Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
Tiêu đề: Re: Ngộ Mon 19 Dec 2011, 16:53
Những dòng thơ đời của TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là con trai cả của Trần Liễu, anh của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và Thiện Cảm Hoàng hậu (húy là Thiều, vợ của vua Trần Thánh Tông). Ông sinh năm 1230, mất năm 1291. Hưng Ninh Vương là tước do vua Trần Thái Tông ban cho ông vì cảm cái nghĩa của cha ông là An Sinh Vương Trần Liễu khi Trần Liễu qua đời.
Nói về thơ văn và con người của Tuệ Trung, Nguyễn Huệ Chi đã viết: «Tìm ra thơ văn của nhà sư uyên bác đồng thời là một võ tướng có nhiều công lao dẹp giặc này là một cống hiến vô cùng quý giá. Nó làm hiện diện trước chúng ta một nhân cách, một cá tính phong phú, trong cái thế giới thanh tịnh nói chung, cái thế giới tiêu diệt mọi ‘ngã kiến’ của đạo Thiền. Ít nhiều, nhân cách đó giống như là một sự ngấm ngầm tuyên chiến của một con người khí phách ngang tàng đối với tất cả những gì đi ngược lại quy luật cuộc sống.» [1]
Là thiền sư, Tuệ Trung là bậc thầy của phái Trúc Lâm đời Trần, là người mà «vua Dụ Lăng (tức Trần Thánh Tông [Huệ Thiên chú]) mộ tiếng từ lâu nên sai sứ vời vào cửa khuyết. Phàm những lời hầu chuyện của nhà vua đều là lời siêu tục, do đó vua suy tôn người là Sư huynh và ban cho tên hiệu hiện nay.» [2] Còn chính Trần Nhân Tông thì đã nhận ông làm thầy. Nhà vua viết: «Một ngày kia, ta hỏi người về cái gốc của tôn chỉ Thiền. Thượng Sĩ ứng khẩu đáp: “Hãy quay nhìn lại cái gốc của mình chứ không tìm đâu khác được.” Ta bỗng dưng bừng tỉnh con đường phải đi, bèn xốc áo tôn người là thầy.» [3]
Là võ tướng, Hưng Ninh Vương Trần Tung đã «cùng với Hưng Đạo Vương đem hơn hai vạn quân đến đón đánh, kịch chiến với tướng giặc là Lưu Thế Anh và đuổi Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt. Và trong cuộc kháng chiến (chống quân Nguyên – HT) lần thứ ba, ông còn được giao những nhiệm vụ ngoại giao quan trọng, nhiều lần đến đồn trại giặc vờ ước hẹn trá hàng, làm cho quân giặc mất cảnh giác, sau đó cho quân đến cướp doanh trại giặc.» [4]
Tuy nhiên, người ta vẫn chưa rõ lý do vì sao sau cuộc kháng chiến thắng lợi thì tên tuổi của ông lại hầu như không được nhắc đến. Đành rằng sau đó, theo Thượng Sĩ hành trạng của Trần Khâm, ông có nhậm chức Tiết độ sứ, trông coi phủ Thái Bình nhưng chẳng được bao lâu ông lại lui về ấp Tịnh Bang để lập Dưỡng Chân trang mà theo đuổi nghiệp Thiền. Đây rõ ràng là một điều bí ẩn trong cuộc đời của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung, và nguyên nhân đích thực của điều bí ẩn này có lẽ đã là động cơ – nghĩa là thi hứng ! – khiến ông viết thêm nhiều bài thơ hoặc câu thơ đầy ẩn ý mà giọng điệu khi thì rất chua chát, lúc lại khá gay gắt. Với những giọng điệu đó và bên trong những ẩn ý đó, đã toát ra một tâm trạng bất mãn và cô đơn.
Ngay trong bài Dưỡng Chân 養真 (nuôi dưỡng chân tính), chúng ta cũng đã thoáng thấy được cái duyên cớ đã làm cho ông phải xa lánh chốn quan trường mà đi vào cõi thiền:
Thân xác hao gầy há đáng than, Phải đâu hạc cả lánh gà đàn; Nghìn xanh muôn thuý mờ non nước, Góc biển lưng trời: nơi dưỡng chân. [5]
(Suy táp hình hài khởi túc vân, Phi quan lão hạc tị kê quần; Thiên thanh vạn thuý mê hương quốc, Hải giác thiên đầu thị dưỡng chân.)
Câu «Phi quan lão hạc tị kê quần» là một câu thơ đầy ẩn ý. tại làm sao tác giả lại phải thanh minh rằng việc mình đi tìm nơi chốn để nuôi dưỡng chân tính không phải là để tránh cái cảnh «hạc lập kê quần» (con hạc đứng giữa bầy gà)? Không phải tức là phải. Đây là một câu qua đó chính tác giả hình như muốn hé mở cho chúng ta thấy được niềm tâm sự tưởng chừng như sẽ không bao giờ được tiết lộ của ông. Và «kê quần» ở đây đương nhiên không phải là ai khác hơn quần thần của triều Trần lúc bấy giờ. Đây là cái dấu hiệu đầu tiên cho chúng ta thấy hình như Tuệ Trung là một con người bất đắc chí. Những chi tiết quá ít ỏi được ghi nhận về hoạn lộ của ông cũng cho chúng ta thấy được hẳn ông phải là một nhân vật lỗi lạc không những về quân sự, mà cả chính trị lẫn ngoại giao. Về quân sự, như đã thấy, ông đã từng cùng em trai đánh giặc Nguyên một trận nảy lửa, đuổi Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt. Về ngoại giao, ông đã từng là nhà thương thuyết vào thẳng nơi đồn trại của quân Nguyên và đã đánh lừa được kẻ địch để thực hiện kế hoạch tác chiến. Ấy thế cuối cùng ông lại phải lui về Dưỡng Chân trang. Rõ ràng đây không phải là một điều dễ hiểu.
Bài Giản để tùng 澗底松 (cây tùng ở đáy khe) khuyến khích chúng ta tin tưởng thêm ở những điều đã suy diễn bên trên:
Thương cội tùng xanh tuổi bấy niên, Đừng than thế mọc lệch cùng xiên; Cột rường chưa dụng người thôi lạ, Cỏ dại hoa hèn trước mắt chen.
(Tối ái thanh tùng chủng kỉ niên, Hưu ta địa thế sở cư thiên; Đống lương vị dụng nhân hưu quái, Dã thảo nhàn hoa mãn mục tiền.)
Cây tùng xanh «trồng bao năm» (chủng kỉ niên), nghĩa là thực ra đã trồng tự không biết bao nhiêu lâu rồi, mà lại bị «trồng lệch», nghĩa là trồng không đúng chỗ, đúng thế: tận dưới đáy khe thay vì tít trên đỉnh núi. Chung quanh nó chỉ có toàn là «cỏ dại hoa hèn». Và không phải người ta không lấy làm lạ về việc không có ai đốn nó đem về làm rường, cột cho nhà cửa, mà thảm hại hơn nữa là người ta đã «thôi lấy làm lạ» (hưu quái) về việc đó, vì điều này đã trở nên nhàm chán. Người ta đã quên cây tùng dưới đáy khe rồi. Đương nhiên trên đây chỉ là nghĩa đen. Bài thơ thật ra là cả một thể phúng dụ sâu sắc, mà chua chát, qua đó tác giả đã không ám chỉ ai khác hơn là chính mình. Và cội tùng mọc giữa đám cỏ dại hoa hèn này cũng là một với thân hạc đứng giữa bầy gà lớ ngớ kia. Quả là một bài thơ tự thán thấm thía đầy thương cảm. Người ta đã quên bẵng đi cái tài lương đống của Trần Tung rồi. Nói cho đúng ra, hình như người ta đố kị nó.
Đành rằng đi vào cõi Thiền, Tuệ Trung vẫn là một thiền sư cự phách, nhưng ông đâu có phải là kẻ câu nệ, cố chấp; ông đâu có phải là kẻ chủ trương hễ muốn đi vào Thiền thì tất yếu phải từ bỏ chốn quan trường và xa lánh cuộc đời. Ông cũng có thê có thiếp, có kẻ hầu người hạ. Mà ông cũng chẳng ăn chay. «Thượng Sĩ trộn lẫn với thế tục, hoà cùng ánh sáng, chứ không trái hẳn với người đời (...) Ngày kia, Thái hậu (xưa là cô Thiều, em gái của chàng Tung), làm tiệc lớn đãi người. Người dự tiệc, gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ hỏi: “Anh tu Thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao được?” Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng chẳng cần làm anh (...).» [6] Một con người như vậy hẳn đã phải có ước vọng sử dụng tài năng của mình để cống hiến cho nước cho đời không những về mặt giáo lý Thiền tông, mà cả về mặt quốc kế dân sinh. Nhưng hoạn lộ của Trần Tung lại trở thành một ngõ cụt. Thế thì làm sao mà không tự thán cho được! sau đây là một bài thơ tự thán nữa. Đó là bài Chiếu thân (soi mình):
Sém đầu giập trán vận kim bào, Ta bấy năm nay: chốn xưởng tào; Hễ đã hơn người và vượt bậc, Vẻ vang rồi lại đến lao đao.
(Tiêu đầu lạn ngạch bị kim bào, Ngũ thất niên gian thị xưởng tào; Túng dã siêu quần kiêm bạt tụy, Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao.)
Thành ngữ «tiêu đầu lạn ngạch» (cháy đầu nát trán) có ý nhắc đến «Hoắc Quang truyện» trong Hán thư: những kẻ chữa cháy cho nhà chủ bị hoả hoạn, hễ ai bị «cháy đầu nát trán» thì được chủ nhà mời ngồi trên trong tiệc mừng cơn lửa bị dập tắt, còn người bày vẽ cho chủ nhà cách tránh hoả hoạn (mà chủ nhà không nghe, nên nhà mới cháy) thì lại bị quên đi. Điển tích này cho chúng ta thoáng thấy rằng có lẽ Trần Tung đã từng giữ vai trò tham mưu quan trọng cho nhà Trần và sách lược của ông chắc đã đem lại nhiều thành công – hoặc ít nhất sau đó đã được thực tế chứng minh là đúng – cho dòng họ này, đặc biệt là trong ba lần kháng chiến chống quân Nguyên. Nhưng sau khi thắng lợi thì được «mặc kim bào» là những kẻ đã bươu đầu sứt trán, còn người mưu lược như Trần Tung thì lại cam chịu phận «xưởng tào». Xưởng là nơi làm việc, còn tào là cái máy ép hoặc cái chày giã. Tuệ Trung tự ví mình với cái máy ép hoặc cái chày giã trong xưởng thợ phải cật lực vận hành, nghĩa là ông đã phải làm cái công việc nặng nhọc của những kẻ vai u thịt bắp, trong khi chính bọn này thì lại được thăng quan tiến chức.[7]
Có thể tiếp tục soi sáng thêm cho việc tìm hiểu tâm sự của Tuệ Trung là bài Hoạ Hưng Trí Thượng vị hầu 和興智上位侯 (hoạ lại thơ của Hưng Trí Thượng vị hầu).[8] Ngay từ câu phá đề, Tuệ Trung đã gây cho người đọc cái ấn tượng rằng ông sẽ chỉ hoàn toàn luận về Thiền lý: Vẻ Thiền không trước cũng không sau (Thiền phong vô hậu diệc vô tiền 禪風無後亦無前). Và trong toàn bài, người ta đọc thấy nào là: Thiền phong, vô hậu, vô tiền, bản thể, như như, tự nhiên, tâm cơ, khẩu nghiệp, niệm, nghiên (ngôn)..., nhưng bốn câu cuối lại là bốn câu đáng chú ý:
Nghĩ ngợi cõi lòng không chút vướng, Nói năng nghiệp miệng mệt nhiều chi; Nhắn với Nguyên quân Trần xử sĩ, Tiếng nhàn đơn lạnh lướt trời sương.
(Tâm cơ bất quải ti hào niệm, Khẩu nghiệp hà lao gián trạch nghiên [ngôn]; Vị báo Nguyên quân Trần xử sĩ, Nhất thanh lãnh nhạn độ sương thiên.)
Hoá ra đây chỉ là bài thơ Thiền hiển ngôn, còn về mặt ẩn ngôn thì nó lại là một bài thơ rất đời – nói đời là để đối với đạo, chứ không có nghĩa là tầm thường. Và hàm nghĩa của bốn câu thơ đời trên đây là: ở trong lòng của họ, họ đã không mảy may nghe nghĩ đến những điều chúng ta nói, thì chúng ta việc gì phải vì cái nghiệp miệng mà lựa lời hay ý đẹp để nói với họ cho mệt. Vậy xin nhắn rõ với Nguyên quân, người ở ẩn họ Trần, rằng tiếng của chúng ta chỉ là một tiếng kêu của một con nhạn rét mướt bay xuyên qua bầu trời đầy sương mà thôi.
Tại sao Tuệ Trung lại khuyên Hưng Trí như thế? Là vì, theo ông, họ là những kẻ:
Tràng hoa chuỗi hạt voi không ngó, Phím ngọc dạo đàn trâu chẳng nghe.
(Ngọc tháo nhập cầm ngưu bất thính, 玉 橾 入 琴 牛 不 聽 Hoa trang anh lạc tượng hà tri.) 花 粧 瓔 珞 象 何 知 [Vật bất năng dung 物不能容]
Nếu dùng nhũng lời lẽ dân gian, hẳn nhà thơ đã nói rằng họ là những kẻ «có mắt như mù», còn cái nghiệp miệng của ông và Hưng Trí chẳng qua chỉ là chuyện «đàn gảy tai trâu».
Cảnh ngộ của Tuệ Trung và Hưng Trí có lẽ chỉ là một: cả hai đều bị thất sủng. Một người là bác (Trần Trung là anh của Trần Quốc Tuấn), một người là cháu (Trần Quốc Tuấn là cha của Trần Quốc Nghiễn, tức Hưng Trí) và họ vô hình trung đã trở thành đôi bạn vong niên. Tuệ Trung đã trịnh trọng gọi cháu là Nguyên quân, kèm theo tước Hưng Trí Thương vị hầu, họ là những người bạn tri âm. Mà tri âm thường lại hiếm. Bởi thế, Tuệ Trung cảm thấy cô đơn. Đây cũng là một nét tâm trạng khác được thể hiện khá rõ trong thơ ông.
Ngay cả khi làm thơ về đạo, ông cũng dẫn dắt người đọc đến với những tứ thơ về sự cô đơn của chính mình:
Trời suông chỉ thấy vòng trăng lẻ, Đêm thu ngập bể Phật trong veo.
(Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt, 長 空 只 見 孤 輪 月 Sát hải trừng trừng dạ mạn thu.) 剎 海 澄 澄 夜 漫 秋 [Thị tu Tây Phương bối 示修西方輩]
Thậm chí có lúc người ta còn có thể có cái cảm tưởng là Tuệ Trung hình như chỉ mượn đạo để nói đời. Chứng thực là bài Phỏng Tăng Điền đại sư 訪僧田大師 (thăm đại sư Tăng Điền) với hai câu cuối:
Sáng rạng nghìn non người thấy suốt, Rừng sâu vượn lẻ hú ai nghe.
(Nhân gian tận kiến thiên sơn hiểu, 人 間 盡 見 千 山 曉 Thuỳ thính cô viên đề xứ thâm.) 誰 聽 孤 猿 啼 處 深
Thơ văn Lý Trần (tập II, quyển thượng) đã chú giải kỹ về câu cuối: «Nghe tiếng vượn cô đơn kêu nơi rừng sâu thẳm: tức là nghe âm thanh tại nguồn phát ra nó, ở đó nó còn trong lắng, nguyên thể, chưa hiện hữu thành sắc tướng. Đó là cái mà Thiền học gọi bằng ‘bản lai diện mục’, đó tức là thấy tính.»[9] Thế nhưng nếu người ta mạnh dạn tin tưởng sự thật về tâm trạng cô đơn của Tuệ Trung như đã sơ bộ chứng minh thì người ta lại còn thấy thêm rằng đó cũng là những câu tự thán lâm li và rất chân thành.
Còn sau đây là cảnh cô đơn thực thụ trong bài Giang hồ tự thích 江湖自適 (thoả ý nơi cảnh sông nước – bài I):
Sông dài thuyền nhỏ nổi lênh đênh, Dìu dặt chèo khua vượt bãi ghềnh; Nhạn lạ xứ nào kêu một tiếng, Gió thu cao lộng khắp mười châu.
(Tiểu đĩnh tràng giang đãng dạng phù, Du dương trạo bát quá than đầu; Nhất thanh hà xứ tân lai nhạn, Trắc giác thu phong biến thập châu.)
Một mảnh thuyền con, một mái chèo nhẹ, một tiếng nhạn kêu, một giang khách đơn độc; còn chung quanh là sông dài, bãi rộng và gió lộng khắp mười châu. Cũng lại là những hình ảnh về cô đơn, những câu thơ của bài Giang hồ tự thích 江湖自適 (bài II):
Sớm kéo buồm đơn băng sóng vỗ, Chiều nâng sáo ngắn thổi mây sông; Tạ Tam nay bặt vô âm tín, Để lại thuyền không ghếch cát nông.
(Hiểu quải cô phàm lăng hãn mạn, Vãn hoành đoản địch lộng yên ba; Tạ Tam kim dĩ vô tiêu tức, Lưu đắc không thuyền các thiển sa.)
Một cánh buồm đơn, một chiếc sáo ngắn, Tạ Tam nay đã không còn tin tức, chỉ để lại độc một chiếc thuyền không và chung quanh là nước rộng mênh mông, sóng khói lộng ngút cùng bãi cát trơ trọi. Vẫn cứ là cảm giác cô đơn. Đã cô đơn, nhưng chính Tuệ Trung lại muốn dấn thân vào chốn cô đơn:
Chợt đến; họa xong rồi lại phúc, Bói chốn thâm u gởi tấm thân.
Chính nhà thơ đã chọn nơi sâu vắng để «gởi kiếp sống này» (ký thử sinh) của mình ở đấy. Quả là mâu thuẫn: tỏ ra ái ngại về cảnh cô đơn, mà lại muốn tìm sống ở nơi xa xăm cách trở. Mâu thuẫn này có nguyên nhân không phải hoàn toàn khó hiểu. Như đã nói, ông là người tỏ ra tha thiết với công việc triều chính, không phải vì hám danhhám lợi, mà chỉ vì muốn cống hiến cho nước, cho đời. Nhưng hình như chính triều đình đã khước từ ông. Vì thế ông đâm ra chán ghét nơi đô hội và chốn cung đình. Ông muốn lui về ở một nơi thật xa:
Về vui với đạo thôi, ẩn sơn lâm, Xa bỏ lợi danh thôi, lánh thị triều.
Tại sao ông lại muốn lui về chốn sơn lâm mà xa lánh chốn triều đình và nơi thị tứ? Có lẽ là vì người ta đã không thấy hết, ói đúng hơn, đã không chịu thấy, cái tài kinh bang tế thế, cái chí di sơn đảo hải của ông, nên đã không trao cho ông những trọng trách xứng đáng với tài đức, mà chỉ phân cho ông những công việc tầm thường, cho nên, ông mới sinh ra bất mãn. Sự bất mãn này đã phát lộ ra cả ngay khi ông làm thơ về Thiền:
Lò cả mà đúc chi dùi bỏ túi, Hổ khoẻ có sá gì con đói thịt; Thuyền tốt há lại ngại cơn sóng gió, Sắc thuần lẽ nào sợ màu tía hồng.
(Hồng lô bất chú hề nang chuỳ, Mãnh hổ bất miết hề nhục ki [cơ]; Lương chu khởi ngại hề phong ba, Chính sắc hà phương hề hồng tử.)
Đây rõ ràng là sự bộc lộ không úp mở một mặc cảm tự thị – một sự tự thị chính đáng và xứng đáng, mà mối ẩn ức thường trực đã dấy lên trong tâm não của Tuệ Trung một cách tự nhiên và đột xuất không thể kìm hãm lại được. Mà nhiều khi hình như chính ông cũng đã tỏ ra không cần che giấu điều này. Quả là cái cảnh ngộ của Tuệ Trung đã tạo cho ông một mối ẩn ức thường trực. Ở đâu, lúc nào, với ai ông cũng có thể liên tưởng đến cảnh ngộ đó, mà thốt lên nỗi bất đắc chí. Cả khi vịnh cảnh vật ở Phúc Đường, nơi hành đạo của thầy mình là thiền sư Tiêu Dao, Tuệ Trung cũng đã có thể viết được như sau:
Chưa nhằm thời thuận hiền nhân xuất, Vui tạm rừng sâu thụy thú tàng.
(Vị phùng thời thái hiền nhân xuất, 未 逢 時 泰 賢 人 出 Thả hỉ lâm thâm thụy thú tàng.) 且 喜 林 深 瑞 獸 藏 [Phúc Đường cảnh vật 福堂景物]
«Hiền nhân» đây không phải ai khác hơn là Tuệ Trung. Mà «thụy thú» (con muông tượng trưng cho điềm lành) thực ra cũng chỉ là một ẩn dụ, để chỉ không phải ai khác hơn là chính tác giả bài thơ. hai câu trên cho chúng ta thấy rõ: tâm lý của Tuệ Trung là một tâm lý chờ thời.
Thế nhưng cuối cùng ông vẫn là một nhân cách cao thượng, có thể nói là siêu phàm nữa (vì quả trong cuộc đời thật thì hiếm có người như ông). Ông không tự cho phép mình thi thố tài năng và thực hiện ý chí mà làm tổn hại đến người khác, nhất là những người thấp cổ bé miệng. Ông không sa vào cảnh thấp hèn của biết bao nhiêu kẻ tham quyền cố vị, đã lôi bè kéo cánh để tranh giành ngôi thứ mà cái kết cục thường chỉ là «trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết». Cho nên ông đã tự nhủ:
Bủa rộng lưới mầu để bắt phượng hoàng, Chớ hứng chí dụ én, sẻ đồng mưu; Nay muốn buông câu nhữ giống kình nghê, Đừng làm lụy đến họ hàng ếch nhái.
(Quảng đại trương phượng hoàng diệu võng, Mạc phóng chí yến tước đồng mưu, Kim dục phao kình nghê điếu câu, Khước lụy sầu hà mô đẳng loại.)
Chính vì quan niệm như thế mà ông đã không tiếp tục hành động gì thêm về mặt đời, để chỉ tầm đạo. Mà về mặt đạo thì ông rõ ràng là một thiền sư siêu việt và độc đáo. Tiếc rằng do sự thiển cận và sự ích kỷ của triều đình – có lẽ là đúng như thế – mà ông đã không có điều kiện để cống hiến cho nước, cho đời theo đúng cái tài và cái chí của ông. Nếu lúc bấy giờ sự sáng suốt và lẽ công bằng đã ngự trị được nơi ngai vua và trong chốn triều đình, thì ngày nay hẳn chúng ta không những đã có một Tuệ Trung Thượng Sĩ uyên thâm về thiền học, mà sẽ còn có thể có cả một Hưng Ninh Vương tài kinh bang tế thế lừng danh.
Huệ Thiên
Nguồn: Tạp chí Thông Tin Khoa Học và Công Nghệ, Thừa Thiên Huế, 1999, tr.79-87.
CHÚ THÍCH [1] Thơ văn Lý Trần, tập I, Hà Nội, 1977, tr. 113-114. [2] Trần Khâm tức Trần Nhân Tông, Thượng Sĩ hành trạng, trong Thơ văn Lý Trần, tập II, quyển Thượng, Hà Nội, 1999, tr. 545. [3] Sđd, tr. 546. [4] Sđd, tr. 223. [5] Những câu thơ dịch trong bài viết này là của chúng tôi. Phần thơ chữ Hán của Tuệ Trung Thượng Sĩ được dẫn hoặc được trích từ Thơ Văn Lý Trần của Viện Văn Học. (HT) [6] Trần Khâm, Sđd., tr.545. [7] Thơ Văn Lý Trần, tập II, quyển Thượng, giảng hai tiếng «xưởng tào» là «nơi xay giã» và chú thích như sau: «Nơi xay giã: nguyên văn là xưởng tào. Chính ra là phải viết tào xưởng mới đúng, nhưng vì âm vận của câu thơ nên tác giả đã viết đảo ngược lại. tào xưởng là nơi xay thóc giã gạo của nhà chùa. Tác giả mượn ý này để nói việc xuất gia tu hành.» (Sđd., tr.241, chú thích 3). Cách giảng này có 3 điểm không hợp lý: 1. Cho rằng tác giả đã gượng đảo «tào xưởng» thành «xưởng tào», trong khi «xưởng tào» là một kết cấu hoàn toàn đúng ngữ pháp tiếng Hán (định ngữ + bị định ngữ) có nghĩa là «cái máy ép hoặc cái chày giã nơi xưởng thợ»; 2. Cho rằng tác giả ám chỉ việc xuất gia tu hành trong khi sự thật là tác giả đã không hề xuất gia. 3. Cho rằng tác giả đã so bì việc xay giã (xuất gia tu hành) với việc mặc kim bào (làm quan) tức là đánh giá thấp Tuệ Trung Thượng Sĩ về mặt đạo nghĩa. [8] Hưng Trí tức là Trần Quốc Nghiễn, con trai thứ hai của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, có tham gia kháng chiến chống quân Nguyên, nhưng vì bất tuân thượng lệnh nên đã bị thất sủng, rồi về ở ẩn. [9] Sđd., tr.288, chú thích 3.
Tuệ Trung Và Cách Đập Phá Lưỡng Nguyên
Trước đây chúng ta đã nhìn sâu để thấy được khuynh hướng muốn đả phá sự bám víu vào danh từ và khái niệm, ví dụ như danh từ "Pháp thân thanh tịnh". Những công thức như "Sắc tức là không, không tức là sắc".
Hôm nay chúng ta nhìn vào một khía cạnh khác của giáo lý Tuệ Trung Thượng Sĩ là đập phá quan niệm "Lưỡng nguyên", Dualism.
Khi tu tập chúng ta có ý niệm rằng từ mê chúng ta chuyển thành ngộ, từ phàm chúng ta chuyển thành thánh. Khi đặt ra vấn đề giải thoát, chúng ta dựng lên một ranh giới ngăn cách giữa triền phược và giải thoát. Ví dụ chúng ta đang đứng ở đây và phía này là phía triền phược, tiếng Bắc đọc là triền phọc, tức là bị ràng buộc. Chúng ta có cảm tưởng là ta bị ràng buộc. Vì vậy cho nên chúng ta muốn bước một bước về phía bên kia để bỏ rơi sự triền phược lại đàng sau. Phía bên kia gọi là phía giải thoát. Vậy thì chúng ta có một quan niệm lưỡng nguyên là tại chúng ta thấy có hai cái, một là triền phược, một là giải thoát, một cái ta cần bỏ đi, và một cái ta cần phải đi tìm. Bên này là mê, bên kia là ngộ. Bên này là sinh tử, bên kia là niết bàn. Bên này là phàm phu, bên kia là thánh, tức là người giải thoát. Thành ra những danh từ này chúng đối chọi nhau chan chát. Và trong tâm của chúng ta, chúng ta cứ nghĩ rằng có một cái gì đó chúng ta phải buông bỏ, và có một cái gì đó chúng ta phải nắm bắt.
Vì vậy mới có pháp môn gọi là Vô Đắc, tức là có gì để mình nắm bắt đâu? Vô Thủ, Vô Xã, tức là không có gì để nắm bắt mà cũng không có gì để buông bỏ cả. Trong khi đó thì Tuệ Trung Thượng Sĩ nói rằng cái ranh giới phân biệt giữa phàm và thánh, mê và ngộ, triền phược và giải thoát, sinh tử và niết bàn là nguồn gốc của mọi sự ràng buộc, mê lầm. Nó là sợi dây buộc chúng ta trong sinh tử và khiến cho chúng ta mãi mãi là kẻ phàm phu.
Chúng ta hãy đọc vài lời đó của Tuệ Trung Thượng Sĩ:
Thân từ vô tướng, vốn là không, Huyễn hóa phân ra thành "nhị kiến",
Đọc những bài này chúng ta phải cẩn thận lắm mới được, nếu không thì chúng ta chỉ tiếp nhận danh từ thôi!
Câu chữ Hán là: Thân tùng vô tướng bản lai không, Huyễn hóa phân sai thành "nhị kiến". Vô tướng là một trong ba cánh cửa mở vào giải thoát, gọi là Tam giải thoát môn. Ba cánh cửa đó là Không, Vô tướng, và Vô tác. Khi chúng ta nhận thức một cành tre, chúng ta có một tri giác về cành tre, một cái tưởng về cành tre gọi là "trúc tưởng", đó là vì ta căn cứ trên một cái tướng, tướng tre. Nhờ những dấu hiệu nào đó mà chúng ta mới có cái nhận thức về cành tre, ví dụ như màu xanh, những ngọn lá thuôn dài, danh từ tre v.v... Tri giác của chúng ta, cái tưởng của chúng ta hoàn toàn căn cứ trên những dấu hiệu gọi là tướng.
Khi có tướng tre thì ta sẽ có tướng không tre. Ví dụ như cành đào này, nó là một cái pháp được gọi là đào. Mà đào tức không phải là tre. Tre không phải là đào. Đó là cách nhìn của người thông tục, của người chưa biết quán chiếu. Nếu bắt đầu nhìn sâu thì từ từ chúng ta thoát được cái tướng, và chúng ta thấy được cái vô tướng của tre, vô tướng của cành đào.
Ví dụ nhìn sâu vào đây thì chúng ta thấy rằng cành tre này, cái mà ta gọi là tre này nó chỉ được làm bằng những yếu tố không phải tre mà thôi, ví dụ như là ánh sáng. Ban đầu chúng ta đâu có biết rằng màu xanh này là ánh sáng? Nhưng chính ánh sáng mặt trời đã làm ra màu xanh. Ánh sáng mặt trời và các chất khí ở trong không gian đã làm ra màu xanh. Vì vậy nhìn sâu, nhìn kỹ thì thấy rằng tre được làm bằng những yếu tố không phải là tre. Chúng ta còn thấy có một đám mây đang bay lơ lửng trong cành tre, và ta không cần phải là thi sĩ mới thấy được như vậy. Ta chỉ cần làm người quán chiếu cũng có thể thấy được, là tại vì chúng ta biết rằng nếu không có đám mây trên trời và nếu không có mưa thì sức mấy mà cây tre này mọc lên để chúng ta cắt một cành vào cắm? Cho nên ở trong tre có sự có mặt của đám mây, và do đó mà ta thấy rằng tre không phải là tre mà thôi. Tre còn là ánh sáng, tre còn là đám mây, và dần dần cái tướng tre như là một biệt lập với tất cả thế giới không tre, nó bị xóa nhòa đi. Trong tre chúng ta thấy đất, thấy cả những chất khoáng ở trong đất. Tre là gì? Tre là một cái gì được làm bằng những yếu tố không phải là tre.
Khi thấy được như vậy, ta bắt đầu tiếp xúc được với tính cách vô tướng của tre, và ta không còn bị kẹt vào tướng tre nữa. Cành đào cũng vậy, anh cũng vậy, tôi cũng vậy. Vì vậy cho nên khi tu học chúng ta đừng có bị kẹt vào tướng, chúng ta phải quán chiếu để đừng bị kẹt vào những dấu hiệu bên ngoài gọi là tướng. Cái đó gọi là Vô tướng.
Trong kinh Kim Cương Phật có nói tới bốn trong những cái tướng mà chúng ta phải vượt thoát.
Trước hết là tướng ngã. Tướng ngã tức là cái ta. Nếu chúng ta theo cùng một phương pháp này để quán chiếu thì chúng ta thấy cái ta này được làm bằng những yếu tố không phải là ta. Ta được làm bằng tổ tiên, bằng cha mẹ, bằng thực phẩm, bằng không gian, bằng thời gian, bằng xã hội, bằng giáo dục, bằng tâm linh. Và khi nhìn vào ta thì ta thấy toàn là những yếu tố không ta. Vì vậy mà ta thấy được bức tường thường giam hãm ta nó tan biến, đồng thời ta thấy được ta là tổ tiên ta, là con cháu ta, là gia đình ta, là bạn bè ta, là vũ trụ.
Đó là quán vô tướng để phá ngã. Ngã được làm bằng những yếu tố phi ngã. Trước đó thì ngã là cái đối nghịch với phi ngã, không phải là phi ngã. Bây giờ ngã là phi ngã. Cái thấy đầu gọi là tướng, gọi là nhị kiến. Cái thấy sau đó gọi là vô tướng, là bất nhị.
Tướng thứ hai mà Phật dạy chúng ta phải vượt thoát là tướng nhân. Nhân tức là người. Người ở đây là một chủng loại. Chữ nhân đây không có nghĩa là người khác. Nhìn sâu vào người chúng ta thấy người được làm bằng những yếu tố không phải là người, những yếu tố phi nhân. Phi nhân ở đây không phải là không có lòng nhân ái. Phi nhân ở đây có nghĩa là không phải là người, ví dụ như con bò, cây tre, đám mây, đều không phải là người. Tất cả những cái không phải là người đều gọi là phi nhân cả.
Khi quán chiếu, chúng ta thấy rằng cái chủng loại gọi là người, không thể nào có mặt được nếu không có những chủng loại khác như cầm thú, cỏ sây, đất đá. Cho nên tôi thường nói kinh Kim Cương là văn bản xưa nhất dạy về sự bảo vệ sinh môi, dạy về sự bảo vệ hoàn cảnh sinh sống của con người. Tại vì muốn bảo vệ con người thì phải bảo vệ những chủng loại khác, như là thú vật, cỏ cây, đất đá, sông núi. Nếu mình làm ô nhiễm, mình tàn sát những chủng loại khác, thì chủng loại người cũng tiêu luôn. Điều này ta thấy rất rõ trong kinh Kim Cương: Cần phải loại bỏ ý niệm nhân như là một chủng loại có thể tồn tại độc lập. Nhìn vào nhân chúng ta thấy toàn là những yếu tố không phải là nhân, vì vậy cho nên thương con người thì phải thương những chủng loại khác. Bảo vệ con người thì phải bảo vệ những chủng loại khác.
Nếu chúng ta bị kẹt vào cái tướng nhân như là một hiện tượng có thể tồn tại độc lập, thì chúng ta không thấy được chuyện cần bảo vệ sinh môi đó.
Kế đến, chúng sinh là một cái tướng khác mà mình phải vượt thoát. Chúng sinh tức là những loại hữu tình, những loài có sinh mạng. Chúng ta biết rằng nhìn vào những loài hữu tình chúng ta thấy những yếu tố vô tình như là đất đá, cỏ cây. Và chúng ta biết nếu đất đá, cỏ cây mà bị hủy diệt, bị ô nhiễm, thì các loài gọi là hữu tình cũng không thể có mặt được, vì chúng sinh được làm bằng những yếu tố phi chúng sinh. Đạo Phật chia chúng sanh ra làm hai loài, một là hữu tình, hai là vô tình.
Trong bài tụng của chúng ta: Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí, có nghĩa là tình và vô tình, hai loài đó đều thành Phật hết, đó là lời nguyện của người tu. Các loại chúng sanh, và các loại phi chúng sanh đều có thể hoàn thành sự nghiệp giác ngộ. Rất là hay.
Trịnh Công Sơn có lời ca: Làm sao em biết bia đá không đau? Tức là cũng có ý nói rằng những loại mình cho là vô tình, nó cũng có tình ở trong đó. Khi anh ta nói rằng Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau thì cũng có hàm ý đó.
Tướng chót mà Phật dạy ta phải thắng vượt là tướng thọ giả, tức là thọ mạng. Thọ mạng tức là giai đoạn sinh mạng mà mình gán cho mình. Ví dụ như mình nghĩ rằng mình sẽ sống được bảy mươi năm thì mình nói thọ mạng mình là bảy mươi năm. Đó là một cái tướng sai lầm. Tại vì cái thọ mạng của chúng ta là vô lượng. Trước khi sinh không phải là chúng ta không có, và sau khi chết cũng không phải là chúng ta không có. Ý niệm có và không là hai cái tướng. Vì vậy cho nên nghĩ rằng mình đã sinh ra trong một thời điểm nào đó và mình sẽ chết đi ở một thời điểm nào đó. Trước hai thời điểm đó mình không có mặt, đó là một cái tưởng rất sai lầm.
Trích trong TV Thích Nhất Hạnh
Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
Tiêu đề: Re: Ngộ Fri 23 Dec 2011, 14:52
MERRY CHRISTMAS, FRIENDS!
Bản chụp lại bức thư viết tay của "bé" Virginia O’Hanlon
"Thưa Ngài Chủ Bút. Em là bé gái 8 tuổi. Vài người bạn của em cho rằng không có ông già Noel. Ba nói với em rằng "Nếu con đọc thấy điều đó trên tờ The Sun thì nó đúng như vậy." Vậy làm ơn cho em biết sự thật CÓ ÔNG GIÀ NOEL HAY KHÔNG?" Virginia O' Hanlon
Lá thư đã được gửi đi ngay trước Noel năm 1897. Trả lời thư cho bé Virginia là một bài báo viết vội ngay vào lúc tờ báo chuẩn bị lên khuôn cho số Giáng Sinh dưới tựa đề “CÓ CHỨ, VIRGINIA, CÓ ÔNG GIÀ NOEL"
Bài báo viết:
"Virginia, những bạn bè nhỏ của em đã nói sai rồi. Các bạn ấy đã bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa hoài nghi của một năm hoài nghi. Các bạn không tin trừ khi đã thấy. Các bạn nghĩ rằng không gì có thể bởi đầu óc nhỏ bé của các bạn không thấu lĩnh được. Tất cả mọi đầu óc, Virginia, dù là người lớn hay trẻ em đều nhỏ bé. Trong vũ trụ rộng lớn này, trí óc con người chỉ là một côn trùng, một con kiến so với thế giới vô cùng bên ngoài nó, nhỏ bé như khả năng trí tuệ của con người trong nắm bắt toàn bộ sự thật và kiến thức.
CÓ CHỨ, CÓ ÔNG GIÀ NOEL.
Ông hiện diện cũng chắc chắn như Tình Yêu, Sự Rộng Lượng và Lòng Thành Tâm đang tồn tại, và em biết rằng chúng đầy rẫy sẽ mang cho đời sống của em cái đẹp và niềm vui cao quý nhất. Chao ôi, thế giới này sẽ ảm đạm biết bao nhiêu nếu không có ông già Noel. Nó cũng buồn như nếu không có những bé như Virginia. Lúc đó sẽ không có niềm tin trẻ thơ, thơ ca và sự lãng mạn làm cho sự tồn tại này có thể chịu đựng được .
Không ai thấy ông già Noel ra sao. Nhưng không có bằng chứng nào cho thấy không có ông già Noel cả. Nhưng điều thật nhất trên thế giới này chính là những điều mà cả người lớn và trẻ em đều không thể thấy. Có bao giờ em thấy những bà tiên nhảy múa trên thảm cỏ xanh chưa? Dĩ nhiên chưa, nhưng đó không phải là bằng chứng rằng họ không có mặt nơi đó. Không ai có thể nhận thức hoặc tưởng tượng ra được tất cả những điều kỳ diệu không thể thấy được trong thế giới này.
Em phá tung cái lúc lắc trẻ thơ để tìm cho ra cái gì làm nên tiếng động bên trong nó, nhưng có một tâm mạng che cái thế giới chúng ta không thấy được, mà không một người mạnh nhất hoặc thậm chí một sức mạnh liên kết của một nhóm người mạnh nhất từng sống, có thể đặt qua một bên bức màn đó để chiêm ngưỡng và vẽ nên cái đẹp và sự huy hoàng bên ngoài nó. Liệu nó có thật hay không? Ôi, Virginia, trong cả thế giới này không có gì khác thật sự và vĩnh cữu. Không có ông già Noel. Nhưng nhờ Trời, ông sống và sống mãi mãi. Hàng nghìn năm tới nữa, không, Virginia, hàng chục lần của hàng chục nghìn năm sau nữa, ông vẫn sẽ tiếp tục là niềm vui của trái tim trẻ thơ "
Tác giả của lá thư tòa soạn trả lời bé Virginia chỉ được công bố tên thật sự sau khi ông mất. Đó là cây bút bình luận của tờ The Sun, Francis Pharcellus Church, lúc ấy 57 tuổi, và theo Bảo Tàng Báo Chí ở Arlington, bang Virginia, bài viết này của ông là bài bình luận được in lại nhiều nhất trong lịch sứ báo chí Mỹ. Nhà báo này qua đời năm 1906 còn Virginia O' Harlon Douglas cũng mất năm 1971 lúc bà 81 tuổi sau một cuộc đời cống hiến cho trẻ tật nguyền. Hành trang cho sự nghiệp giáo dục giáo dục của bà Virginia là lá thư phúc đáp của Church mà bà cho biết đã mang theo suốt cuộc đời mình.
Hơn 100 năm đã trôi qua kể từ lá thư hoài nghi của cô bé Virginia nhưng lý lẽ của Church vẫn tiếp tục sống. Bởi nó không chỉ là bài trả lời về việc có hay không có Ông Già Noel, mà trên tất cả nó là thông điệp của lòng tin vào những giá trị nhân loại cao quý.
Chân dung Virginia O’Hanlon và ký giả Francis Pharcellus Church
History's Most Reprinted Newspaper Editorial
Nhân dịp Giáng Sinh thân mến chúc mừng Ái Hoa, Shiroi, Moon, Vĩnh Thành, Quê Hương, Bạch Vân Nhi, Mỹ Tứ Trụ, Sĩ Đoan, Việt Đường cùng toàn thể ACE Đào Viên một mùa lễ an lành đầy hạnh phúc !
Lữ Hoài
Được sửa bởi Lữ Hoài ngày Mon 26 Dec 2011, 09:32; sửa lần 2.
Shiroi
Tổng số bài gửi : 19896 Registration date : 23/11/2007
Tiêu đề: Re: Ngộ Sat 24 Dec 2011, 06:00
Lữ Hoài đã viết:
Nhân dịp Giáng Sinh thân mến chúc mừng Ái Hoa, Shiroi, Moon, Vĩnh Thành, Quê Hương, Bạch Vân Nhi, Mỹ Tứ Trụ, Sĩ Đoan, Việt Đường cùng toàn thể ACE Đào Viên một mùa lễ an lành đầy hạnh phúc !
Lữ Hoài
Chúc anh Lữ Hoài và gia quyến một mùa Giáng Sinh thật ấm cúng hạnh phúc và tràn đầy niềm vui
Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
Tiêu đề: Re: Ngộ Mon 26 Dec 2011, 09:42
Làng quê Mariapfarr - nơi ra đời ca khúc Silent night
Năm 1817, cha Joseph Mohr, lúc đó mới 25 tuổi, được bổ nhiệm làm linh mục phụ tá tại nhà thờ Thánh Nicholas ở miền Oberndorf nước Áo. Lúc thiếu thời Mohr đã say mê âm nhạc, có lúc cậu sáng tác thơ và đặt lời cho những bài ca trong các nghi lễ đặc biệt tại giáo đường. Khi trở thành linh mục, cha Mohr làm việc không biết mệt mỏi trong công tác từ thiện, phục vụ thanh thiếu niên con các gia đình nghèo khó trong vùng.
Một ngày mùa đông năm 1818, cha Mohr đang cố hoàn thành mọi việc sửa soạn cho thánh lễ Giáng sinh, một nghi lễ mà cha đã hoạch định trước cả tháng. Mọi thứ đều đã xong xuôi, từ bài hát cho đến bài giảng. Nhưng lúc cha dọn dẹp thánh đường mới phát hiện một trở ngại tưởng không thể khắc phục được: đó là chiếc phong cầm của nhà thờ bị hư. Nóng lòng, cha lui cui hàng giờ đánh vật với hàng phím, với bàn đạp của chiếc đàn. Bất chấp mọi khó nhọc của cha, chiếc đàn vẫn nằm ỳ ra không lên tiếng, im lặng chẳng khác cái lặng lẽ của một đêm đông giá lạnh. Nhận thấy không thể làm gì hơn, vị linh mục ngừng lại và cầu nguyện. Cha cầu xin Chúa cho cha tìm được một giải pháp để đem âm nhạc đến với giáo dân trong ngày lễ có ý nghĩa nhất trong năm. Và rồi cha đã tìm được đáp ứng cho lời cầu nguyện của mình khi nhớ lại bài thơ mà mình sáng tác cách đây gần hai năm. Đó là bài Still Nacht! Heilige Nacht! (Đêm yên lặng! Đêm thánh!). Cha thấy dường như Chúa đã cho cha một tia sáng hi vọng. Bỏ bài thơ vào túi áo, cha vội vã ra khỏi nhà băng qua những đường phố đầy tuyết phủ. Chỉ còn mấy giờ nữa là thánh lễ nửa đêm bắt đầu.
Cũng vào chiều hôm đó, Franz Gruber, người giáo viên làng 31 tuổi, đang co ro trong căn phòng nhỏ bên cạnh trường học. Mặc dù đã theo học phong cầm với giáo sư nổi tiếng Georg Hardobler, Gruber cũng chỉ chơi đàn cho nhà thờ St. Nicholas nhỏ bé. Cha Morh bước vào, hối hả kể cho kéo ông giáo làng nghe nỗi khó khăn của mình. Sau khi bảo Gruber rằng chiếc đàn không thể sửa được, cha liền đem bài thơ ra và nói: - Franz, anh xem có thể viết nhạc cho bài thơ này để ca đoàn hát được không? Không có phong cầm thì ta chơi guitar vậy. Rồi vị linh mục đưa mắt nhìn đồng hồ trên bàn, nói thêm: “Không còn nhiều giờ nữa đâu”. Đọc kỹ bài thơ, Gruber gật đầu, chấp nhận thử thách. Mấy giờ sau, hai người gặp nhau tại nhà thờ. Gruber đưa cho vị linh mục xem bản nhạc của mình. Linh mục dùng đàn guitar gảy lên những nốt nhạc rồi vội vã chuyển cho ca đoàn. Không có nhiều thời giờ, cha Mohr và Gruber chỉ dạy được cho ca đoàn phần hòa âm bốn giọng của mỗi hai câu thơ cuối.
Trong thánh lễ nửa đêm, cha Mohr và Gruber đứng trước bàn thờ giới thiệu bản nhạc nhỏ bé và giản dị của hai người. Họ đâu ngờ rằng Still Nacht! Heilige Nacht! được dịch sang tiếng Anh là Silent night vào tháng 12-1839, không chỉ sẽ được nhớ tới vào ngày Giáng sinh năm sau trong ngôi làng bé nhỏ của họ mà còn được khắp thế giới ca vang. Bài hát càng được phổ biến thì nguồn gốc càng bị phân hóa. Có nhiều lúc các nhà xuất bản gán cho tác giả bản nhạc này là một trong các nhạc sĩ đại tài như Bach, Beethoven hoặc Handel. Chỉ mãi tới khi Franz Gruber gửi tới các báo và các nhà xuất bản bản sao tờ phổ nhạc của mình thì nguồn gốc đích thực mới được công nhận. Mặc dù vậy, nhiều giai thoại về lời ca của bản nhạc vẫn còn truyền tụng. Cha Mohr qua đời trong cảnh nghèo khó năm 1848 trước khi được công nhận là tác giả bài thơ được phổ nhạc.
Vào cuối thập niên 1890, bản Silent night được phiên dịch ra hơn 20 ngôn ngữ khác nhau và là bản nhạc không thể thiếu trong các lễ hội Giáng sinh trên khắp thế giới. Sang thế kỷ 20, bản nhạc này đã đi ra khỏi các giáo đường, hội nhập với những tập tục Giáng sinh khác. Năm 1905, bản nhạc Silent night được thu âm lần đầu tiên do ban nhạc Haydn Quartet. Đó mới chỉ là khởi đầu, sau đó bản nhạc đã được thu âm cả ngàn lần do các ban nhạc khác nhau trên khắp thế giới hát. Tới năm 1960, Silent night đuợc công nhận là bản nhạc được ghi âm nhiều nhất trong lịch sử âm nhạc.
Trong tâm trí nhiều người, bản Silent night được viết ra lúc khởi đầu chỉ là một bản nhạc giản dị, một khúc ngợi ca, được sáng tác để làm nghi thức mừng lễ Giáng sinh có ý nghĩa hơn, bản nhạc xưa cũ này vẫn còn mạnh mẽ và tươi mát như lần đầu tiên được hát lên trong ngôi thánh đường nhỏ bé nơi nước Áo xa xôi. 1. Bản nhạc này đã được nhạc sĩ Hùng Lân “Việt hóa” dưới tên Đêm thánh vô cùng từ hơn nửa thế kỷ trước tại Việt Nam và được hát trong các thánh đường Công giáo cũng như trên các đài truyền thanh, truyền hình từ đó đến nay trong mùa lễ Giáng sinh. Ông không chuyển dịch bài ca nhưng đặt lời hoàn toàn mới, dùng những từ ngữ văn chương như “xe chữ đồng, ơn châu báu không bờ bến, nhắp chén phiền, vương phong trần, tuyết sương mịt mù...”. Sau đây là lời ca do ông đặt:
1. Đêm thánh vô cùng, giây phút tưng bừng, đất với trời xe chữ đồng. Đêm nay Chúa Con thần thánh tôn thờ. Canh khuya Giáng sinh trong chốn hang lừa. Ơn châu báu không bờ bến, biết tìm kiếm của chi đền. 2. Ôi Chúa Thiên đàng, cảm mến cơ hàn. Nhắp chén phiền, vương phong trần. Than ôi Chúa thương người đến quên mình, bơ vơ chốn quê nhà lúc sinh thành. Ai đang sống trong lạc thú, nhớ rằng Chúa đang đền bù. 3. Tinh tú trên trời, sông núi trên đời. Với Thánh thần mau kết lời, cao rao hóa công đã khéo an bài. Sai con hiến thân để cứu nhân loại, hang chiên máng rêu tạm trú, bốn bề tuyết sương mịt mù.
2. Bản Anh ngữ: 1. Silent night, holy night, all is calm, all is bright. ‘Round yon virgin mother and child! Holy infant so tender and mild, sleep in heavenly peace, sleep in heavenly peace. 2. Silent night, holy night. Shepherds quake at the sight. Glories stream from heaven afar, heavenly hosts sing “Alleluia”. Christ the Savior is born. Christ the Savior is born. 3. Silent night, holy night Son of God, love"s pure light, radiant beams from thy holy face. With the dawn of redeeming grace. Jesus, Lord at thy birth.(2)
STTN
Đêm Thánh vô cùng
Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
Tiêu đề: Re: Ngộ Tue 27 Dec 2011, 16:41
VÔ NGÃ No I, No Me, No Mine Panna (Wisdom, Discernment) Panna (p): Bát Nhã—Trí huệ—Wisdom or penetrative insight— Trí tuệ trực giác về chân lý tối thượng.
Tác phẩm: Living this life fully- Stories and teachings of Munindr Tác giả Mirka Knaster Nguyễn Thượng Chánh, chuyển ngữ
Ý niệm về cái “TÔI”
Sau thời gian hành thiền tích cực, thiền sư Munindra đã quán được thế nào là lý vô ngã amatta. Ngài có thể giải thích bằng cách nào cánh cửa lục căn six sense doors có thể dẫn đến: nhãn sight, nhĩ sound, tỷ smell, thiệt taste, thân touch, ý thought mà chúng ta thường hiểu một cách sai lầm là ý niệm về cái “Tôi” (I). Bất cứ điều gì chúng ta thấy, đều không phải “tôi” (not I), không phải “là tôi” (not me),không phải là đàn ông và cũng không phải là đàn bà. Trong mắt, chỉ có màu sắc. Chúng xuất hiện ra rồi biến đi. Vậy thì ai đã nhìn thấy vật thể (object)? Không có người thấy(seer) ở trong vật thể. Vậy thì nhờ vào những nguyên nhân nào mà mắt nhìn thấy được. Đó là những gì? *Thứ nhứt, mắt là một nguyên nhân; chúng phải được vẹn toàn và phải còn tốt. *Thứ hai, vật thể và màu sắc phải được hiển hiện trước mắt và phải được phản chiếu trên võng mạc (retina) của cặp mắt. *Thứ ba, phải có đủ ánh sáng. *Thứ tư, phải có sự chú ý, là một yếu tố tinh thần.
Nếu có sự hiện diện đầy đủ của cả bốn yếu tố trên thì sẽ nảy sinh ra yếu tố tri nhận (knowing faculty), hay nhãn thức (eye consciousness). Nếu thiếu bất kỳ một nguyên nhân nào thì sẽ không có được sự thấy. Nếu mắt bị mù lòa, thì không có sự thấy. Nếu không có ánh sáng cũng không thấy được. Nếu không có sự chú ý thì cũng không thấy được. Nhưng không có một nguyên nhân nào trong số trên có thể nhận rằng Tôi là người thấy (I’m the seer). Cảnh không ngớt xuất hiện ra rồi biến đi. Khi hình ảnh vừa qua đi, chúng ta nói “tôi đang thấy”(I am seeing). Không phải bạn đang thấy; bạn chỉ nghĩ rằng(thinking), “tôi đang thấy”. Đó là một trạng thái được điều kiện hóa(conditioning). Vì tâm ý bị bị đặt trong điều kiện lệ thuộc nhân duyên, nên khi chúng ta nghe một âm thanh, chúng ta nói “tôi đang nghe” (I am hearing).
Tất cả sinh diệt biến hiện không ngừng. Nhưng thật sự ra không có người nghe (hearer) đang chờ trong lỗ tai để nghe. Âm thanh tạo ra làn sóng và dội vào màng nhĩ tạo nên nhĩ thức (ear consciousness), làmột quả (effect). Âm thanh không phải là người đàn ông, không phải là ngườiđàn bà; nó chỉ là tiếng động xuất hiện ra rồi biến đi. Nhưng do điều kiện hóa mà, mình nói “người đàn bà đó đang hát và tôi đang nghe”. Nhưng bạn không có nghe, bạn chỉ nghĩ rằng (thinking) là bạn đang nghe (I am hearing). Âm thanh đã được nghe và nó đã biến mất rồi. Không có cái “Tôi” (no I) nghe âm thanh; đó chỉ là một thế giới về ý niệm (a world of concept). Đức Phật khai thị ởhai mức độ sắc giới (physical level) và mức độ tâm thức (mental level): bằng cách nàotất cả sự vật xảy ra mà không có(một) người diễn xuất (actor), hay (một)người hànhsử (doer)- tánh không(empty phenomena) tiếp nối ra liên tục.
Thiền sư Munindra giải thích thêm rằng việc đồng hóa vào người diễn xuất sẽdẫn đến sự đau khổ dukkha (khổ đế): Cái “Tôi” là một chướng ngại hindrance to lớn nhất trên con đường dẫn tới giác ngộ enlightenment.
Tất cả tham (greed), sân (hate), si (delusion) đều xuất phát từ ý niệm của bản ngã (ego). “toàn cả thân,tâm ý là tôi”(My whole body and mind is me) hay “Có ai đó ở trong tôi”(There is someone in my body) hay “Trong tâm ý, có cái ta atman, linh hồn hiện hữu hay có ai đó đang kiểm soát mọi việc và đang thấy tất cả”(In the mind, there is atman, asoul exists, someone who is controlling everything, who is seeing.).
Ngoài ra còn có niệm tưởng nhìn nhận “là tôi” (me).Để bảo tồn cái “tôi” (I), tất cả các sự căng thẳng, tất cả sự bực dọc, tất cả nỗi âu lo đều hiện ra: “Đó là tôi” (It’s me).”Đó là tâm ý của tôi” (This is my mind). “Đó chính là thân của tôi” (This is my body). “Đó là căn nhà của tôi” ( This is my house). “Đó là gia đình của tôi” (This is my family).” Đó là xứ sở của tôi” (This is my country).
Thân kiến từ vô thỉ (Self illusion from time immemorial). Dó là một cái nhìn sai lạc.Mọi tà kiến miccha phải được rửa sạch trong bước đầu để nhập niết bàn nibbana. Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữu và huynh đệ hơn. Nó sẽ đem lại một sự hài hòa và tình đoàn kết giữa các quốc gia với nhau. Khi chúng thấu hiểu được một quy trình hành sử rồi, thì chúng ta cũng sẽ biết được các quy trình khác.
Các vấn đề căn bản đều giống nhau cho nên bản chất của chúng cũng giống nhau hết. Thiền sư Munindra còn làm sáng tỏ thêm ýniệm tại sao chúng ta dùng chữ “tôi” (I), “làtôi” (me) và “của tôi” (mine). Tất cả đều được sử dụng không ngoài mục đích giúp cho việc cảm thông nhau được dễ dàng hơn.. Nhà khoa học nói rằng mặt trời mọc ở hướng Đông và lặn về hướng Tây; nhưng mặt trời có bao giờ mọc, có bao giờ lặn đâu. Họ hiểu rõ các vấn đề trên, nhưng họ vẫn sử dụng các ý trên để cho dễ hiểu. Chúng làn hững ý niệm (concepts)- mọc, lặn, Đông hay Tây. Trong thực tế, không có Đông hay Tây. Nhưng chúng rất cần thiết trong mối giao tiếp (communication) lẫn nhau... “ …Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa là thắng tri (Abhinnattha), có nghĩa là liễu tri (Parinnattha), có nghĩa là đoạn tận (Pahanattha).”...
Dipa Ma, Một Nữ Thiền Sư Phật Giáo
(Tác phẩm: Dipa Ma- The Life and Legacy of a Buddhist Master (Dipa Ma-Cuộc đời và di huấn của một nữ Thiền Sư Phật Giáo) - Tác giả: Amy Schmidt.) Cuộc đời của Thiền sư Dipa Ma đã được tác giả Amy Schmidt đem vào tác phẩm “Knee Deep in Grace, The extraordinary Life and Teaching of Dipa Ma”. Sau đó, tác phẩm nầy được bổ túc thêm để trở thành tác phẩm mang tên “Dipa Ma ,The Life and Legacy of a Buddhist Master”. Dipa Ma (1911- 1989) ra đời tại Chittagong, một làng nhỏ nằm về phía Đông xứ Bengal (ngày nay là Bengladesh). Lúc dó Bà mang tên là Nani Bala Barua chớ chưa phải là Dipa Ma.
Cuộc đời đầy khổ đau và nghịch cảnh
Cuộc đời của bà lắm gian truân và nhiều nghịch cảnh. Lấy chồng năm 12 tuổi, và lúc được 16 tuồi bà phải theo chồng sang sinh sống tại Miến Điện. Hai năm sau mẹ ruột của bà qua đời bất thình lình và để lại đứa con trai vừa mới có hai tuổi. Bà quyết định đem cháu bé cũng đồng thời là em trai về nuôi tại Miến Điện vì lúc đó vợ chồng bà chưa có đứa con nào cả.
Đến năm 35 tuổi , bà sanh được đứa con đầu lòng. Đó là một cháu gái, nhưng chẳng may cháu chết đi vì bệnh tật ba tháng sau đó. Bốn năm sau, ở vào lứa tuổi 39, bà lại sanh thêm được một đứa con gái khác và đặt tên là Dipa. Bà hết sức là vui mừng với sự ra đời của cháu Dipa. Để ghi nhớ biến cố trọng đại này bà quyết định bảo mọi người từ nay hãy gọi bà là Dipa Ma , có nghĩa là mẹ của Dipa. Dipa cũng còn có nghĩa là ánh sáng nữa. Nhưng khổ ải vẫn còn đeo đuổi theo bà. Đó là sự ra di của đứa con trai duy nhất mà bà vừa mới sanh ra đời. Tiếp theo là chồng bà lìa đời một cách đột ngột vì bịnh tim. Tất cả những biến cố dồn dập trên đã làm bà hao mòn sức khỏe tâm thần lẫn thể xác. Bà rất yếu, hầu như chỉ còn nằm một chỗ.
Là một Phật tử, bà suy nghiệm rằng chỉ còn một con đường duy nhất để mong thoát khỏi tâm trạng khổ ải phiền não. Đó là phải tìm đến một thiền viện để học tập cách hành thiền. Sau đó bà giàn xếp gia đình và đem gởi cô con gái cho người bạn láng giềng thân tính trong nom hộ. Tất cả của cải và nữ trang riêng của bà cũng được giao cho người bạn vì bà nghỉ rằng lúc chết có ai mang theo được cái gì đâu.
Con đường tu học của Thiền sư Dipa Ma
Bà lên thủ đô Rangoon và tham dự các khóa thiền tại Thiền Viện Kamayut Meditation Center. Các bài giảng đều bằng tiếng Miến Điện nên đã không ít gây trở ngại cho bà trong buổi ban đầu. Nhưng bà vẫn quyết tâm và kiên trì trong học tập. Tình cờ cơ duyên đã giúp bà gặp được thiền sư Munindra, người đồng hương Ấn Độ như bà. Thiền sư Munindra lúc đó đang giảng dạy thiền Vipassana tại một thiền viện khác. Ngài khuyên bà nên đến thiền viện Thathana Yeikitha để tu học. Thiền viện nầy do Đại sư Mahasi Sayadow trách nhiệm. Ngài là một đại sư Phật Giáo và đồng thời cũng là một thiền sư nổi tiếng tại Miến điện. Bà tham dự một khóa an cư kiết hạ thứ hai tại thiền viện mới trong một bối cảnh chu đáo và ổn định hơn khóa học đầu tiên tại Rangoon.
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight). Đây là một giai đoạn tiền giác ngộ (enlightement), đúng theo kinh Phật giáo Nguyên Thủy. Bà cảm thấy ánh sáng tỏa ra khắp không gian, tiếp theo đó là cảm giác mọi sự vật quanh bà đều tan biến hết. Thân bà, sàn nhà, tất cả cảnh vật xung quanh đều tan thành mảnh nhỏ và trở nên trống không empty.
Lúc đó Bà phải chịu đựng một sự đau đớn vô cùng tận về thể xác và cả về tâm ý. Hình như như có một ngọn lửa đang bùng cháy trong thân thể bà đến đổi có thể nổ tung ra vì áp suất quá lớn. Nhưng rồi một hiện tượng lạ thường xảy đến sau đó. Trong lúc ngồi thiền với nhiều thiền giả trên sàn nhà, bà cảm thấy như có một sự chuyển tiếp bất ngờ hiện ra. Đó là một sự tỉnh lặng lạ thường bao trùm cả không gian. Sau nầy, thiền sư Dipa đã cho biết: ”Tôi không biết tại sao từ giây phút đó cuộc đời của tôi đã được thay đổi hoàn toàn.”
Sau ba thập niên tìm sự tự do, đến tuổi 53 và sau một ngày hành thiền, Bà Dipa Ma đã đạt đến được bậc đầu tiên của giác ngộ (Theo Phật giáo Nguyên thủy: có tất cả bốn cấp bậc trong sự giác ngộ). Ngay trong lúc đó, áp huyết của Bà trở lại bình thường, nhịp tim chậm lại. Lúc trước bà bước lên các bật thang rất khó khăn và mệt nhọc vô cùng, nay thì ngược lại, Bà đi đứng dễ dàng, nhanh lẹ mà không cảm thấy một cảm giác mệt nhọc nào cả. Bà cũng thố lộ, trong một giấc chiêm bao, Đức Phật có cho Bà biết tất cả sầu muộn, sợ hãi của Bà từ bấy lâu nay đều tan biến hết và để lại trong Bà một tâm xả (equanimity) chưa từng thấy bao giờ và một trí huệ trong sáng giúp Bà đương đầu với mọi việc (clear understanding). Bà hành thiền thêm hai tháng nữa tại Thiền viện Thakana Yeiktha, sau đó thì trở về lại Rangoon. Trong những kỳ an cư kế tiếp, Bà đã tiến bộ thêm lên nữa. Bà đạt được bậc 2 của giác ngộ. Thân tâm Bà cũng thay đổi theo đó. Lúc trước, Bà là một người đàn bà ốm yếu, bệnh hoạn, phải lệ thuộc vào người khác, nay thì ngược lại Bà rất khỏe mạnh và không cần phải lệ thuộc vào một ai cả. Theo như Bà nói “Như các bạn thấy, tôi tả tơi vì đã mất chồng (1957) và mất con. Tôi đau khổ vô ngần hầu như không thể di chuyển được, nhưng nay thì tôi đã hết bệnh, tươi tắn trở lại. Không còn cái gì ảnh hưởng được vào tâm hồn tôi cả. Không còn buồn phiền, không còn khổ nảo. Tôi rất hạnh phúc. Nếu các bạn hành thiền thì các bạn cũng sẽ được hạnh phúc. Thiền minh sát Vipassana không phải là cái gì là ma thuật cả, chỉ cần tuân theo sự chỉ dẫn mà thôi.” (all my disease is gone. I’m refreshned, and there is nothing in my mind. There is no sorrow, no grief. I’m quite happy. If you come to meditate you will also be happy. There is no magic, only follow the instructions.)
Năm 1963, dưới sự hướng dẫn của thiền sư Munindra, thiền sư Dipa đạt được đến bậc “nhận thức thần thông” (Siddhis magic powers). “Bà cụ Dipa Ma sau khi học Thiền Minh Sát, được thầy dạy thêm các pháp về thần thông – phân thân, tàng hình, đằng không, nhìn lại quá khứ, đoán chuyện tương lai, vân vân... tất cả đều do sức định mà thành – các khả năng mà về sau bà cụ rời bỏ vì cho là không cần thiết cho trí tuệ giải thoát. Điều chúng ta muốn nói nơi đây rằng có những chỗ mà nhục nhãn không thể nhìn thấy được, và cái gọi là kiến thức khoa học vẫn còn rất là xa với cảnh giới mà các đại thành tựu giả nhìn thấy, thí dụ như về cõi chư Thiên.” (Trích từ Chú giải về P’HOWA Cư sĩ Nguyên Giác dịch). Năm 1967, Bà trở về xứ và sống tại một khu nhà bình dân trong thành phố Calculta, Ấn Độ. Bà mở lớp hướng dẫn thiền ngay trong nhà của mình. Đa số thiền giả là các bà nội trợ. Ngoài ra cũng còn có nhiều khách ngoại quốc, đặc biệt là Hoa Kỳ, đến tham dự các khóa thiền của Bà. Trong số nầy phải kể đến Joseph Goldstein, Jack Kornfield và Sharon Salzberg. Tất cả các người nầy đã trở thành những thiền sư lỗi lạc và uy tín. Họ đã khai sáng, điều khiển và hướng dẫn thiền Vipassana tại Hoa kỳ, đặc biệt là tại các trung tâm vùng Massachusetts và California. Năm 1980, Thiền sư Dipa Ma đã được các môn đệ thỉnh mời sang Hoa Kỳ hai lần để hướng dẫn các khóa an cư tại thiền viện Massachusetts và California.
Mười bài học của Thiền sư Dipa Ma (Đạo hữu Thiện Nhựt dịch):
1) Nếu bạn muốn có tiến bộ về thiền quán. Phải kiên trì giữ theo một kỹ thuật duy nhứt mãi. ( Choose one meditation practice and stick with it. If you want to progress in meditation, stay with one technique.) 2) Phải ngồi thiền mỗi ngày. Phải tập ngay bây giờ. Đừng tưởng bạn sẽ làm nhiều hơn về sau." (Meditate every day. Practice now.Don’t think you will do more later.) 3) Sử dụng mọi trường hợp. Hãy dùng năng lực đó để tự cứu mình và giúp đỡ kẻ khác. (Any situation is workable. Each of us has enormous power.It can be used to help ourselves and help others.) 4) Tập nhẫn nhục. Nhẫn nhục là đức tánh quan trong nhứt để phát triển tỉnh giác và định lực. (Practice patience. Patience is one of the most important virtues for developing mindfulness and concentration.) 5) Hãy giải thoát tâm của bạn. Tâm của bạn còn đầy vọng tưởng (Free your mind. Your mind is all stories.) 6) Hãy dập tắt ngọn lửa tình cảm. Sân hận là ngọn lửa (Cool the fire of emotions. Anger is a fire.) 7) Hãy cứ vui hưởng lạc thú ở dọc đường. Tôi rất vui sướng. Nếu bạn đến tập thiền, bạn cũng sẽ vui sướng. (Have fun along the way. I am quite happy. If you come to meditate, you will also be happy.) 8) Giản dị hoá. Hãy sống cuộc đời bình dị. Một đời sống giản dị bao giờ cũng tốt cho mọi sự. Quá nhiều xa hoa làm chướng ngại cho sự tu tập. (Simplify. Live simply. A very simple life is good for everything. Too much luxury is a hindrance to practice.) 9) Vun bồi tinh thần chúc phước lành. Nếu bạn chúc lành cho người chung quanh bạn, bạn sẽ được thêm sự chú tâm vào mọi phút giây (Cultivate the spirit of blessing. If you bless those around you, this will inspire you to be attentive in every moment.) 10) Một hành trình theo vòng tròn. Thiền quán thành toàn nhơn cách con người (It’s a circular journey. Meditation integrates the whole person.) Năm 1989 tại Calcutta, Thiền sư Dipa Ma ra đi một cách êm ái và thanh tịnh sau khi đã cung kính chấp tay lễ Phật rồi nhắm mắt lại.
Dipa Ma là một nữ thiền sư Phật giáo lỗi lạc và rất hiếm hoi trong thế kỷ 20. Bà đã chọn nơi cư ngụ bình thường, căn phòng chật hẹp của gia đình tại thành phố xô bồ đông đúc dân cư Calcutta , Ấn Độ làm nơi tuyền giảng và thực tập thiền minh sát cho các bà nội trợ bình thường cũng như cho một số sinh viên ngoại quốc chẳng hạn như như Sharon Salzberg, Joseph Goldstein, Jack Kornfield và nhiều người khác nữa… Và chính các người nầy đã trở thành những thiền giả ngoại hạng trong việc giảng dạy, quảng bá và phổ biến thiền minh sát Vipassana Insight Meditation tại Hoa Kỳ hiện nay. Để kết thúc, người gõ xin trích mượn ý kiến của đạo hữu Thiện Nhựt, người đã bỏ nhiều công sức để chuyển dịch ra việt ngữ quyển sách vô cùng quý báu: Dipa Ma: The life and Legacy of a Buddhist master (Dipa Ma: cuộc đời và di huấn của một nữ thiền sư Phật giáo).
“Sau cùng, tôi xin tán thán công phu nhiều năm trời của tác giả Amy Schmidt, người chỉ nghe đến Dipa Ma sau khi bà đã chết, sưu tập tài liệu, phỏng vấn thật nhiều người, để viết lại cuộc đời ly kỳ của một bà nội trợ Ấn độ, tranh đấu với hoàn cảnh khổ sở để tu tập chứng đắc giác ngộ và giải thoát rồi đem kinh nghiệm đó chỉ lại cho hàng xóm, cho bằng hữu cả Đông và Tây phương. Nếu được phép tóm tắt lại quyển sách, tôi xin nói thêm: "Một người nội trợ ít học, khổ sở như bà đã làm được, sao ta lại chẳng làm được?"
Nguyện cầu mọi người thấm nhuần "ân sủng" của Dipa Ma trong hồng ân của Đức Phật!
Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
Tiêu đề: Re: Ngộ Sat 31 Dec 2011, 17:24
Mừng Năm 2012 Thân chúc toàn thể các bạn Đào Viên Đủ hạnh phúc để trở nên dịu dàng nhân hậu, Đủ trải nghiệm để trở nên kiên cường mạnh mẽ, Đủ nỗi buồn đế biết cảm thông, Và đủ hy vọng để trở nên hạnh phúc.
Lữ Hoài
Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
Tiêu đề: Re: Ngộ Wed 04 Jan 2012, 02:03
Từ Tâm với Mình
Lại bắt đầu xé một tờ lịch mới, quẳng quyển lịch cũ tôi không thấy buồn hay vui mặc dù có những điều băn khoăn trong phút giây mà thật là khó diễn đạt được bảng lời , viết lên cũng khó mà nói ra thì càng khó hơn. Lại trầm ngâm bên tách trà xanh buổi sáng, đôi lúc không biết mình có nên nhìn lại những gì đã qua hay cứ nên quên hết mà chỉ cần thấy hiện tại và nhìn tới phía trước??? Nhìn tới nhìn lui đâu đâu cũng vậy, buồn nhiều hơn vui! Cuộc đời có bao giờ luôn được như ý đâu ?
Ai cũng vậy, suốt hành trình sống chỉ để đi tìm niềm hạnh phúc và điều an vui- một thứ gì quá trừu tượng khó nắm bắt- bởi vì nó chỉ là ý niệm mà thôi, không thể trường tồn và bất biến. Tất cả những ý niệm đó phát từ TÂM, phải hiểu cái tâm mình thì mới có thể an vui và hạnh phúc. Có những cuộc vui thật là đơn giản nhẹ nhàng như dăm ba câu chuyện vãn với bạn bè và bà con, đọc quyễn sách hay cho ta những suy nghĩ mới lạ hay xem một cuồn phim thú vị mang lại những giây phút thảnh thơi... cũng là một hạnh phúc nhỏ nhưng tất yếu hàng ngày. Nhưng cái tâm nó luôn luôn chuyễn động, không vui mãi được với những điều bình dị, có lúc nó cũng làm cho lòng mình sân si bởi những lạc thú cao xa hơn nữa, mặc dù biết rằng những niềm vui có to lớn thế nào đi nữa rồi cũng sẽ ra đi. Cuộc đời là viễn cảnh mà tâm thức là nơi nhận định, cảnh trí trong đời là con đường mình phải trải nghiệm -có thăng có trầm có lúc gập ghềnh chứ không êm đềm mãi mãi. Có những thèm khát tất nhiên khó chống lại nếu không định được tâm, sự buồn rầu hay vui mừng quá thể cũng làm động tâm. Cho nên rèn luyện cho tâm an tịnh là cả một vấn đề và là một quá trình không dễ thực hành. Có những người khi buồn thì tìm nơi giải trí cho khuây khỏa , nhưng được bao lâu? Tất cả những ngoại cảnh chỉ xoa dịu tạm thời mà thôi. Người ta thường lấy câu thơ của cụ Nguyễn Du nói "người buồn thì cảnh có vui đâu bao giờ?" Thật là đúng! Lúc nào con người cũng mong tìm những cảnh vui hầu an nhàn tâm trí, nhưng khi trong lòng khắc khoải điều gì thì cảnh ngoạn có tuyệt vời thế nào chăng nữa cũng không thể làm mình vui trọn vẹn. Bởi vì cái gì đó chưa được buông khỏi cõi lòng mà vẫn đè nặng trong tâm thì làm sao vui được, phải không?
Gia đình và bạn bè ảnh hưởng tâm tư nhau rất nhiều, thấy người thân quen có chuyện buồn làm sao mình yên vui được? Đó là một trong những áp lực tinh thần và mọi người đều lẩn tránh gây phiền toái cho nhau bằng cách là buồn thì làm thinh cho xong. Ai cũng nghĩ rằng chỉ nên chia sẻ những niềm vui còn nỗi buồn thì nên giấu kín. Tôi cũng từng hành động như thế, vì nghĩ rằng khi mình ảnh hưởng làm người khác buồn thì lại cảm thấy mang tội ... nhưng có bao giờ mình nghĩ rằng khi không nói ra mà người thân vẫn cảm nhận có cái gì đó không ổn- có khác nào cái gánh nặng ấy cứ đè mãi trong tâm của họ không? Thế thì tại sao mình không nói được những suy tư của mình cho một ai đó biết để giảm thiễu một chút gánh nặng cho mình và người thân hay bạn bè. Thật ra đó là chuyện bình thường tự nhiên như từ lúc sanh ra, con người đều cần một tình thương, một sự đùm bộc và chia sẻ - cứ nhìn một trẻ sơ sinh thì khắc biết , nó khóc vì lạnh và đói nhưng khi nghe giọng nói thân quen vỗ về hay được bồng bế trong vòng tay ấm nó hết sợ và nín khóc... chúng ta cũng vậy, có những khi cô đơn và ưu sầu trong thâm tâm mình vẫn muốn tìm một một điểm tựa, một sự an ủi, một tình thương để sưỡi ấm cõi lòng.
Cám ơn trời đất cho tôi may mắn, có chút sáng suốt để học nhiều điều hay từ bạn bè và người thân. Và bài học có lẽ hữu ích đối với tôi nhất là nên học " BUÔNG và QUÊN". Tôi thường nghe người ta nói đời là bể khổ vì mình không thể sung sướng vĩnh viễn , tôi thấy rõ ràng là chỉ có hai chữ hạnh phúc thôi mà bị cắt lát rồi lồng vào tới bốn trụ sanh lão bệnh tử của cuộc đời thì đủ thấy khổ nhiều hơn sướng rồi! Nếu thật tâm buông bỏ bớt những muộn phiền lẩn vui sướng, không bám víu những thứ này thì không phiền não vì không lo là không đạt được và không có thì cũng không sợ mất , không còn bận lòng dựa dẫm vào những điều khiến cho tâm phải động và lòng phải đau. Khi học nhớ thì cũng có thể học quên được, quên những điều không hay cũng có ích lợi bởi vì nó sẽ giảm áp lực cho bản thân rất nhiều.Tôi nhớ có người bạn cách đây không lâu làm tôi buồn phiền nhưng rồi khi tôi quên hết những điều không hay người này nói tự nhiên thấy hết buồn bực. Trong cuộc sống có rất nhiều điều mình thâu thập mà đôi khi cũng nên loại trừ ra khỏi tâm trí cho nó nhẹ cái đầu . Một người bạn thân thương của tôi bảo là "cái gì cầm lên được- bỏ xuống được..." câu nói chí lý này có thể áp dụng trong tất cả các tình huống khi ta dùng nó để nhìn từ nhiều khía cạnh , chẳng hạn như hạnh phúc trong đời cũng vậy , nó đến rồi đi không thể nắm bắt ôm ghì vào thân mãi được- phải biết buông bỏ và chấp nhận sáng suốt, bởi vì không nắm giữ được nữa mình sẽ cảm thấy đau khổ vô cùng khi đánh mất , tiền tài danh vọng và cả bạn bè hay người thân cũng thế , khi mình cho là thuộc về của mình là mình sẽ khổ khi mất mác.
Tôi cũng nghe nhiều lần cái câu "đời là vô thường" nhưng tôi chưa am hiểu tường tận sự vô thường là như thế nào, nói thì dễ - văn từ ngôn tự lý giải thì dư thừa , nhưng thật sự có mấy ai cảm thụ được sự vô thường đó khi chưa đi hết quảng đường đời của mình ?! Mỗi lần nghĩ đến vấn đề này tôi hay nhớ tới bà ngoại , suốt cuộc đời hy sinh cho gia đình, một người đàn bà rất thông minh, đảm đang và tài giỏi trong thương trường hiếm có... nhưng vì thời cuộc , một ngày không đẹp trời mất hết tất cả. Vào một đêm trăng sáng trước khi tôi lên đường, hai bà cháu ngồi ngoài sân dưới cây hoa sứ thơm ngát trời, bà tâm sự - nhưng có lẽ nói với chính bà thì phải "... như cô đào xuất sắc trên sân khấu nhưng khi hạ màn cởi hết áo mão, lau hết son phấn, không còn khán giả, không còn tiếng vỗ tay ca ngợi, thì cũng chỉ là một người cô đơn trong cõi vắng riêng mình... Tất cả mọi người cũng chỉ là diễn viên trên sân khấu cuộc đời như nhau..." quả thật như vậy, chúng ta diễn tuồng đời, đóng nhiều vai trong cuộc sống, trong gia đình và ở ngoài xã hội cho tới ngày tay trắng ra đi, không mang được gì ...
Cuộc đời là hành trình dài, thiết nghĩ hành lý mang theo càng nhẹ càng ít càng hay, đi qua khúc nào quên khúc ấy không bận tâm quay lại nhìn. Trải nghiệm càng phong phú đôi khi chỉ là những thứ hành trang cồng kềnh vướng bận hơn, vậy ngại gì mà không quẳng bớt cho nhẹ người? Quá khứ không thể đổi thay vì trái đất không xoay ngược, mỗi năm thêm một tuổi đời, bước chân mình có chậm hơn, vậy bận tâm làm chi mà không buông bỏ những điều không cần thiết phải ghi nhớ cho nặng thêm cõi lòng?
Lữ Hoài
Được sửa bởi Lữ Hoài ngày Wed 04 Jan 2012, 17:20; sửa lần 1.
quehuong
Tổng số bài gửi : 3106 Registration date : 24/08/2009
Tổng số bài gửi : 19896 Registration date : 23/11/2007
Tiêu đề: Re: Ngộ Wed 04 Jan 2012, 05:42
Lữ Hoài đã viết:
Từ Tâm với Mình
... Ai cũng nghĩ rằng chỉ nên chia sẻ những niềm vui còn nỗi buồn thì nên giấu kín. Tôi cũng từng hành động như thế, vì nghĩ rằng khi mình ảnh hưởng làm người khác buồn thì lại cảm thấy mang tội ... nhưng có bao giờ mình nghĩ rằng khi không nói ra mà người thân vẫn cảm nhận có cái gì đó không ổn- có khác nào cái gánh nặng ấy cứ đè mãi trong tâm của họ không? Thế thì tại sao mình không nói được những suy tư của mình cho một ai đó biết để giảm thiễu một chút gánh nặng cho mình và người thân hay bạn bè. Thật ra đó là chuyện bình thường tự nhiên như từ lúc sanh ra, con người đều cần một tình thương, một sự đùm bộc và chia sẻ - cứ nhìn một trẻ sơ sinh thì khắc biết , nó khóc vì lạnh và đói nhưng khi nghe giọng nói thân quen vỗ về hay được bồng bế trong vòng tay ấm nó hết sợ và nín khóc... chúng ta cũng vậy, có những khi cô đơn và ưu sầu trong thâm tâm mình vẫn muốn tìm một một điểm tựa, một sự an ủi, một tình thương để sưỡi ấm cõi lòng.
...
Lữ Hoài
phải rồi anh LH, mình vẫn muốn tìm một sự an ủi, một chút gì đó yêu thương để sưởi ấm cõi lòng... Chỉ cần một câu thăm hỏi có thể thay đổi cả tâm tình... Nhưng rồi vẫn câm nín, không nói lên được những suy tư của mình... Chịu đựng...
Chúc anh LH vui nhiều, năm mới 2012 hạnh phúc an khang.
Yến Phương
Tổng số bài gửi : 461 Registration date : 11/01/2011