los, cùng với câu chuyện của chị Vân về Thầy Thiên Ân và những kinh nghiệm về Nhận và Cho thu thập bấy lâu trong cuộc đời vẫn còn giữ trong óc, bỗng hiện ra như những mảnh puzzle. Ghép vừa vào nhau. Dần dần. Rồi một hôm nằm đọc kinh Phật nói về hạnh bố thí và giảng tại sao nên bố thí, tôi cảm thấy như mình vừa ráp xong mảnh puzzle cuối cùng. Bỗng thấy như một người từ sau bao năm nằm trong ngục tối được giải phóng để nhìn thấy ánh sáng chói lòa và vạn vật rạng rỡ của một thế giới con người tự do.
Khi ra khỏi bệnh viện, tôi lên San Jose để tiếp tục làm chemotherapy và dưỡng bệnh tại nhà một người em trai đã có gia đình. Tôi thoải mái trong sự nhờ cậy rất nhiều ở mấy người em. Một anh bạn từ thủa trung học với em trai tôi nghe tin cũng ân cần lại thăm. Anh tình nguyện chở tôi đi bệnh viện khi cần. Thấy tôi khen cây hồng ròn nhà anh, anh cắt cho tôi những chùm hồng vàng cam còn cả lá. Anh đem cho bánh dẻo vợ làm và cuốn băng nhạc chọn lọc thu những bài ca Việt và Mỹ thịnh hành hồi đó khi anh hay xuống chơi với em tôi vào đầu thập niên 60 ở Phú Nhuận. Tôi không thắc mắc khi nhận quà anh cho. Cảm ơn anh mà không lúng túng. Tôi bỗng nhớ đến hình ảnh Kevin, cháu tôi hồi một tuổi. Hồi đó tôi đến trông cháu những ngày em tôi đi làm. Ðến giờ ăn, chú bé nằm u ơ chờ tôi hâm sữa đem lại. Không thắc mắc. Aên xong chú buông chai không xuống thảm. Nhìn tôi. Cười. Không lúng túng. Và u ơ đòi bế ra đứng cửa sổ ngóng mẹ về.
Cũng vẫn cùng là một vòng tròn. Lúc đó chú Kevin đứng bên phải tôi ngửa tay cho tay tôi úp xuống. Bây giờ tôi đứng bên phải anh bạn, ngửa tay lên đón bàn tay anh. Chẳng mấy khác, thì tại sao không thể cũng nhìn cười như chú Kevin ngày bé. Khi đã biết rằng có một người khác đang đứng cạnh mình bên phải tay ngửa lên cho bàn tay mình úp xuống. Khi biết rằng những người đứng bên phải và bên trái mình luôn luôn đổi chỗ hàng giờ hàng ngày trong cùng một vòng tròn, hay sang vòng tròn khác. Còn gặp lại hay sẽ không bao giờ gặp nữa. Biết vậy sẽ không còn ngại ngùng khi nhận và mong mỏi khi cho. “Ân nghĩa xin nguyện đền”. Nhưng không phải là tìm cho được ân nhân cũ để trả nghĩa. Mà luôn luôn giữ đầy ắp trong tâm lòng biết ơn Ðời ơn Người để luân lưu đi những ân huệ nhận được từ người phía trái sang cho người bên mặt. Không giữ lại để dành. Ðể chuyển hóa những đắng cay của Sân Hận nhận được thành ngọt ngào của Hỷ Xả. Tha thứ đem cho người đứng bên. Không sổ sách trong tâm.
Trước Giáng Sinh cô em gái ở Virginia gởi cho ít quần áo ấm mặc trong nhà. Cùng với tấm thiệp nhắc nhở tôi là “Everyday should be Christmas and we hope you will in everyday the comfort of receiving as well as the joy of giving”. Tôi muốn nói với cô rằng từ ngày bệnh hoạn đến nay đối với tôi “everyday IS Christmas”. Và tôi đã cảm nhận được Niềm Vui hồ hởi cả trong hành động NHẬN và CHO. Trong thực tế lúc này tôi không làm được gì Cho ai. Ngay cả mấy con tem nhiều khi cũng phải nhờ người đi mua. Nhưng sao tôi cảm thấy như có rất nhiều để cho. Phải chăng vì tôi đã nhận được từ Ðất Trời và Người rất nhiều. Mỗi ngày. Nhận được nhiều thì cũng có rất nhiều để cho đi. Vì tôi chỉ đứng đó để chuyển hóa và luân lưu đi tất cả sau khi đã thụ hưởng hoặc thêm thắt một chút hương hoa. Rồi có lúc thấy mình không còn đứng đó để nhận hay cho, hay để thấy vui trong lòng. Mà chỉ thấy một sự luân lưu nhẹ nhàng. Không ngừng. Tự nhiên như bốn mùa thay đổi. Như lẽ vô thường của vạn vật.
Bỗng khám phá ra một quyền tự do căn bản và tối thượng của con Người mà cả đời mình không hề biết tới mặc dầu vẫn tự hào là người tự do. Bỗng hiểu tại sao trong sáu pháp Lục Ðộ bố thí là hành (động) đầu tiên của người Phật tử, và là hạnh thấp nhất. Nhưng chính hạnh bố thí cũng có thể là hạnh cuối cùng đưa con người tới giải thoát. Trọn vẹn. Ðời đời.
Du Li (Xin thắp một nén hương tưởng niệm) |
| | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Thu 24 Nov 2011, 20:19 | |
| Nằm Mộng Không Niệm Phật Được? Cuối đời nhà minh, có Đại sư Tử Bách, là một trong bốn vị đại sư lỗi lạc của cuối nhà Minh, đó là : Đại sư Liên Trì, Hám Sơn và Ngẫu Ích. Một hôm, có vị tăng đến hỏi đạo. Sau khi đảnh lễ, vị ấy thỉnh Đại Sư Tử Bách khai thị. Đại sư Tử Bách hỏi: - Hằng ngày, ông tu pháp môn gì? Vị tăng đáp: - Đệ tử thuộc hạng độn căn, không thông thạo các pháp môn, chỉ niệm A Di Đà Phật mà thôi. Đại sư hỏi: - Ông là người tu niệm Phật, vậy lúc nằm mộng ông có niệm Phật không? Vị tăng đáp: - Lúc tỉnh con niệm Phật dược, còn lúc mộng thì con không nhớ đến Phật. Đại sư đáp: - Niệm Phật như vậy làm sao có tác dụng! Trong mộng không nhớ niệm Phật thì việc ông cầu sinh Tịnh độ cũng giống như ngàn cân treo sợi tóc, đèn treo trước gió mà thôi!
Tại sao Đại sư Tử Bách lại nói như vậy? Tại vì lúc mộng cũng như chết. Nói như vậy không được thuận tai cho lắm, nhưng sự thật là vậy. Lúc nằm mộng là chết nhỏ (chết trong một thời gian), cứ tối ngủ không làm chủ được mộng là chết nhỏ, sáng mai thức dậy sinh hoạt bình thường, quanh năm suốt tháng cứ như vậy, không có chính niệm, niệm Phật, nếu một mai vô thuờng đến (chết lớn) làm sao mà niệm Phật? Hay nói cách khác: lúc nằm mộng (chết nhỏ) còn không niệm Phật được, vậy lúc vô thường (chết lớn) lại càng không niệm được. Các bạn hãy đem lời dạy này khảo sát lại bản thân mình, xem thử mình công phu niệm Phật tới đâu, có nắm chắc được vãng sinh hay không, liền có thể biết được mà nỗ lực niệm Phật. Nằm mộng rất nguy hiểm, bạn không nên xem thường nó. Bạn phải đặc biệt chú ý. Khi nằm mộng là lúc thức thứ sáu (ý thức) không làm chủ được “linh giác” của mình, nó luôn chạy theo cảnh mộng thì thật là nguy hiểm! Chuyện kể rằng: núi Phổ Đà ở Nam Hải, vào đời nhà Thanh có hòa thượng Liễu Tình. Nhân duyên xuất gia của thầy rất thú vị, chính là vì nằm mộng sau đó mới xuất gia. Thầy nằm mộng như thế nào? Lúc còn tại gia, thầy là một thanh niên tin Phật, ngày nào cũng tụng một quyển kinh Kim Cang, dù bận rộn như thế nào, khuya như thế nào thầy cũng nhất định tụng cho xong rồi mới đi ngủ. Thầy tu rất tinh tấn, trong ngày có thể cơm không ăn cũng được, nhưng không thể không tụng kinh.
Một đêm nọ, lúc ngủ thầy nằm mơ thấy nhà mình có một cỗ xe (lúc bấy giờ là xe ngựa), trên xe có sáu cô gái, cô nào cũng rất là dễ thương, sắc đẹp của các cô làm cho “chim sa cá lặn”, như tiên nữ giáng trần; chính là “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Các cô tiến đến gần hỏi: “Chàng ơi! Đến đây! Chàng ơi đến đây! Trên xe còn rất rộng, chúng thiếp có để cho chàng một chỗ này!”. Hòa thượng Liễu Tình lúc ấy là một thanh niên, cũng giống bao nhiêu người thanh niên khác, khó mà thắng nổi với những nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, cộng thêm với những lời mời ngọt như đường và những nụ cười “chết người”… cậu ta cảm thấy thú vị liền lên ngồi. Xe đi được một lúc thì dừng lại, sáu cô gái bước xuống, cậu cũng bước xuống. Cậu thấy phía trước có một cái cửa, nhưng cửa rất nhỏ. Sau khi sáu cô gái vào trong, cậu cũng có ý định vào theo. Nhưng rất lạ, sáu cô gái không đi mà bò vào, cậu cùng làm y như họ. Sau khi họ bò vào xong, đến lượt cậu, cậu thấy một vị thần Kim Cang, giống như Bồ tát Vi Đà tay cầm chày Kim Cang, vừa thấy cậu liền cản lại: “Ông không được vào đây ra mau, ra mau!”. Nhưng cậu cứ một mực đi vào, thần Kim Cang hét: “Đã nói không được vào, mà ông cứ cứng đầu muốn vào, nguời tụng kinh Kim Cang, không được phép vào nơi này, tôi đã bảo ông đi ra mà ông không chịu đi à!”, liền lấy chày Kim Cang nện xuống đầu cậu, khiến cho đầu cậu vô cùng đau nhức, ngay lập tức liền ngất xỉu, khi tỉnh dậy thấy mình nằm trên giường. Cậu nói: “À, thì ra là nằm mơ!”. Nhưng quái lạ, cậu cảm thấy ở đâu có mùi rất hôi như là mùi phân heo, mùi này từ trước đến nay trong nhà cậu làm gì có, mà cũng chưa từng nghe mùi này bao giờ. Chao ôi! Cậu cũng vô cùng mệt mỏi, trong dạ lại bồn chồn, mồ hôi ướt đẫm cả thân. Cậu xem kỹ lúc này mới quá nửa đêm, ngủ lại cũng không được, nên dậy tụng kinh Kim Cang và ngồi cho đến sáng. Đến sáng, cậu quyết định đi tìm nơi mà tối qua đã nằm mơ thấy, cậu đi tới những nơi gần đó để tìm xem, vốn dĩ cái cửa nhỏ là gì?
Ô! Nó kia rồi! Cậu vẫn còn nhớ như in cái cửa nhỏ này, đó là cái rãnh nước ở ngoài chuồng heo (nơi chuồng heo người ta đào một cái rãnh để cho phân và nước tiểu của heo chảy ra), chính là nơi tối qua cậu thấy mình đi vào. Bấy giờ cậu cảm thấy lạnh cả xương sống, liền đi tìm người chủ để hỏi thật hư thế nào. Cậu hỏi: - Thưa ông chủ! Cho tôi hỏi một chút. Nửa đêm hôm qua có ai đến đây không? Ông chủ đáp: - Làm gì có ai, nửa đêm mà đến. Cậu hỏi: - Tối qua tôi nằm mộng thấy bảy người đi vào trong đó bằng con đường nhỏ này, chẳng hay bên trong đó có xảy ra việc gì không? Ông chủ cười và đáp: - À! Có việc như thế này. Nhà tôi có nuôi heo nái, tối qua heo mẹ sinh được bảy con heo con, sáu con cái và con đực, nhưng con đực vừa sinh ra đã chết rồi. - Con heo chết ông bỏ đâu? Có thể dẫn tôi đi xem được không? - Tại sao lại không được nhỉ? Tôi bỏ nó ở bờ rào, cậu theo tôi! Vừa nhìn thấy con heo đực, cậu biết ngay nó chính là mình, lúc này cậu cảm thấy hai lỗ tai ù ù, không nghe được âm thanh gì hết, trời đất tối om, quay cuồng, đảo lộn, tay chân run rẩy, nói không nên lời (cảm giác của cậu lúc này tôi không thể dùng ngôn từ nào mà lột tả hết được, chỉ có người trong cuộc mới hiểu thấu đáo). Cậu cố gắng chạy về thật nhanh mà miệng luôn lắp bắp: “Nguy… nguy… nguy… hiểm… hiểm… quá… quá!”. Tối hôm qua nếu không có thần Kim Cang quát cậu: ” Người tụng kinh Kim Cang không được phép vào nơi này”, và không dùng chày nện lên đầu cậu chắc chắn bây giờ cậu đã làm heo rồi. Sau khi tỉnh táo trở lại, cậu đến núi Phổ Đà xin xuất gia. Phương trượng núi Phổ Đà hỏi cậu: - Tại sao ông muốn xuất gia? (tức là hỏi động cơ nào khiến ông đi xuất gia). Cậu bèn đem tất cả mọi việc kể cho Phương trượng nghe. Nghe xong, Phương trượng nói: - Như vậy cậu là người rất có thiện căn. Nhân đó, Phương trượng đặt pháp danh cho cậu là “Liễu Tình”. Cho nên, gọi thầy là “Liễu tình Hòa Thượng”.
Mọi người khi nằm mộng cần phải đặt biệt chú ý, nhất là những bạn thanh niên, dù gặp thiếu nữ rủ cũng không đi. Các bạn có thể trả lời: “Tôi không đi đâu! Tôi có con đường của tôi!”. Muốn đạt được chính niệm như thế, cần phải luyện tập niệm Phật trong mộng. Nếu trong giấc mộng không có khả năng niệm Phật, mà còn bị giấc mộng lôi kéo thì thật nguy hiểm! Cổ đức có bài thi:
Nhất trán cô đăng chiếu dạ đài Thượng sàng thoát khước miệt hòa hài Thức thần diểu diểu tùy mộng khứ Vị tri minh triêu lai bất lai?
Tạm dịch:
Một ngọn đèn con chiếu đêm dài Lên giường cởi bỏ giày và tất Thần thức mịt mờ đi theo mộng Ngày mai không biết sẽ ra sao?
Chính là nói lúc ngủ cần phải để một ngọn đèn sáng hiu hiu, đây là thói quen của tất cả người dân chúng ta từ xưa đến nay, nên mới nói: “Một ngọn đèn con chiếu đêm dài”. “Lên giường cởi bỏ giày và tất”. Lúc đi ngủ cần phải bỏ cởi giày và tất. “Thần thức mịt mờ đi theo mộng”. Nếu ta không có sự tu tập, không có chính niệm niệm Phật, lúc đó thần thức của chúng ta sẽ mờ mờ mịt mịt luôn đi theo giấc mộng. “Ngày mai không biết sẽ ra sao”. Lúc nằm ngủ mà giống như Hòa thượng Liễu Tình thì thật nguy hiểm, nếu không nhờ thần Kim Cang đánh, chắc chắn sẽ không trở lại, sáng mai có còn hay không, không ai có thể biết được.
Trên đời này, không có ít trường hợp nằm ngủ rồi mới chết luôn. Có người cho rằng: ” Nhờ có tu hành, mới chết như vậy, không có sự thống khổ thì tốt chớ sao!”. Chết như thế này cũng không bảo đảm cho mấy, nếu trong mộng mà đi theo chư thiên và cõi trời thì chúng ta thừa nhận có thể tốt. Nhưng, vạn người chỉ có một mà thôi, còn toàn bộ giống như hòa thượng Liễu Tình cả, nếu chết như vậy không được gọi là có tu được! Đây chính là nói: phải luyện tập trong mộng. Nếu như trong mộng nhớ niệm Phật, thì khi lâm chung sẽ có chính niệm và sẽ nắm chắc được con đường vãng sinh. Pháp sư Hội Tính Dịch giả: Đạo Quang |
| | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Sat 26 Nov 2011, 10:41 | |
| Tham Quan Địa Ngục (Một Câu Chuyện Có Thật) Tôi đã được xem qua những đĩa của Sa Di Ni Diệu Hân! Sa Di Ni Diệu Hân kể lại cô là người đã tu hành trong nhiều kiếp nên kiếp này cô được các vị Quỷ Vương theo bảo vệ và giúp đỡ cho Cô (Trong đó có vị Bồ Tát Tiêu Diện Đại Sĩ), lúc cô chưa xuất gia còn ở trần tục thì cô cũng là một người phụ nữ lam lủ, cũng có chồng con và mưu sinh bằng đủ thứ nghề, trong đó có cả nghề bán vé số dạo! Nhưng nhờ tiền căn đã tu hành từ nhiều kiếp nên cô đã được các vị Quỷ Vương lúc nào cũng ở bên cạnh và dìu dắt cho cô, cô đã được khai nhãn quang nên cô luôn nhìn thấy được các vong linh đói khát vất vưởng. Cô kể trong một lần đi bán vé số vì lúc đó đang đói mà chưa có gì ăn, sau đó cô thấy một người đem những đồ ăn ra vỉa hè đường để cúng kiến gì đó? Khi người này cúng xong cô liền đi tới và định lấy đồ cúng để ăn thì liền sau đó cô nghe nhiều giọng nói sau lưng (Cô ơi những đồ cúng đó người ta cúng cho chúng con mà!!!), cô liền quay lại thì thấy các vong hồn vất vưởng. Cô liền trả lời tôi xin nhường lại cho quý vị, liền sau đó cô nghe các vong hồn trả lời (Cô ơi chúng con không dám ăn trước cô, vì cô là người đã có tu hành từ nhiều kiếp nên chúng con không thể ăn trước cô được! Cô thương chúng con thì cô cứ ăn phân nửa còn phân nửa thì nhường lại cho chúng con, cô cũng nghe lời các vong hồn cô ăn phân nửa và nhường lại phần còn lại cho họ!). Sau này nếu chỗ nào có cúng kiếng các vong hồn liền đi tìm cô và họ chờ cho cô ăn trước còn lại bao nhiêu thì họ dùng (Các vong hồn cũng thỉnh nguyện đến cô, sau này cô có xuất gia thì nhớ siêu độ cho các con!) Rồi sau đó cô xuất gia tu hành, vào một đêm cô đang ngủ thì thấy linh quang của Phật sáng rỡ trong linh quang cô thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sau khi nhìn thấy ánh linh quang đó thì qua ngày hôm sau mắt mờ dần không còn thấy rõ nữa (Cô liền thắc mắc không lẽ cô nhìn thấy linh quang của Phật xong thì phải bị mắt mờ như thế hay sao??? ), cô liền mon men ra tiệm thuốc tây và mua vài viên thuốc ngủ về uống (Vì cô nghĩ chắc do mình mệt mỏi nên con mắt mới bị như thế, uống thuốc ngủ vào ngủ một giấc là sẽ khác thôi!).
Sau khi cô uống thuốc ngủ xong, cô thấy mình xuất hồn và được các vị Quỷ Vương dẫn cô xuống Địa Ngục, trong Địa Ngục cô đã được thấy 3 vị Bồ Tát đó là Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát nhiều tay nhiều mắt (Cô nghĩ đó là Bồ Tát Chuẩn Đề), sau đó cô được các vị Bồ Tát tham vấn về những tội lỗi của cô ở trên dương thế đã làm??? Bồ Tát Quán Thế Âm nói con phải kể hết những tội lỗi của con ra, thì sau đó con mới vào được các tầng Địa Ngục khác để tham quan và sau này về dương thế mà khuyên bảo chúng sanh đừng tạo nghiệp ác!
Sau khi cô khai tội lỗi của mình xong liền được các vị Quỷ Vương dẫn vào tham quan các ngục, trước khi bắt đầu vào thăm các cửa ngục vị Quỷ Vương đã nói với Sa Di Ni Diệu Hân con vào đây tham quan thì lúc nào con cũng phải niệm Phật và không được khóc! Sau đó các vị Quỷ Vương đã dẫn cô vào thăm các ngục hình, cô được chứng kiến tất cả tội hình ghê sợ nhất mà không thể tưởng tượng được, trong tất cả các cửa ngục tội nhân bị hành hình không thiếu bất cứ đối tượng nào trên trái đất này, từ những kẻ trí thức học cao hiểu rộng cho đến những người bần cùng của xã hội, trong đó thì có vô lượng người tu hành của tất cả đạo giáo trên thế giới, trong đó có vô số các vị Thượng Tọa và Đại Đức cùng các Phật tử của Phật Giáo mà lúc sống không giữ gìn giới hạnh, phỉ báng Tam Bảo, hại người hại vật, những người trụ trì thì lấy những tiền bạc của đàn na tín thí cúng dường đem về lo xây nhà xây cửa cho người thân của mình hưởng!
Sa Di Diệu Hân đã được các vị Quỷ Vương dẫn đến Địa Ngục A Tỳ, trong đây cô đã được gặp lại người cô ruột của mình đang bị hành hình trong đó bị các loại thủy quái cắn xé máu me khắp người, khi Sa Di Ni Diệu Hân được chứng kiến cô ruột của mình bị hành hình cô đã bật khóc nức nở và thỉnh nguyện các vị Quỷ Vương giúp đỡ, các vị Quỷ Vương trả lời chúng ta không thể giúp được (Ngay cả chúng ta đây nếu phạm tội thì cũng bị như thế thôi!). Người cô ruột của Sa Di Ni Diệu Hân khi còn sống là người buôn ma túy bên CamPuChia rất là giàu có, nhưng cuối cùng vì nghiệp quả gieo những sự độc hại cho chúng sanh, sau một thời gian giàu có bà đã bị phá sản hoàn toàn bị con cái ruồng bỏ, sau đó bị bệnh tật trong đói nghèo mà chết (Chết rồi thì đọa vào ngục A Tỳ như trên đây). Cũng trong ngục A Tỳ này cô đã chứng kiến thêm một ông hàng xóm ở gần nhà cô lúc trước cũng đang bị hành hình trong đây ( Khi còn sống ông này là chủ của một hãng giấy, nhưng khi sống lại sản xuất tiền giả, nên bây giờ phải chịu hình phạt trong đây! Sa Di Ni Diệu Hân lúc trước là bạn thân của con gái ông này!).
Còn về Sa Di Ni Diệu Hân sau khi được đi tham quan các Địa Ngục để sau này về dương thế mà khuyên bảo chúng sanh tu hành xa lìa việc ác! Nhưng bản thân cô cũng không thoát khỏi tội mà mình đã tạo ra (Cô cũng bị các vị Quỷ Vương trừng phạt những tội lỗi của cô đã gây ra trước khi xuất gia, cũng rất thảm thương, sau khi cô trả những quả đó xong thì mới bắt đầu cho trở về dương thế để hoằng dương Phật pháp và khuyến hóa chúng sanh bỏ ác làm lành).
Từ Khánh mong những ai đã từng nghĩ chết là hết thì nên nhìn nhận lại vấn đề này nhé! Chết không phải là hết như các vị nghĩ đâu, hơn 90% con người sống trên trái đất này (Bất kể tôn giáo) sau khi chết thì đọa vào 3 đường ác rồi, chỉ còn một số ít người thì được tái sanh vào những cõi lành mà thôi! Nhưng Từ Khánh cũng rất vui vì chúng ta biết đến pháp môn Tịnh Độ hằng ngày tinh tấn niệm Phật bỏ ác làm lành, phóng sanh, bố thí, yêu thương mọi loài, tất cả công đức đó đem hồi hướng về Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà thì chắc chắn các bạn sẽ được vãng sanh và thoát khỏi tam đồ ác đạo (Thời gian không chờ đợi chúng ta đâu, hãy cố gắng tu hành, cửa Địa Ngục lúc nào cũng mở để chào đón cho dù người đó là Tăng hay phàm, nếu bây giờ không tinh tấn niệm Phật và giữ gìn giới hạnh thì sau này khó thoát cửa Địa Ngục)…! |
| | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Tue 29 Nov 2011, 22:16 | |
| |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Ngộ | |
| |
| | | |
Trang 9 trong tổng số 17 trang | Chuyển đến trang : 1 ... 6 ... 8, 9, 10 ... 13 ... 17 | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |