Shiroi
Tổng số bài gửi : 19896 Registration date : 23/11/2007
| Tiêu đề: Những cái bất ngờ lý thú trong khi tìm hiểu tiếng Việt và nguồn gốc Nam-Á Fri 10 Feb 2012, 18:58 | |
| Những cái bất ngờ lý thú trong khi tìm hiểu tiếng Việt và nguồn gốc Nam-Á
- Nguyễn Hy Vọng - Có một nhà ngôn ngữ học rất đặc biệt là ông Paul Benedickt.
Ông này, có lần đến Saigòn chỉ một ngày mà tìm ra bao nhiêu là tiếng Việt dính líu với các tiếng khác ở Đông nam Á, và ông này đã viết nhiều về những gì mà tiếng Tàu đã vay mượn của các tiếng nói khác ở Đông nam Á, giải tỏa cái huyền thoại sai lầm là ai cũng phải mượn tiếng và chữ Tàu mà dùng, trong khi tiếng Tàu chẳng cần mượn tiếng của ai cả. Những khám phá mới của ông Benedict đã đảo ngược vấn đề ai mượn của ai và làm sáng tỏ thêm về sự đóng góp đáng kể cho tiếng Tàu từ những tiếng khác của các dân tộc trong vùng Đông nam Á [South East Asian linguistic influence upon the Chinese]. Từ 1967, các ông Benedickt và Jerry Norman đã nghi ngờ về tên của các con vật năm tuổi / tý sửu dần mão v..v...là do Tàu mượn của các tiếng nói Nam Á
Những chữ Tàu ấy rất lâu đời, được viết lên các mảnh xương từ mấy ngàn năm về trước, khi miền Nam sông Dương tử chưa phải là nơi sống của người Tàu [theo ông Shafer trong sách Ancient China.] Thật ra từ năm 1935, nhà khảo cổ Georges Coedes cũng đã có nhắc đến tên các con vật trong con giáp [chuột, trâu, thỏ, rồng, rắn v..v.. sao mà giống nhau quá giữa các tiếng Khmer, Lào, Thái và Mường, Việt, mặc dù hồi cách đây 70 năm rồi, ai cũng tin là tiếng Việt là do tiếng Tàu mà ra [Phạm Quỳnh] và rất nhiều ông Hán Việt khác, ngay cả gần đây, ông Nguyễn Phương, Đại học Huế, còn cho là : ... người Việt là người Tàu qua đất Việt ở mà thành ra người Việt
Suốt 22 năm qua , không những tôi đã góp nhặt được rất nhiều tài liệu ngôn ngữ so sánh [comparative linguistic, cognates studies] chứng tỏ một cách rõ ràng là các tiếng nói ở ĐNÁ đều có chia xẻ một nguồn gốc chung, mà có rất nhiều tên hoa, trái, lá, cây và những con thú vật đều được các ngôn ngữ trong vùng đó gọi tên giống nhau và đặc biệt là tên các con vật năm tuổi. Sau đây là bảng so sánh lý thú mà các bạn đọc chỉ cần nhìn vào cũng thấy ngay sự giống nhau giữa các tiếng nói anh em ở ĐNÁ , và thấy ngay sự khác biệt với tiếng Tàu. Các bạn đọc người Thái, Lào hay Khmer cũng có thể đọc ngay chữ của họ và thấy ngay khi họ đọc lên sự giống nhau với tiếng Việt của ta, ngoài ra, ta còn thấy ngay sự giống nhau quá sá giữa tiếng Mường với tiếng Việt !
Bảng so sánh dưới đây, chỉ phiên âm thôi, nhưng có chua thêm tên các con giáp trong tiếng Hmong và tiếng Khasi [chung dòng Mon Khmer với Vietnam ta] để cho bạn đọc dễ thấy nhất quán sự giống nhau đó, dù là tiếng Hmong không cùng một dòng ngôn ngữ với tiếng Việt. Bảng so sánh tên các trái cây miền nhiệt đới giống nhau biết chừng nào trong khi rất xa lạ với các tên Tàu của chúng nó. Hai bảng so sánh này chỉ là hai trong hàng ng àn bảng so sánh khác trong quyển Từ điển các tiếng đồng nguyên với tiếng Việt ở ĐNÁ
gồm cả thảy 275 ngàn tiếng một lẩn tiếng ghép [compound words] đồng nguyên với nhau [cognatics] làm thí dụ và bằng chứng cho nguồn gốc Nam-Á của tiếng Việt vững chắc như đinh đóng cột
trong khi giả thuyết tiếng Việt từ tiếng Tàu mà ra đã bị ê-kíp ngôn ngữ học của Encyclopedia Britanica bỏ rơi [xem đoạn trích dẫn sau đây} Tiếng Việt do đâu mà ra, ở đâu mà có, có từ hồi nào và lúc ban đầu nó như thế nào> Hãy nghe những nhận xét mới mẻ nhất về nguồn gốc tiếng Việt từ Encyclopedia Britanica 1999 và Encarta Microsoft 2000 : ... a long held notion that identified the Vietnamese with one tribe of the Yueh of southern China has been abandoned ...
... the theory that regards them [the Yueh] as direct ancestors of the Vietnamese conflicts with ethnographic and biological evidences quan niệm lâu đời cho rằng người Việt là một trong những bộ lạc Yueh hồi xưa ở miền nam nước Tàu bây giờ; quan niệm ấy đã bị gạt bỏ cái giả thuyết cho rằng dân Yueh ở bên Tàu là tổ tiên trực tiếp của dân tộc Việt mâu thuẫn với những bằng cớ dữ kiện nhân chủng và sinh học hiện đại all points to strong social and cultural affinities between the Vietnamese and people of the Tai and Indonesian families ... the Vietnamese people represents a racial and cultural fusion...
mọị [sự kiện] đều cho thấy rằng có nhiều điểm rất giống nhau về văn hóa và xã hội giữa các giống người Việt, người Thái [gốc Tai] và người Indonesian ... modern day Vietnamese share many cultural and linguistic traits with other non-Chinese peoples living in neighboring areas of Southeast Asia .. the Vietnamese language is distinct, it can be described as a fusion of Mon Khmer, Tai and Chinese elements người Việt ngày nay chia xẻ nhiều nét văn hóa và ngôn ngữ với nhiều dân tộc không phải là Tàu, đã và đang sinh sống ở những vùng lân cận với họ tại Đông nam Á Cái tiếng nói của họ thì riêng cho họ, có thể xem như là một hỗn hợp giữa dòng tiếng Mon Khmer, các tiếng Tai và tiếng Tàu It is now generally believed that the Lac people were the result of a mixture between Australo-Melanesian inhabitants who had lived in the area since Paleolithic times and Asiatic people from China, who later migrated into the area ngày nay người ta đồng ý nghĩ rằng các bộ tộc dân Lạc [Tàu nói là Lo] xưa là kết quả của một sự lai giống giữa các người Australo Melanesian [Nam Đảo/các đảo miền nam] đã sinh sống tại chỗ, với các sắc dân Á châu [không cứ gì người Tàu] đã tràn xuống, mãi về sau này
The official language of Vietnam is the Vietnamese, a member of the AustroAsiatic language family, a distinct language although it has some similarities to other languages of Southeast Asia and to Chinese. It's syntax is closer to Khmer tiếng Việt là tiếng nói chính thức của Vietnam, một nhánh ngôn ngữ của dòng họ Austro Asiatic [Nam Á][miền Nam Á châu] một thứ tiếng nói riêng biệt mặc dù nó có nhiều sự giống nhau với các tiếng nói khác ở Đông nam Á và cả với tiếng Tàu nữa. Ngữ pháp /cách nói và đặt câu/ của tiếng Việt giống với ngữ pháp của tiếng Khmer (theo Encarta Microsoft 2000] Những lời nói trên như là những gáo nước lạnh dội lên lưng những ai còn nghĩ là tiếng Việt chỉ là một thứ con rơi con rớt, con hoang, con nuôi của tiếng Tàu: Ông Huỳnh tịnh Paulus Của đã viết trong bài mở đầu của từ điển Đại Nam quốc âm tự vị [1895] :
‘ ấy người Giao chỉ điêu tàn thì tiếng nói cùng chữ nghĩa Giao chỉ cũng phải lạc...nếu chẳng tham dụng chữ Trung quốc thì sao cho thành tiếng nói An nam?’ chú ý : chẳng qua là ông ta lầm cái tiếng với cái chữ, và đặt cái cày trước con trâu ! Ông Phạm Quỳnh, đã nói cách đây 80 năm rằng: ... quốc văn tất phải có nguồn gốc từ đâu mà ra, và nguồn gốc ấy tức là Hán văn, quốc văn là cái văn nguồn gốc từ chữ nho không thể bỏ chữ nho mà thành lập được Ông Phạm duy Khiêm, đã nói, khi cọng tác với cụ Trần trọng Kim làm quyển Việt Nam văn phạm, rằng
cette langue est encore au stade des langues tribales [tiếng Việt đang còn ở giai đoạn ngôn ngữ của một dân tộc thiểu số] chú ý : hiện nay tiếng Việt có độ 80 triệu người nói và đứng thứ 14 về số đông người nói trên thế giới! Ông Lê ngọc Trụ, cách đây 40 năm, nhìn đâu cũng thấy tiếng Tàu, nên đã gượng ép gán cho rất nhiều tiếng Việt, từ Việt những cái âm hưởng đồng nguyên giả tạo [false cognatic inferences ] với tiếng Tàu hay âm Hán Việt mà không hề đưa ra bằng chứng có thật về đồng nguyên với các ngôn ngữ khác ở Đông nam Á :
chỉ sinh ra giấy tranh sinh ra giành chủng sinh ra giống chính sinh ra giêng / chính nguyệt là tháng giêng!
khang sinh ra xương cấp sinh ra gấp cương sinh ra giềng [- mối] tiết sinh ra Tết
tải [chuyên chở] sinh ra chài [ghe chài][?!] Ta hãy xem dưới đây nguồn gốc [cognates] thật sự của các tiếng trên : GIẤY [paper / papier]
Mường : k-chấy Burma : s-giuếy [nếu bảo là âm này là Tàu thì tại sao người Mường và Burma còn phát âm giống Việt hơn nhiều?] GIANH [to dispute, compete, vie for, to accaparate, take away from, ][se disputer, entrer en compétition, s'emparer de] Mường : chènh, chèng
Nùng : cheng tranh giành Thái : pr-chành gièng chjing giành nhau Mon : k-giành
Khmer : pr-chèng chèng kòn-nhèng tròn-chèng Indonesia : saing giành giựt [nếu bảo là do chữ tranh của Tàu mà ra thì tại sao không nói là cạnh giành, giành thủ, giành chấp, chiến giành! màlại nói là cạnh tranh, tranh thủ, tranh chấp, chiến tranh?]
GIỐNG [species, gender, race][espèce, genre, race] Hmong : t-zống Thái : kh-yong kh-giống GIÊNG # tháng giêng [first month of the lunar calendar][premier mois lunaire] / không phải là do chữ chính ? mà ra !
vì nguồn gốc và nghĩa nó khác hẳn: Thái : chiêng giêng đươn chiêng tháng giêng đươn kiêng tháng giêng
Nùng : chiêng giêng hươn chiêng tháng giêng Lào : đươn giêng tháng giêng Burma : a-yiêng [đầu tiên, trước hết]
Pali/Sanscrit : yir id Chàm : bulăn đhia tháng giêng [nếu bảo là do chữ chính của Tàu mà ra, thì tại sao không nói là giêng trị, giêng quyền, giêng sách v..v.. mà lại nói chính trị, chính quyền, chính sách] ?
XƯƠNG [bone][os] một tiếng rất hay nói : [bộ -, - xóc, - xẩu, gãy - v..v...] mà ông Lê ngọc Trụ gán cho nó một âm hưởng Hán Việt là khang , trong khi hàng chục đồng nguyên của hàng chục ngôn ngữ anh em với tiếng Việt dưới đây, cho thấy quá rõ nó nguồn gốc từ đâu: Mường : xang Nùng : xang Khmer : x-ưang
Aslian[bên Malaysia] : xương Hmong/Mèo : x-âng Bahnar : x-ang, k-xang Sedang : k-siang, k-xiang Katu, Bru : ng-ang Rengao : k-xâng
Mdrah, Didrah, Todrah [gần Kontum] : k-xeng Palaung/Wa : x-ang Mundari, Santali [đông bắc Ấn độ]: xang, zang, jang [hàng chục sắc dân này đâu có dính dáng gì đến Tàu đâu, họ đều phát âm như Việt vậy]
GẤP [hurried, hasty, urgent][urgent, en hâte, hâtif] Malay: gapah Thái : khu-ấp khấp k-kấp k-kap gấp gáp !
hu-ấp háp id h-ngốp h-ngap id Khmer : hi-ấp id
Saora[dòng Munda} : s-gấp id Lào : hấp / rấp id hấp rịp gấp và rộn rịp!
hấp pày đi gấp Chàm : h-gấp gấp, vội [cả vùng ngôn ngữ Đông nam Á mấy trăm triệu người cũng nói vậy, đâu phải chỉ là vấn đề riêng giữa Việt và Tàu đâu? mà bảo là gốc Tàu!] GIỀNG [- mối] English : established customs, habits, patterns of transaction, business or ways of life
Francais : coutumes, habitudes de vie, pratiques de transactions một chữ nghe âm hưởng rất làViệt và có vẻ quê mùa, vậy mà dính gốc với Thái Lào thuần ròng và đúng điệu ! Thái : yiềng [kiểu cách, cách thức đường lối] ji êng id Khmer : riềng hình thức, kiểu mẫu, mô hình Lào : yiềng sự sắp xếp, xếp đặt, dàn xếp
[chữ giềng tự nó đã có nguồn gốc rõ ràng, cần gì phải gượng ép bắt nó dính líu vào chữ cương của Tàu? ] TẾT [ngày -, ăn -, pháo -, chúc -, lễ -, hội -, mừng -, đi -, biếu -, quà -, sắm - // - nhất, - ta, - tây v.. v..] Tết là ngày hội hè đầu năm Eng : lunar new year festival, celebration, holidays
Fr : nouvel an oriental, du calendrier lunaire một tiếng ‘nhức nhối’ về ý nghĩa, các ông Hán Việt cho là nó đọc trẹ cái âm của Tàu là tiết [season, time, climate change...] từ điển Huỳnh tịnh Paulus Của : tiết đầu năm
Từ điển Khai trí tiến đức : không hề cho rằng tết là tiết . Từ điển của Al de Rhodes : có nhắc đến những từ ngữ : tết năm, tết ai, ăn tết Nhưng coi chừng, cả mấy chục ngôn ngữ ở Đông nam Á không dính dáng gì đến Tàu cũng nói như vậy! coi chừng bé cái lầm. Sự thực cái lầm này không bé tí nào, nó lầm lớn lắm và lầm lẫn đã hơn hai ngàn năm nay rồi, hãy xem xét trong các ngôn ngữ sau đây:
Nùng : Tét Tết nièn Tét năm Tết Chàm : băng Tít ăn Tết [băng là ăn] Tít Tết [lễ tháng năm của lịch Chàm]
bùlăn Chết tháng Tết Khmer: Chêtr lễ tháng năm [lịch xưa của Khmer] tháng gió mùa bắt đầu thổi ngược lại tháng của mùa gió nồm ở Đong nam Á tháng của mùa mưa đến trên lục địa Ấn và miền ĐNÁ
[Tùy theo vị trí từng nước, mưa đến với gió mùa từ cuối tháng tư đến cuối tháng năm ] tên tháng 4 và 5 của lịch Ấn xưa khae Chết tháng tết [tháng 4 dương lịch] khae là tháng tháng Tết Khmer # 13 tháng tư dương lịch # 23 tháng ba âm lịch Chết khal thời gian có lễ Tết ấy [khal là thời gian, lúc, khi ]
Thái : Thết thết khal mùa tết, những ngày tết [annual Thết celebration / new year propitious ritual] thết Thày tết Thái / Thái new year ritual celebration Trếts # Tết [từ điển Francais -Thái của Pallegoix]
trêts chền Chinese new year [ chền là Tàu] chêtr fifth lunar month # mid April trôts lễ hội đầu mùa mưa của lịch Thái xưa, cuối April-May trôts farăng dịch là Tết hoa lang [western new year]
chú ý: farăng # Hoa lang # occidental, western Zhuang : SIT Tết của người Zhuang bên Quảng Tây, một bộ tộc thuộc dòng Tai, họ đông đến 25 triệu người, nói tiếng thái xưa đươn sít tháng tết [yearly monsoon festival ritual celebration]
Mon : K-têh first days of Mon new year Nepal : Teej [Teetj Brata] lễ đầu năm của người Nepal [theo báo Người Việt Oct 9, 1992/ số báo 305] Mustang : Tij, tiji ngày lễ mùa mưa đến [xứ Mustang ở sát với Nepal]
Đông Bắc Ấn độ : Teej # monsoon festival[theo National geographic thì : swinging in celebration, village girls sing the ancient melodies of Teej , the festival marking the return of the monsoon and the promise of prosperity] xem hình. Sau cùng , cái cú dứt điểm [knock out punch] chấm dứt cái quan niệm sai lầm 2100 năm hơn của chúng ta là cái cú [coup]này: Chính Khổng tử cũng không hề nói tết là do tiết mà ra ! Ông nói rằng :
...’ ta không biết tết là gì! nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn người Man họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó mà không phải là những ngày đầu năm của chúng ta. Nghe đâu họ gọi là Tế-xạ ‘ / theo kinh Lễ ký / Nếu Khổng tử nghĩ rằng tiết sinh ra tết, sao lại còn đi phiên âm một cách khá vụng về là Tế-sạ làm gì ? Chữ tiết của Tàu dù là đời Khổng tử đi nữa làm sao mà trẹ cái âm thành ra tế-sạ được? Bởi vì ổng không nghĩ như thế!
Rồi không lẽ ổng không nghĩ như thế mà ta lại cứ khư khư bo bo mà suy nghĩ như thế làm gì nhỉ, hơn nữa có cả chục ngôn ngữ khác chẳng ăn thua gì đến tiếng Tàu mà cũng lại nói trại trại trẹ trẹ # Tết y như ở trên làm ta phải suy nghĩ lại về cái hiểu lầm tết # tiết CHAI [kẻ -, ông -, người -, bạn -, tay -, thuyền -, đi -, làm nghề -, thả -, kéo -, đan -, quăng -, cất -, dở -, kéo -, vạn -, làng - // - lưới, - cá // chóp -, nắm chóp -] ~ chài là cái lưới cái rớ, cái đồ đánh cá, dụng cụ để bắt cá
~ chài là tung ra, rải ra, quăng ra, vất ra, ném ra, lia ra, liệng ra, làm cho bung ra ~ chài {nghĩa bóng} là quyến rủ, dụ dỗ, mê hoặc, nhử cho ai bị mắc bẫy, mắc lưới, vào tròng {chài gái, chài yểm, đi chài kẻ khờ khạo] Eng : fish net, fish trap / to throw a fish net, to set a fish trap / to trap, to entrap, to lure into entrapment, to catch with a snare, to ensnare Fr : filet de pêche, épervier, tramail, carrelet de pêche / jeter l'épervier / jeter un sort, envouter, captiver qq par des paroles douceureuses Pali/Sanskrit/Thái : chal cái chài[ # lưới, rớ]
Lào : chal cái chơm tre để chơm cá Chàm : chal cái chài, lưới cá, rớ cá thrah chal # thả lưới, thả rớ để bắt cá
Indonesia : jala cái chài[lưới, rớ, dụng cụ bắt cá] mata jala mắt lưới chjala cho vào lưới, làm cho mắc bẫy, gài bẫy chú ý: nghĩa bóng cũng giống nhau giữa tiếng Indonesia và Việt ! Bấy nhiêu cũng đủ đánh gục cái quan điểm hời hợt giả tạo là tiếng Tàu tiếng Việt một lò mà ra
Ông ấy lại còn viết : ‘trong sự truy nguyên, còn xét những tiếng gần với tiếng Mường Chàm Thái Khmer, Mã lai; công việc này ngoài phạm vi chính tả của chúng tôi ‘ Vậy hóa ra ổng làm như thể là những tiếng đó không có chính tả, muốn viết sao thì viết à? Tại sao ông ấy lại cứ phải né tránh, mà chỉ muốn truy nguyên riêng cho Hán Việt? Đã gọi là truy nguyên mà cứ nhè một ngườI / đối tượng mà truy thôi, hèn gì mà đối tượng đó lãnh đủ ! có bao nhiêu tiếng Việt , ổng đều quy cho là tại tiếng Tàu mà sinh ra cả! Cũng tội nghiệp cho tiếng Tàu, ai ăn đâu mà mình phải chịu trận.
Vậy thì chân tay ở đâu mà sinh ra, không lẽ do thủ túc mà sinh ra? mặt mũi, mắt ở đâu mà sinh ra, không lẽ lại bảo là ngoài phạm vi chính tả của ổng? Tệ hơn nữa là gần đây, ông Nguyễn Phương, giáo su Đại học Huế trước 1963, còn viết:
‘... người Việt chẳng qua là người Tàu mà tràn xuống sinh sống ở vùng quanh châu thổ sông Hồng hiện nay, rồi khi đủ điều kiện thuận tiện thì trở thành người Việt...! [xin miễn phê bình] ..’ tiếng Việt chẳng qua là tiếng Tàu xen lẫn một vài tiếng Mường tiếng Mọi mà thôi {sic]...vì chẳng qua gặp dịp có thêm một vài tiếng để mà tiện nói chuyện hay buôn bán với họ ..’ [miễn phê bình luôn vì nhận xét ấy quá kì !] Cũng may là có một số ít học giả [Nguyễn háo Vĩnh, Nguyễn văn Ngọc, và Dương quảng Hàm] đã nhìn xa thấy rộng và mong hiểu biết rõ thêm về nguồn gốc thật sự của tiếng Việt, như ông Dương quảng Hàm đã nói, khoảng năm 1941: ..’Lạ thay cho nước mình, có tiếng nói mà không hề ai học tiếng, không đâu dạy cách dùng tiếng, không sách nào nói đến nghĩa tiếng, cùng mẹo đặt câu...’ chưa từng ai nghiên cứu học hành tiếng An nam cả...
[cái tinh đời của ông Dương quảng Hàm là hiểu rằng chữ viết không phải là tiếng nói, viết ra mà không hiểu thì cũng như không!] Các nhà ngôn ngữ học hiện đại đều công nhận cái ưu tiên của lời nói hơn chữ viết rất nhiều [primacy of the spoken words over their written forms] Tôi xin đưa ra một thí dụ trong hàng ngàn thí dụ : người Việt ta viết được chữ đau đớn, [dù là bằng cách viết a b c hay bằng chữ Nôm] nhưng ta đâu có hiểu đớn là gì?!
Có cả # 5000 tiếng Việt như là đẹp đẽ, mới mẻ, sạch sẽ, vui vẻ, da dẻ, v..v.. nếu chỉ viết vào đây thôi, ba ngày cũng chưa hết, vậy mà người Việt ta đâu hề có hiểu là gì ?!
|
|