Bài viết mới | Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Today at 20:17
Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 01:16
KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Yesterday at 16:45
KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22
Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22
NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20
KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08
Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54
Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10
7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10
Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21
Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13
Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07
Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36
Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09
Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46
Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06
Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04
DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19
Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37
Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17
CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05
Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39
Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41
Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
|
| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Re: Truyền Thuyết Truyện Cổ Tue 24 Aug 2010, 19:53 | |
| THẤT CHƠN NHƠN QUẢ
Tác giả: Huỳnh-Vinh-Lượng
Hồi 5
Nghĩa là: Mã viên ngoại cầu dưng lễ nuôi thầy, Vương-Trùng-Dương sửa sang tiền hộ đạo. Có bài kệ rằng: Tiên Phật Thánh Hiền bởi tại tâm, Nào tua đất lấp lại thành câm (kim vàng). Người đời nhang khói cầu xin vái,
Cười chết từ bi Quan-Thế-Âm. Bốn câu nói việc thành Tiên Phật Thánh Hiền cũng tại lòng người làm ra. Như lòng ngay thì mình cũng ngay, làm việc gì cũng thảy đều ngay.
Còn lòng tà thì mình cũng tà, làm việc gì cũng thảy đều tà vậy. Nên người tu hành trước phải sửa lòng, sau thành cái ý: hễ lòng không chánh thì ý không thành, ý chẳng thành thì vọng niệm khởi ra trăm việc, phải mất chỗ đạo chơn. Cổ nhơn có bài kệ rằng:
Vọng niệm nhứt sanh thần tức thuyên, Thần thuyên lục tặc loạn tâm điền. Tâm điền nhứt loạn thân vô chủ, Lục đạo luân hồi tại nhãn tiền.
Nghĩa là: Hễ vọng niệm sanh ra thì thần dời ra ngoài rồi, Thần ý dời thì sáu giặc rối loạn khiến tâm điền không tịnh. Nếu tâm điền rối loạn thì thân này không có người làm chủ, Vì vậy, sáu đường luân hồi ở tại trước mắt chẳng xa. Có bài kệ rằng:
Lục đạo luân hồi, thuyết bất khoan, Súc sanh, ngạ quỷ, khổ thiên ban. Khuyên quân vật khởi vọng tham niệm, Nhứt thất nhơn thân vạn kiếp nan.
Nghĩa là: Sáu đường luân hồi nói không hết như người chẳng tỉnh xét, có ngày bị đọa vào trong chỗ súc sanh quỉ đói phải khổ sở ngàn việc, nên khuyên người đừng khởi việc tham tưởng lầm sai. Hễ làm mất cái thân này muôn kiếp khó trở lại đặng. Muốn ra khỏi chỗ luân hồi thì kiếp này phải tu mới hết việc khổ.
Vì Tiên Phật Thánh Hiền cũng tại cái tâm, tâm phải chánh ý phải thành. Như tâm ý chánh thành để làm cốt Phật, nhang đèn cúng lạy, son vàng tô phết đó là vọng cầu.
Nên nói: “Cười chết từ bi Quan-Thế-Âm” là cười người không có lòng chánh thành, lo sửa mình để vọng cầu việc giả. Lại nói ra tu lấy chỗ nhang đèn cúng vái mà cầu cho thành Tiên thành Phật, tánh Phật chỗ nào? Nên nực cười cho người lầm sai mà không cải sửa.
Có câu: “Bất vị tế hưởng nhi giáng phước; bất vị thất lễ nhi giáng họa”. Nghĩa là: “Chẳng vì cúng tế mà cho phước; chẳng vì thất lễ mà giáng họa”. Trời Phật Thánh Thần trọng là trọng người chí thành cung kỉnh, tự hối ăn năn biết sợ nhà tối có Thần không dám làm quấy thì Ngài thương lắm, kỉnh lắm.
Người ấy dẫu không cầu Ngài cũng cho phước lộc. Còn Ngài ghét kẻ bất trung, bất hiếu, bất nghĩa, bất lương, ý độc hại người, lòng lang ở bạc. Những người như vậy dầu cho nhang đèn cúng lạy thế nào, Ngài không dung đặng.
Bởi Ngài dặn làm phước chớ đừng cầu phước, tự nhiên họa dứt phước thêm, chớ Ngài có tư vị, hay là thương ghét ai bao giờ? Có câu “Hoạch tội ư Thiên vô sở đảo giả”. Nghĩa là: “Mắc tội nơi trời thì không còn chỗ cầu vậy”, như thế thì có ai biết mà tránh chăng?
Đây việc khuyên tỉnh đã nói rồi, lại nói qua Mã-Đơn-Dương nghe người xách bầu thiếc đến, lật đật ra tiếp rước, thỉnh vào nói chuyện. Ông già đi theo viên-ngoại vào ngồi tại ghế giữa lấy lời khẳng khái mà hỏi:
- Vậy kêu ta cầu hỏi việc chi? Viên-ngoại đáp: - Tôi thấy ông già cả tuổi tác hằng ngày xin ăn lao khổ, muốn cầm lại đây nuôi ông, chẳng biết ông chịu hay không? Nói chưa dứt lời, ông già giận nói:
- Ta thiệt xin ăn quen rồi, chẳng chịu ăn những không công cực lộc của ai. Viên-ngoại thấy ông giận chẳng dám nói nữa, liền vô nói với bà rằng:
- Ông xách bầu thiếc tôi thỉnh vô nhà nói việc nuôi dưỡng, ông nói chẳng chịu ăn những vô công thi thực, nên tôi hỏi bà tính làm sao? Bà cười rằng: - Ông nói chẳng nhằm việc, nên người không chịu.
Chẳng nghe sách có nói: “Quân tử mưu đạo bất mưu thực, tiểu nhơn mưu thực bất mưu đạo”. Nghĩa là: “Người quân tử ham đạo chẳng lo ăn, còn tiểu nhơn ham ăn chẳng lo đạo”.
Ông mới thấy mặt lại kể việc nuôi dưỡng, lấy chỗ ăn uống mà dụ, quân tử nào kể việc ăn uống, cầu chỗ Đạo thì hơn. Tại ông nói thất lời, để tôi ra phân giải chắc ông an lòng chịu ở. Có bài kệ rằng: Không phải tiên-sanh chẳng chịu cầu, Vì lời nói biện chẳng nhằm câu, Huyên-Trinh ra giảng thông quyền biến,
Chắc định ông già phải gật đầu. Rồi đó Huyên-Trinh đến nhà trước, thấy ông già chắp tay xá nói rằng: - Ông đặng muôn phước? Ông già cười rằng: - Ta là người tu hành nào có đặng phước! Huyên-Trinh rằng:
- Ông chẳng lo việc quấy, muôn sự đều không, tiêu diêu thong thả, chẳng tính chẳng sầu, đặng chỗ cao thấp tự lòng, chẳng phải là phước sao? Tôi coi trong trần này biết bao nhiêu nhà giàu sang danh lợi mà trọn ngày nhọc lòng lo tưởng, thương vợ mến con không dứt.
Tuy nói có phước mà xét lại chưa đặng thong thả, duy có cam cái danh lợi giả dối mà thôi nào phải như ông chẳng nhiễm việc trần, đặng hưởng chỗ không tâm, như vậy thật là Thần Tiên tại thế. Ông già nghe nói cười lớn rằng:
- Cô đã biết sự tiêu diêu tự toại là phước, thanh tịnh vô vi là vui, mà sao chẳng học tiêu diêu tự toại? Chẳng tìm thanh tịnh không không? Huyên-Trinh rằng
- Tôi chẳng phải không học, vì chưa đặng chỗ pháp, tuy muốn tiêu diêu mà chẳng đặng tiêu diêu, muốn thanh tịnh mà chưa đặng thanh tịnh đó thôi. Ông già rằng:
- Như cô chịu học thì tôi chẳng tiếc công. Huyên-Trinh nói: - Như ông vui lòng từ bi dạy tôi, nhà tôi ở huê viên có cái “Kiểu-Nguyệt-Đình” thiệt là thanh tịnh, thỉnh ông đến ở đó, bạn tôi mới đặng cầu học hỏi. Ông già liền gật đầu thuận ý. Có bài kệ rằng:
Làm biện nhằm câu biết cổ kim, Tiên-sanh nay đặng hội tri-âm, Tri-âm nói biện tri-âm tỏ, Đây đó nguyên là một giống tâm.
Ông già nghe bà Huyên-Trinh nói nhằm đạo lý, trong lòng vui mừng liền chịu ở dạy. Mã viên-ngoại nghe nói lại kêu gia tướng dọn dẹp sau huê viên chỗ “Kiểu-Nguyệt-Đình” sạch sẽ thỉnh ông vào đó an nghỉ, lại trí một người gia đồng là Trần Khuê hằng ngày đem trà dưng nước. Viên-ngoại nói cùng bà rằng: Bạn mình nói chuyện với ông hơn nữa ngày mà chưa biết ông tên họ chi, để tôi hỏi coi.
Huyên-Trinh rằng: Sách có câu “Đại ân bất tạ, đại đức bất danh”, nghĩa là ơn lớn chẳng tạ, người đức lớn chẳng tên làm chi; thôi kêu lão Tiên-sanh cũng đặng. Viên-ngoại chẳng nghe cứ muốn hỏi, bà can không đặng phải để ông đi.
Viên-ngoại đến “Kiểu-Nguyệt-Đình” thấy ông ngồi tịnh trên ghế. Viên-ngoại tới trước hỏi rằng: - Xin hỏi ông cao tánh đại danh, nhà ở chỗ nào? Vì sao mà đến đây? Hỏi luôn mấy lần thấy ông ngó lên nói rằng: Ta là Vương-Trùng-Dương nhà ở tại Xiểm-Tây, ngàn dặm chẳng từ khó nhọc vì ngươi mà đến đây.
Mã viên-ngoại nghe nói giựt mình nói rằng: - Tiên-sanh vì tôi mà đến đây? Ông vổ tay cười rằng:
- Thiệt, vì ngươi mới đến đây. Viên-ngoại lại hỏi: - Như Tiên-sanh vì tôi mà đến, ắt cũng có duyên cớ chi! Trùng-Dương rằng: - Ta đến đây vì cái vạn quán gia tài của ngươi mà đến. Viên-ngoại nghe nói nửa cười nửa lo hỏi rằng: - Ông vì vạn quán gia tài của tôi mà ông muốn lấy hay sao? Trùng-Dương nói:
- Nếu tôi không muốn thì tới làm chi! Viên-ngoại nghe nói mặt tái xanh, trở ra đi liền. Có bài kệ rằng: Tiên-sanh lời nói chọc người kỉnh, Trên thế chưa nghe những sự tình, Muốn lấy gia tài không chỗ cớ, Lẽ trong đạo lý thiệt chưa minh.
Khi đó viên-ngoại ra khỏi Kiểu-Nguyệt-Đình tính thầm trong bụng rằng:
- Ông này thiệt chưa hiểu mối việc, khi không mà muốn lấy gia tài của ta! Dám mở miệng như vậy! Con nít cũng chẳng dám nói lời đó, đường ấy mà làm sao có đạo đức kìa! Chừng về phòng ngồi nghĩ, trong lòng buồn bực chẳng vui. Huyên-Trinh thấy viên-ngoại biến sắc, biết là bị ông già nói việc chi chẳng vui, liền cười nói rằng:
- Tôi đã nói trước, biểu đừng đi hỏi cũng không nghe, chắc ông bị điều chi chẳng vừa ý chăng? Hễ người quân tử phải có lượng lớn, dung người chế người, việc chi chẳng hiệp ý, xin đừng trách phiền, chớ học theo chí mọn chấp nhứt. Viên-ngoại nghe bà nói mấy câu trong lòng mở giải, nói rằng:
- Tôi tưởng đâu ông già là người có đạo đức, ai dè ông thiệt người tham tài! Bà hỏi: - Sao mà biết tham tài? Viên ngoại đem việc của ông thuật cho bà nghe: - Nói muốn lấy gia tài của ta mới đến đây ! Bà nói:
- Tiên-sanh nói muốn lấy gia tài của mình, chắc có duyên cớ chi, sao ông không hỏi cho minh bạch. Tôi thấy trong sách có câu: “Thiên niên điền địa bát bá chủ”, nghĩa là “Ruộng đất ngàn năm thay đổi chủ có hơn tám trăm người”. Trong đời tài sản thiệt là đồ chí công của Trời Đất, chẳng qua là cho người mượn mà xài chung.
Như người biết xài thì hưởng đặng ít chục năm, hoặc mấy đời. Sao gọi là biết xài? Như người có của mà biết xài là biết thi ân bố đức, giúp kẻ nghèo nàn, mua vật phóng sanh, tu kiều bồi lộ, chôn thây trôi nổi, làm các điều lành, chớ đừng cam một mình, gọi là xài chung một vốn.
Còn người không biết xài thì cũng như mưa dập bông tàn, gió thổi mây tan, hễ đến tay người này, thì liền trao cho người khác, hoặc không cần kiệm, xài phí, cờ bạc, rượu chè, cam để cho nhiều, làm điều trái lẽ. Hoặc cho vay ăn lời nặng mà tổn đức bình sanh.
Như vậy làm sao mà hưởng đặng bền? Nên của ấy phải đổi dời. Đó là chỗ chí công của Trời Đất, luân phiên xoay trở không ngừng, nghèo đó rồi giàu, thạnh đó lại suy, nào có đặng làm chủ ngàn năm bao giờ? Vậy xin ông thức tỉnh.
Có bài kệ rằng: Vạn quán gia tài chớ đủ khoe, Ai mà giữ đặng trọn không dè, Tài ba thiên hạ đồ công vật, Há được ngàn năm được chở che.
Khi đó bà Huyên-Trinh khuyên chồng rằng: Tiên-sanh như muốn lấy cái gia tài của mình, ắt có duyên cớ. Như hỏi ông nói đặng hiệp lý, mình nên dưng cho ông, huống là bạn mình không con cháu, gia tài này ngày sau chưa biết về tay ai. Nói chưa dứt lời viên-ngoại cười rằng: Bà nói đâu việc dễ lắm!
Ông bà tôi từ Xiểm-Tây dời qua đến đây, chịu hết thiên tân vạn khổ mới đặng sự nghiệp này. Dẫu ta chẳng muốn nữa cũng chẳng dám đem sự khó nhọc của ông bà mà đưa cho người khác. Huống nay bạn mình tuổi mới nửa đời, như đem gia tài cho người rồi, mình còn nửa đời sau lấy chi cho qua ngày tháng, há chẳng lầm việc lớn đó sao?
Bà Huyên-Trinh nói: Uổng cho ông là người chí trượng phu mà việc không tỏ thấy. Bạn mình đem gia tài giao cho tiên-sanh là muốn cầu cái đạo trường sanh, cứu đặng cửu-huyền thất-tổ. Bằng như đặng thông việc đạo thì ta thành Thần Tiên, còn giữ cái gia tài này làm gì? Sách có nói: Một người con tu thành Tiên Phật thì cửu huyền đặng bạt tộc siêu thăng.
Như vậy đâu có lỗi với ông bà. Coi lại cái đạo siêu hết tông môn mà sánh chẳng bằng vạn quán gia tài này sao? Có bài kệ rằng:
Của tiền vàng bạc có hằng hà, Nào gặp đạo huyền đáng giá đa, Của báu tuy nhiều sau cũng hết, Đạo công muôn thuở chẳng tiêu ma.
Viên-ngoại nghe bà giảng rồi nói rằng: Lời của bà chẳng phải không tốt, bằng như chẳng thành Thần Tiên, lời tục có nói: “Vẽ cọp chẳng thành trở lại giống chó” rồi làm sao? Bà nói: - Làm người phải có hằng tâm, như không có hằng tâm thì cũng chẳng khá làm đặng thầy bói, thầy thuốc, huống là học Thần Tiên.
Như người có chí thì việc ắt thành, không chí thì ngày sau chẳng nên. Tại mình bền cùng chẳng bền. Sách có nói: Thần Tiên vốn thiệt người phàm tâm, chỉ sợ người lòng chẳng chuyên. Bởi tại người chuyên lòng chuyên chí phàm làm tới, có cầu chắc đặng. Có câu: Trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu, là lẽ thường.
Xưa nay Thần Tiên ông nào cũng nhờ thân phàm mà tu thành, nào có sanh ra tự nhiên không học mà đặng biết bao giờ? Viên-ngoại nghe bà nói, gật đầu trả lời: - Phải lắm! Phải lắm !
Đến bữa sau, viên-ngoại tới Kiểu-Nguyệt-Đình hỏi Vương Trùng-Dương rằng: Bữa trước tiên-sanh nói muốn lấy gia tài của tôi, chẳng biết tiên-sanh muốn lấy đặng làm việc chi?
Trùng-Dương tiên-sanh lấy lời ngay nói rằng: Ý tôi muốn tiền đặng chiêu trong thiên hạ, những người tu hành học đạo ở tại đây đặng lập một cái đạo trường, cho kẻ tu hành biện đạo, tu tâm dưỡng tánh, có chỗ hộ đạo, trong ngoài không chỗ lụy; dứt đường ràng buộc thảy đặng vui mừng hoan hỉ, thoát nẻo luân hồi, và làm công đức giùm cho ông.
Tiên-sanh đem việc chơn thành tỏ cho Mã viên-ngoại nghe, chừng ấy viên-ngoại mới đem lòng vui phục. Làm đặng việc xá mình theo người mới là siêu phàm nhập Thánh.
|
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Re: Truyền Thuyết Truyện Cổ Tue 24 Aug 2010, 20:00 | |
| THẤT CHƠN NHƠN QUẢ
Tác giả: Huỳnh-Vinh-Lượng
Hồi 6
Nghĩa là: Bà Tôn-Huyên-Trinh khuyên chồng xá gia tài, Mã-Văn-Khôi ăn tiền thông quyền biến. Có bài kệ rằng:
Muôn phép đều không chớ muốn cầu, Mượn tài hộ đạo dưỡng công phu. Lần đem việc đó thông quyền biến, Ngày khác y nhiên cũng hết sầu.
Khi đó, Trùng-Dương tiên-sanh đem việc mượn tiền hộ đạo chiêu tập người tu hành nói cho Mã viên-ngoại nghe, viên-ngoại mới vui phục nói rằng: Như ông nói vậy thật người có đạo đức lớn, tôi cùng Tôn-Thị đều nguyện lạy ông làm thầy, chưa hiểu trong ý ông làm sao? Trùng-Dương nói:
- Hai ông bà như có lòng chơn tâm học đạo tôi nào chẳng chịu! Nhưng mà trước phải xá gia tài rồi sau mới truyền cho chí đạo, một lòng một ý đặng khỏi chỗ lo nhớ. Viên-ngoại nói: - Thầy muốn dùng bao nhiêu tự ý, tôi không tham tiếc, hà tất phải xá? Trùng-Dương nói:
- Như ngươi không xá, thì cũng còn của ngươi, tôi không đặng tự do xuất phát. Viên-ngoại nói: - Ruộng đất, tiền bạc cùng tờ giấy giao ước dưng hết cho ông cũng như tôi xá rồi. Tiên-sanh rằng: - Tờ giấy còn tên của ngươi, như muốn giao cho tôi phải thỉnh người trong tộc làm tờ xá ước mới có bằng cớ. Viên-ngoại nghe nói trở vui làm buồn, từ biệt tiên-sanh về nhà đem những lời Trùng-Dương thuật cho bà nghe, nói rằng:
- Theo ý tôi việc nầy chắc không thành. Huyên-Trinh hỏi: - Sao vậy? Viên-ngoại nói: - Bà chẳng hiểu trong tộc của tôi sao? Bà nói: - Người đều riêng lòng làm sao hiểu đặng! Viên-ngoại nói:
- Người trong tộc tôi thấy vợ chồng mình không con, ai ai cũng thầm tính chia rồi, đợi vợ chồng mình chết thì gia tài nầy về họ, nào có chịu đem giao cho người khác, nên tôi biết chắc không thành.
Bà Huyên-Trinh nói: - Việc đó cũng khó, ngày mai ông thỉnh tộc-trưởng có quyền thế đặng nghị luận. Như họ y lời thì thôi, bằng chẳng chịu thì ông làm như vầy...... chắc là họ bao ông đặng nên. Viên-ngoại nghe liền nói: - Thiệt bà có trí cao, làm như vậy chắc đặng thành. Liền kêu Mã-Hưng đi thỉnh bổn tộc định ngày mai giờ ngọ tới cho đủ. Mã-Hưng y lời đi thỉnh. Qua ngày sau, anh em đồng bạn và trong tộc lớn nhỏ đều vào nhà giữa phân thứ tự mà ngồi. Có một người trưởng-tộc tên là Mã-Long làm chức Cống-Sĩ hỏi viên-ngoại rằng: - Cháu thỉnh trong tộc có việc chi? Viên-ngoại thưa:
- Cháu mấy năm rồi thường hay bịnh hoạn, trong mình chẳng khỏe hay chóng mặt. Nay có một người ở bên Xiểm-Tây tên là Vương-Lão Tiên-Sanh, thiệt người trung hậu, cháu biểu người ấy ở tại nhà cháu đem hết gia tài ruộng đất giao cho ông lo liệu đặng vợ chồng cháu an rảnh mà dưỡng bịnh. Ông biểu cháu thỉnh người tộc-trưởng làm tờ giao ước ông mới chịu lãnh. Nên nay cháu thỉnh tộc-trưởng đến thương lượng đặng làm tờ giao lại cho ông.
Viên-ngoại nói vừa dứt lời, có người anh tên là Mã-Miên nghe nói giận dữ chỉ viên-ngoại nói rằng: - Chú ngây rồi, hồ ngôn nói loạn, cơ nghiệp của ông bà không bảo giữ, có đâu nói xá cho người ta. Chú nghe lời dỗ gạt mà nói như vậy. Mã viên ngoại biết việc không hợp lý, chẳng dám nói nữa.
Lại có một người chú họ tên là Mã-Văn-Khôi, làm chức học sanh và một người anh họ là Mã-Chiêu, làm quan Tử-Giám đại học-sanh. Hai người có tước trong tộc họ Mã, tài giỏi hơn hết. Hễ có việc chi lớn nhỏ đều nhờ hai người tính toán thì xong việc. Mã-Văn-Khôi thiệt người có quyền biến, thấy Mã-Miên nặng lời cùng viên-ngoại, lên tiếng nói:
- Thôi đừng trách oán, cũng việc anh em, bởi viên-ngoại là người thật thà, phải mời Vương-Lão Tiên-Sanh ra đây đặng tôi hỏi coi cớ sao mà dám nói như vậy? Liền sai Mã-Hưng đi thỉnh Vương-lão.
Trùng Dương ra đến cũng không làm lễ, mấy người đều không hỏi tới ông. Mã-Miên thấy ông cười lớn rằng: - Tôi tưởng lão tiên-sanh nào, ai dè người đi xin ở đây! Mã-Văn-Khôi hỏi Trùng-Dương:
- Ông người cô-lão, thường hay ở xóm nầy xin ăn mấy năm, chưa nghe ông có tài chi, nay viên-ngoại của tôi coi trọng ông là một bực, tiếp về nuôi dưỡng đủ lễ thì thôi, phải an phận giữ mình, sao lại xúi cháu tôi biểu làm tờ xá gia tài cho ông? Ông là người năm sáu mươi tuổi, sao không biết lẽ?
Trong thiên hạ nào có phép như vậy, mà dám nói ra không sợ chê cười? Trùng-Dương đáp: - Bình sanh tôi chẳng biết làm việc chi hết, vì nghèo sợ rồi, nên biểu y đem gia tài nhượng cho tôi đặng hưởng ít năm, nào sợ gì ai cười. Nói vừa dứt lời có Mã-Phú, Mã Quới nhảy lại chỉ trên mặt Trùng-Dương nạt một tiếng:
- Tao cho mấy thằng chẳng biết thể diện, con chim cú, con cú dại mà muốn đội mão phụng, chuột lang mà muốn ăn thịt khổng-tước, uổng cho mày sống mấy mươi tuổi, nói lời chẳng sợ xấu hổ, thiệt là đáng ghét! Mã-Phú kêu Mã-Quới nói rằng:
- Bạn ta đuổi nó ra ngoài xóm, đừng cho ở đây. Nói rồi liền áp lại kéo Trùng-Dương. Mã-Chiêu can rằng: - Thôi đừng đuổi xô, thương người cô lão. Nay viên-ngoại rước ông tới, thôi để ông đi, đừng cho viên ngoại xá gia tài thì thôi. Mã-Phú, Mã-Quới mới ngừng tay. Kế Mã-viên-ngoại kề miệng gần tai Mã-Long nói nhỏ việc chi chẳng biết, rồi Mã Long nói với mấy người:
- Thôi anh em bây đừng ngầy-ngà, thảy đều về hết, để tao ở lại định việc, tao không cho nó nào dám xá. Mấy người nghe lời Mã-Long thảy đều ra về. Viên-ngoại thỉnh Mã-Long và Mã-Văn-Khôi ở lại mời vào phòng đãi rượu. Mã Long với Mã-Văn-Khôi ngồi bên tả, viên-ngoại ngồi bên hữu. Làm lễ đãi tiệc vừa xong, Mã-viên-ngoại thưa rằng:
- Thưa trước ông cùng chú còn ở lại đây, nay cháu muốn một việc, thưa ông cùng chú toan liệu. Mã-Văn-Khôi hỏi: - Vậy viên-ngoại có việc chi nói ra mới hiểu mà tính toán. Viên-ngoại nói: - Tôi chẳng phải đem gia tài mà xá cho Vương-Trùng-Dương, chẳng qua là tạm ông coi dùm ít năm, đặng cháu thong thả an dưỡng chứng bịnh. Mã-Văn-Khôi hỏi:
- Biểu ông coi giữ không thì phải, sao lại biểu lập tờ xá ước chi vậy? Viên-ngoại thưa: - Không, đó là nhứt thời quyền biến, thấy ông chơn tâm thiệt ý, cậy ông giữ giùm tôi cũng đặng rảnh tâm an dưỡng một lúc, chớ không có điều chi. Mã-Văn-Khôi nói: - Lẽ của cháu, ta chưa minh đặng, chẫm rải nói lại ta nghe. Viên-ngoại thưa rằng:
- Chú nghe cháu tỏ, vì cháu nhiều bịnh, còn cháu dâu hay chóng mặt khó coi sóc các việc. Bấy lâu cháu tầm người trung-hậu thật-thà thế tay săn sóc, may nhờ trời tùng người như nguyện nên gặp lão tiên-sanh, tôi muốn đem gia tài giao cho ông lo liệu thì gia tài nầy cũng như của tôi.
Bởi ông nghe chẳng kịp biểu tôi phải giao dứt cho ông, tôi thấy nói lời quê mùa, tôi cũng liền đáp theo như lời ông nói xá dứt. Ấy rõ ràng là lời nói chơi, ông tin là thiệt, lại biểu thỉnh trong tộc làm tờ xá ước cho ông.
Tôi nghĩ ông là người cô-lão ở xứ xa đến đây, không bà con thân thích, dẫu giao hết cho ông cũng không lẽ sang dời đâu đặng. Huống ông tuổi già sống có mấy năm nên lập tờ cho ông gìn giữ thế cho tôi đặng dưỡng bịnh một lúc, chừng ông mãn phần cũng qui về tôi, nào có tổn hại chi. Xin ông cùng chú vui lòng an việc nầy, cháu rất đội ơn.
Mã-Long nói: - Trong tộc đông người, để hỏi lại coi. Mã-Văn-Khôi lại hỏi Mã-Long, thấy Mã-Long gật đầu rồi nói: - Chuyện nầy một mình tôi ắt cũng chưa đặng.
Viên-ngoại nghe nói mời hai người vào phòng kín, lấy một món báu lạ đem để trước mặt hai người, thấy chớp sáng lòa, coi ý ông nào cũng chịu. Có bài kệ rằng:
Chiếu chớp hình ra thấy nhãn tiền, Sáng ngời một đốm lại tròn viên, Có y muôn việc đều an chuyện, Chẳng đặng dầu sanh cũng lụy liền.
Khi đó viên-ngoại đem ra thảy đều ngó cười, miệng chẳng hở môi, rồi Mã-Long nói với Mã-Văn-Khôi rằng: Viên-ngoại hồi sớm nói việc ấy rõ ràng, thế không có điều chi hại, chẳng qua là mượn việc xá ước mà buộc lòng ông già lo lắng công việc, như vậy cũng không sao. Mã-Văn-Khôi rằng:
- Phải ấy là quyền biến một hồi cho có người giúp sức, như chú chịu lãnh thì mấy người kia tự nhiên phải an. Mã-Long nháy nháy kề miệng vào tai Mã-Văn-Khôi nói ít câu, coi bộ vui mừng rồi nói rằng:
- Viên-ngoại hãy an lòng, chắc việc nầy xong đặng. Thôi để tôi đi nói với mấy người kia, thì thế nào cũng xong. Có đặng bạc tiền việc lớn xong, Nào lo xá ước lập không thành.
|
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Re: Truyền Thuyết Truyện Cổ Tue 24 Aug 2010, 20:06 | |
| THẤT CHƠN NHƠN QUẢ
Tác giả: Huỳnh-Vinh-Lượng
Hồi 7
Nghĩa là:
Lo tiền cho tộc trưởng, Mã-Ngọc lập tờ xá ước, Giảng huyền-công, Trùng-Dương truyền pháp toàn chơn. Có bài kệ rằng: Quang-âm mau lẹ chớ dần dà, Danh lợi buộc ràng tợ lưới sa, Muôn trượng từng sâu dời chơn bước, Một tơ chẳng dính mới không ma.
Lại nói Mã-viên-ngoại y theo lời bà Tôn-Huyên-Trinh lo tiền cho mấy người đương quyền trong tộc rồi thì việc chi cũng phải xong. Khi đó Mã-Văn-Khôi liền sai người đi nói cho trong tộc biết việc viên-ngoại xá gia tài đó chẳng qua là làm kế giả. Mấy người trong tộc hỏi: - Sao gọi là kế giả? Đáp rằng: Lưu hổ thủ sơn chi kế!
Lại hỏi: Sao gọi là “Lưu hổ thủ sơn chi kế”? Đáp rằng: Nghĩa là bắt hùm giữ núi. Vì viên-ngoại muốn vui việc thanh nhàn thong thả, nên cầm ông già ở đó đặng làm người tớ giữ của chớ chi lạ. Mấy người hỏi: - Sao biết đặng cầm ông làm tớ giữ của?
Đáp: Viên-ngoại vì thấy ông người trung hậu, nên muốn cầm coi sóc cửa nhà mà sợ ông không lòng cần mẫn nên mượn thế xá gia tài cho ông. Ông nhận tưởng là sự thiệt nên buộc phải làm tờ xá ước. Viên-ngoại nghĩ không lập tờ cho ông, sợ ông không hết lòng gìn giữ, nên thỉnh bạn mình làm chứng cho ông vui, chẳng phải cầm cọp giữ núi hay sao?
Mấy người trong tộc nói: Xá cho ông thì như của ông rồi, ông làm sao không đặng quyền coi giữ? Đáp: Phân hào cũng không dời đặng sao gọi của ông? Mấy người hỏi: Sao biết phân hào không dời đặng?
Đáp: Ông là người phương xa, thân cô-lão, không có thân quyến, tuổi đã già, ăn đặng bao nhiêu? Chừng hai con mắt nhắm rồi thì cũng tay không, của quí về mình, chẳng phải mọi giữ của hay sao? Mấy người nghe đặng cười lớn nói rằng:
- Ông ấy chết rồi gia tài của viên-ngoại, phần không con, lo gì chẳng về anh em mình. Nay làm như nước thả ghe, lấy nghĩa đưa tình cho vui lòng viên-ngoại cùng ông già; hoặc ngày sau có thiếu chút ít cũng dễ mượn chác. Nên lời tục có nói:
”Đương diện lưu nhứt tiếng, hóa hậu dị tương kiến” Nghĩa là: ”Mình làm mặt chút tình, ngày sau dễ thấy nhau” Mấy người nghe Mã-Khôi nói thảy đều vui chịu hết. Có bài kệ rằng: Lời hay chớ dụng nói ra nhiều, Một tiếng đều nghi sóng gió tiêu, Bằng chẳng chịu đưa đồ bửu-bối, Lời hay có nói cũng không siêu.
Khi đó Mã-Khôi thấy mấy người chịu hết, nhứt định ngày hôm sau tề tựu. Bữa sau, trong tộc đều tới thấy Mã-Khôi cùng Mã-Long ngồi với Trùng-Dương tiên-sanh tại nhà giữa vừa nói vừa cười.
Mã-Khôi biểu viên-ngoại làm thêm đồ tiệc đặng đãi anh em trong tộc. Hội đến đủ mặt ăn uống hồi lâu rồi Mã-Khôi nói: Nay viên-ngoại đem gia tài giao cho Trùng-Dương tiên sanh, vậy trong tộc có ai không chịu hay không?
Nói vừa dứt lời, thảy đều ứng thinh rằng: - Anh em tôi y lời không có trở cách việc chi. Mã-Khôi biểu viên-ngoại đem tờ đọc cho trong tộc nghe. Viên-ngoại đem giao cho Mã-Khôi đọc rằng: Tờ Xá Ước
“ Người lập tờ xá ước là Mã-Viên-Ngoại. Nay đem gia tài điền sản, bạc tiền vật kiện của tổ-phụ để lại, cùng gia nhơn tôi tớ trong nhà, đành lòng xá giao cho Trùng-Dương tiên-sanh làm chủ quản xuất, đặng phép tự do.
Trong bổn tộc họ Mã, lớn nhỏ không đặng trái lời. Mã-Viên-Ngoại từ xá gia tài đến sau cũng chẳng đặng đòi lại, e nói miệng không bằng, phải lập tờ làm cớ, như ngày sau có ai tranh tụng thì Trùng-Dương tiên-sanh đặng phép thỉnh làng phân xử.”
Người trưởng tộc: Mã-Long, Mã-Khôi, Mã-Hiền, Mã-Đức, Mã-Dương. Người làm chứng: Mã-Chiêu, Mã-Miên, Mã-Giám, Mã-Trấn Người lập tờ xá ước: Mã-Viên-Ngoại thị thiệt.”
Mã-Khôi đọc rồi giao cho viên-ngoại mời Trùng-Dương tiên-sanh tiếp lấy, rồi biểu khai tiệc đãi ăn một lần nữa. Khi mãn tiệc rồi thảy đều về hết. Người sau coi tới chỗ nầy có làm một bài khen viên-ngoại xá gia-nghiệp dõng mãnh nên thành đạo cũng mau.
Bài thi tặng rằng: Gia-tài xá hết mộ tu hành, Một vật không còn, dục khó sanh, Ngày nọ sớm đem lòng niệm hết, Năm sau học Đạo rất mau thành.
Lại nói Mã-viên-ngoại thấy người trong tộc về hết, bèn mới tạ ơn khen bà Tôn-Huyên-Trinh rằng: Nếu không có bà chỉ bảo chắc khó đặng thành sự. Huyên-Trinh cười rằng:
- Phàm việc chi phải lẽ làm theo thì chắc đặng nên, gọi là tùy cơ ứng biến. Viên-ngoại hỏi: - Việc đã thành rồi, còn học Đạo làm sao đi cầu? Huyên-Trinh nói: - Việc học Đạo phải để chậm rãi, đợi thầy an dưỡng ít ngày, bọn mình đồng đến lạy thầy cầu Đạo. Viên-ngoại cười nói: - Phải, như vậy thì ta rán làm phương tiện.
Lại nói qua Trùng-Dương tiên-sanh một lòng muốn rước trong thiên hạ tu hành, đến đây tu chơn dưỡng tánh, sợ e xóm làng đàm tiếu thị phi. Vậy trước phải thí làm ân huệ cho người vui phục mới đặng yên ổn.
Rồi từ đó đến sau, ông ra tiền bạc giúp người nghèo khổ, côi góa tật nguyền. Trong bổn tộc họ Mã có việc khiếm khuyết nhiều ít, ông thường trợ giúp: hoặc trai không tiền cưới vợ, kẻ góa không chồng, bịnh hoạn, ông đều cấp dưỡng cho mượn không đòi.
Thiệt ông người có nhơn nghĩa, trong ngoài đều đặng an tịnh, trên dưới đều nhờ, trộm cướp không có một người, ông muốn làm việc chi thì trong họ Mã không ai dám cãi; lại chiêu tập người ở đó học Đạo giảng huyền, cũng không ai dám thị phi.
Vì ông làm việc có lý, trọn trước trọn sau, ai cũng đều nhờ ông mà nên việc, bởi vậy không có một người bày việc chẳng phải với ông, hết lòng kính phục.
Nay trong thiên hạ những người có phước, hoặc giàu sang đừng ở khắc bạc, phải mở lòng rộng lượng mà thi ân bố đức cho người, thì cũng như ông đặng trọn lành, chẳng nên tham tiếc. Người coi đến đây, dẫu kiên-lẫn bực nào cũng phải thể theo chút ít. Có bài kệ rằng:
Khắc bạc làm sao việc đặng thành, Thị-phi bày nói chắc liền sanh, Bằng không Vương-lão thi ân sớm, Sao đặng nhiều năm hưởng thái bình.
Lại nói Trùng-Dương tiên-sanh đã thi ân rồi lại còn sửa soạn ở trong, lập 12 cái mao-am (nhà tranh) ở sau huê viên cho người tu tịnh dưỡng, mọi việc đều xong. Tiên-sanh dời ở tại mao-am công phu luyện đạo. Bữa nọ Mã viên-ngoại cùng Tôn-Huyên-Trinh đến mao-am cầu tiên-sanh học Đạo. Tiên-sanh nói: Đạo là đường giác tỉnh, dẫn người qui về chỗ chánh mà ra khỏi đường mê.
Nhưng mà phải do cạn tới sâu, do thấp mới đến cao, y theo thứ tự, sau mới đặng thành công. Phàm học Đạo trước phải luyện Tánh tập sửa cho thuần hậu, vì cái Tánh gốc ở Tiên-Thiên, nên phải luyện cho tròn sáng mới có chỗ diệu dụng. Nhơn cái Tánh nó liền với cái Tình.
Tánh Tình động ra như cọp giao chiến, bằng chẳng luyện cho nó giáng phục, làm sao trừ đặng Tánh dữ mà qui về chỗ “Hư Không”? Người muốn luyện Tánh phải để cho lặng lẽ tự nhiên chẳng biết chẳng hay, không người không mình; tuy ngồi chớ không hiểu là ngồi tại đâu, cứ lo chăm-nom “Chủ-Nhơn-Ông” mà thôi, làm như vậy mới đặng vào chánh pháp.
Còn luyện giáng long phục hổ, thì phải khóa con Tâm-Viên, buộc con Ý-Mã; thường giữ không cho nó chạy ra, đem về chỗ thanh tịnh, đặng mà đoạt máy tạo hóa của Trời Đất, lẽ diệu khí của âm dương. Hễ tịnh đặng thì các việc lo phiền đều tiêu, các mối trần phải dứt: một niệm chẳng sai.
Nếu tùy ý nó thuận hành làm theo thì làm phàm; còn noi theo Thiên-lý lấy lẽ tự nhiên của Trời Đất mà đoạt đặng khí âm dương, đem vào hiệp với thân mình, kêu là nghịch lý mà đặng thành Tiên thành Phật. Nên có câu: ”Sát sanh thăng thiên-đường, phóng sanh sa địa ngục”. Nghĩa: sát sanh là sát cái phàm tâm, chẳng cho vọng các điều quấy thì siêu về Thiên-đường.
Còn phóng sanh là để cho cái phàm tâm làm chủ sai khiến, dẫn vào nẽo bất lương; sử tánh tung hoành bỏ đường đạo-đức, thì tự nhiên phải sa địa ngục, nên người tu phải sửa trong lòng không một mảy tạp niệm, đừng có một điểm ma chướng, chẳng dính một vật hư tệ, mờ mờ sáng, không có một chút bụi trần, gọi là nói đại lược chỗ Đạo.
Còn chỗ sâu nữa chẳng khá bày tên trạng, duy có: Tâm lãnh Thần hội mà thôi (chẳng khá tiết lậu), đợi hai người tấn bộ tôi sẽ chỉ điểm cho.
Bữa nọ hai người sắm lễ xin cầu Đạo, viên-ngoại được đặt pháp danh là Đơn-Dương; Tôn-Huyên-Trinh là Bất-Nhị, đều lạy tạ ơn thầy, rồi đồng trở về. Tôn-Bất-Nhị nói cùng Mã-Đơn-Dương rằng:
- Khi trước chưa cầu thầy học Đạo thì mình là vợ chồng, nay đã đồng một thầy, học một Đạo thì như anh em đạo hữu. Để tôi kỉnh anh bằng sư huynh, anh kêu tôi bằng đạo-hữu, cũng như em.
Bổn phận người học Đạo phải tuyệt tình dục ân ái, phân phòng ở riêng, sư huynh chẳng đến phòng tôi, tôi cũng chẳng vào phòng sư huynh hoặc có việc chi thương lượng phải sai tôi tớ đến thỉnh, hội tại công đường mà minh biện. Mã-Đơn-Dương nói rằng:
- Y lời đạo hữu,tôi nào chẳng nghe, đạo hữu có lòng chơn tôi cũng có ý thiệt. Hồi không biết, mê muội thì thôi, nay đã đến Phật-tiền đồng lập nguyện qui-y, là linh-sơn cốt nhục rồi, đâu còn dám vọng lòng tà.
Tôi đặng nghe thầy nói: Mình hồi trước là thập-nhị lão-mẫu mà xuống đây, vì niệm tính sai lầm, sanh nam dục nữ, thiệt nhắc đến thôi càng hổ thẹn cho thân! Xin đạo hữu an lòng.
Đơn-Dương nói dứt lời kêu Mã-Hưng dọn mùng mền trước phòng Tây-lang. Mã-Đơn-Dương từ Tôn-Bất-Nhị ra trước an nghỉ. Người sau có bài kệ khen hai ông bà phân phòng dõng mãnh nên sau thành Đạo cũng mau. Kệ rằng:
Đại-Đạo nguyên lai chẳng luyến tình, Luyến tình đâu đặng Đạo là minh, Chỉnh coi Mã-Tổ đương khi đó, Chồng vợ phân phòng ý phải tin.
Khi đó bà Tôn-Bất-Nhị cùng ông Mã-Đơn-Dương đã phân phòng được hơn nữa tháng. Bữa nọ bà kêu tớ nữ thỉnh Mã-Đơn Dương đồng đến mao-am học Đạo. Đơn-Dương nghe nói cùng Tôn-Bất-Nhị đến mao-am đồng xin cầu hỏi tiên-sanh rằng: Bữa trước thầy nói:
Cái Tánh là gốc tại Tiên-thiên, xin thầy dạy cho trồng tại chỗ nào? Trùng-Dương đáp: - Tiên-thiên là khí hổn-độn chưa mở, không có Trời Đất, người vật, không sắc, không thinh, chẳng hay chẳng biết.
Có chỗ nào mà trồng đặng! Như nói trồng đó là chẳng phải Tiên-thiên việc có trồng thì nó mất chỗ mối hay, bằng nói Tiên-thiên có chỗ trồng là chỗ tướng về việc hữu hình, hễ theo tướng thì phải mất Tiên-thiên.
Người nói Tiên thiên tại chỗ đó là không phải. Chỗ Tiên-thiên xét đi nghĩ lại thiệt không có vật chi hết. Nếu đem chữ nhứt mà nghĩ nghị đừng nói chữ nhứt là Tiên-thiên. Chữ nhứt nguyên cũng chẳng phải.
Trò muốn biết lẽ Tiên-thiên, đem cây viết cùng ta biện rõ ràng. Tiên sanh lấy viết bày rõ mối Tiên-thiên. Tánh là Tiên-Thiên vật rất linh, Biết luyện Chơn-Tánh là Tiên-Thiên.
|
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Re: Truyền Thuyết Truyện Cổ Tue 24 Aug 2010, 20:16 | |
| THẤT CHƠN NHƠN QUẢ
Tác giả: Huỳnh-Vinh-Lượng
Hồi 8
Nghĩa là: Nói việc Tiên-thiên tinh ròng lẽ diệu, Trừ ma-căn pháp môn chẳng hai. Có bài kệ rằng:
Ngoài ý cầu Tiên việc chẳng sai, Bóng trăng trong nước, cảnh trong hoa, Tiên-thiên diệu lý trò biết chớ, Chỉnh tại một mình chớ khá khoe.
Khi đó Trùng-Dương tiên-sanh nói với Mã-Đơn-Dương cùng Tôn-Bất-Nhị rằng: - Vì Tánh là vật của Tiên-thiên, tròn huyền huyền, sáng rỡ rỡ, tuy có tên mà chẳng có hình, chẳng biết chẳng hay, khó vẽ khó họa, nào có chỗ trồng! Ta nay cùng trò gắng gượng mà vẽ cái hình tượng trò phải hiểu biết.
Trùng-Dương nói rồi liền lấy cây viết lại ghế sơn đỏ vẽ một vòng rồi một vòng nữa, trong vòng sau chấm một điểm. Vẽ rồi hỏi Đơn-Dương cùng Bất-Nhị: - Hai người có biết nghĩa đó chăng? Đơn-Dương và Bất-Nhị thưa: - Đệ tử tâm tánh ngu muội chẳng thấu, xin thầy chỉ dạy. Trùng-Dương tiên-sanh nói: - Ban đầu một vòng hỗn-hỗn độn độn, giống như Trời Đất chưa phân, nhựt nguyệt chưa có, tên là “Vô-Cực”.
Rồi trong chỗ Vô lại sanh ra một điểm tên là “Thái-Cực”, một điểm đó mà sanh ra Trời, sanh Đất, sanh người, sanh muôn vật. Nên Tiên-thiên do Thái-Cực mà sanh một điểm, ấy là cái Khí, gọi là Tiên-thiên nhứt-khí, ai muốn khỏi luân-hồi phải tìm chỗ đó.
Nhơn cái Tánh tùng Tiên-thiên mà phát, phát ra trước khi chưa có cái thân cho đến cái thân mất. Bởi một điểm linh tánh là căn bất sanh bất diệt, kêu là “Linh-Tánh”. Linh-Tánh ai cũng có, tại người phàm bỏ quên thì nó phải mê, mê thì bổn tánh khiến vọng niệm đều sanh, rồi tà khí niệm ma nhập vô trong.
Như bỏ không giữ gìn, ngoại ma tới phá, mất chỗ Tiên-thiên nó khiến không cho nghe đặng Đạo, nó cướp quyền làm chủ, hễ ai bày việc danh lợi, tài sắc, tửu khí, thì nó đến mê-man không dứt. Than ôi! Người mộ Đạo không mấy ai; còn người học Đạo chẳng tin thiệt, không chịu nghe dạy.
Bằng người tu Tiên-thiên bèn lập chí gia công chẳng mỏi thì tùy chỗ “Tâm lãnh thần hội” mà luyện lâu ngày ắt đặng hiệu nghiệm. Nếu lấy chỗ nhơn tâm mà hỏi Tiên-thiên thì Tiên-thiên chẳng khá đặng vậy! Phải dùng Đạo-Tâm mà hỏi Tiên-thiên, thì Tiên-thiên ở tại trước mắt.
Còn cái nhơn-tâm nó hay ám muội tham cầu, kêu là: “Thức thần đương quyền”. Đạo-Tâm là Thiên-Lương phát hiện, kêu là: “Nguơn-Thần chủ sự”.
Như người tu đặng phát hiện cái “Tâm thiên-lương” thì chỗ Tiên-thiên chẳng cầu cũng đặng. Nhưng mà ban đầu phải trừ cái bịnh, trừ bịnh là chẳng phải trừ bịnh “Ngoại-cảm, phong-hàn, thử-thấp”.
Trừ là trừ cái bịnh Tham, Sân, Si, Ái. Mấy thứ bịnh đó trừ đặng thì trăm bịnh chẳng sanh, thêm tuổi sống lâu, đặng thành Tiên Phật, làm Thánh làm Hiền. Nay ta đem bộ công-phu truyền cho hai trò, phải gắng sức mà làm đó!
Còn việc Đạo trừ bịnh, phải trừ chỗ bịnh căn, tìm cho đặng chỗ gốc thì cái bịnh chẳng khó trừ, vì cái bịnh phần nhiều bị trong chỗ tham muốn, giận hờn, ganh ghét, thương yêu, ái dục, mấy chứng mà ra.
Lại thêm tửu, sắc, tài, khí, mà cảm vào trong ngũ-tạng hết mấy phần, nên người tu hành trước phải trừ tửu, sắc, tài, khí, khử trừ ngoại cảm cho sạch, sau tuyệt chỗ sân-si, ái dục cho hết bịnh nội thương.
Hễ tầm đặng bịnh căn, các vật chất đều hết, rồi sau mới tu trường-sanh, tìm chỗ chẳng chết. Chẳng chết là Chơn-Linh chẳng chết, chớ không phải xác thân không chết, nếu không biết thì Tánh-Mạng cùng xác thân đều chịu trầm luân.
Còn ta nay chỉ việc rượu mà nói: nếu người biết rượu là hại cho đạo, phải thề mà trừ nó; bằng như thấy rượu còn thèm thì lấy chỗ giới luật mà giữ, hoặc người biểu uống, hoặc thấy người uống mà ý còn vọng tưởng, tuy là chưa uống mà ý muốn uống thì cũng như uống rồi, đó là bịnh căn rượu. Như muốn trừ bịnh rượu cho dứt thì khi mới khởi ý ra phải trừ liền, lẽ nào chẳng sạch cái căn rượu?
Còn việc sắc hay làm hư hại cho đạo hoặc tồi bại trong qui trình, hao mòn thân thể, lại hổ thẹn với đời. Như muốn trừ nó phải thệ mà trừ, bằng thấy sắc mà muốn tưởng, thì lấy chỗ giới luật mà giữ; hoặc nó lấy lời quyến-mị, yểu điệu đưa tình, trêu người giỡn cợt, mà trong ý muốn động, có tình thương mến, tuy là chưa thông với nhau mà cái ý tình khởi ra thì cũng như thông rồi.
Đó là bịnh căn chỗ sắc còn ẩn tại nơi trong! Như muốn trừ nó, khi mới khởi tình ra thì phải trừ liền, mới đặng sạch dứt căn ái-dục.
Còn tỏ cái căn chỗ Tửu-Sắc nó cũng hay ẩn trong chỗ Tâm Ý. Muốn học Đạo mà khử cái bịnh căn các thứ ấy, trước phải chánh cái Tâm, sau thành cái Ý, thì bịnh căn tiêu dứt. Như bịnh căn chẳng dứt do nơi mình Tâm Ý chưa chánh vì chưa quyết thoát trần, nên Tâm Ý hay nương náu theo hoài, còn phát một niệm, tuy chưa uống mà ý muốn uống, tuy chưa thông mà tình muốn thông.
Thiệt là trước khi không có tưởng, nhơn bị ngoại cảm sẵn trước nó động vô trong, ví như bóng trăng trong nước, lấy đá quăng động nước thì trăng cũng xao động. Tuy không phải thiệt mà hình ảnh giao-động, thì Chơn Đạo chẳng đặng thành vậy. Như nay ngươi muốn cầu dứt bịnh căn ấy thì Nho có dạy: Phi lễ vật thị, phi lễ vật động.
Nghĩa là: Chẳng phải lễ chẳng ngó, chẳng phải lễ chẳng động. Thích có phép: Vong nhơn, vong ngã, vong chúng sanh. Là: Quên người, quên mình, quên chúng sanh. Còn Đạo có phép: Thị chi bất kiến, thích chi bất văn.
Là: Coi đó chẳng thấy, nghe đó chẳng hay. Ba lời ấy là thuốc trừ bịnh căn tửu sắc. Lữ-Thuần-Dương (Lữ-Động-Tân) nói: “Kiến sắc như đồng kiến hổ”, là “Thấy nữ sắc sợ như thấy cọp”, chẳng dám ngó lâu, hễ ngó lâu thì nó đoạt cái Linh-Tánh.
Xưa nay từ vua đến dân, lắm kẻ vì sắc mà hư. Dân vì sắc mà lụy thân, quan vì sắc mà hư danh, giàu vì sắc mà hết nhà, vua vì sắc mà mất nước, không hạng nào đắm sắc mà khỏi hại. Vì vậy Thánh-nhơn đặt chữ sắc có chữ đao ở trên, đao ấy giết người không thấy máu.
Nói qua việc tiền của lại càng khó hơn nữa. Trong mấy người tu cũng có người đạo duyên chưa quyết mà vì nhà nghèo khó không thể đua tranh với đời trong việc ăn mặc tốt xấu sang hèn, nên đi tu là làm kế đỡ.
Có người vì thất vọng mới nương vào cửa Phật, kỳ thật không hiểu, không minh cái Đạo, vì không minh cái Đạo mới có người tuy là tu mà còn trau giồi bản dạng, quần áo nhởn nha, lấy chỗ giàu sang mà khoe ruộng vườn nhà cửa; chơi bời lanh xảo, thường đứng trong trường danh lợi đua chen.
Có người khắc bạc tính toán, giạ già cân non mà cầu lợi. Đã muốn cầu danh lợi, tình dục, ruộng đất, tài sản, điểm trang son phấn, tranh việc thị phi mà lại muốn thành Phật thành Tiên! Những người ấy mà cũng tới học đạo, thật khá buồn thay!
Còn nói qua chữ Khí, người tu cũng phải có, mà lại nhiều người chưa bình đặng cái khí can, ít ai giữ cái khí chánh, ít ai biết dưỡng tính, chế cái khí giận, khí nóng hoặc lộ trên mặt mà sanh việc giận hờn; hoặc ưng theo trong lời nói mà sanh việc hơn thua, yếu mạnh, vì cái Khí chớ không phải vì Lý.
Như vậy đâu có dưỡng đặng chỗ “Khí hạo-nhiên”, thì làm sao mà siêu phàm nhập Thánh? Những người như vậy đã muốn các việc tranh đua chen lấn, một mảy cũng không chịu nhục chịu thiệt, mà lại cũng muốn học Đạo, thành Phật, thành Tiên, há chẳng thương thay!
Nay như người muốn cầu cái phép dứt tuyệt đặng trở nên người đức hạnh, thì Nho có dạy: “Chẳng nghĩa mà giàu sang, ta coi như mây nổi”. Còn nói giữ cái chí đừng có nóng cái khí. Hễ giận lễ nghĩa thì cũng giận, mà xuất lời ra cho nó nghi-tiết dùng qui-trình mà nói, đặng sửa chỗ quấy mà trở về chỗ chánh.
Còn giận khí huyết thì chẳng nên giận. Giận khí huyết là không đáng chuyện giận cũng giận; hoặc việc nhỏ mọn cũng tìm ra mà giận nên người tu lấy chỗ bình hòa, nhẫn nhịn mà xử. Đó là khinh tài dưỡng khí!
Đạo Thích nói: “Chẳng chịu thọ phước đức của người; chẳng chịu dùng tiền bạc của người, đặng thành việc nhẫn, cũng là khinh tài dưỡng khí”. Còn Đạo Tiên nói: “Biết trừ tham lam, hiền lòng dằn khí, đó là trừ chỗ bịnh căn tài khí”.
Như người tu muốn trừ bốn vách ấy, thì trước phải quyết chí chặt đứt căn bịnh, phải chánh chỗ Đạo-Tâm. Nên Nho tại chỗ Tỉnh — Thích tại chỗ Giác — Đạo tại chỗ ngộ — Nếu đặng tỉnh, giác, ngộ thì trong thiên hạ việc gì cũng coi thấu cả. Trùng-Dương tiên-sanh giảng cái lý trừ bịnh rồi, Mã-Đơn Dương cùng Tôn-Bất-Nhị lại hỏi việc công phu, tịnh dưỡng dùng phép làm sao? Trùng-Dương nói: - Trước phải ngồi Tịnh, các việc quên hết đặng niệm chỗ “Tổ khiếu”. Hễ phàm tâm tử thì Đạo-tâm sanh. Ngồi niệm cho dày, mở bớt dây lưng nút áo.
Giờ Tý, ngồi ngó ngay hướng Đông, 2 chơn kiết-già, sửa ngay thẳng, 2 tay chắp lại, khấu xỉ giáng cam lồ, bắc cầu lên trời, lỗ tai nghe vô trong, âm dương hội hiệp, để cái rèm xuống, đem thần quang trở soi đơn-điền, kêu là tịnh tọa công phu, phải đừng vọng niệm. Nếu như còn ý tán loạn thì chơn-thần chẳng thuần dương, mà việc công phu cũng khó thành.
Còn nói ngồi niệm cho dày, đặng rán ngồi lâu, cái thân không mỏi. Còn mở nút áo cùng dây lưng cho khí nó vận chuyển thông hành đều đủ. Chờ giờ Tý là lấy chỗ dương khí phát sanh. Ngồi ngó ngay hướng Đông là đoạt chỗ thanh khí. Ngồi kiết-già là thâu dưỡng thần khí, tay ấn chỗ vô danh đặng quên các điều hình thể.
Sửa mình cho ngay thẳng đặng các chỗ đều thông hơi không bít; môi răng khấu nhau cho chỗ trùng lầu không hao khí. Miệng là chỗ khí hơi, hễ miệng hở thì khí tan, nên phải bế lại. Lỗ tai nghe vô trong vì lỗ tai thuộc thận, nếu nghe tiếng nói thì hao tinh, nên phải nghe vô trong chẳng nghe ra ngoài.
Còn âm dương hội hiệp là chẳng cho mờ tối, con mắt là tổ khiếu của thần, hễ nhìn ngó sắc lâu thì thần theo sắc mà tán, như đặng quang minh thì thần đặng tròn sáng, còn nhắm lại thì thần phải mê muội.
Còn bỏ cái rèm xuống là chẳng tối chỗ thần quang. Tự trên huyền cung trở chiếu chỗ đơn-điền, cũng như nhựt nguyệt trên trời sáng tỏ, mà soi thấu muôn vật, sanh đặng các loài.
Còn ít nói cho khí tụ, thì hơi không lậu ra, bớt lời, bớt việc, là dưỡng đặng chỗ tinh. Như tinh không lậu ra lỗ tai, không điều sắc tướng, mà ngưng thần, thần không lậu nơi con mắt, các việc đều không, cho nên kêu là: “Vô-Lậu Chơn-Nhơn”.
Tiên-sanh giảng Đạo rồi nói: Việc đó là công phu rất hiệu. Như hai người muốn vào cửa Đạo chẳng khá gọi việc đó là tầm thường! Phải gắng công kiên cố ngày giờ thì mới có hiệu nghiệm. Bằng như dãi đãi thì lầm chỗ đường đi. Tiên-sanh nói dứt lời liền ra ngoài chỉ việc công phu (ai có căn đi tìm mới biết việc công phu).
Lúc nọ Mã-Đơn-Dương nghe hết mấy lời thấu đặng chỗ huyền-diệu liền quì lạy từ thầy trở về chỗ cũ, y phép làm theo lâu ngày đặng thấy ứng nghiệm, rồi cũng tưởng Đạo có bao nhiêu mà thôi; chẳng đến mao-am học hỏi, cứ giữ một điểm công phu làm hoài.
Cách hơn một tháng, Mã-Đơn-Dương ngồi tại phòng công phu, xảy đâu thấy Trùng-Dương tiên-sanh đến. Đơn-Dương lật đật tiếp vào. Trùng-Dương ngồi xuống nói rằng:
- Đại-Đạo thiệt không cùng, lấy cũng chẳng hết, nói cũng chẳng xiết, phải sửa cho các chỗ đều không, chẳng khá chấp một mối, thành tâm theo Đạo hết lòng cải đổi mới đặng có ích thân tâm.
Đạo chẳng tìm chẳng gặp, chẳng hỏi chẳng biết, học chẳng thấu chẳng thành. Hễ người có Đạo thì một giờ một khắc chẳng rời thân mình, một bước một lời thường giữ trong lòng, tỉnh hoài chẳng muội, niệm niệm đều chơn. Sao gọi là chơn?
Hễ người có Đạo thì giờ khắc không quên, một mảy tư dục chẳng có, gọi là chơn. Như vậy mới thiệt là theo Đạo. Nên thầy Nhan-Hồi có câu: “Đắc nhứt thiện huyền huyền phụ ưng”. Nghĩa là: Nghe đặng Đạo giây phút không rời.
Còn việc lỗi phải cải phải trừ. Hoặc có bịnh tại chỗ tư (1) phải lấy chỗ công tâm mà trừ; hoặc bịnh chỗ ý dục (là chỗ muốn) phải lấy Đạo-tâm mà trừ chỗ muốn đó. Bịnh chỗ tà vạy phải lấy chỗ lòng ngay mà trừ chỗ chẳng ngay.
Còn bịnh kiêu ngạo phải lấy việc nhún-nhường mà trừ, hễ bịnh khởi chỗ nào thì phải hiện phát trừ trị, chẳng đặng dung chế. Nên cần việc công phu cũng vậy, hễ khởi đâu giác đó, giác đặng phải quét, quét liền cho sạch, thì tự nhiên trong lòng đặng vui vẻ.
Tỷ như gió mùa Xuân, vạn vật đều phát vượng, sáng như trăng tỏ, tươi nhuận như trời đất, thanh tịnh cả núi non, lần lần khí đầy đủ, mặc niệm vận hành chừng một năm, đủ đầy trong tam-bửu! Như như chẳng biết chẳng hay thì đại-đạo đặng thành. (Mấy lời nói trên đây là Trùng-Dương tiên-sanh hóa thân vào phòng mà nói chuyện với Mã-Đơn-Dương).
Lại nói bà Tôn-Bất-Nhị ngồi một mình trong phòng công phu, xảy thấy Trùng-Dương tiên-sanh giở màn ngoài cửa bước vô. Tôn-Bất-Nhị giựt mình đứng dậy, vừa muốn hỏi, lại thấy thầy cười nói rằng:
- Đạo lý tinh vi, huyền-diệu không cùng trong mình thông đủ, muôn mạch chầu về một mối, phải tự nhiên làm đi, mới có công hiệu. Như trò ngồi cô đơn một mình thiệt là không ích! Há chẳng nghe một âm chẳng sanh, một dương chẳng trưởng.
Nếu trò ngồi như chết thì âm dương chẳng đặng thông nhau, làm sao mà kết thai đặng? Ta nói cho trò biết: muốn âm chẳng lìa dương, dương chẳng lìa âm, đây chẳng lìa đó, đó chẳng xa kia...
Trùng-Dương mới nói mấy lời, Tôn-Bất-Nhị mặt đỏ phừng phừng, lật đật giở màn ra ngồi trước nhà, kêu tớ gái là Thu Hương đi thỉnh ông Đơn-Dương nói chuyện. Thu-Hương thấy bà giận, chẳng dám chậm trễ, mau đến trước thỉnh ông.
Lúc ấy, Đơn-Dương đang nghe tiên-sanh giảng Đạo, xảy thấy Thu-Hương chạy tới thưa rằng: Không biết việc chi bà giận ngồi tại trước nhà, sai tôi mời ông cho bà nói chuyện. Đơn Dương nghe nói thưa thầy rằng: Cho đệ tử đi một chút trở lại. Trùng-Dương tiên-sanh gật đầu. Chẳng hiểu lý nầy cùng lẽ nọ, Nên khởi lòng nọ với lòng kia. _________________________________________________
( 1) Chỗ tư là người tu ở chùa cũng như gởi thân cho Phật, ăn cơm chùa thì phải lo việc Phật, đặng đến ngày qui thiên mà về Phật lãnh công quả của mình làm ngày trước, chớ mình tu ở chùa mà lo làm việc riêng, thì chỗ nào là công? Dẫu không tu cũng vậy, hễ làm việc nhà nước thì lo việc nhà nước, chẳng đặng ăn lương mà lo việc nhà mình.
|
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Re: Truyền Thuyết Truyện Cổ Tue 24 Aug 2010, 20:24 | |
| THẤT CHƠN NHƠN QUẢ
Tác giả: Huỳnh-Vinh-Lượng
Hồi 9
Nghĩa là:
Vương-Trùng-Dương biến thân mà hóa dạy, Tôn-Bất-Nhị không hiểu chẳng phục thầy.
Có bài kệ rằng:
Ta độ chúng sanh học chơn truyền, Không không có có khó trau liền,
Biết là Đại-Đạo không xa viễn, Người chẳng lòng cầu tại thất duyên.
Khi đó Mã-Đơn-Dương nghe Thu-Hương nói Tôn-Bất-Nhị ngồi trước nhà giận hung, liền xin thầy ra đi, coi thử Tôn đạo hữu kêu việc chi.
Mã-Đơn-Dương đến nhà trước thấy bà ngồi giận đỏ mặt, liền cười mà nói rằng: Đạo hữu giận việc chi? Hay là tôi tớ có phạm lỗi điều chi không vừa ý? Thôi, mình làm chủ phải cho có độ lượng, dung kẻ dưới tay, chẳng vì nó mà phiền giận! Tôn-Bất-Nhị đáp rằng:
- Sư huynh không rõ, tôi tưởng Vương Trùng-Dương là người có đạo-đức, ai dè người không chánh, mới vào phòng tôi nói việc khó nghe, tôi không học nữa. Đơn-Dương cười rằng: - Thầy đến phòng đạo hữu hồi nào? Tôn-Bất-Nhị nói: - Còn ở trong phòng! Đơn-Dương cười rằng:
- Đạo hữu chắc là chiêm bao? Thầy từ sớm mai đến giờ giảng đạo-đức với tôi, giây phút không rời, còn đang tại phòng tôi. Lúc Thu-Hương đến mời cũng thấy.
Đạo hữu không tin hỏi Thu-Hương coi có hay không. Tôn-Bất-Nhị chưa kịp hỏi, Thu-Hương liền nói: - Hồi tôi thỉnh ông có nghe thầy đương giảng việc trời đất hay lắm. Ông ra đi với tôi thì thầy còn ở lại đó. Tôn-Bất-Nhị nghe nói cúi đầu làm thinh.
Mã-Đơn-Dương sợ thầy đợi lâu trở ra không nói với bà nữa, chừng ấy Tôn-Bất-Nhị trong lòng phiền giận thầm rằng: Tưởng đi thỉnh sư huynh đặng bày tỏ việc thầy cho ông nghe, ai dè nói việc như không, bà buồn bực chẳng vui, liền trở vào phòng.
Cách hơn một tháng, Mã-Đơn-Dương đến mao-am cùng thầy học Đạo. Trùng-Dương tiên-sanh biểu trò ngồi rồi nói: - “ Than ôi! Trên đời người tu hành học Đạo, hoặc vì mặt mà tu, vì miệng mà tu, đều thất xa lắm. Đối với Đạo không có một hào ly chi hết.
Lại có người tu tại con mắt, lỗ tai, miệng, bụng, các việc đều phép hữu vi, mất chỗ thể đạo chơn; lại có người theo bàng môn giả dối, tu luyện ham những phù huê (hữu hình) mà định tịnh chẳng biết.
Lại có người tâm chí quyết tu mà sức độ lượng yếu, thảy đều có bịnh. Bởi bịnh ấy là tại nơi dung vị hoặc thái-quá bất-cập đều chưa đặng chỗ tự nhiên; hoặc vui chỗ nầy, vui chỗ kia, tới một tấc, trở lui một trượng. Vì phàm tâm chưa dứt, đạo tâm chưa minh, chưa ngán thấu chỗ tình tục, nên ăn mặc còn sợ tốt xấu, danh tiếng tài hay, cùng vàng bạc, cửa nhà, ruộng đất không người hay biết.
Các điều ấy chưa đặng cách tục mà lại muốn học Đạo cầu phước, thong thả an nhàn! Có khi than nghèo cực mà lại hay xài phí, tư dục không quên, vì coi chẳng thấu cuộc đời, để cho nó khiến như vậy thì chẳng khá gọi là Đạo!”
Xét lại, mỗi người đều có cái Tánh chơn, biết tu chỗ Đạo thì thành đến bực Phật Tiên. Nhơn vì chẳng cách việc trần, không riêng thế tục, nên cái Đạo chẳng tỏ, chẳng minh.
Như muốn cầu theo về Thiên-Đường thì phải món món đều khác, chẳng giống người thường, trong ngoài đều tu hết, mới gọi là có Đạo-tâm”. Tiên-sanh cùng Đơn-Dương giảng Đạo, thầy trò nói tự thỉ chí chung, tâm đầu ý hiệp như vậy thì làm sao mà đạo không thành!
Lại nói qua bà Tôn-Bất-Nhị ngồi trước nhà bị ông Mã-Đơn Dương nói bà nằm chiêm bao mấy lời rồi làm thinh, trong lòng chẳng phục ý ông. Nếu nói mình chiêm bao thì không lẽ. Thiệt thấy rõ ràng thầy vô nói rành rẽ bên tai tôi, sao lại nói thầy ở tại phòng không dời động giây phút? Thiệt là nghĩ không ra.
Suy nghiệm một hồi rồi trở vào phòng. Bữa nọ bà đương ngồi công phu, lại thấy Trùng-Dương dở màn bước vô cười rằng: Đại-Đạo chẳng phân nam nữ, lìa tránh âm dương Đạo chẳng thành.
Tôn-Bất-Nhị thấy vậy nhượng cho thầy ngồi, mình trở ra đứng ngoài cửa hỏi rằng: - Thầy sao không ở tại mao-am mà công phu? Vào đây làm chi? Trùng-Dương nói: - Vì trò bỏ chỗ Tạo-Hóa lư, ngồi tịnh cô đơn, khí hải khô.
Có câu: “Con gái không chồng là hoán phụ, con trai không vợ là khoán phu”. Ta nói rõ cho trò biết: Một âm một dương chẳng khá dang cách; âm dương phối hiệp thì việc ắt chánh lý.
Có câu: “Tây gia nữ, đông xá làng”, nghĩa là: Âm dương hội hiệp mới nương nhau đặng. Vậy thì hai đàng khá chỗ động phòng, hai tám mới về nên giao cảm, kết thánh-thai dựng tại bên thân. Mười tháng công phu ôn dưỡng, sản xuất anh-nhi mạnh hơn người. Trò phải y theo lời làm như vậy, thì đặng về Thiên-Cung chầu Ngọc-Đế.
Tôn-Bất-Nhị nghe mấy lời chẳng nói, liền khóa cửa lại, đi đến trước kiếm Mã-Đơn-Dương nói chuyện đó cho ông nghe. Đi đến thấy cửa phòng của ông đóng chặt, hỏi người tớ là Mã Hưng, Mã-Hưng nói: - Viên-ngoại và tiên-sanh mắc giảng đạo tại mao-am. Lúc đó Trùng-Dương đang nói: - Lòng người phải bớt, lòng Đạo phải chơn; vùng cười, chỉ Mã-Đơn-Dương mà rằng:
- Trò mau đi ra coi có người kiếm ngoài trước. Đơn-Dương nghe thầy nói có khách đến liền từ thầy ra coi. Đến nhà trước gặp Tôn-Bất-Nhị rồi bà níu áo Đơn-Dương nói rằng: - Sư huynh lại đây mà coi. Đơn-Dương hỏi:
- Coi việc chi? Tôn-Bất-Nhị nói: - Đừng hỏi, đến đó sẽ rõ. Đơn-Dương theo đến thấy cửa khóa, Tôn-Bất-Nhị mở khóa biểu Đơn-Dương vô mà coi, Đơn-Dương không biết việc chi, cũng bước vô ngó bốn phía, thấy mền mùng ghế đẳng y nguyên, không có chi lạ, liền hỏi Bất-Nhị rằng: - Đạo hữu biểu tôi vô có việc chi? Bà nói:
- Coi thầy của sư huynh ở trong phòng tôi đó! Đơn-Dương nói: - Đạo hữu nói không sợ tổn đức; thầy cùng tôi giảng đạo tại mao-am không dời một bước, thầy nào vào đây? Bất-Nhị nghe nói không tin, bèn vô giở mùng mền kiếm coi, cùng không thấy ai hết, liền nói việc quái lạ! Mã-Đơn-Dương nói:
- Có chi mà quái lạ. Tôi biết rồi, tại vì đạo hữu không cần công phu đặng thâu cái phàm tâm cho dứt, cứ lo chuyện ngoài hoài, nên sanh ma chướng như vậy. Tôn-Bất-Nhị nói:
- Sư huynh nói việc gì đâu? Tôi bình sanh không có tạp niệm ma chướng, một lòng tịnh dưỡng nào có vọng tưởng điều chi? Lần nầy là hai lần, thầy đến phòng tôi rõ ràng, tiếng nói bên tai mấy lời còn nhớ, nào có phải vọng ma. Đơn-Dương hỏi:
- Thầy nói việc chi, thuật lại tôi nghe. Bà đem lời thầy vô phòng hai lần thuật cho ông nghe. Đơn-Dương cười rằng: - Thiệt đạo hữu thông minh một đời, mà lầm sai một thuở. Vì Đạo chẳng phải thông minh mà đặng nên, việc mình muội tánh. Bất-Nhị hỏi:
- Sao gọi là muội tánh? Ông nói: - Vì người học Đạo phải để tâm hạ khí, chẳng hổ học hỏi người dưới. Như vậy một bước lại thêm một bước, đi xa càng hiểu đường dài, lấy mười đếm trăm, thêm trăm đếm ngàn.
Thiệt việc Đạo chí quí chí trọng, nói không xiết kể. Đạo hữu mới đặng chút huyền công, tưởng là Đạo có bấy nhiêu mà thôi, mỗi ngày cứ giữ quyết cái phòng của đạo hữu, ngồi hoài khô tọa, chẳng minh lẽ âm dương, không hiểu cơ tạo-hóa, chẳng chịu đến trước thầy mà học hỏi, để nghi tính nam nữ phải cách biệt, chấp lòng nhơn ngã.
Bởi thầy thấy đạo hữu giữ quyết một việc sợ sau chẳng đặng liễu đạo, thầy muốn ra chỉ đạo cho đạo hữu, vì sợ chỗ hiềm nghi phải xuất hiện dương thần, phân thân hóa dạy mà đạo hữu chẳng hay. Nên thầy hay nói với tôi:
“Một âm một dương gọi là Đạo, lìa bỏ âm dương Đạo chẳng thành”. Vì cái âm dương đó: Dương hỏa, âm thủy, là âm dương trong thân mình luyện ra. Chẳng phải nói việc vợ chồng như ở thế.
Nghĩ lại việc nầy thiệt thầy hết lòng khổ chí cần dạy; tiếc cho đạo hữu hiểu lầm mà chẳng biết chỗ huyền-cơ. Lại nói độc dương bất trưởng, là nói dương thuộc hỏa, lửa nhiều nóng quá chẳng đặng thành đơn. Còn độc-âm bất sanh, là nói âm thuộc thủy, nước nhiều tràn lạnh cũng chẳng đặng thành đơn.
Bởi nói cô-âm độc-dương là tỷ thí nước lửa chẳng đặng giúp nhau. Luận ra mà nói, người tu hành phải cho đặng nước lửa đương tiếp, âm dương quán phong, mới khá huờn đơn đặng.
Còn nói đạo hữu bỏ Tạo-Hóa lư là rõ ràng chẳng minh lý âm dương. Như nói câu: “Khoán phu hoán phụ” là nói cô-âm bất sanh, độc-dương bất trưởng, nên thầy tỏ mấy lời cho đạo hữu biết.
Hễ người học Đạo thì phải tìm chỗ âm dương, bởi âm dương là chỗ huờn đơn của Tiên Phật. Trước dụng chơn-ý, mà dẫn thông âm dương (như cầm bầu rượu mà vui uống rượu ngon). Còn chơn-lý thuộc thổ, màu vàng, nên thí dụ là huỳnh hà. Như câu:
“Tây-gia-nữ” là thuộc Kim, Kim hay vượng phát tại Tây nên gọi là “Tây-gia-nữ”. Còn câu: “Đông-xá-lang” thuộc mộc, mộc hay vượng sanh tại Đông, nên gọi là “Đông-xá-lang”.
Còn hai đàng xứng nhau là nói 2 cái 8 là 16, hiệp thành một cân (Hễ kim chẳng phải con của mộc, thì chẳng khắc; mộc chẳng phải con của kim, thì chẳng sanh). Đó là nói việc âm dương tạo hóa, ngũ-hành sanh khắc như vậy.
Còn người tu hành phải lấy cái ý hội thông. Tỷ như bà mai nói hiệp hai nhà dẫn cho kim mộc gặp nhau, không có dang cách như vợ chồng vui hiệp.
Còn động phòng là chỗ đơn đình; dẫn kim mộc về một chỗ, kim là phách, mộc là hồn, dẫn tụ về một mối, yêu mến không rời, hồn chẳng lìa phách, phách chẳng lìa hồn. Hống tám lượng, diên nửa cân, giao cảm là chỗ kiết đơn, thiệt nói hai đàng xứng nhau, tinh khí hiệp nhau ngưng kiết (Tỷ như vợ chồng có thai vậy).
Còn nói 10 tháng là số đủ, ôn-dưỡng là hỏa-hầu (Hỏa-hầu là để lửa có chừng). Như nói tinh khí ngưng kiết, cũng là để lửa ngưng có chừng mà nấu luyện thành đơn. Còn nói số đủ là vuông tròn, công phu đầy đủ, anh-nhi giáng sanh (Nghĩa anh-nhi giáng sanh là chơn-khí).
Khí hóa ra thần, thần nuôi dưỡng cho đầy đủ, tùng chỗ nê-hoàn mà ra, lên chầu kim-khuyết, mà làm người chơn-nhơn. Như vậy chẳng phải là Thần Tiên sao? Mã-Đơn-Dương nói rồi, Tôn-Bất-Nhị mới vui mừng tỉnh ngộ. Vậy ai muốn tu luyện thì tìm minh sư mới rõ.
|
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Re: Truyền Thuyết Truyện Cổ Tue 24 Aug 2010, 20:32 | |
| THẤT CHƠN NHƠN QUẢ
Tác giả: Huỳnh-Vinh-Lượng
Hồi 10
Nghĩa là: Giảng bực tam thừa, diễn nói Đạo Toàn-Chơn, Làm lở mặt mày, mà chịu người xấu xa.
Có bài kệ rằng:
Đã đặng chơn truyền đạo khá tu, Tam thừa pháp diệu tại người cầu, Huyên-Trinh khi đó hư mày mặt, Đổi đặng thân vàng hưởng muôn thu.
Khi đó Tôn-Bất-Nhị nghe mấy lời Mã-Đơn-Dương nói, cũng như một tay phá bể lưới mê, vui mừng tỉnh ngộ, chẳng khác chiêm bao mới tỉnh. Than rằng:
- Phải không có sư huynh chỉ dạy chắc bị lầm việc lớn. Tôi khi bình thường việc hiểu cũng nhiều, sao nay học Đạo lại kém hơn sư huynh? Đơn-Dương nói:
- Chẳng phải đạo hữu thua tôi, vì đạo hữu không chịu tìm học, nên chẳng thấu. Sách có nói: Thông minh phản bị thông minh ngộ; hứa đa thông minh ngộ tự thân. Nghĩa là: Người thông minh phải giữ phép, trở lại bị cái thông minh mà lầm; biết bao nhiêu người thông minh làm hại cho mình.
Vậy cũng tại mình tự thị quá. Bởi việc chi, trong thiên hạ có học rồi mới biết, sanh ra mà biết đâu có mấy người? Tôn-Bất-Nhị nghe dứt, tạ ơn rằng: Tôi nay tuân lời thầy dạy, từ nay đến sau tôi phải hết lòng học hỏi. Đơn-Dương nghe nói vui mừng, liền trở về phòng an nghỉ.
Qua ít ngày, Đơn-Dương muốn đến nhà người cậu đặng mừng lễ chúc thọ, rồi thưa cho thầy hay, lại mời Tôn-đạo-hữu đi. Tôn-Bất-Nhị giả nói có bịnh đi không đặng. Rồi Đơn-Dương biểu gia đồng sắm sanh lễ vật đi trước, ông cỡi lừa theo sau.
Nói qua bà Tôn-Bất-Nhị ở nhà nghĩ lại mấy lời Đơn-Dương nói bà chẳng chịu lãnh học, nên không biết Đạo hay, trong lòng thường nhớ hằng lo. Nay thấy ông không có ở nhà, tớ bạn đều đi chơi hết, một mình đi đến mao-am, thấy thầy ngồi công phu, quì trước thưa rằng:
Đệ-tử tâm tánh ngu mê, không rõ việc chí lý nên hai phen lầm lỗi, may nhờ sư huynh mở dạy mới biết mấy lời trước của thầy nói đạo, tự hối chẳng kịp. Xin thầy miễn chấp, chỉ dạy cho tôi, thiệt dường ơn tái tạo.
Trùng-Dương nói: - Thôi trò đứng dậy, ta nói cho trò nghe.
Vì Đạo có ba bực, phải lượng theo sức mình mà tu. Phàm người học Đạo, chẳng kể việc sống thác, mới đặng làm người không chết. Bực thượng thừa là chỗ đạo hư vô mảy tơ chẳng dính, một trần chẳng nhiễm, như trăng tỏ vọi-vọi, muôn dặm không may.
Duy có một điểm linh căn mới đoạt đặng tạo-hóa của Trời Đất. Phải biết việc chánh lý của âm dương, dụng phép mà luyện theo đó, lấy chỗ có mà qui về chỗ không, chỗ không mà sanh ra chỗ có, mới đặng cùng Trời Đất đồng bền, cùng nhựt nguyệt đồng tu, đó là đạo thượng-phẩm Thiên-Tiên!
Còn tu trung thừa là giữ lòng thành trai giới, bái Phật tụng kinh, một lòng theo thiệt, muôn niệm đều thanh, trên cảm Phật Trời, muôn linh xem xét, một điểm chơn linh chẳng muội. Đến lúc liễu đạo biết chỗ xuất thần, về tới hư không thì sánh bực Tiên ban chẳng mất.
Còn tu bực hạ thừa, ban đầu tích công làm việc phương tiện giúp người lợi vật, bồi thêm việc lành, thường tưởng xét việc lầm lỗi, tánh chơn chẳng mất, thì linh-quang mới đặng hiển thông. Hoặc ẩn hoặc hiện như Tiên không khác, đó là bực hạ thừa. Trò có chí muốn học bực nào tôi sẽ dạy cho chơn khuyết?
Tôn-Bất-Nhị thưa:
- Đệ tử muốn học thượng thừa Thiên-Tiên. Trùng-Dương cười rằng: - Như vậy thì trò chí đặng lớn. Tôn-Bất-Nhị thưa rằng:
- Tôi lòng chẳng đặng lớn mà chí rất kiên bền, dẫu thân nầy có chết, chí tôi không mất đặng. Trùng-Dương nghe qua biết người căn lớn, nói rằng:
- Phàm người ra tu học Đạo thì phải tìm chỗ sơn-xuyên linh khí, chọn chỗ địa lợi mà ở an. Nay ở xứ Đông-Độ, huyện Lạc-Dương linh khí đương thạnh chắc là có ra mấy vị Chơn Tiên. Như đến xứ đó tu chừng 12 năm, sẽ đặng thành đạo. Trò dám đi hay không? Tôn-Bất-Nhị thưa rằng:
- Đệ tử nguyện chịu đi. Trùng-Dương ngó Tôn-Bất-Nhị rồi lắc đầu nói: - Chắc đi không đặng! Tôn-Bất-Nhị thưa: - Đệ tử bỏ chết quên sống, không sợ việc sanh tử, sao mà đi không đặng? Tiên-sanh nói: - Chết có ích thì nên chết, lợi người lợi vật cũng đáng, bằng chết không ích thì uổng cho tánh mạng.
Từ đây đến Lạc-Dương xa hơn ngàn dặm, trên đường nhiều người phong-lưu lãng-tử, đứa hung chẳng ít, bằng nó thấy trò hình dung còn niên thiếu, sợ nó động tâm.
Việc nhỏ thì cuồng ngôn ghẹo chọc, việc lớn thì hãm hiếp thất thân. Trò là người trinh liệt, nào chịu để cho nó làm nhơ, thà chết mà trọn tiết, trò muốn cầu trường sanh lại trở bị táng mạng, nên tôi chắc đi không đặng!
Tôn-Bất-Nhị nghe thầy nói, thầm nghĩ hồi lâu cũng chẳng chối từ, liền ra mao-am xông vào nhà bếp, biểu mấy người nấu ăn đi ra, rồi bà nhen lửa bắt chảo lấy dầu đổ vô chụm sôi, tay bưng chén nước đổ vào, dầu sôi gặp nước phừng lên, liền úp mặt vào bị dầu phỏng hết.
Tôn-Bất-Nhị cam chịu đau khổ, vì mình muốn đổi sắc cho xấu, chớ hề than thở. Liền ra thưa thầy rằng: - Đệ tử nay đi đặng không? Trùng-Dương thấy vậy vỗ tay cười rằng: - Lành thay! Lành thay! Trong thế gian nào ai có chí lớn như vầy; thiệt không uổng công ta đến đây mấy phen.
Ông nói rồi đem việc âm dương diệu lý, tạo-hóa huyền-cơ công phu, luyện âm thành dương, siêu phàm nhập thánh, truyền hết cho Tôn-Bất-Nhị. Ông truyền rồi nói rằng:
- Người tu Đại-Đạo phải giả như kẻ chẳng biết chẳng hay, cũng như người phong điên, mới trốn đặng con mắt thiên hạ, khiến người không biết mình công phu tu hành có Đạo.
Đến chừng đạt công thành rồi mới khá hiện thân thuyết pháp. Trò đợi trên mặt lành rồi, mau qua Lạc-Dương mà tu, cũng đừng lạy từ ta, đợi trò công viên quả mãn lên hội Bàn-Đào sẽ gặp. Ông liền ngồi tịnh nữa.
Tôn-Bất-Nhị lạy thầy tạ ơn, mau ra khỏi mao-am, gặp mấy người tớ gái thấy mặt bà phỏng hết, đều hỏi duyên cớ sao vậy? Bà đáp rằng:
- Muốn chiên bánh cho thầy ăn, sợ tay bây chẳng sạch, nên biểu bây ra ngoài chơi cho tao chiên, rủi tay nước đổ nhằm dầu, phừng vô mặt tránh không kịp nên phỏng như vậy. Cũng tại cái tai nạn của tao, không hề chi, thôi bây đi làm công chuyện.
Bà nói rồi liền vô phòng đóng cửa. Xét tưởng việc công phu của thầy truyền, làm theo khẩu khuyết, thiệt chỗ huyền diệu. Cách hai bữa sau, Mã-Đơn-Dương về, mấy đứa tớ đem việc dầu sôi phỏng mặt bà nói cho ông hay.
Đơn-Dương nghe nói than thở, rồi thẳng trước mao-am thưa cho thầy hay. Chẳng ngờ Trùng-Dương tiên-sanh hay trước. Đơn-Dương lật đật vào phòng bà, thấy mặt phỏng hỏi rằng:
- Tại sao bà làm mặt như thế? Đạo hữu sao không coi chừng để dầu phỏng như vậy? Nói chưa dứt lời, Tôn-Bất-Nhị trợn mắt ngó ông Đơn-Dương cười hoài không nghỉ, chạy lại nắm tay ông nói rằng: - Mầy phải đồng nhi của Tây-Vương-Mẫu không? Tao với mầy đi lên Thiên Cung! Mau mau! Nói rồi nhảy lên ghế giữa, tay bơi chơn nhảy hụt chơn té xuống, rên la chẳng xiết.
Mã-Đơn-Dương lật đật đỡ dậy nửa cười nửa khóc, phần thấy hình dung của bà như vậy trong lòng rất thương xót, chạy qua am thầy thưa rằng: - Tôn-đạo hữu tưởng thành Tiên đặng, nay phát bịnh phong điên rồi! Tiên-sanh nói: - Chẳng phong điên, chẳng thành Tiên.
Đơn-Dương muốn hỏi nữa, thấy thầy ngồi tịnh làm thinh, nên không dám hỏi. Liền trở ra trước nhà, buồn bực chẳng an. Tôn-Bất-Nhị lại thấy Đơn-Dương sao còn ở đó nên là một hồi, cứ kêu: - Phong điên! Phong điên!
Làm như vậy cho ông đi ra đặng bà thanh tịnh cho dễ, bà luyện cho đến tánh thể viên minh, thiệt hay vô cùng, trong lòng càng sáng-láng, mới biết là đạo chí huyền chí diệu. Bà lại lấy kiếng soi coi thấy mặt phỏng đã lành, chỗ đỏ chỗ đen, rất vui mừng khỏi lo ai chọc, chắc là giữ đặng thỉ chung.
Cách hơn một tháng bà cũng không tắm gội rửa ráy, tóc bỏ rối nùi, hình giống như ma, mặt mày tợ quỉ, nào ai mà biết bà là bà viên-ngoại! Chừng trong lòng vững vàng, chắc là chỗ Lạc Dương đặng tới. Rồi bà lại đem quần áo xé rách, buộc nhíu từ đùm, lấy lọ bôi trên mặt, la nói dữ-dằn, chạy ra trước cửa la lối om-sòm, kinh động mấy đầy tớ đều chạy ra ngoài.
Chúng nó thấy vậy muốn lại kéo bà, rồi bà tay đánh miệng cắn, có một đứa thương bà nắm hoài không buông, bà cắn trên mặt nó một miếng, thất kinh buông ra, bà chạy khỏi.
Bọn tớ thấy bà làm hung không dám theo nữa, chạy báo cho ông Đơn-Dương hay. Đơn-Dương lúc ấy đương ngồi công phu, xảy nghe ngoài kêu vang lật đật ra coi. Đứa tớ bảo rằng: - Bà nay trở bịnh phong điên nhiều quá, chạy ra ngoài rồi.
Đơn-Dương nghe nói sợ e có hại, liền sai gia nhơn chạy theo, ông cũng chạy theo, lại thấy Tôn-Bất-Nhị chạy thẳng ra xóm, mấy người trong xóm chạy ra nhìn không biết bà là ai, nên bà chạy khỏi một đỗi ngó lại thấy người ta chạy theo, chắc trốn không khỏi; thời may có đống cỏ khô, chun vào mà trốn.
Mã-Đơn-Dương cùng gia-nhơn theo hồi lâu không biết bà chạy ngõ nào nên đều trở lại. Tôn-Bất-Nhị dòm thấy mấy người đi xa, bà lén chun ra, rồi nhắm ngay hướng Đông mà đi.
Ban ngày kiếm xóm xin ăn, ban đêm kiếm chùa an nghỉ. Gặp chỗ vắng-vẻ không người, thì bà núp bóng cây nghỉ mát, có gặp ai hỏi thăm thì bà nói việc trên trời dưới đất, không nhằm chi hết; hoặc cười hoặc khóc, ai cũng tưởng là người phong điên, bỏ qua không hỏi, nhờ vậy mà đi đường đặng bình an, khỏi ai chọc ghẹo.
Bà thấy người nào tử-tế mới dám hỏi thăm đường đi. Cách hơn 2 tháng, tới huyện Lạc-Dương. Thật là: Một xuồng lá nhỏ du biển lớn, Muôn trượng sóng dồi chẳng sợ kinh.
|
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Re: Truyền Thuyết Truyện Cổ Tue 24 Aug 2010, 20:53 | |
| THẤT CHƠN NHƠN QUẢ
Tác giả: Huỳnh-Vinh-Lượng
Hồi 11
Nghĩa là: Mưa tuyết lớn, trên trời hộ pháp, Thi tính hay, chơn-nhơn chỉ đường mê. Có bài kệ rằng:
Sa đắm trầm-luân có mấy xe, Ái hà lộn lộn sóng không dè, Tu hành mới đặng lên cao bực, Nào đợi trong vòng mới kiếm nghe.
Nói về bà Tôn-Bất-Nhị ra khỏi nhà họ Mã rồi giả làm phong điên đi đặng 2 tháng tới huyện Lạc-Dương. Ngoài thành có cái lò gạch bể, bà ở tại đó, thường bữa vô thành xin ăn, làm như người phong điên, mỗi ngày mấy đứa nhỏ chạy theo chơi giỡn, kêu bà là “Phong-Bà” luôn luôn. Vì vậy mà người người đều biết, nói bà là gái điên, không ai dám phá, bà mới đặng an lòng luyện Đạo.
Thiệt y theo lời Trùng-Dương tiên-sanh nói: Đại-Đạo phải ẩn, giả làm phong điên mới đặng an tịnh. Khi đó trong thành Lạc-Dương có hai tên du-côn, không kể phải quấy chi hết tên là Trương-Tam và Lý-Tứ.
Thấy bà Tôn-Bất-Nhị ở trong chợ xin ăn, tuy là trên mặt xấu xa, chớ cũng là người yểu điệu, răng trắng môi son; nếu mặt không có mấy chỗ phỏng thiệt đáng khách má hồng chẳng kém. Hai đứa côn-đồ xem thấy nhớ hoài trong lòng.
Đêm đó, gió mát trăng thanh, đi đến xóm làng lường gạt của dân, ăn uống say sưa về ngang lò gạch, Trương-Tam nói với Lý-Tứ rằng:
- Bọn mình vô lò gạch cùng Phong-Bà làm cuộc vui chơi! Lý-Tứ nói: -Ta thường nghe người nói, ai mà phá Phong-Bà chơi điều quấy thì một đời làm ăn chẳng đặng. Trương-Tam nói: - Mình là người Trời Đất chẳng thân, Thánh Thần chẳng chịu, kể gì là thời vận khí số dài vắn? Nói rồi liền vô lò gạch. Lý-Tứ thấy vậy cũng đi theo. Hai đàng đi tới lò gạch còn chừng ít bước, liền thấy trên đầu có đám mây đen thinh không nổ một tiếng như núi lở đất sập trên đầu hai người. Trương-Tam và Lý-Tứ hồn phi phách tán sợ run.
Kế đó đám mây đen tan ra trời đất tối tăm mù mịt, ngửa tay chẳng thấy, dông gió ầm ầm, hai người lạnh thấu ruột gan. Còn trên đầu nổ như trống đánh nhức nhối cùng mình. Lý-Tứ lấy tay che trên đầu bị hạt mưa rớt sưng tay, mới biết là chẳng phải mưa. Lúc ấy không phương chạy trốn.
Lý-Tứ mới la lớn lên một tiếng: - Quả báo thiệt! Quả báo thiệt! Tôi biểu đừng đi không nghe lời, rõ ràng không sai!
Trương-Tam nghe Lý-Tứ trách, trong lòng nổi giận rồi xây xẩm chóng mặt, như có người xô, té hơn mấy lần lổ đầu xưng mặt, máu chảy dầm dề, rồi la và kêu Trời nói: Tôi không dám nữa. Một hồi lâu, mưa dứt mây tan, y nhiên trăng sáng. Lý-Tứ tuy bị mưa lớn mà không sao, còn Trương-Tam bị té mấy lần lổ đầu, xưng mặt rồi nói:
- Chẳng nên! Chẳng khá phạm Phong-Bà! Mới tính trong lòng mà bị như vầy, thiệt là linh quá! Lý-Tứ nói: - Vậy mới biết linh sao? Từ đây đến sau đừng có phạm nữa. Trương-Tam nói: - Tới chết tôi cũng không dám phạm bà nầy! Lý-Tứ nói: - Dầu ai cũng không nên phạm, chẳng luận Phong Bà mà thôi.
Hai người về tới nhà, Lý-Tứ mới đem việc thuật cho mấy đứa côn-đồ khác nghe, truyền hơn hai trăm người, bọn ấy nghe đều kinh hãi. Nhơn vì đó mà về sau mấy đứa côn-đồ không dám đến lò gạch nữa. Nên bà ở tại Lạc-Dương được 12 năm tham thiền luyện Đạo, không ai dám làm quấy, cũng nhờ Lý-Tứ và Trương-Tam truyền ra.
Trương-Tam và Lý-Tứ về nhà tự hối ăn năn, biết mình đã lầm rồi, làm sao mà chuộc tội? Đêm rằm tháng giêng nọ, hai người nguyện cải lỗi, liền ra lò gạch lạy bà, chịu hối xin theo học làm lành. Bà thấy hai người vạm-vỡ không phương chạy trốn. Lý-Tứ thấy bà sợ bèn kêu rằng:
- Thưa bà, tôi là người muốn tìm học chuyện lành, xin bà an tâm. Chừng ấy Tôn-Bất-Nhị trong lòng mới tỉnh, hỏi rằng: - Hai anh ở đâu đến đây? Lý-Tứ nói:
- Xin bà dung thứ, anh em tôi hôm trước tính điều chẳng phải, nên bị Trời phạt, mưa lớn trợt té lổ đầu, cả mình đau nhức. Vì ý niệm sai một chút mà báo ứng chẳng lầm; thiệt là Trời cao có mắt, nhà tối có Thần. Đến nay, biết ăn-năn tu tỉnh, xin bà thứ tội.
Tôn-Bất-Nhị nghe nói không rõ nguyên cớ, hỏi rằng: - Hai anh có làm điều chi quấy với tôi mà xin tội? Hai người mới thuật chuyện ấy cho bà nghe v.v... Phân vừa dứt lời thì Tôn-Bất-Nhị mới rõ, rồi bà cũng ngồi mặc niệm giây phút nói rằng:
- Hai anh phân nãy giờ biết là có chỗ sai, hai anh lại đây xin lỗi tôi, ăn-năn muốn học điều lành, thì phải trước sau cho trọn, mới chuộc tội ấy đặng. Lý-Tứ đứng dậy thưa rằng: - Bà dạy trước sau cho trọn, là nghĩa làm sao? Tôn-Bất-Nhị nói:
- Trước là biết lỗi phải cải, từ việc lớn chí nhỏ, chuyện phải thì làm, chuyện quấy thì trừ, lời hư chẳng nói, ý quấy chẳng sanh, và phải trường-trai giới sát. Bà nói tới đó, Lý-Tứ hỏi rằng: - Thưa bà trường-trai giới sát nghĩa lý tôi chưa thấu, xin bà chỉ dạy. Bà nói:
- Hai người hãy nghe cho kỹ: Trường-trai là ăn chay. Nhơn cái chay là một vật thanh khí, sách có nói: “Thượng phù giả vi thiên, khí chi khinh thanh. Hạ ngưng giả vi địa, khí chi trọng trược”, nghĩa là: Khí nhẹ nổi bay lên trên làm trời; khí nặng trược chìm xuống thành đất.
Cho nên ăn chay là lấy lòng nhơn của Trời, dung dưỡng thảo mộc là vật thanh khí, đặng dằn sửa cái tánh phàm, vì tánh phàm hay sân-si tật-đố, danh-lợi, dâm-dục, vọng các điều quấy, là nhơn thọ khí bẩm chất trược của cha mẹ, nên không đặng minh mẫn.
Đến nay hai người gặp kỳ đại hội, các đạo hoằng khai; cũng vì có sự quấy trước mà thức tỉnh hồi đầu, đó là cũng như chay cái lòng, cải điều quấy trước. Nên hễ người ăn chay, trong chay thì ngoài cũng chay: gọi là trường-trai.
Còn giới sát là: chẳng dám hại con vật. Nên có câu: “Nhơn vật giữ đồng”, nghĩa là người vật đồng nhau, cũng biết ham sống sợ chết, mừng giận thương yêu không khác. Vì mình ngày trước biết làm điều phải, may mới trở đặng nên người linh hơn muôn vật, mà nỡ nào ỷ mạnh hiếp yếu, ép lẫn ăn nhau để nuôi đây mà giết đó. Có câu: “Kiến kỳ sanh bất nhẫn kiến kỳ tử, văn kỳ thinh bất nhẫn thực kỳ nhục.
Cố quân viện ư bào trù”. Nghĩa là: “Thấy nó sống chẳng đành giết chết, nghe tiếng kêu chẳng đành ăn thịt. Cho nên người quân tử chẳng khá đem các giống thịt vào bếp mà nấu”. Đó là người tu lấy lòng trắc ẩn như vậy. Nhưng mà việc giới sát ấy cũng chưa trọn, đó là giới sát bề ngoài mà thôi.
Còn cái tâm phàm thường hay lừng lẫy tính việc hơn thua; hoặc tham lam trộm cướp, ỷ chúng hiếp cô; hoặc lòn thưng tráo đấu, dâm-dục ép lành. Nói cho hết cái tâm phàm thì không phương xiết kể. Nên người tu phải sát cái tâm-phàm trước thì các việc mới đặng trọn bác-ái. Vậy kêu là: giới sát. Chớ không phải ăn chay cữ sát sanh là đủ.
Cữ sát loài vật mà tâm mình không cữ thì có chỗ nào là tu? Hoặc ăn chay mà lòng muốn vợ chồng, ân ái, mưu thâm ý độc, sang đoạt của người, lấy vợ con người, ý muốn lòng tham; hoặc mắt dòm miệng chọc, các việc đều vọng chuyện quấy, thì mình phải sát nó cho chết.
Phàm-tâm tiêu rồi thì đạo-tâm mới sanh đặng, lẽ sâu kín của đạo mới thấy đặng. Chớ không phải nói người có đạo là đủ. Bởi cái Tâm là nịnh thần, kêu là “Đòn xóc hai đầu”, nay tính phải, mai tính quấy.
Làm Phật làm Tiên cũng tại nó; làm người làm thú cũng tại nó; vua tôi xa nhau cũng tại nó; cha con, anh em, vợ chồng rời rã, bậu bạn chẳng thiệt cũng tại nó. Vì nó mà làm chìm đắm linh hồn của người. Nay hai người biết tu hành thì lập bản dạng cho đạo, ông bà đặng tiếng ngợi khen, hai người cũng danh thơm tại thế. Như muốn tinh tấn thì phải nghe lời ta dặn lần nữa.
Điều thứ nhứt: Trước ăn chay phải nhớ hồng nguyện mà giữ qui-củ làm theo, trên dạy phải vưng. Thường ngày quì hương, tụng kinh, phàm-tâm thâu buộc; xét lời đạo-đức, sửa lỗi ngày xưa, thầm nghĩ một mình mà sợ trong nhà kín có Thần, người không thấy chớ Thánh Thần soi thấu thì tự nhiên tội hết tai tiêu.
Điều thứ nhì: Hoặc có khi thầy thấy việc quấy, rầy la nói hiếp, cũng không nên đối đáp trả lời; hoặc ông bà cha mẹ nói điều chi không vừa, chẳng nên trái ý. Ai ai cũng đồng chẳng nên khinh dễ nặng lời; dầu lỡ nói phạm, thì cải hối ăn-năn. Đừng làm cho cha mẹ buồn rầu mà tổn khuyết công tu luyện.
Điều thứ ba: Hoặc anh em, chị em có khi trái phải gây việc hơn thua, thì đêm hôm tăm tối sửa dạy cùng nhau, em quấy chị rầy, chị hư em gián, tuân theo điều luật lấy lễ nghĩa mà phân, không nên tranh đấu om-sòm mất chỗ bản dạng, người ngoài dòm ngó mà thối chí không tu, người trong đạo buồn lòng ngã theo Tài Sắc, khiến kẻ sau không dám nương theo.
Như vậy thì tại mình làm hạnh xấu mà ngăn lấp mối lành, tội ấy phải bị đọa địa ngục. Điều thứ tư: Hễ các người trong đạo ta phải làm theo lời ta, trên thì dạy dưới.
Như việc ăn mặc, tùy duyên an phận, quần vải áo bô, che ấm qua ngày mà nương theo thời-thế, chớ không nên nhởn-nha đua sánh mà lãng phí của trời. Kẻ trước sai một phân thì người sau sai một tấc mà hư mối đạo của ta. Ta không lẽ khoe mình, nhắc đến việc của ta thì không phương phân xiết.
Hai người nghe bà nói liền đứng dậy thưa rằng: - Thưa bà có việc chi xin bà cho chúng tôi biết?
Tôn-Bất-Nhị thấy hai người hỏi hoài, nên bà thuật đầu đuôi việc của bà cho hai người nghe v.v... Hai người nghe bà nói các việc tâm phúc cả hai đều sa nước mắt, liền lạy tạ ơn.
Rồi bà biểu hai người đứng dậy nói rằng: Nầy Lý-Tứ và Trương-Tam, vì ta biết hai người có lòng lo tu, chắc là muốn nối giềng mối của ta phải chăng? Hai người nói:
- Thưa bà phải, anh em tôi muốn giữ giềng mối cho bà và lập bản dạng cho anh em tôi đặng ngày sau khỏi tái sanh đường ái dục. Tôn-Bất-Nhị nói:
- Vì ta biết sức ta tuy tuổi nhỏ, mà chắc sống không đặng mấy năm. Vậy các người y lời ta dặn dò ở chỗ nầy: Anh em rán tu cho trọn thỉ trọn chung, ngày sau tu lâu có đức cảm đặng lòng người.
Như cô khôn đạo phát tâm, ta còn mạnh thì ta coi, chẳng may ta mãn rồi thì anh em chị em cứ lấy qui-củ mà sửa mình. Nam nữ phải tỵ hiềm riêng, trai gái giữ lòng, đừng để phóng tâm. Một chút ham vui mà đọa lạc nhơ danh ngàn thuở.
Thôi công việc ta phân sớm giờ, hai người phải ghi tâm tạc dạ, dẫu mà còn một tấm tranh cũng ở đây đến chết mà thôi. Hoặc anh em có cay đắng thế nào, cũng nhẫn với nhau mà ở, đừng có phân tâm chấp trách, kẻ Bắc người Nam thì bỏ lòng ta mà mang chữ bất trung bất hiếu.
Hai người nghe bà phân dứt lời liền như chiêm bao mới tỉnh, nói thầm trong lòng rằng: - Theo như mấy lời bà phân đây thì nghĩ mình tự nhỏ đến lớn, tội lỗi biết chỗ đâu mà chất cho hết. Liền đứng dậy lạy bà, xin bà lập thế bày cho anh em tôi làm ăn mà tu qua buổi sống. Tôn-Bất-Nhị nghe phân như vậy, biết họ thiệt tự hối thế nào cũng ở chỗ nầy, bèn nói:
- Như hai người biết ăn-năn sửa mình thì phải chịu cực mới đặng. Bây giờ phải vô rừng cắt tranh cất một cái chòi, đặng có chỗ ở riêng, chuyên nghề cắt bàng đổi gạo sống qua ngày, hai người chịu không? Hai người đứng dậy thưa rằng:
- Anh em tôi vưng lời bà. Hai người nói rồi vào rừng cắt tranh và lợp một cái chòi rồi cũng chuyên nghề ấy làm ăn, đặng hơn một năm có hơi tấn phát. Ban ngày cắt bàng đổi gạo, tối về sám hối quì hương.
Bữa nọ trở về chỗ cũ, gặp anh em hồi trước biện nói công việc ấy cho anh em nghe, thì mấy người bạn cũ tiền căn có sẵn, chịu theo 50 người, còn mấy mươi không chịu. Chừng ấy Lý-Tứ dắt về chòi tranh, ở hơn mười ngày, tương dưa khổ hạnh mà mấy người đều vui như hồi còn rượu thịt.
Qua bữa sau, Lý-Tứ dắt mấy người vào lò gạch thưa cho bà hay. Tôn-Bất-Nhị hỏi: - Mấy người ở đâu? Lý-Tứ đứng dậy thưa rằng: - Thưa bà, mấy người hồi trước đón đường ăn cướp với tôi một chỗ. Đến chừng tôi đi thì mấy người không hay là đi đâu.
Cách hơn mười ngày nay, tôi có trở về gặp mấy ảnh thuật chuyện đạo-đức, luân-hồi quả báo, tội phước cho mấy anh nghe, biểu mấy ảnh cải dữ theo lành, thời may Trời Đất xui khiến 50 người đều ưng chịu ăn chay, xin tôi dẫn về đây thưa bà hay, xin bà thâu dạy. Tôn-Bất-Nhị nghe Lý-Tứ nói mấy người đặng tự tỉnh, nói rằng:
- Lành thay! Lành thay! Biển lớn không bờ, trở đầu tới mé. Vậy mấy người rán giữ lòng ăn chay, còn chuyện đạo ngày sau bàn tới. Lý-Tứ nghe bà nói, trong lòng nghĩ rằng:
- Vì thầy là đàn bà, tới lui thường cũng ngại, nay đã sẵn có mấy người mới vô ăn chay mà chưa nghe được việc đạo, sợ e lâu ngày nản lòng mà ngã, hoặc nghỉ ăn chay, hoặc ra có vợ, thì cũng uổng.
Để gắng xin bà giảng ít điều cho mấy người nghe, liền thưa rằng: Thưa bà từ-bi miễn chấp, vì tôi cùng mấy anh mới ăn chay chưa thấu việc đạo, xin bà dạy ít điều đặng anh em tôi noi dấu. Bà hỏi: - Ngươi muốn hỏi điều chi? Lý-Tứ thưa:
- Tôi thấy cũng ngán, chẳng hay từ xưa đến nay tại duyên cớ chi mà người tu trong đại-đạo, có người ăn chay đã lâu năm mà cũng ngã? Xin bà chỉ dạy.
Đáp rằng: Người ăn chay lâu năm mà ngã cũng có duyên cớ mật nhiệm, ngươi khá hiểu mà giữ mình.
Bởi người ăn chay thì ý nhứt quyết thoát đường ái dục, cho khỏi kết oan-trái ngày sau đặng tìm ngõ Thiên-Đường mà thoát tam-đồ khổ là: trấn nước, đốt lửa, chặt bằm. Các việc ấy đã biết rồi, nhưng mà do nơi đây. Vì nhơn duyên tiền kiếp sát hại oan oan tương báo, hồn oan còn chờ nơi âm-phủ đặng trả hờn ngày xưa.
Đến nay may gặp Tam-Kỳ khai hội biết thức tỉnh hồi đầu, nguyện trường-trai giới sát, thì có thiên-thần hộ-pháp đều hay, tâu lên Thiên-Đình, nói tên ấy ăn-năn cải hối.
Còn người nhập môn thì sớ dưng lên. Nên Ngọc-Đế chấp chưởng cho sắc U-Minh hay. U-Minh Giáo-Chủ tiếp đặng sắc của Ngọc-Đế, liền kêu phán-quan giở bộ coi mấy tên đó có hay không.
Phán-quan coi thấy rõ ràng, bèn gạt sổ bỏ tên. U-Minh Giáo-Chủ phất ba-tiêu kêu các oan hồn tựu đến rằng: Tên Xoài từ khi chuyển biến nhiều kiếp, sát hại các ngươi, có kẻ tới số, người chưa tới số oan ức rất nhiều.
Đến nay ta đặng sắc Ngọc-Đế nói tên ấy đầu nhập Phật-môn, nên ta cho các ngươi hay. Nó ở thế gian nguyện trường-trai giới sát, theo về dân Phật, vậy các người ai còn oan ức, kết cừu với nó thì ta cho đi, chớ từ nay đến sau nó không còn trở lại đây nữa. Như ai muốn rửa hờn thì đi, bằng không đi ngày khác trả không đặng chẳng nên trách ta dung dị.
Các oan hồn nghe U-Minh Giáo-Chủ phân đều đứng dậy thưa rằng: Vậy Ngài cho anh em tôi lên trả oán cách nào? U-Minh Giáo-Chủ nói: Ta cho phép tự do, muốn trả thế nào tự ý. Ngày trước nó làm nhiều việc oan ức mà các người không thế chống đương thì bây giờ trả cho vừa ý. Chớ ta không dung ép hai đàng, nếu như dung kẻ nầy chế kẻ kia thì mất chỗ công bình của ta hay sao? Các oan hồn chịu đi hết. U-Minh Giáo-Chủ nói rằng: Các ngươi nghe ta dặn: mỗi người phải lãnh một tờ nầy, giữ cho kỹ chẳng khá để mất.
Rồi trở lên thế gian khảo nó chừng nào nó ngã thì hai đàng ngày khác làm sao tự ý. Bằng như khảo không đặng đến ngày nó xuất Tánh về Trời thì các ngươi trở lại trả tờ cho ta, ta cho qua Đông Nhạc đầu thai hết thảy.
Đó rồi các oan hồn lãnh tờ cả thảy đều đi lên thế gian, nhập khiến người ăn chay tung hoành sửa tánh, khiến cho kẻ ăn mặn, người thì muốn sắc; hoặc tham danh lợi, hỉ nộ sân si, hoặc khi dể ông bà cha mẹ, cô bác, chị em;
ỷ chúng hiếp cô, ép người lấy của; hoặc khiến tham điều ân-ái phá vợ con người; hoặc ý niệm âm thầm, tuy không lộ ra, mà tình ý đã niệm trước; hoặc khiến trai thì rượu trà hút xách, kẻ ép người khuyên, say sưa nhiều lẽ. Chừng ấy khi đã say rồi thì mặn lạt nào hay, kể chi là mặn chay...
xấu hổ. Lại khiến gái thì son điểm phấn dồi, quần nầy áo nọ, kẻ thì sửa dạng thuyền-quyên; người lại soi gương đánh phấn. Xấu lại làm cho đẹp, thiếu ăn lại thể người giàu.
Vì vậy mà lâu ngày phàm-tâm xui dẫn mới bỏ ăn chay. Nên người tu phải cho tỉnh, phàm việc chi trái lý đạo, tức là oan ma khiến dắt làm cho mình buồn giận, trách phiền mà bỏ đạo, ấy cũng tại nó muốn trả hờn ngày trước, vậy mà có ai biết chăng? Lý-Tứ nghe bà phân dứt, thấu đặng, thưa rằng:
- Các việc anh em tôi vưng nghe, cầu bà từ-bi cho tôi hỏi thêm đặng học. Chẳng hay có người biết chỗ tu hành tuyệt dục là đứng ban đầu, quí hơn muôn việc.
Cũng có nghe: Trai tiên không vợ, gái ngọc không chồng, sánh đặng bực Tiên Thánh thì phải rồi. Vì sao giữ đặng mấy năm cũng ngã?
Bà đáp: Nhơn việc nầy thiệt khó tỏ hết đặng. Vì cái Đạo là chí quí chí trọng sanh Trời sanh Đất, sanh người sanh thú, thảo mộc các loài.
Bởi ai cũng biết chỗ ái tình dâm-dục là một việc tồi bại, hổ thẹn với đời, mà sao người người đều muốn vào chỗ đó? Nhơn nguyên-căn của dâm-dục đã lâu, từ ông bà mà truyền sanh cha mẹ, cha mẹ mà gieo xuống đến mình, giống trước thì phải gây ra giống trước.
Tỷ như cây đắng thì sanh trái đắng, có chi lạ. Đến nay mình đặng gặp kỳ hạ-nguơn mở hội tiếp dẫn nguyên-nhân, may mà biết thức tỉnh hồi đầu, cùng nghe việc luân hồi quả báo, các việc chơn giả mới đổi tánh ăn-năn.
Dám đến trước Phật tiền lập hồng thệ đại nguyện, trường-trai giới sát, lãnh qui giới tinh nghiêm tự thỉ chí chung chẳng dám đổi lòng.
Từ đó đến sau thì ông bà ở suối vàng có chỗ an nghỉ, hoặc được siêu thăng Thiên-Đường, như vậy cũng là một việc quí báu cho người tu. Bằng như ngày sau khai trai phá giới thì chịu thân nầy vĩnh đọa địa ngục.
Bởi chẳng qua tình ý niệm sai, tánh càng ngày càng đổi, bỏ công phu quì hương, lo điều tài sắc, đạo-đức không ham. Do đó mà lần lần dời tánh: hoặc trai lụy chỗ sắc, gái lụy chỗ tài, hễ trai thấy gái phải lòng thì liếc trừng trêu giỡn, bày chuyện nguyệt hoa.
Còn gái thấy trai vừa ý thì sửa dạng sửa hình, qua lại đẩy đưa, không giữ nết na trau mình, đạo tâm chẳng cố. Đến chừng phóng ý ra rồi không ai can dứt cho đặng.
Chừng ấy Thánh Thần chẳng hộ, thiên hạ đều chê, dưới chín suối cửu-huyền thất tổ trở lại địa ngục mà chịu khổ như xưa. Than ôi! Nhơn việc ấy mà từ xưa đến nay, hư trong đạo biết bao! Thẹn cho người lành biết mấy!
Ta lại thấy nhiều người thân ở trong đạo mà lòng ra ngoài đời, bỏ chỗ công mà lo chỗ tư, làm cho mối đạo bại hoại, mất chỗ bản dạng biết mấy! Hoặc làm việc tư lý mà dẫn dụ kẻ sau, như vậy thì tội lỗi nào xiết kể! Ấy cũng tại người làm đầu mà hư hỏng trong bản dạng, không tỉnh lấy mình.
Lại nói: Ai làm quấy có phần, chớ theo phép có câu: “Tội hữu sở khuy, tội qui vu trưởng”, nghĩa là: Người lớn trong đạo không giữ mình, làm điều chẳng phải cho người nhỏ noi gương theo, thì tội đổ về người lớn.
Vì lớn chẳng chánh, chẳng thể đường ngay, không giữ qui trình của Phật, lại làm gương xấu cho kẻ hậu học hư luôn. Như vậy mà nói độ người, độ mình, thay mặt cho Trời, thế lời cho Phật, chẳng phải thẹn với vô hình lắm sao?
Nên người tu hành nguyện vào cửa Phật thì cũng như gởi thân cho Phật, sống thác tự Trời. Dẫu ngàn cay muôn đắng, khảo trở thế nào cũng cam, lại còn sợ có tội ngày trước, thì càng vui lắm vậy! Tỷ như mình có bịnh mà rán uống thuốc đắng mới hết bịnh.
Vì vậy người tu phải hay chịu nhịn, chịu ép các việc nặng nề, oan ức, mà lập chí cho kẻ sau bắt chước thì mới đáng người thay mặt cho Phật. Chớ như nói tu mà làm gương xấu thì lẽ nào trốn cho khỏi luật Thiên-Tào. Hiện nay trái ý thầy nghịch ý người, còn dưới u-minh thì ông bà thẹn thầm nơi chín suối làm sao gọi là người tu?
Cũng có người nói: Như lớn không làm quấy, mà nhỏ có ngã đó rồi người lớn cũng tội hay sao? Không, nghĩa là buộc người lớn cho chánh, đặng làm bản dạng, còn kẻ nhỏ nó làm quấy thì nó chịu, ai có tội nấy bị hành, không ai chịu thế đặng.
Còn mấy lời ta nói đây, như người xuất gia phải hết lòng trung với đạo. Chí tử bất biến, thủ tử thiện đạo. Nghĩa là khảo chết chẳng đổi lòng, đạo lành không xao lãng. Người tại gia cũng vậy, lúc chưa tu thì vợ chồng, còn buổi vào cửa Phật, thì lòng ai nấy giữ, đạo ai nấy lo, thế nào cũng thành đặng. Tôn-Bất-Nhị phân dứt rồi khen rằng:
- Lành thay! Lành thay! Lý-Tứ là người tiên căn đạo cốt, nên biết chỗ hỏi mà để mấy lời thức tỉnh cho hậu học giữ mình, chắc từ đây đến sau mối đạo vững đặng.
Chư hiền coi thấy chỗ nầy khá quyết thoát luân-hồi, việc trường-trai giới sát thế nào cũng rán giữ cho trọn thỉ trọn chung thì mới không phụ công ơn của Lý-Tứ biết hỏi. Có câu rằng: “Đắc ngôn nhứt ngữ, thắng thiên kim”. Nghĩa là: Đặng một lời nói hay thức tỉnh cho đời, tuy đặng ngàn vàng chớ khó mua lời quí báu.
Bà giảng hết mấy điều liền kêu mấy người hỏi rằng: - Vậy các người nghe qua mấy lời của Lý-Tứ hỏi đó có thức tỉnh hay chăng? Mấy người thưa rằng:
- Anh em tôi nghe các lời của sư huynh nên biết ăn-năn cải-hối theo về đến đây. Nay Trời khiến nên đặng nghe mấy lời bà diễn giải quí hơn vàng ngọc, anh em tôi đồng nguyện sống thác một lòng xin bà thâu dạy.
Tôn-Bất-Nhị thấy mấy người đồng tâm, liền sai Lý-Tứ lên chợ mua ít lễ mọn, còn bà ở nhà lo việc sớ sách, qua ngày sau thiết lập trai-đàn tại lò gạch, cầu đạo cho mỗi người, truyền ban khẩu quyết rồi giao công việc cho Lý-Tứ dẫn về chòi tranh, anh em cũng đồng tâm mua đổi, độ nhựt qua ngày, tuy lao lực tương rau chớ đạo ai nấy giữ. Bữa nọ có một người vạm vỡ hỏi bà rằng:
- Như tôi ăn chay thì cũng đặng; nghề nào cũng là nghề làm ăn, xin bà cho tôi trở ra theo nghề cũ, thế có đặng chăng? Tôn-Bất-Nhị nghe nói biết tên ấy chưa thấu cơ đạo mà còn háo thắng bèn nói rằng:
- Người nói như vậy, thôi để ta hỏi ngươi: Vả chăng ngươi là một người anh hùng, ai ai cũng kiêng sợ. Tỷ như ngươi ở trên núi, nghe có cọp dữ trong rừng, không ai dám đánh thì ngươi làm sao?
Người ấy tánh hay háo thắng lên tay nói rằng: - Thưa bà, tôi nghe thì liền lấy dao đến trừ loài độc, chớ để nó làm chi mà hại thiên hạ. Bà nói: - Như vậy cũng phải rồi! Còn như ngươi nghe có một vị Phật trong hang rồi ngươi làm sao? Thưa rằng: Hễ tôi nghe có Phật, thì tôi mau mau sắm lễ đi thỉnh đem về thờ.
Bà cười nói: Như vậy thì ngươi cũng không nên làm nghề cũ nữa! Hỏi rằng: Tại sao không nên làm? Bà đáp: Ngươi đã biết cọp dữ mau mau đem dao trừ giết chẳng muốn để nó sống làm hại người ta.
Còn ngươi muốn trở làm nghề cũ đi trộm cướp lấy của người ta. Như vậy thì có ai dung tha ngươi đâu? Còn như ngươi nghe có Phật trong hang, ngươi mau sắm lễ thỉnh về thờ. Vậy thì ngươi hãy thể như ông Phật là tốt hơn! Người ấy nghe mấy lời dường như say mới tỉnh, lạy mà chịu lỗi, tự hối ăn-năn, nói:
- Tôi từ đây sắp sau lo tu bĩ theo việc đạo đức, không dám vọng lòng quấy nữa. Kế đó có một người tuy hung mà tánh tình chơn chất, có nhiều chứng bịnh ngầm, y sợ tu không đặng nên thưa thiệt cùng bà rằng:
- Thưa bà, vì con cũng có lòng muốn tu hành, mà sao có tánh hay xao lãng, xin cầu bà chỉ dạy. Tôn-Bất-Nhị hỏi: Vậy chớ trò có tánh xao lãng mà xao lãng việc chi? Nói cho ta biết ta sẽ chỉ dạy.
Thưa rằng: Thứ nhứt, ý con hay niệm tưởng các điều quấy chẳng sót việc nào mà không niệm. Có lúc ghét thầy, khi đạo, muốn việc ái-ân; hoặc thấy ai bóng sắc ý còn tư-tưởng; hoặc khiến tham lam tiền bạc. Cũng có khi không muốn quì hương công phu, hoặc tranh việc hơn thua, ai chê chẳng chịu.
Có khi cha mẹ nói chẳng vừa ý, muốn sân si, ai can chẳng kể, hoặc có khi muốn trở về trần. Hoặc có việc oan-ức, ý không dằn đặng muốn làm sao trả hờn mà thôi. Vậy cầu bà có thế chi cứu giùm tôi, tôi đội ơn bà ngàn thuở. Tôn-Bất-Nhị cười rằng:
- Việc ấy tại ngươi, mà thành bại siêu đọa cũng tại ngươi! Vậy ngươi nghe ta nói: Các bịnh của con người, vì ban sơ cũng muốn tu cho thành đạo, chẳng mến cuộc trần.
Lần lần lâu ngày ở trong chùa không đặng thong thả, hoặc ăn mặc thua người, tiền bạc có ít không đủ trang điểm tiêu xài, hoặc có việc hơn thua với người, không đặng tranh đua phải quấy. Rồi từ đó mới sanh nhiều tạp niệm. Trai thì sanh điếm đàng cờ bạc, gái thì trang điểm phấn son, hễ các việc nhiễm rồi thì không phương thoát khỏi.
Nay ngươi biết tỉnh ăn-năn sớm như vầy cũng là có chí lớn. Vậy ngươi muốn trừ bịnh ấy, thì làm như vầy: Trước mình phải hỏi lòng mình: “Ta đã muốn tu mà trả ơn cửu-huyền, tránh đường luân chuyển; ngày trước ta không đủ trí, khờ dại, nhiễm theo điều quấy vì trong chỗ ái-ân mà chịu khổ muôn kiếp đời đời, không phương nhắc kể!
Đến nay ta muốn lánh các điều khổ, thì mầy theo ý tao mới phải, sao mầy lại xúi giục tao vào chỗ quấy thì tao đâu chịu việc thẹn nhơ, dầu mầy ép thế nào tao cũng nguyện: Sống thì tu, thác thì về, các việc ấy tao không hề nhiễm đến”. Rồi đó ngươi tự lấy ý mà cự; hoặc muốn sắc thì cự sắc.
Suy nghĩ như vầy: Việc ấy chẳng qua là đường thầm nẻo tối, dơ không xiết kể, sống thì tốt tươi, chết không ai dám cận! Có chỗ nào mà vui tưởng việc sắc đặng? Hoặc muốn tài thì lấy tài mà cự.
Tỷ rằng: Vì ngươi mà ta phải anh em xa biệt, máu thịt rã rời, vì ngươi mà khiến giục cho ta phải dầm sương phản mại, đêm tính ngày lo. Đến nay ta đặng tỉnh rồi, thì ta coi ngươi là một đứa bạc-bẽo vô tình biết mấy! Nay ở người nầy, mai sang người khác, vậy ta cũng chẳng hề tùng theo ngươi đâu.
Việc nào muốn nhiễm vào lòng ngươi, ngươi biết việc ấy là hại mà cự không lại, thì vô bàn Phật cầu nguyện; hoặc nhịn đói mà trừ việc ấy; hoặc quì hương phạt mình, đặng việc nào cự đặng thì ép, miễn cho mình làm chủ thì thôi. ít lâu như vậy thấu cảm không trung, cho âm-thần bảo hộ.
Còn các oan trái biết mình minh chánh, chí đáng trượng phu nó trở lại hộ mình, thì tự nhiên các bịnh ấy đều dứt hết. Kêu là: “Trì kỳ chí, vô bạo kỳ khí”. Nghĩa là: Ta sợ giữ không đặng cái chí của ta, chớ như ta làm chủ cho ta, thì khó ai lấn đặng. Chớ cái khí là việc giận hờn cũng có thể ép đặng.
Tên ấy còn tham tài, nghe dứt liền hỏi: Thưa bà, không biết làm sao mà cầu đặng phước? Tôn-Bất-Nhị nói: - Phước đâu mà cầu? Mình làm phải thì đặng phước gặp phước, chớ không nên cầu phước.
Nếu nói như ngươi ai muốn cầu cũng đặng, chắc là cả thảy cũng đặng giàu sang! Có câu: “Làm lành đặng phước, làm dữ mắc họa”.
Đó là lẽ tự nhiên của Trời Đất định rồi. Họa phước tự mình làm, cũng như: “Học thì nên, không học thì dốt”. Sách không học, mà biết chữ sao đặng? Ta nói nhón ít điều chắc lẽ ngươi cũng thấu.
Tên ấy nghe nói, quì lạy tự tỉnh, từ ấy đến sau anh em ở đó tu luyện đặng hơn mười năm, kẻ trước người sau qui lần, đều đặng siêu thăng hết thảy. Sau người coi tới chỗ đó có làm thi rằng:
Chơn nhơn ở đó học huyền-công, Độ đặng côn-đồ chí rất thông, Bởi tại ép mình trừ độc dữ, Nhờ ơn Hộ-Pháp với Thiên-Công. * * * * * Việc bà Tôn-Bất-Nhị còn dài, đây nói qua Trùng-Dương tiên sanh ở tại nhà ông Mã-Đơn-Dương hơn một năm, trong xóm có người bàn luận rằng: - Mã-viên-ngoại chẳng biết hưởng phước, khi không mà đem gia tài cho người ta, làm cho bà buồn rầu phải điên, không biết chạy xứ nào.
Có một người chừng hơn 50 tuổi tên là Đoàn-An-Nhơn nói rằng: - Tôi lúc trước có đến thăm viên-ngoại không thấy người đàn bà nào ở đó, chỉ có đàn ông mà thôi. Tôi hỏi ông viên-ngoại đi đâu? Mấy người nói:
- “ở sau mao-am nghe thầy giảng đạo”. Tôi liền đi thẳng vào, thấy Trùng-Dương cùng viên-ngoại ngồi nói chuyện. Viên ngoại thấy tôi tiếp hỏi dẫn ra nhà trước, tôi hỏi thăm bà đâu? Viên-ngoại nói: Bà có việc tu của bà, tôi có việc đạo của tôi, đâu biết đặng. Rồi tôi hỏi mấy người tớ gái sao không có ở thì viên-ngoại nói: Trai cho cưới vợ, gái cho cưới chồng, đều riêng tư phận. Tôi hỏi: Cất mấy cái mao-am làm chi? Viên-ngoại nói: Để cho mấy người tu hành đến ở. Tôi hỏi: Trùng-Dương tiên-sanh sao không thấy ra ngoài? Viên-ngoại nói: Thầy tôi lo tịnh dưỡng chẳng chịu nói việc tục.
Rồi tôi chào ra về lại gặp Mã-Hưng mời tôi lại nhà chơi. Tôi hỏi: Nhà nầy khi trước vui lắm, nay sao vắng vẻ, giống in cái chùa? Mã-Hưng nói:
- Chú không biết, nhà nầy bây giờ có ông Trùng-Dương tiên-sanh là người Thần Tiên sống, chẳng ham việc vui chơi, muốn điều thanh tịnh. Từ khi bà viên-ngoại đi rồi mấy người tớ gái đều cho về hết, để bạn tôi ở đây coi giữ, nên vắng vẻ. Tôi lại hỏi: - Làm sao mà biết Trùng-Dương tiên-sanh là Thần Tiên sống? Mã-Hưng đáp: - Phàm việc chi trong ngoài không ai cho hay mà ông cũng biết hết.
Còn việc chi chưa đến hoặc ngày nào nắng mưa ông cũng biết đặng. Như vậy chẳng phải là Thần Tiên sống hay sao? Đoàn-An-Nhơn đem mấy việc nói hết cho mấy người nghe, lại có người họ Phan nói: - Như y lời chú nói, là ông chắc biết việc quá khứ vị lai. Nay trong xóm mình bị hạn đã lâu không mưa, sao không ai hỏi ông chừng nào mưa? Mấy ông kia đều nói:
- Phải, như lời ông lão nói thì chắc đặng; vậy anh em mình đến nhà viên-ngoại đặng tỏ việc ấy cho ông hay. Nói rồi mấy người đi đến nhà viên-ngoại. Viên-ngoại dẫn ra mao-am, cầu Trùng-Dương tiên-sanh. Thưa rằng:
- Vì xóm tôi bị hạn đã lâu, nhơn dân đều khổ, làm ăn không đặng. Nay nghe tiên-sanh tu hành có đức, biết việc quá-khứ vị-lai, xin Ngài từ-bi nói dùm chừng nào mưa cho anh em tôi mừng, cám ơn Ngài ngàn thuở. Trùng-Dương nói: - Việc nầy nhờ ơn trên, chớ tôi siển bạc lắm, không dám lãnh việc quá-khứ vị-lai, nhưng mà tôi biết đâu chỉ đó. Dứt lời Trùng-Dương ngồi mật niệm hồi lâu rồi nói:
- Như mấy ông muốn biết thì qua xóm bên Đông, có một cái miễu Thổ-Địa, trên vách có định ngày mưa, đến đó thì biết. Mấy ông nghe nói lấy làm vui-vẻ, rồi tạ ơn trở ra thẳng qua phía Đông, tới miễu Thổ-Địa, quả thấy trên vách có mấy hàng chữ, Phan lão liền đọc cho mấy người nghe:
Nhơn vương diện tiền nhứt đối qua, Nhứt lản trâu châu chiếu Vương gia, Nhị thập tam, thiên hạ đại võ, Hòa thượng khấu, lý thổ nê ba.
Ở sau có 1 câu chữ nhỏ ra thai, Phan lão coi rồi cười rằng: Mấy câu nầy học trò con nít nó biên 4 câu thai chơi, có kỳ mưa gì đâu? Mấy người kia hỏi: Nó viết chữ gì mà ông không bàn đặng? Phan lão nói: Trên chữ Nhơn, dưới chữ Vương, thêm 2 chấm là Kim. — Chữ Vương thêm 1 điểm là chữ Ngọc. — Nhị thập tam hạ võ, kết lại là chữ Mãng. — Hòa Thượng, bỏ chữ Hòa để chữ Thượng; Nê Ba là Đất,
Đất là Thổ, chữ Thượng thêm chữ Thổ là chữ Đường. Rõ ràng 4 chữ “Kim, Ngọc, Mãng, Đường” nào có chỗ kỳ mưa? Đoàn-An-Nhơn chạy lại chỉ câu: “Nhị thập tam, thiên hạ đại võ” đây nói rõ ràng kỳ ngày 23 mưa lớn!
Ông già cười nói không có. Đoàn-An-Nhơn lại nói: Tuy mấy câu lời bàn chớ trong đó cũng có chỗ bí nghiệm, ông nói không chắc thì thôi hôm nay là 19, cách 23 không mấy bữa, để coi ngày 23 có mưa hay không? Chừng đó biết ông linh cùng không linh.
Mấy người kia nói: - Anh nói phải, để đến chừng đó sẽ biết! Nói dứt lời đều trở về hết. Đến ngày 23, mây đen đầy trời, mưa dầm dề, từ mơi đến chiều không dứt. Trong xóm người người đều tin Trùng-Dương tiên-sanh là Thần Tiên, chừng ấy tiếng đồn khắp nơi.
Kế có người ở phía Bắc, mất một con trâu kiếm không đặng, đến cầu ông chỉ giùm. Tiên-sanh nói: Trâu của ngươi ở xóm bên Nam, nằm trong ổ quạ tại trên cây lớn, muốn kiếm trở về trèo lên cây thì gặp.
Người ấy nghe nói tức cười hỏi rằng: Con trâu lớn mà sao lên đặng trên ổ quạ? Tiên-sanh nói: - Lại đó kiếm thì chắc đặng! Chẳng khá nói nhiều.
Người ấy nghe trở về qua phía Nam thấy có cây lớn, ngó trên ngọn thấy có ổ quạ, lật đật trèo lên coi, thấy có ổ không, giận lấy liệng xuống. Chẳng may nhánh cây khô rớt trên mặt liền gục đầu ngó xuống thấy trong xóm có cái nhà trống buộc con trâu, nhìn thiệt quả trâu mình, bốn phía cỏ che, thầm tưởng rằng:
- May quá! Phải không trèo lên cây cao ngó xuống làm sao thấy đặng. Liền lật đật trèo xuống vô xóm đó. Lại nhớ xóm nầy có người ăn trộm trâu, phải không nhờ tiên-sanh chỉ nói đêm nay có dắt đi xa, làm sao tầm đặng. Rồi đi thẳng vô nhà trống dắt trâu về. Qua bữa sau, xóm bên Tây có mấy người lại hỏi tiên-sanh công việc nhà, có một đứa 14 tuổi hỏi rằng: - Anh tôi đi buôn bán xa, mấy tháng nay không về. Xin ông làm ơn mách giùm chừng nào anh tôi về? Tiên-sanh đáp:
- Về hỏi tay của mẹ ngươi thì biết. Thằng nhỏ nghe qua tức cười nói: - Anh tôi đi buôn bán đã lâu, chẳng biết đi gần xa, nên mẹ tôi biểu đến đây cầu ông chỉ giùm, mà ông lại biểu về hỏi tay mẹ tôi, làm sao biết đặng? Tiên-sanh nói: - Ngươi cứ nghe lời ta, đừng nói nhiều chuyện. Thằng nhỏ nghe rầy không dám hỏi nữa, liền xá ra về.
Khi về đến nhà, thấy mẹ nó cầm cái thơ trong tay nói: - Anh mầy ở Lai-Châu buôn bán, có gởi thơ về tao mới đặng đây, vậy mầy đọc cho tao nghe. Thằng nhỏ lấy thơ đọc rằng:
“ Con kính lời thăm mẹ đặng mạnh giỏi. Từ khi cha quá vãng rồi, nhờ mẹ dạy nuôi đến đặng nên người. Nay con theo chí của cha khi trước, buôn bán cũng đặng thạnh lợi. Vì có bán chịu thâu chưa đủ nên trễ, xin mẹ an lòng. Đợi chừng mùa Thu con mới về đặng. Vậy em ở nhà phụng dưỡng mẫu thân.
Thằng nhỏ coi rồi cười rằng: - Thiệt rất linh nghiệm! Mẹ nó muốn hỏi việc chi linh nghiệm, bỗng thấy trước cửa có mấy người đến.
|
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Re: Truyền Thuyết Truyện Cổ Tue 24 Aug 2010, 21:06 | |
| THẤT CHƠN NHƠN QUẢ
Tác giả: Huỳnh-Vinh-Lượng
Hồi 12
Nghĩa là:
Chỉ ngồi công-phu, bày tỏ chỗ diệu lý, Học đạo chơn, mừng gặp thầy minh-sư.
Có bài kệ rằng:
Ân ái buộc ràng giải chẳng khai, Ngày kia thân bỏ khổ bao nài, Nay đã buông tay không trở nệ, Thẳng đến Diêu-Trì Bạch-Ngọc giai.
Lại nói thằng nhỏ đương muốn nói thầy biểu về hỏi cái tay của mẹ cho mẹ nó nghe, liền thấy mấy người đi đến hỏi thăm nhà họ Mã, thằng nhỏ hỏi: Mấy ông hỏi thăm nhà họ Mã đặng tầm ông Tiên sống phải chăng? Mấy người nói: - Phải. Thằng nhỏ liền dắt đi, hồi lâu tới nhà họ Mã, may gặp Mã Đơn-Dương ở trước nhà, thấy mấy người đến, mời vô hỏi mấy anh đến có việc chi? Mấy người nói: - Tôi đến cầu học Đạo. Mã-Đơn-Dương nghe nói, liền dẫn ra mắt thầy. Có một người họ Đàm tên Xử-Đoan, hiệu Trường-Chơn-Tử, năm trước có bịnh trầm kha.
Trùng-Dương tiên-sanh lúc mới đến Sơn Đông xin ăn, có dạy việc trừ bịnh cho y, chừng bịnh mạnh rồi vui lòng ham Đạo, tìm hỏi thầy mà không biết ở đâu. Nay nghe người nói tại nhà họ Mã có một vị Thần Tiên sống tên là Trùng Dương, nên mới biết thầy ở đây; và có dẫn một người cũng ham học đạo, họ Xích tên Thái-Thông, hiệu là Thái-Cổ, cũng ở chung một phủ.
Còn mấy người kia cũng ham học Đạo, nói chẳng hết tên họ. Khi đó, Đàm-Trường-Chơn lạy thầy tạ ơn ngày trước trừ hết bịnh rồi nay hỏi cầu học Đạo. Trùng-Dương nói: - Pháp môn mở rộng cửa, ai có tới thì tới, có đi thì đi, ta cũng không dám cầm. Liền biểu Mã-Đơn-Dương dẫn mấy người ra mao-am thứ nhì ở đó.
Cách ít ngày, cũng có ít người đến học Đạo, tên Lưu-Xử Huyền, hiệu Trường-Sanh-Tử; người khác tên Vương-Xứ-Nhất, hiệu Ngọc-Dương-Tử, cũng người Sơn-Đông. Mã-Đơn-Dương tiếp hỏi, cũng nói cầu học Đạo. Liền dẫn hai người ra mắt thầy, rồi Trùng-Dương tiên-sanh biểu đem ở mao-am thứ ba.
Bỗng đâu thấy bên Đông tới một người, bên Tây một người, chừng một tháng tới hơn mấy mươi. Trùng-Dương thấy vậy biểu Mã-Đơn-Dương chỉ đạo, dạy mỗi người công phu, phân việc đâu đó thứ tự. Các việc xong xuôi rồi tiên-sanh định ngày đem việc đạo giảng dạy chỗ tu hành công-phu cho mấy người nghe, rồi sắp đệ tử đứng hai bên cung thân nghe giảng. Tiên sanh nói:
- Thân người lấy Khí làm bổn, lấy Tâm làm căn, lấy Tánh làm mạng mới phát ra đặng. Còn Trời Đất cách nhau tám muôn bốn ngàn dặm, người thì cái tâm thận cách nhau tám tấc bốn phân.
Thận ở trong dưới rún một tấc ba phân, kết liền một mạch mà thông hơi thở trên dưới. Mối thông trăm mạch hễ thở, thở vô trăm mạch đều bế. Trời Đất tạo-hóa xây vần cũng không khỏi hai mối hô-hấp. Hễ người hô-hấp trong tâm thận thì khí huyết đều thuận nguơn-khí đặng vững, thất tình chẳng động, trăm bịnh chẳng trị mà tiêu.
Còn phép ngồi công-phu mỗi ngày: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu bốn giờ ở trong tịnh thất, ngồi niệm cho dày, ngồi kiết dà, hồi quang phản chiếu đơn-điền, lấy bông nhét lỗ tai, dứt việc lo tưởng, ý tùy hô-hấp, vật-vọng vật-trợ, miệng mũi đều không thở. Ngồi chừng một giờ đồng hồ rồi nằm nghỉ, chẳng khá lao nhọc, đừng cho phiền giận mà tổn công-phu thì hại cái Chơn-Khí (Ai muốn biết tìm thầy chỉ thì rõ). Có bài kệ rằng:
Ngồi nghỉ công-phu chẳng dụng đa, Trọn nhờ luyện khí với trừ ma, Phải đem chướng ngại đều bỏ hết, Chớ để tâm đầu có võng la.
Chướng ngại không tu phiền não tụ, Võng la không giải khổ ta-bà, Rõ ràng chí-lý trao truyền đủ, Đừng để một hồi lại bỏ qua.
Tiên-sanh giảng nói việc công-phu, rồi xuống phòng an nghỉ, các đệ tử ai về phòng nấy.
Lại nói tỉnh Sơn-Đông có một người họ Khưu, tên Xử-Cơ, hiệu Khải-Phát, anh em ba người, cha mẹ đều mãn sớm, Khải Phát nhờ anh chị thương cho học biết làm thi phú, mà không muốn việc công danh, ham tịnh dưỡng, có khi không muốn nói chuyện, dường như trong lòng có chỗ vui mà không ai biết.
Nhiều khi anh chị khuyên lập công danh, Khải-Phát thưa rằng: - Tôi nguyện học cùng cứu chỗ thân tâm, không muốn việc công danh. Anh chị khuyên cưới vợ thì Khải-Phát từ rằng: - Em chí chưa đặng lập thành, há dám ràng buộc sự nhọc; để cho em thong thả. Lại thường hay cùng anh chị giảng nói:
- Người sanh ở đời chẳng tìm đường giải thoát khó khỏi việc buồn, trọn ngày tranh danh đoạt lợi tham luyến vợ con. Có khi vô-thường đến bắt thì muôn việc đều không; người gọi cuộc đời là chơn, chớ như tôi thấy dường như mây nổi sương bay, tỉ như giấc chiêm bao, bọt nước! Có một lúc nọ anh em trong nhà không đặng hòa thuận, hai anh muốn tách ra đi. Khải-Phát nhiều khi can gián không đặng, liền mời hai anh ngồi thưa rằng:
- Xin hai anh an tâm, vì cha mẹ có ba anh em, chẳng may cha mẹ khuất sớm, lòng em hằng mộ đi tu, vậy hai anh ở chung với nhau mới phải, để sanh ý không hòa, chẳng sợ cha mẹ phiền muộn sao? Xin hai anh nghe nhắc sự tích:
Có một ông nọ sanh năm người con, ba trai hai gái, nuôi đặng nên người, cưới gã đều đủ, lại để gia tài chừng 2000 lượng bạc, chưa lập tương phân.
Chẳng may hai ông bà bất hạnh sớm. Anh em đồng tâm mai táng, công việc xong rồi bốn người em đòi tương phân gia tài đặng ở riêng. Người anh cũng nghe lời bốn em chia gia tài sự sản, kêu em nói rằng:
Nầy mấy em, vì cha mẹ sanh có năm anh em, cha mẹ khuất sớm có để lại một chút ít, đến nay mấy em muốn chia, thì anh cũng y lời các em chia xong rồi. Nay anh muốn tỏ bày cùng mấy em như vầy, có em nào vui lòng không? Bốn em thưa rằng: Xin anh có việc chi cứ phân tỏ.
Người anh nói: Ruột đất tiền bạc thì chia cũng phải, còn chuyện ở riêng, anh xin bốn em ở chung cho vui. Vì cha mẹ mới mãn mà anh em tư phân thì thiên hạ chê cười. Nói vừa dứt lời hai người gái và một người trai nói rằng: Không, bề nào cũng nhà ai nấy ở dễ hơn.
Người anh nghe nói rất buồn, phân dứt mấy lần không đặng tủi thân sa nước mắt, bèn vào bàn thờ cha mẹ quì lạy than thở một hồi rồi kêu mấy em nói: Nầy mấy em, cha mẹ sanh mình lúc còn nhỏ thường ngày chơi vui giỡn, có cái chi tốt, ngon cũng ăn chung.
Đến nay cha mẹ khuất rồi, anh em cũng ở như vậy mới phải là tình cốt nhục thuận hòa, dẫu cha mẹ ở chốn suối vàng cũng đặng ngậm cười, còn mình ở tại thế thì đặng danh thơm mỹ mục. Sao mấy em không chịu ở chung? Vậy xin mấy em nghĩ coi:
Hang kiến kia bao lớn mà cả hơn ngàn muôn con lên xuống tranh đấu, hễ con trước đi đâu, con sau theo đó. Con nầy kiếm đặng gạo, con kia kiếm đặng cơm, thảy không ăn riêng, đều đem về hang mà ăn chung với nhau.
Nghĩ lại: nó là một con vật nhỏ nhít, tuy không biết nói mà còn có tánh thương nhau. Anh kiếm nuôi em nhỏ dại còn đặng, huống chi anh em mình linh hơn muôn vật, lẽ đâu kẻ Nam người Bắc, góc biển chơn trời, há chẳng thẹn cùng vật nhỏ?
Bốn em nghe anh thức tỉnh đều lạy anh xin lỗi, rồi cũng ở chung như thường, lo việc làm ăn, em quấy anh rầy, anh sai em nhắc, đêm hôm tăm tối giảng nhau. ở hơn bốn đời khỏi tranh một lời xử đoán.
Hỡi ôi! Gương ấy tu cùng không tu cũng rán coi mà bắt chước. Lớn thì phải thương nhỏ, lấy lời khuyên nhủ trẻ em, hoặc thầy, hoặc cha, hoặc anh, đều nên thương kẻ dưới tay. Minh-Thánh Kinh nói: “Bất sức văn thần quá, bất diệu võ tướng công. Kỷ lục văn hoa điện, cử hạch kiến chương cung”.
Nghĩa là: Chẳng khá ép kẻ văn thần có lỗi, không nên dung võ tướng có công; vì kẻ có lỗi trong chỗ lỗi cũng có công, còn người có công trong chỗ công cũng có lỗi. Nên làm lớn phải châm chế, như có thưởng phạt thì đem hiện trước huê điện mà thưởng phạt, cho hai đàng thấy minh bạch công bình.
Hễ em nhỏ phải nhượng kính bề trên, chịu trên sai khiến, hoặc trên lỗi phải chiều lòng giảng dứt, chẳng nên nặng lời mà tổn đức bình sanh.
Hoặc trên xử dạy dưới thì lấy chỗ lễ nghi mà răn trị, không đặng ép quyền vì có câu: “Thượng huấn hạ dĩ lễ, hạ gián thượng dĩ quí”.
Nghĩa là: Trên dạy dưới lấy lễ mà dạy, dưới gián trên lấy qui trình mà can, thì khỏi chỗ hư hại nhơn-đạo cùng thiên-đạo. Khải-Phát nhắc mấy lời cho hai anh nghe, từ đó đến sau y nhiên ở chung mấy đời, không tranh lời hơn thua. Khi đó Khải-Phát nghe nhà họ Mã ở huyện Ninh-Hải có ông Trùng-Dương tiên-sanh đạo-đức tu hành, lại có người học Đạo ở đó.
Khải-Phát bình sanh ham việc đạo-đức, nghe nói ý muốn thưa anh chị hay, mà sợ không cho đi, nên sửa soạn tiền bạc, đem theo quần áo lén ra khỏi nhà, đi đến huyện Ninh-Hải. Tới nhà họ Mã, gặp ngay Đơn-Dương hỏi rành việc Đạo, cùng nói tên họ đem vô sổ. Lại có mấy ông: Đàm, Lưu, Vương, Xích, thấy Khải-Phát cũng vui mừng nói rằng:
- Tuổi còn nhỏ mà phát tâm học Đạo, thiệt cũng ít người có, liền dắt ra mắt thầy, rồi Đơn-Dương thuật công việc cho thầy hay. Trùng-Dương nghe nói ngó Khải-Phát một hồi nói rằng: - Thằng nầy học Đạo không đặng! Vì nó lanh lợi thái quá, tâm ý tạp niệm rất nhiều, khó đặng thành đạo, mau sớm trở về. Khải-Phát quỳ lạy thưa rằng:
- Con tuy nhỏ, chớ quyết một lòng học Đạo, không có hai ý, xin thầy cho con ở lại học. Đơn Dương cũng xin dùm mà thầy chẳng chịu, nói rằng: Chẳng phải ta bỏ nó, vì nó khổ căn lớn nạn, sợ ma nạn chịu không nổi mà sanh thối chí. Chẳng bằng không thâu hay hơn! Khải-Phát muốn thưa cầu nữa, vừa cúi đầu lạy thì Trùng Dương tiên-sanh bỏ đi ra ngoài.
Đơn-Dương cùng mấy ông thấy vậy không biết làm sao, bèn dẫn Khải-Phát đến nhà trước chỉ làm công việc. Qua bữa sau, Khải-Phát lạy thầy xin nữa, tiên-sanh hỏi rằng: Sức ngươi nhỏ mà muốn gánh đồ nặng, thế ngươi chịu nổi không? Khải-Phát thưa rằng: - Thầy dạy ý chi tôi không rõ? Tiên-sanh nói:
- Ta nói ngươi sức nhỏ mà gánh nặng không nổi là nói: Đạo lớn như Trời Đất, còn sức ngươi phước ít chí hẹp nên sợ tu không đặng, nửa chừng trở ra mà hư trong mối Đạo, ngươi cũng mang tội trong Phật-môn, nên ý ta chẳng cho. Khải-Phát nghe mấy lời thầy nói trong lòng thấu đặng, thưa rằng: - Tuy tôi sức nhỏ khó gánh nặng vật lớn, nhưng mà lòng muốn thì tôi lấy ý-chí liệu dùng cũng có khi làm nổi.
Tiên-sanh nghe nói biết là người có chí quyết tu, nên nói: Như trò muốn tu, việc còn lâu ngày. Nói vừa dứt lời, trở vô phòng đóng cửa. Còn Khải-Phát cứ làm công chuyện như thường. Qua ngày sau, Khải-Phát lạy Đơn-Dương thưa rằng: Vì tiên-sanh không chịu thâu tôi, vậy xin lạy ông làm thầy. Đơn-Dương nói:
- Không đặng! Cầu, phải cầu người đại nhơn; học thầy, phải tìm minh-sư. Tôi chẳng qua hiểu chút ít đạo lý, chưa đặng thấu hết! Trò phải an lòng ở đây lập công, tôi cũng lần dắt cho trọn toàn.
Khải-Phát nghe nói rất mừng, ngày làm đêm học, cúng nước quỳ hương không sót, sám kinh giờ khắc không rời, công việc lẹ làng chẳng mỏi, ai nấy cũng đều khen. Bữa nọ đi theo mấy sư hữu đến chỗ am thầy, thấy Trùng-Dương tiên-sanh ngồi giữa, đệ tử sắp đứng hai bên. Tiên-sanh nói:
- Ta từ ngày đến đây, hết lòng độ người, dạy người không mỏi, muốn cho cả thảy đặng giác tỉnh đừng mê, khỏi vòng biển ái. Vì ta bình sanh ham Đạo, lúc nhỏ ngây dại, lớn lên cách ra vui việc thần thông. Người đều nói ta là dị-nhơn, mà ta nào phải dị-nhơn! Chẳng qua là như dại, như khờ, như ngu vậy thôi. Ta sao gọi là ngu?
Vì ta chẳng ham, tưởng, muốn. Như đứa khờ, không có trí lo biết điều khéo vụng, chẳng theo đường tục, muốn việc an thân. Vì người đời không hay, lại nói ta khờ ngu, ngây dại, ta khá thương cho người rất lầm mê chẳng hiểu, mà không biết sửa mình.
Nay ta lấy chỗ đạo ngu-xuẩn, dại-dột của ta mà tỉnh cho thiên hạ. Ai nấy chẳng biết cái lòng mình ở đâu, cũng không biết cái thân mình ở đâu. Khi cha mẹ chưa giao cảm, thì chưa biết mình ở đâu. Khi có cái thân rồi mới biết sự khôn dại, xấu tốt, tham muốn, giận hờn. Đến buổi tam thốn khí đoạn, thây nằm tại đó thì cũng không hiểu sự khôn dại lúc sống là đi đâu! Như vậy làm sao biết đặng đạo-tâm?
Ta rất thương cho người đời khôn lanh chót lưỡi, thương cho người tu hành học đạo lầm sai trong giây phút mà mất nẻo Thiên-Đường, lạc vào chỗ tối. Vậy các người phải nghe vì các người đều có Đạo, trước phải luyện cái Tâm.
Khi chưa phát, qui tại nơi đương phát hoặc thương muốn, ái-dục tạp niệm, mà mình tự nhiên đừng động, thì mới đặng giữ lòng. Còn định ý khi nó đương động, phải thâu cho mau giữ cho bền, định cho lâu, thì Tâm tự nhiên phải chủ một, đừng để động rồi mà thâu, thì không có ích chi hết. Đó là cửa Đạo của ta chỗ phép luyện Tâm.
Nên người tu phải khiến cái Tâm không không. Nhơn cái Tâm là khí thiên-nhiên, chơn-dương kết thành (vì Tâm thuộc Hỏa, chẳng phải thuần dương mà không âm). Trong cái dương có chơn âm, cái hình chữ Tâm, trên có 3 điểm ( ), dưới có yến nguyệt ( ) trở lên.
Nên mới biết dương không âm chẳng lớn, âm không dương chẳng sanh. Chơn-âm tùng chơn-dương, nên gọi là Tâm. Hễ động một niệm thì trong Tâm bớt một phần chơn-khí. Có việc nhập vô Tâm thì thêm một móng ma-chướng.
Nếu các việc xen vô thì chẳng phải là tên Tâm, thiệt là tên Niệm. Bởi hình chữ Niệm là “Nhơn” có “Nhị Tâm” như người có hai lòng, chẳng đặng chuyên một việc. Vì Đạo là giữ một, nên Tâm phải giữ một mới phù hạp âm dương.
Còn người tu tính trăm việc thì sao cho đặng thành Đạo? Đó là nói: Trước phải giữ cái Tâm, còn việc Đạo lại xa nữa! Trùng-Dương tiên-sanh nói: - Tâm là chủ cái Thân, có một việc không hai, bằng khởi nhị Tâm, gọi là Niệm, thì không biết bao nhiêu việc hư quấy.
Chừng đó Tâm chẳng đặng làm chủ, khiến thân mình chìm đắm, trầm nịch vào biển khổ, thì thấy đọa trước mắt. Than ôi! như vậy cứu độ sao đặng! Như người tu có đáng tìm chỗ phóng tâm đó hay không? Thầy đương nói giảng thoát nghe Khưu-Khải-Phát la lớn rằng: - “Hay lắm! Hay lắm!”. Vì Khải-Phát nghe lời diệu mầu nên la như vậy.
Tiên-sanh nghe Khải-Phát la lớn không nói nữa vì hờn Khải Phát tánh không dè-dặt, miệng chẳng kín, tâm buông khơi, không sợ thiên hạ hồ nghi, nên làm thinh không nói nữa. Mấy ông thấy vậy trách Khải-Phát rằng: Bị trò nên thầy không giảng nữa.
Khải-Phát nghe nói giả như không biết không hay, miễn nghe được lời thầy thì thôi, ai quở trách mặc lòng, không hờn không giận. Thầm tưởng rằng: Lời thầy nói việc luyện Tâm chắc là có chỗ khuyết luyện Đạo trong đó.
Việc luyện Đạo nếu trước chẳng đem luyện cái Tâm cho hết chỗ niệm, đến chừng mình có Đạo cũng luyện không đặng. Vậy nay mình muốn học Đạo mà chưa nghe đặng Đạo, thôi để mình luyện cái Tâm trước, ngày đêm ta thường giữ lòng ta không cho tưởng quấy, không nhớ đến quấy.
Ta phải trừ giữ con mắt, không nhìn sắc gái, tai chẳng nghe lời dâm, miệng chẳng nói tiếng tục, mủi chẳng ngửi mùi quấy, thân chẳng ngồi chỗ quấy, ý chẳng tư niệm quấy. Ta thường hỏi ý ta hay làm việc quấy, tư tưởng vọng niệm đều quấy vậy có hiểu biết đó là quấy hay không?
Như biết quấy thì mau mau trừ bỏ. Khải-Phát nhờ tư-tưởng trong chỗ tối mà sửa mình nên có không trung ủng hộ. Bữa nọ thấy mấy mươi anh em đạo hữu chẳng có trước nhà chắc là ra am của thầy nghe Đạo. Khải-Phát liền chạy theo. Trong thiên hạ thiệt không việc khó, Chỉ sợ trên đời người có Tâm.
|
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Re: Truyền Thuyết Truyện Cổ Tue 24 Aug 2010, 21:46 | |
| THẤT CHƠN NHƠN QUẢ
Tác giả: Huỳnh-Vinh-Lượng
Hồi 13
Nghĩa là: Tán đạo tràng, người học về nhà hết, Thầy trò đổi áo đạo, qua tới phía Nam.
Có bài kệ rằng:
Than tiếc người phàm chẳng tỉnh cùng, Mê hoa ham tửu sính anh hùng,
Đêm xuân tổn khí lao thần lệ, Năm tháng lâu dài chết chẳng dung.
Lộng xảo thường như mèo bắt chuột, Ngày giờ mau tợ tiễn ly cung,
Đêm hay khiến hết tinh thần sạch, Chôn bỏ thân mình tại đất Trung.
Nói về Khưu-Khải-Phát, thấy trong đạo không có ai ở nhà trước, chắc ra mao-am nghe giảng Đạo; lật đật chạy đến mao am, thấy thầy ngồi giảng Đạo, đạo hữu đứng hai bên. Khải-Phát không dám vô trong, núp ở ngoài cửa lóng nghe thầy nói:
- Việc tu hành chỗ niệm, phải đừng có một vọng tư, trong lòng không có chút cặn. Như có một chút lòng dục thì trong lòng thêm việc ma chướng, như mà tư dục khởi ra ắt Tiên-thiên phải mất.
Nên người tu phải khử trừ việc niệm tưởng thì Tiên-thiên mới còn. Vì Tiên-thiên là một khí Vô-Cực, hễ tư dục muốn ra thì hỏa phát động rồi khí tán nào có Tiên-thiên, làm sao xét đặng hỏa hầu?
Còn hễ tưởng nhiều thì khí hư, nào đặng phục chỗ linh cơ? Lòng dục nhiều thì khí khô, làm sao có huyền diệu? Nghĩ cơ quan như vậy, việc tư dục đáng trừ hay không trừ? Việc vọng tưởng đáng bỏ hay không bỏ?
Như người có lòng tu niệm mà quyết thoát chỗ biển mê, thì nghe lời ta trước đó mau phải giới trừ, ý vọng tưởng phải tuyệt, dưỡng cho đặng lặng lẽ không động. Rồi sau cái niệm mới dứt.
Hễ niệm dứt thì việc tư dục tiêu hết, tư dục tiêu hết thì các mối đều sạch, khí dương đặng thuần, khí dương thuần thì khí âm phải tiêu. Nên từ xưa đến nay, các vị Tiên Phật lớn cũng đều do nơi đó mà thành. Nay các ngươi muốn theo bực Tiên Phật, thì phải gìn giữ chỗ niệm tưởng làm đầu, siêu đọa tại chỗ con mắt, lỗ tai, cái ý, chẳng khá coi việc đó là thường.
Trùng-Dương giảng nói tới chỗ diệu mầu, Khải-Phát núp ngoài cửa nghe mấy lời hay của thầy dường như quên hết việc nhà, việc quở, la lớn rằng:
- “Hay lắm! Hay lắm!” Tiên-sanh ngó mấy người đệ tử nói rằng: Trong nhà thuyết pháp, ngoài cửa người nghe, hỏi thử mấy người vậy có ai là người tri âm ở ngoài chăng? Thầy nói dứt lời, Mã-Đơn-Dương ra ngoài thấy Khải Phát liền kêu vô trong. Trùng-Dương thấy trách Đơn-Dương rằng: - Ta đã dặn, biểu nó đi về, sao còn để ở đây? Ông nói vừa rồi, có Lưu-Trường-Sanh, Xích-Thái-Cổ, Vương-Ngọc-Dương, Đàm-Trường-Chơn thưa rằng: Xin thầy từ bi, vì Khải-Phát tuổi nhỏ mà không mến việc trần. Nhiều khi nói về đạo đức có chỗ hậu nghĩa, hoặc anh em quở trách cũng không giận, thầy đuổi nhiều lúc cũng không buồn. Vậy cũng là một việc nhẫn. Nay anh em tôi xin thầy cho y cầu Đạo, lo việc Phật-môn, có bọn tôi dìu dắt. Tiên-sanh nói:
- Không phải ta ghét nó, vì sợ nó còn nhỏ tánh chưa đặng chơn thiệt, gặp lúc ma khảo, chịu không nổi trở lòng thối chí, chừng đó Đạo cũng chẳng thành, lại bị tội lỗi. Để nó lập công đắp nền cho chắc, sau sẽ cầu không muộn.
Mấy ông nghe nói than thiết ai cầu, còn Khải-Phát lạy hoài không dậy. Trùng-Dương nói: - Mấy người nhiều lần tiến dẫn, nào ta chẳng an tâm.
Theo phép thì lấy luật công bình! Thôi vậy, Khưu-Khải-Phát quỳ nghe ta dạy: Bởi người từ ngày đến đây tới nay, ăn chay đã lâu mà tánh chưa thuần hậu, ta lại thấy tướng người có nhiều chỗ xấu, ta sợ ngày sau chịu khảo không đặng mà bỏ Đạo. Nay ta thấy ý ngươi có chỗ cần quyết tu, vậy ngươi muốn tu thành Tiên hay là muốn tu đặng sau làm người giàu có? Khải-Phát thưa: - Tôi muốn tu thành Tiên.
Tiên-sanh nghe nói biết người có căn sâu, lại hỏi rằng: - Hễ ngươi muốn thành Tiên thì chẳng sợ đau sợ chết. Chớ ta coi tướng ngươi chắc phải gặp các việc ấy. Vậy bây giờ ngươi chịu đau đặng không? Khải-Phát thưa:
- Miễn cho thành Tiên thì thôi, đau thế nào tôi cũng chịu đặng. Trùng-Dương liền lấy cây nhang lớn trên bàn châm vào mặt Khải-Phát ba lần, tự nhiên không nhúc nhích. Khải-Phát đứng dậy làm lễ thầy thưa rằng:
- Bấy lâu tôi theo Đạo mà không hiểu việc Đạo, nay nhờ thầy thiệt công hơn sanh thành! Tiên-sanh nghe Khải-Phát nói như vậy, hỏi rằng:
- Thế trong ý ngươi giận ta châm lửa vào mặt ngươi nên ngươi nói ta công hơn sanh thành? Khải-Phát thưa: - Tôi không dám hờn giận thầy, vì tôi muốn học Tiên mà thầy lấy chỗ tiên chỉ tôi, cho nên tôi không giận vì là thầy thương tôi.
Trùng-Dương nghe Khải-Phát nói biết ý ngộ đặng phép mầu, vỗ tay cười ngất. Rồi đó Khải-Phát cầu thầy cho đạo danh. Trùng-Dương nói:
- Để ta đặt pháp danh ngươi là Khưu-Trường-Xuân. Khải-Phát thưa: - Thưa thầy, đặt tên tôi là Trường-Xuân xin thầy tỏ nghĩa hai chữ cho tôi hiểu. Trùng-Dương nói: - Chữ Trường là “Trường-Cửu”, chẳng sanh chẳng diệt. Còn Xuân là “Xuân bất lão”, nghĩa là cái Đạo ta sống hoài không chết. Khải-Phát nghe rồi đành lòng như nguyện, liền lạy thầy rồi mời mấy ông tiếp dẫn tạ ơn, thầy trò đều an nghỉ.
Cách hơn một tháng, Trùng-Dương kêu hết trong đạo đến Giảng-Kinh-Sở (nhà giảng Kinh) nghe thuyết pháp. Mấy người đồng đến thỉnh thầy lên đàn thuyết pháp, các đệ tử bày bàn ngay thẳng. Trùng-Dương nói: Đạo ta dạy lấy việc Tịnh làm chủ.
Chữ Tịnh, trên khá lấy xét tỏ việc sanh hóa dưỡng dục, dưới cũng khá lấy bao hàm vạn vật. Nay ta đem việc Tịnh giảng nói cho các trò nghe. Chẳng luận là người tu hành biết Đạo mới khá dùng mà thôi, hoặc cho tề gia trị quốc cũng chẳng bỏ đặng.
Bởi việc Tịnh nghĩa lý mầu diệu vô cùng, có khi người nói Tịnh thì nhiều, còn biết Tịnh thì ít. Hoặc muốn Tịnh mà Tịnh không đặng, vì chưa tìm đặng nguyên căn, nên chẳng rõ nguồn gốc tại đâu mà Tịnh.
Vậy ta chỉ chỗ căn Tịnh, trước phải coi thấu việc đời muôn việc đều Không. Trong việc Tịnh phải tùng chỗ chẳng Tịnh mà lập chí, hoặc ở tại chỗ sắc, tài, lợi, ân-ái, thì mình biết chỗ ấy là chỗ hại cho thân, dắt dẫn vào đường tối mà chôn mất tánh linh của ta.
Phải coi các việc ấy như thù nghịch thì sao lại dứt mối ấy không đặng? Người tu phải coi chỗ động như không không. Chừng lúc Tịnh phải giữ chỗ phép; hễ niệm muốn khởi liền phải dứt tuyệt, hoặc dứt đó, sanh đó, mình đừng cho nó sanh, thì cái sanh ấy dứt liền.
Thí như một ông giám-sát kia, muốn giết kẻ tội ác, thì chém không kịp nháy mắt, như vậy mình giết cái tâm phàm mới đặng. Chừng ấy, làm đặng rồi, không Tịnh cũng như Tịnh, tự nhiên như nhiên.
Tuy không nói Tịnh, nhưng mà ở trong có Tịnh, đến chừng Tịnh thấu chỗ chí thiện, dẫu núi Thái Sơn rã trước mặt cũng không sợ. Thiệt chẳng phải không sợ, nhưng mà nó rã trước mắt ta cũng coi như không có. Còn Nữ Sắc đứng gần bên ta mà chẳng động.
Thiệt chẳng phải chẳng động, song nó đứng gần ta mà ta coi như không có vậy. Đến khi đi đứng mà động, thì ta cũng lấy giới luật của ta mà trừ. Ấy là người tu phải có oai-khí hết sức giận dữ, như vậy mới gọi đại hùng đại lực (nên người tu phải giận phải ghét, phải có hỉ nộ là nghĩa đó).
Còn nói mỗi việc chi làm ra, thường giữ cho Tịnh thì Ý tự nhiên, tuy làm mà chẳng cố, hoặc cha mẹ thấy vậy nói ngu chẳng chịu, đặng cảm bề trên; anh em có dứt cũng hòa thuận, mà dạy dưới; vợ con chẳng chịu cũng xuôi, đặng mà sửa trị ở trong.
Bạn hữu chê bai cũng vui, mà dạy ở ngoài. Người tục chê khờ cũng đành; người Nho bày biếm phải giấu đặng giữ mình, đạo thường làm, chí thường giữ, chẳng nói Tịnh mà Tịnh, không động mà động, dẫu động, Tịnh gì cũng Tịnh, thì Đạo mới thành. Đó là biểu giờ nào cũng Tịnh.
Nên Phật nói: “Minh Tâm kiến Tánh”. Chẳng Tịnh thì chẳng đặng minh kiến, sáng tỏ. Nho nói: “Cùng lý tận tánh”. Chẳng Tịnh thì không đặng cùng tận thấu hết. Đạo nói: “Tu chơn dưỡng tánh”. Chẳng Tịnh thì không đặng tu dưỡng (trau sửa bề trong).
Vì việc Tịnh là mối của Tam-Giáo, chẳng phải bao nhiêu mà thôi. Tỷ coi trong một ngày kia, hễ ban ngày động thì ban đêm phải Tịnh.
Còn mùa Đông Tịnh thì mùa Xuân mới phát sanh. Nên gốc Tịnh của Đạo là lẽ tự nhiên như vậy. Nếu người tu bỏ việc Tịnh, thì tùng đâu mà vào cửa?Trùng-Dương tiên-sanh giảng nói việc Tịnh, thiệt là trong Tam-Giáo chẳng lìa chỗ công phu. Đến người Sĩ, Nông,
Công, Thương, Vương-hầu khanh-tướng phải do chỗ Tịnh làm trước, sau mới đặng an bài. Đặng an bài thì phải lo xét, lo xét mới đặng việc. Cha mẹ hay Tịnh con mới đặng hiếu; Vua hay Tịnh tôi mới biết trung; anh em hay Tịnh việc đặng hòa mục; bạn hữu hay Tịnh mới đặng tin thiệt; vợ chồng hay Tịnh thì được thuận hòa.
Thầy đem việc Tịnh nói cho đệ tử nghe. Duy có Khưu, Lưu, Vương, Đàm, Mã, Xích biết lời thầy nói chỗ Đạo huyền diệu, còn mấy người kia, ban đầu cần, sau làm biếng, hữu thỉ vô chung, chẳng quyết chí tu hành.
Từ đó đến sau lại tính việc danh lợi, người thì tật đố sân si, tham lam trộm cướp. Ông cũng biết mấy người ấy chẳng đặng bền lòng, mà việc Đạo phải nói, nên đem các điều Tịnh bày tỏ cho mấy người nghe, muốn cho người người đặng chỗ công-phu, tiêu bớt việc tráo trở, ai quyết chí thi hành, tuy không đặng siêu phàm nhập thánh, cũng lấy chỗ tu thấu tề gia, chẳng mất căn lành, không uổng người đến đây học Đạo.
Khi đó Khưu-Trường-Xuân nghe thầy giảng việc Tịnh, hiểu thấu vui mừng, ngồi đứng chẳng yên, thường hay vỗ tay dậm chơn, bị thầy thấy, kêu nói rằng: Ngươi là người nghe Đạo chẳng thấu, biết lý chẳng tỉnh, gọi mình thông minh, bày lộ cái danh lợi, không biết ẩn mình lấy xảo làm tệ, chẳng phải người học Đạo.
Ta mấy lần thuyết pháp cũng bị ngươi mà phạm trong điều luật. Ta phải xa ngươi lánh ngươi trốn qua Đông-Nam, đặng khỏi ngươi khuấy loạn.
Nói dứt lời liền kêu Mã-Đơn-Dương nói rằng: Ngày mai ta qua Giang-Nam giảng đạo. Lưu-Trường-Sanh, Đàm-Trường-Chơn, Xích-Thái-Cổ và Vương-Ngọc-Dương bốn người theo ta. Khưu-Trường-Xuân thì ở lại coi sóc nhà cửa. Còn mấy người kia muốn về hay ở tự ý, ta đi kỳ nầy mau cũng một năm.
Tiên-sanh nói, làm náo động mấy người giả tu, rồi người thì nhớ nhà, kẻ muốn về thăm cha mẹ, có người nhớ con cháu nhà cửa, lại có người tính buôn bán làm ăn.
Đêm ấy soạn quần áo vật kiện, đợi sáng nói cùng Đơn-Dương đặng về. Đơn-Dương thấy vậy cũng muốn đưa đi cho rồi. Lúc nọ mấy mươi người cung tay từ biệt, coi bộ hân hoan.
Còn Mã-Đơn Dương trở về mao-am lấy ra năm cái áo bào, năm cái bồ đoàn và tiền bạc thảo hài, bầu cơm các việc đều đủ. Trùng-Dương tiên-sanh cùng bốn người thay mặc áo đạo, đợi trời sáng đi ra khỏi nhà.
Đơn-Dương đưa thầy đi rồi lại bỗng thấy Khưu-Trường-Xuân bèn hỏi đi đâu thì Trường-Xuân nói: - Tôi đi theo thầy. Đơn-Dương nói: - Thầy đã không chịu ông mới lánh mà đi, bằng ông đi theo chắc bị khảo nữa. Khưu-Trường-Xuân nói:
- Thầy đâu có giận tôi, vì thầy nguyện cho tôi học phải, mới chỉ chỗ Thần Tiên cho tôi; như tôi không theo thầy, chẳng là bỏ thầy. Sư huynh để tôi đi, dẫu thầy có khảo trừng thế nào cũng như cha dạy con thì phải đánh. Nói rồi liền chạy theo, Đơn-Dương kéo biểu trở lại cho tôi dặn. Thảy người nhớ nhà đều về hết, Trường-Xuân thương thầy chạy theo sau.
|
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Re: Truyền Thuyết Truyện Cổ Tue 24 Aug 2010, 21:54 | |
| THẤT CHƠN NHƠN QUẢ
Tác giả: Huỳnh-Vinh-Lượng
Hồi 14
Nghĩa là: Thử cái phàm tâm thường hay rắn trách, Thuận theo ý thầy thường chịu quy y.
Có bài kệ rằng:
Trừ dữ cũng như gỡ mối tơ, Dằn lòng chắc đặng gỡ không ngơ,
Bằng đem dụng sái nơi ý lực, Muôn kiếp ngàn sanh khó hết giờ.
Nói về Mã-Đơn-Dương kêu Khưu-Trường-Xuân trở lại nói rằng: - Thầy cùng mấy sư huynh đều cải đổi áo mão theo đạo mới đi đặng xa, trò mặc áo theo như người tục làm sao đi đặng? Tôi có áo nạp y mão đạo, cho trò lấy mặc đội đi theo mới đặng. Trường-Xuân nghe nói mừng rỡ, trở lại lấy áo mão mặc vào. Rồi Mã-Đơn-Dương đem bồ-đoàn và bầu vào đưa cho. Trường Xuân chạy theo thầy một hồi xa thấy mấy người đi trước với thầy.
Trường-Xuân thấy mấy người trong xóm người ta ăn cơm mai, trong lòng tưởng rằng: mình đi sớm chưa ăn cơm, thôi để đi xin cơm chay đem lại cúng dường cho thầy ăn, ngặt chưa nay chưa có ra xin, nên không biết làm sao xin.
Nghĩ một hồi rồi cũng đi đến nhà nọ, tay cầm bầu đứng trước cửa ngõ. Chó chạy ra sủa, người nhà ra thấy ông Khưu, rồi trở vô xúc một chén cơm nguội đem ra đổ trong bầu.
Ông Khưu mừng lắm, rồi xin thêm hai nhà nữa cho đầy bầu, hai tay bưng chạy theo thầy. Lại nói về Trùng-Dương tiên-sanh đi một hồi đến một gốc cây lớn ngồi nghỉ, hỏi Lưu, Xích: - Mấy ông có đem tiền sở phí theo không? Lưu-Trường-Sanh thưa:
- Vì thầy đi quá gấp, anh em tôi lật đật chưa kịp hỏi Mã sư-huynh xin tiền. Thầy nói: - Như không có tiền mấy người phải đi xin. Trùng-Dương tiên-sanh ngồi một mình dưới gốc cây thấy Khưu-Trường-Xuân đem một bầu cơm dưng cho thầy ăn. Tiên-sanh trách rằng:
- Ai biểu ngươi theo phá ta, ta chẳng chịu đồ của người cúng dường. Ông Khưu mời thỉnh đôi ba lần, thầy chẳng thèm nói tới.
Một lát mấy ông Lưu, Xích, xin cơm đem về thỉnh thầy ăn. Tiên-sanh lấy cơm của Lưu Trường-Sanh mà ăn, còn dư lại mấy người ăn hết. Ăn xong thầy trò ra đi hơn mười mấy dặm, trời tối thấy bên đường có một cái miểu, bèn vào miểu quét sạch, trải bồ-đoàn nghỉ một đêm.
Bữa sau thầy trò năm người đi trước, Khưu-Trường-Xuân ở sau xin cơm, gặp một nhà hiền lành biểu ông ăn cơm. Trường-Xuân nói: Có thầy tôi đi trước chưa ăn, tôi không dám ăn trước. Vị thiện-nhơn nói:
- Việc đó không sao, ông ăn đi, tôi có để một bầu cơm sạch sẽ, rồi ông đem cúng thầy ăn không muộn. Trường-Xuân thấy ông nói cũng phải, liền ngồi ăn, rồi tạ ơn, kế thấy một bầu cơm chay đựng riêng, hai tay bưng chạy theo thấy thầy đi cách chẳng xa, liền kêu thầy đợi tôi đem cơm lại ăn, Trùng-Dương tiên-sanh giả không nghe, đi hoài.
Trường-Xuân chạy theo kịp đem cơm dưng cho thầy ăn. Tiên-sanh ngó mà nói rằng: - Cơm đó của một nhà, ta không công nào dám ăn. Há chẳng nghe sách có câu: “Nhứt biến thiên gia phạn, cô thân vạn lý du”. Nghĩa là: Một bầu cơm ngàn nhà cho một mình ăn chơi muôn dặm.
Trường-Xuân nghe quở không dám trả lời; thầy nói rồi đi liền. Trường-Xuân trong lòng sợ muốn đem cơm trả lại cho chủ, ngặt trở lại thì xa, muốn ăn hết mà đã no rồi, không biết làm sao, hai tay bưng bầu cơm mỏi rụng, mồ hôi hột ướt mình, đi tới thấy thầy cùng mấy anh ngồi trên đá ăn cơm. Vì bữa đó xin ít nên ăn hết cơm của ông Khưu.
Đêm đó cũng ngủ tại cổ miếu. Trường-Xuân tánh thương thầy, trong lòng thầm tưởng: Thầy mình là người Xiểm-Tây, ít chịu ăn cơm, thích ăn bánh mạch (lúa mì), để mai mình xin bánh mạch về cúng dường cho thầy.
Bữa sau đi xin đặng mấy cái bánh mạch đem dưng cho thầy. Trùng-Dương tiên-sanh giận nói: Ta đã nói không ăn đồ của người xin, sao cứ theo phá ta hoài vậy? Nói rồi giựt cái bầu quăng dưới đất, bánh rớt xuống mương. Trường-Xuân lật đật lấy lên lượm bánh bỏ trong bầu, thấy thầy đi xa liền chạy theo khóc hoài.
(Đọc-giả biết tại sao mà Trùng-Dương tiên-sanh làm nhục Trường-Xuân lắm vậy chăng? Là vì ông Khưu tuổi còn nhỏ, đi ra học Đạo chẳng phải như mấy người kia, tánh chất chịu rồi, nếu chẳng gia khảo trở dồi mài như thế, thời làm sao đặng món đồ tốt?
Nên phải trau dồi cái Tánh. Còn Trường-Xuân căn sâu dày lắm, thường bị răn trách mà không biết buồn phiền, thiệt người có căn sâu.) Lại nói mấy thầy trò Trùng-Dương tiên-sanh đi hơn hai tháng đến xứ Giang-Nam, có cái chợ lớn, sau chợ có cái miễu kêu là “Hựu-Thánh-Quan”.
Thầy trò sáu người vào ở nhờ trong miễu. Miễu ấy không có đạo-sĩ hay thầy chùa, chỉ có một người già làm từ ở đốt nhang mà thôi. Người ấy cũng là thông thái, cho thầy trò ở đó. Qua ngày sau, Trùng-Dương tiên-sanh nói:
Ta muốn ăn thịt. Rồi mấy người liền đi mua một cân thịt đem về, tiên-sanh thấy thịt nói: Ta nay chẳng muốn ăn. Trường Xuân nghe thầy nói liền đem treo trên vách rồi cùng mấy ông vào xóm xin cơm.
Tiên-sanh thấy mấy người đi hết, mới lấy cân thịt đưa cho ông từ, rồi kêu Bạch-Hạc-Tiên ở núi Bồng-Lai ngậm đem một miếng cỏ Linh-chi giống như thịt, tiên-sanh tiếp lấy thổi một hơi hóa ra thịt heo, đem treo trên vách.
Một lát mấy người về thầy biểu đem thịt nấu ăn, Trường-Xuân lấy thịt xuống, hơi hôi khó chịu, thưa cùng thầy rằng: Thịt hôi rồi, ăn không đặng, thôi để tôi mua thịt khác cho thầy ăn. Tiên-sanh giận nói:
- Bọn bây là đồ tạo nghiệt, đem của thập phương về hủy hoại vậy sao? Đã mua thịt sao chẳng nấu ăn, để cho thúi hôi rồi lại bỏ? Ta nay cũng không phạt trách, song bọn ngươi phải ăn sống cho hết.
Thầy nói dứt lời, Lưu-Trường-Sanh, Xích-Thái-Cổ, Vương-Ngọc-Dương và Đàm-Trường-Chơn bốn người đều thất sắc. Khưu-Trường-Xuân thầm nghĩ mấy sư huynh là người văn chất làm sao ăn đặng thịt sống? Thà mình ăn hết, dẫu có hôi thúi khỏi ai oán hận đến thầy.
Chủ ý định rồi liền lấy miếng thịt kê bên mũi thiệt hôi khó chịu, nín hơi cắn một miếng nhai thử mà không nghe mùi thịt lại giống mùi củ cải sống, bùi ngọt, không hỏi liền ăn hết thịt ấy, nghe trong mình dường như thêm tinh thần khỏe mạnh.
(Vì Khưu-Trường-Xuân sau có nạn nhịn đói mấy chục lần, thầy sợ ổng thành bịnh lao, nên hóa ra miếng thịt đó cho ổng ăn, ngày sau không sanh bịnh, đặng thành Kim-Tiên cũng nhờ sức miếng thịt đó.)
Lại nói Lưu, Xích mấy ông thấy Trường-Xuân ăn hết thịt rồi trong lòng mới mừng. Lúc đó nhằm mùa lạnh, mấy ông vào xóm xin đặng ít bó củi khô. Đêm đó mưa tuyết lạnh lùng, mấy ông lấy củi khô đốt hơ.
Tiên-sanh thấy vậy không bằng lòng, lấy củi quăng hết vô lửa phát cháy, khói bay mù mịt, rồi lấy vá thiếc đập tắt, mấy người nghẹt hơi không chỗ trốn. Trong miễu chật hẹp, phần gió ngoài bay vô, ông nào cũng chảy nước mắt, đều chạy ra hết.
Thầy thấy mấy ông chạy ra, liền đóng cửa lại, rồi lấy bồ đoàn ngồi tại cửa ngăn đó. Mấy ông đứng ngoài đợi một hồi hết khói mới vô tránh lạnh. Chừng lại xô cửa không đặng mà không dám kêu, phải ngồi ngoài mà chịu. Chẳng may gặp trận gió tuyết bay lại, mấy ông đều lạnh run. Lưu-Trường-Sanh nói:
- Thầy có truyền “Hỏa-Hậu”, anh em mình luyện thử coi bớt lạnh chăng? Khưu-Trường-Xuân cùng mấy ông ngồi lại công-phu điều hơi vận khí, luyện một hồi chẳng những hết lạnh, lại thêm hơi nực. Hồi lâu hừng sáng, thấy cửa chùa mở ra, mấy ông bước vào thấy thầy ngồi trên bồ-đoàn, nói rằng:
Các ngươi ghét lạnh sợ nực, tham sanh phạ tử, bỏ chơn cầu giả, ham dùng lửa giả chẳng chịu vận lửa chơn, biếng-nhác chẳng chịu công phu. Như vậy làm sao tu cho thành Đạo? Nếu không phạt đánh, ắt ngày khác trước cần sau lại dãi-đải.
Thầy nói rồi liền biểu Vương Ngọc-Dương đem thước bảng phạt đánh mỗi người hai chục đặng ngày sau đừng có vậy nữa. Lưu, Xích mấy ông nghe nói chẳng dám trả lời. Khưu Trường-Xuân quì trước mặt thầy thưa rằng: Việc đó lỗi tại tôi chẳng can mấy anh, để một mình tôi chịu phạt, tha hết mấy anh.
Thầy nghe nói hỏi rằng:
- Ngươi thiệt dám chịu cho mấy người hết sao? Trường-Xuân thưa: - Xin chịu hết. Thầy nói: - Như ngươi dám chịu hết, mỗi người phạt đánh 20 bảng, năm người cộng lại là 100 bảng. Lưu, Xích mấy ông nghe nói đều lại cầu xin. Tiên-sanh nói:
- Mấy người đều cầu xin không lẽ ta không tha, như vậy sau đừng làm biếng nữa mà lầm lỗi việc tu. Thầy nói rồi quăng thước bảng nói cùng Lưu-Trường-Sanh:
- Ta khi đó muốn Nam du, nay hết muốn đi nữa, muốn trở về bên Bắc, phải tính đi liền chẳng trễ nải. Thầy nói rồi ra đi. Khưu, Lưu mấy ông lật đật thâu cuốn bồ-đoàn và lấy bầu rồi tạ ơn ông từ, liền đi theo thầy, cũng do đường cũ trở về Sơn-Đông.
Đi mấy bữa về đến nhà Mã-viên-ngoại. Trường-Xuân đi trước báo cho viên ngoại hay, viên-ngoại lật đật ra tiếp rước thầy vô, mời đến mao am tu dưỡng không có việc chi, thiệt là thanh tịnh.
Cách chừng một tháng mấy người đệ tử nghe nói thầy về đều tới học đạo nữa, cũng đặng đông đảo như trước. Thầy thấy vậy lập ra một kế hay, muốn dời mấy người giả tu đó tan hết. Chẳng đem giả ý dời ra hết, Sao đặng chơn tâm ngộ đạo lai.
|
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Truyền Thuyết Truyện Cổ | |
| |
| | | |
Similar topics | |
|
Trang 2 trong tổng số 4 trang | Chuyển đến trang : 1, 2, 3, 4 | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |