Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 21:05

EM CHIM HÁT HAY QUÁ by mytutru Yesterday at 20:11

QUY NHƠN TÔI YÊU by phambachieu Yesterday at 16:51

Mái Nhà Chung by mytutru Thu 09 May 2024, 23:18

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Thu 09 May 2024, 12:56

Lời muốn nói by Tú_Yên tv Thu 09 May 2024, 12:37

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Wed 08 May 2024, 11:15

Một thoáng mây bay 13 by Ai Hoa Wed 08 May 2024, 10:00

ĐÔI BÀN TAY NGHỆ NHÂN by mytutru Tue 07 May 2024, 23:54

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Tue 07 May 2024, 08:05

Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Mon 06 May 2024, 11:42

Chết rồi! by Ai Hoa Mon 06 May 2024, 11:31

LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Sun 05 May 2024, 11:06

Tranh Thơ Viễn Phương by Viễn Phương Fri 03 May 2024, 19:13

Người Em Gái Da Vàng by Viễn Phương Fri 03 May 2024, 06:36

Những Đoá Từ Tâm by Việt Đường Wed 01 May 2024, 21:49

7 chữ by Tinh Hoa Tue 30 Apr 2024, 10:59

5 chữ by Tinh Hoa Sun 28 Apr 2024, 22:27

Thi tập "Chỉ là...Tình thơ" by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:56

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:51

Quán Tạp Kỹ - Đồng Bằng Nam Bộ by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:48

Trụ vững duyên thầy by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:34

THIỀN TUỆ (diệt trừ đau khổ) by mytutru Tue 23 Apr 2024, 00:07

Nhận dạng phụ nữ giàu có by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:36

Bức tranh gia đình by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:09

Mẹo kho thịt by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 07:29

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 23:01

Trang Họa thơ Phương Nguyên 2 by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 22:56

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 21 Apr 2024, 06:38

Mức thù lao không ai dám nghĩ đến by Trà Mi Wed 17 Apr 2024, 11:28

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : 1, 2  Next
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7114
Registration date : 01/04/2011

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Empty
Bài gửiTiêu đề: Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh   Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh I_icon13Mon 08 Aug 2022, 11:35

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh

Đỗ Văn Phúc

Khái niệm về Ngôn Ngữ và Từ Ngữ

Các nhà ngôn ngữ học phân biệt hai loại ngôn ngữ: sinh ngữ và tử ngữ.

Tử ngữ là những ngôn ngữ đã từng có, từng được sử dụng; nhưng nay không còn thịnh hành nữa mà chỉ còn trong các trang sử, các trang sách cổ; và coi như đã chết. Ví dụ: chữ Latin, chữ cổ Irish, chữ Nôm của Việt Nam…

Sinh ngữ, nói nôm na là ngôn ngữ sống, đang được sử dụng. Sinh ngữ cũng có những quy luật chung. Quy luật này có thể do một viện hàn lâm soạn thảo, có thể do các thành viên ưu tú như giới văn học, báo chí, và cũng có thể do người sử dụng nó mặc nhiên chấp nhận sau một thời gian thử thách. Sinh ngữ cũng thay đổi theo hoàn cảnh sống của con người trong xã hội; thay đổi theo sự tiến triển của khoa học kỹ thuật… Văn phạm, là quy luật trong ngôn từ, cũng không cố định mà có thể thay đổi theo hoàn cảnh.

Theo từ điển, ngôn hay ngữ, hay cả chữ ghép ngôn ngữ có nghĩa là nói năng.

Ngôn (nói) và từ (lời) có trước, tự (chữ) theo sau.

Người Việt Nam có mặt trên địa bàn Hoa Nam và đồng bằng sông Hồng đã hàng ngàn năm. Có lẽ cũng như các dân tộc khác trên trái đất vào thời sơ khai, tổ tiên chúng ta chỉ có Ngôn mà chưa có Tự (chữ) hay Từ (lời). Ngôn ngữ thời đó chắc nghèo nàn và đơn giản vì cuộc sống đơn sơ. Nhiều dân tộc, vì nhu cầu giao tiếp, truyền thông, đã phát minh ra chữ viết. Trước hết, là các dấu hiệu, những nét chữ dựa trên hình ảnh mà người ta gọi là tượng hình, hay dựa trên âm thanh (tượng thanh). Rồi đi xa hơn, bằng cách hội ý dùng những chữ khác nhau ghép thành một chữ mới mang ý nghĩa phối hợp. Xin đừng nhầm lẫn chữ “hội ý” Việt Công dùng với nghĩa là bàn bạc, thảo luận.

Chúng tôi xin đơn cử vài ví dụ về tượng hình, tượng thanh và hội ý trong từ ngữ của Trung Hoa; cũng là chữ viết có sớm thứ nhì của loài người (1200 BC) sau người Ai Cập (3100 BC):

   Tượng hình: Chữ Sơn 山(núi) Người Trung Hoa dùng hình dạng ba trái núi liền nhau. Chữ điền 田 giống như một thửa ruộng. Chữ nhật 日, nguyệt 月 dựa theo hình dạng mặt trời, mặt trăng.
   Tượng thanh: Chữ nữ 女 (đàn bà) và dùng âm thanh của chữ mã 馬 (ngựa) ghép thành chữ ma 媽 là mẹ, mụ.
   Hội ý: Ghép các chữ tạo thành chữ khác và mang ý nghĩa của những chữ được ghép. Ví dụ:

Thị 市 (chợ) ghép với chữ môn 門 (cửa) thành chữ náo 閙 (ồn ào). Ý rằng nơi chỗ chợ búa thì ồn ào. Thị tại môn tiền náo.

Nguyệt 月 (trăng) ghép chữ môn 門 (cửa) thành chữ nhàn 閒 (thảnh thơi, nhàn hạ). Nó mang ý nghĩa mảnh trăng treo nơi cửa tượng trưng sự nhàn hạ. Nguyệt lai môn hạ nhàn.

Minh 鳴 là tiếng chim kêu, ghép bằng hai chữ khẩu 口 (miệng) và điểu 鳥 (chim). Minh 明 là sáng thì ghép bằng hai chữ nhật và nguyệt. Minh 冥 là tối thì có chữ mịch 冖 là cái nắp che đậy, nên tối tăm.

Ngôn từ càng ngày càng phong phú

Người Việt đã Việt hoá những từ ngữ các dân tộc khác trong quá trình giao tiếp. Trước hết,  ông cha chúng ta đọc chữ của họ theo âm sắc Việt Nam. Hiện tượng này gọi là Việt hoá. Trong thời gian hàng ngàn năm bị đô hộ bởi Trung Hoa, người Việt thời đó chưa có nhiều từ ngữ, đã phải Việt hoá rất nhiều chữ Hán. Tức là đọc các chữ Hán theo âm Việt mà chúng ta gọi là chữ Hán Việt. Có thể nói chữ Hán Việt chiếm hết gần ba phần tư từ ngữ Việt của chúng ta dùng hiện nay. Năm 1624, Giáo Sĩ người Pháp là Alexandre de Rhodes (1593 – 1660), được Phái bộ Truyền Giáo Dòng Tên ở Roma cử đến Việt Nam năm 1624. Trước ông, đã có Giáo Sĩ gốc Bồ Đào Nha là Francisco de Pina và vài vị khác đã nghiên cứu áp dụng mẫu tự Latin để viết tiếng Việt Nôm. Nhưng Giáo Sĩ de Rhodes đã bỏ công hoàn thiện và soạn ra cuốn tự vị và văn phạm đầu tiên của Việt Nam là cuốn Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Tự Điển Việt – Bồ – Latin) phát hành năm 1651 tại Roma.

Khi đường hàng hải phát triển, người từ các lục địa khác đến buôn bán, thăm viếng và đã đem vào nước ta những điều mới lạ, từ tư tưởng cho đến những phẩm vật mà cha ông ta chưa hề biết đến. Sự tiếp xúc với văn hoá Tây phương đã đem góp vào kho tàng Việt Ngữ nhiều chữ mới.

Ví dụ: chữ “bích kê” để thay chữ briquet của Pháp. Sau đó ở miền bắc đẻ ra chữ cái bật lửa, miền trung thì gọi là cái máy lửa, miền nam thì dùng chữ hộp quẹt máy (dù chữ hộp quẹt là nói về hộp diêm có động từ quẹt do động tác quẹt cây diêm vào bên hông cái hộp nhỏ để phát lửa). Chữ hộp quẹt thông dụng và được phân biệt bằng hộp quẹt cây, hộp quẹt ga, hộp quẹt máy.

Những chữ bơ, phô mai, xúc xích, ô tô, đường rầy, nhà ga, con tem, trái banh, là những chữ Tây đã Việt hoá từ chữ beurre, fromage, saucisse, auto, rail, gare, timbre, balle.

Chúng ta chấp nhận các từ ngữ Hán Việt vì chúng gọn gàng và dễ nghe hơn chữ đã dịch sang tiếng Việt thuần túy. Ví dụ: Quốc Trưởng (國 長) là người đứng đầu một nước. Không thể có chữ Việt nào gọn hơn.

Nhất là trong lãnh vực chính trị, quân sự, kinh tế khó kiếm ra những chữ Việt thuần túy. Người ta nói hay viết “ông Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng”, thay vì nói/viết “ông Cầm Đầu Bộ Giữ Gìn Đất Nước!” Người ta nói/viết: Quốc Vương và Hoàng Hậu thay vì Ông Vua Nước và Vợ Vua.

Ai thay được những chữ Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng bằng chữ Việt thuần tuý mà vừa ngắn vừa đủ ý, chúng tôi xin cúi đầu bái phục.

Nhưng cũng có rất nhiều từ ngữ Hán Việt có thể dùng từ ngữ Việt cũng gọn và rõ ràng. Ví dụ: phi cơ, tiềm thủy đỉnh, toà Bạch Cung… Tại sao không dùng chữ Việt: máy bay, tàu ngầm, toà Nhà Trắng…? Chúng ta thường dị ứng với những chữ tàu sân bay, lính thủy đánh bộ, nhà trắng…, vì các chữ đó nghe lạ tai, nôm na, và nhất là do đối phương chúng ta sử dụng. Lấy trường hợp trong các quân binh chủng của quân đội, gần như hầu hết là chữ Hán Việt: Quân Cụ, Quân Nhu, Bộ Binh, Biệt Động Quân, Không Quân, Hải Quân, Địa Phương Quân… lại lọt vào chữ lính Nhảy Dù là chữ Việt thuần túy. Tại sao chấp nhận chữ lính Nhảy Dù, mà phản đối chữ Lính Thủy Đánh Bộ? Có phải đó là do tâm lý, thành kiến và thói quen không?

Người viết cũng thắc mắc, tại sao có thể dùng chữ Trưởng Ty, Trưởng Phòng, Trưởng Ban; mà không dùng chữ Trưởng Bộ, Trưởng Tiểu Đoàn… Chẳng qua là quen dùng thôi. Chẳng có quy luật nào ràng buộc cả.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7114
Registration date : 01/04/2011

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh   Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh I_icon13Mon 08 Aug 2022, 11:54

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh  (tt)

Đỗ Văn Phúc

Ngôn từ mới do sự phát triển kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật

Cũng thế, văn minh nhân loại tiến bộ, phát minh ra nhiều cái mới mà chúng ta chưa có một Viện Hàn Lâm Ngôn Ngữ hay ít nhất một tập thể ưu tú có kiến thức và thẩm quyền nào ngồi lại để dịch ra chữ Việt. Mà có dịch ra được thì cũng rắc rối lắm vì khó mà nói đủ ý nghĩa trong một vài từ ngữ. Hàn Lâm Viện của Pháp hàng trăm năm nay vẫn ngồi cãi nhau chí choé về chữ nghĩa đấy.

Có những cách dịch mâu thuẫn nhau. Chiếc máy radio mà chúng ta nghe tin tức hàng ngày thì gọi là máy thu thanh. Trong khi cái ti vi để xem hình ảnh thì lại gọi là máy truyền hình mà không là máy thu hình. Vì chữ máy thu hình dùng cho cái camera!

Cái máy computer, ngày nay chúng ta chấp nhận chữ máy điện toán. Nhưng còn hardware, software, input, output, download, upload, save, scan, malware, spyware, keyword… Chúng tôi đã thấy vài nơi dùng chữ “từ khoá” để dịch chữ keyword. Nghe chưa quen tai!

Vậy thì có hai giải pháp

(1) Việt hoá nó như chúng ta từng Việt hoá chữ cà phê, xúc xích, nhà ga…

(2) Đặt cho những chữ đó những chữ Việt tương đối đủ nghĩa và dùng riết thì sẽ quen thuộc. Dĩ nhiên ban đầu sẽ có nhiều chống đối. Nhưng quy luật ngôn ngữ là thế, chúng ta phải có sự cảm thông, độ lượng để chấp nhận thôi.  Nên nhớ rằng ngày xưa tiếng/chữ Việt thuần túy cũng từng bị các nhà hủ Nho kết án “nôm na là cha mách qué”. Sự chống đối của họ cũng kéo dài cả hàng trăm năm cho đến mãi khi gần hết triều Nguyễn với sự kết thúc các kỳ thi Hương, thi Hội.

Tại sao không dùng chữ của Việt Cộng? Không có chữ Việt Cộng mà chỉ có việc Việt Cộng và dân trong nước dùng sai. Chúng tôi đã có viết một bài khẳng định rằng tất cả từ ngữ Việt đang được sử dụng hiện nay ở quốc nội hay hải ngoại đều là ngôn từ chung của dân tộc Việt. Việt Cộng chẳng đẻ ra chữ nào mới. Vấn đề là họ thay đổi, gán ghép, hoán chuyển và dùng sai nên trở thành lố bịch, sai nghĩa. Ngoài ra còn nhiều từ ngữ rất chính xác mà chúng ta né tránh, dị ứng vì lý do chính trị, để cho phía Việt Cộng độc quyền sử dụng. Ví dụ: các chữ giải phóng (liberation), đường cao tốc (high speed), kỹ thuật số (digital), nhu liệu (software).

Trong phần tiếp theo đây, chúng tôi dùng chữ nghiêng có gạch dưới cho những câu của Việt Cộng sử dụng (sai), và chữ nghiêng không gạch cho những câu mà chúng ta sử dụng (đúng). Chúng tôi chỉ nêu tượng trưng một số chữ.

Một vài thí dụ về việc sửa chữ:

1.- Hiện nay bên Việt Nam, người ta thường bỏ bớt chữ trong một từ ngữ kép:

     Căng: “Tình hình căng lắm” thay vì “tình hình căng thẳng lắm”.
     Quyết: “Cấp trên đã quyết” thay vì “cấp trên đã quyết định”.
     Quản: “Việc này để bên Bộ Nội vụ quản” thay vì “… để bộ Nội Vụ quản lý”.
     Bèo: “Món này bèo lắm” thay vì “Món này rẻ như bèo”.
     Điều (điều động): “Mỹ điều tàu ra Thái Bình Dương” thay vì “Mỹ điều động tàu ra Thái Bình Dương”.
     Bang: “Tôi cư ngụ ở bang Texas” thay vì “Tôi cư ngụ ở Tiểu Bang Texas”.
     Chất: “Ai cũng muốn sống chất” thay vì “Ai cũng muốn cuộc sống đầy đủ”.

2.- Nhiều khi họ ghép hai chữ thành chữ mới và dùng sai::

     Hoành Tráng là tĩnh từ dùng cho các để nói về bất cứ cảnh quan có quy mô to lớn, rộng rãi; không ai nói buổi tiệc hoành tráng được. Tiếng Việt phong phú; có rất nhiều tĩnh từ khác nhau để nói về từng trường hợp khác nhau: Lâu đài nguy nga, núi non hùng vĩ, cảnh diễn binh hùng tráng, căn phòng tráng lệ, công trình quy mô, khu vườn mỹ lệ, cảnh sắc huy hoàng, buổi tiệc linh đình….

     Chỉnh Chu (chỉnh tề và chu đáo). Thật lạ tai khi nghe nói “Ông bà tiếp đãi chỉnh chu” thay vì “Ông bà tiếp đãi chu đáo”. Nhưng nếu chúng ta đừng quá chấp nê, thì việc ghép hai chữ có nghĩa gần và bổ túc nhau cũng có thể chấp nhận được (ví dụ chữ Đơn giản từ hai chữ đơn sơ và giản dị).

     Lễ Tân (Lễ: nghi lễ, phép tắc; Tân: khách). Nếu có đặt thành chữ mới, thì chỉ dùng trong trường hợp trang trọng như “Ban Lễ Tân của bộ Nội Vụ…” nhưng không thể “cô lễ tân trong khách sạn”, mà nên nói “cô tiếp tân của khách sạn”.

     Chất lượng (vừa phẩm chất vừa số lượng). “Hàng này chất lượng cao” thay vì “hàng này phẩm chất tốt”. Chỉ dung “chất lượng” khi nào một vật có đủ cả hai yếu tố này.

     Tinh tươm: thay cho chữ tinh xảo, tươm tất.

     Vụ việc: Đã vụ thì không cần việc, và hai chữ này dùng trong trường hợp khác nhau: Một vụ án, một việc làm tốt. Vụ giết người khác nghĩa việc giết người.

     Cặp đôi (vừa cặp vừa đôi!): Không thể nói “một cặp đôi nam nữ xứng hợp”, thay vì ”một đôi nam nữ xứng hợp”.

Cặp và đôi là hai chữ riêng biệt để nói về số lượng. Tuy cùng có nghĩa là hai, nhưng cách dùng thì lại khác. Người ta dùng chữ “đôi” khi nói về hai người, hai vật mà có sự gắn bó, không thể tách rời ra. Đôi vợ chồng, đôi tình nhân, đôi bạn, đôi đũa, đôi giày… Những thứ này gắn bó, bổ túc cho nhau để trở thành một “mình với ta tuy hai mà một; ta với mình tuy một mà hai”. Đôi bạn, đôi vợ chồng mất đi một thì đời sẽ là vô nghĩa. Một chiếc đũa, một chiếc giày thì trở thành vô dụng. Hãy nhớ lại tựa đề cuốn tiểu thuyết “Đôi Bạn” của Nhất Linh, và câu “Miếng trầu cau nên đôi vợ chồng, đôi vợ chồng nghèo…” trong bản nhạc “Tình Nghèo” của Phạm Duy. Dĩ nhiên cũng có các ngoại lệ. Ví dụ: người cụt một chân, cụt một tay, chột mắt, hay có tật chân cao chân thấp…

Chữ cặp dùng một cách chung cho những gì có hai cái mà không nhất thiết cần kết hợp. Ví dụ: cặp vịt, cặp bánh chưng… Ghép chung hai con vịt, hai cái bánh hay tách ra từng con vịt, một cái bánh cũng chỉ thay đổi số lượng mà không thay đổi tính cách.  Vì thế, nên lựa chọn hoặc dùng chữ đôi, hoặc chữ cặp cho những điều mình muốn nói. Không thể tham lam dùng cả hai chữ “cặp đôi” vì như thế, nó có nghĩa là 4 thay vì muốn nói tới hai vật. Và nhất là nghe hai chữ “cặp đôi” nó kỳ quặc, chướng tai vô cùng.

3.-Có khi họ ghép một chữ Hán vào với chữ Việt thuần tuý tuy cả hai chữ cùng một nghĩa như bến cảng, in ấn…

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7114
Registration date : 01/04/2011

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh   Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh I_icon13Tue 09 Aug 2022, 08:44

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh  (tt)

Đỗ Văn Phúc

Những thí dụ về việc dùng sai:

1.- Danh từ dùng như động từ hay tĩnh từ.

     Ấn tượng là danh từ (impression). Việt Cộng dùng thay tĩnh từ (impressive) khi nói “Ca sĩ X ăn mặc ấn tượng” mà lẽ ra “Cách ăn mặc lố lăng của ca sĩ X gây ấn tượng xấu…”. Hoặc như động từ (impress): “Tôi ấn tượng điều anh nói” thay vì “Lời anh nói cho tôi một ấn tượng tốt”. Trong Anh ngữ, có nhiều chữ cùng một gốc để dùng trong trường hợp khác nhau. Vì dụ: impression (danh từ), impress (động từ), impressive (tĩnh từ).
     Tâm tư có nghĩa là sự suy nghĩ nặng về cảm tình. Một anh cao cấp Việt Cộng nói với nhân viên: “Tôi tâm tư hoàn cảnh của anh” Lẽ ra phải nói: “tôi ưu tư về hoàn cảnh của anh.”
     Khả năng là danh từ, không thể dùng như động từ. “Trời khả năng mưa” thay vì “trời có thể mưa”.
     Trình độ là danh từ. Không thể dùng như tĩnh từ. “Anh này trình độ nhỉ”, thay vì “Anh này có trình độ nhỉ”.

2.- Dùng sai nghĩa:

     Vô tư (nghĩa đúng là không suy nghĩ). Không thể nói: “Cứ ăn uống vô tư!”, thay vì “Cứ ăn uống thoải mái”
     Chuyên trị (nghĩa đúng là dùng để trị một bệnh gì). Không thể nói: “Anh hoạ sĩ này chuyên trị tranh màu” mà phải là “Anh hoạ sĩ chuyên vẽ tranh màu”
     Tiếp cận là kế cạnh, sát bên, next to. Không thể dùng thay chữ đến gần (approach) hay tiếp xúc (contact). Không nên nói: “Cô ta tiếp cận ông X” thay vì “Cô ta tiếp xúc ông X”. Một thí dụ đúng về chữ tiếp cận: “Nhà nàng tiếp cận nhà tôi”
     Thể hiện là biểu lộ (express). Không thể viết “Cái bánh chưng khổng lồ do bà X thể hiện” thay vì “Cái bánh chưng khổng lồ do bà X làm/ thực hiện.”. Câu dùng chữ thể hiện đúng: “Cách ăn nói của anh thể hiện tư cách đứng đắn.”
     Liệt sĩ là người có khí tiết mạnh mẽ. Dùng chữ liệt sĩ để nói về những người chết trận (Nghĩa trang Liệt Sĩ) là sai. Chữ đúng là tử sĩ.
     Tài khoản (chỉ dùng trong tài chánh). Không nên nói “Tài khoản Facebook, tài khoản Yahoo”. Chữ Account theo nghĩa này chưa thấy chữ Việt tương đương. Tại sao không Việt hoá nó?
     Thông tin (không thể dùng thay chữ tin tức). Thay ví nói ”Anh cho tôi thông tin về việc này”, nên nói “Anh cho tôi tin tức về vụ này”.
     Tư liệu (trong Hán tự có 28 chữ Tư, trong đó ghép với chữ Văn thành Tư Văn là văn thư qua lại của các quan). Không nên viết “Tư liệu chiến tranh”; đúng ra phải là “Tài liệu chiến tranh”.
     Thống nhất (hợp lại, unify). Không nên dùng chữ này có nghĩa là đồng ý (agree). Thay vì viết “Các bác sĩ thống nhất trong việc giải phẫu”; nên sửa là “Các bác sĩ đồng ý việc giải phẫu”.
     Thu hoạch (thường dùng trong nông nghiệp là gặt, hái, lượm). Không nên dùng nói “Học sinh làm bài thu hoạch” thay vì “bài thi tổng kết, cuối khoá…”

Chúng ta nghe có những bài viết bên Việt Nam, và ngay ở hải ngoại, họ dùng những chữ rất một cách kỳ lạ.

     Văn hóa: Có khuynh hướng ghép chữ văn hóa bừa bãi. Họ viết trong bài báo về du lịch “Tại Nhật không có văn hoá típ.”, “Văn hoá ẩm thực của người Phi.” . Nên viết đơn giản “Nhật không có thói quen cho tiền ‘tip’”, hay “Vấn đề ăn uống của người Phi”
     Xử lý: “Rau được xử lý xong cho vào chảo luộc”, “Cầu thủ xử lý đường bóng”; thay vì “Rau được nhặt rửa xong cho vào chảo luộc” và “Cầu thủ chuyền một đường banh”
     Ùn tắc (tắc nghẽn). “Cuối ngày Chủ nhật, lưu thông ùn tắc”. Sao không nói “Cuối ngày Chủ nhật, việc lưu thông bị tắc nghẽn”
     TrầnSàn (Ceiling/Maximum, Threshold/Minimum). Thay vì nói”Giá trần của căn nhà…”; nên nói “Giá cao nhất của căn nhà.”
     Chùm: Chùm ảnh, Chùm thơ. Sao không nói dễ nghe “tập ảnh, loạt thơ…”
     Tốp ca: “Ban tốp ca nữ” thay vì “Ban hợp ca nữ”.
     Cá thể (muốn nói một đơn vị): Báo chí bên Việt Nam viết “Cảnh sát bắt được hai cá thể vi phạm”; nên viết “Cảnh sát bắt được hai người vi phạm”.
     Tác nghiệp (ý muốn nói làm việc chuyên môn): Có nhiều bài viết “Các phóng viên đến tác nghiệp”, “Cảnh sát đến nơi tác nghiệp”. Nên dùng chữ “lấy tin” hay “làm việc/điều tra”
     Giao lưu: “Hai chị em giao lưu suốt buổi tối” thay vì “Hai chị em trò chuyện suốt buổi tối”
     Phản hồi: Việt Cộng viết trong bài báo “Không thấy phía Mỹ phản hồi” thay vì “Không thấy phía Mỹ phản ứng/ trả lời”
     Khủng (ý nói khổng lồ): “Cái xe khủng này, giá khủng” thay vì “cái xe lớn, giá cao”
     Diễu hành, diễu binh: “Đi diễu hành ngày Quốc Khánh.” Lẽ ra phải là “diễn hành, diễn binh”, vì diễu hành có nghĩa là đi vòng vòng có tính cách vui chơi, không trang trọng.

3.- Những chữ không thấy trong các từ điển Việt Nam lẫn Hán Việt

     Tình huống (ý muốn nói thay chữ tình trạng), bức xúc (chỉ có chữ bức xức), động thái (ý muốn nói đền động tác, hành động), giao lưu (ý muốn nói đến trao đổi), hồ hởi, hiệp đồng (tự điển có chữ hợp đồng có nghĩa giao kèo), lễ tân (ý muốn nói tiếp khách) … Còn nhiều lắm!

4.- Khuynh hướng ưa đảo thứ tự các chữ kép, nghe chướng tai vô cùng: bảo đảm, đơn giản, họ đảo thành đảm bảo, giản đơn…



5.- Rồi lại có tình trạng đổi chữ “i” thành chữ “y” như bác sĩ, nghệ sĩ, liệt sĩ thành bác sỹ, nghệ sỹ, liệt sỹ; hay ngược lại, như vô lý thành vô lí, chia ly thành chia li. Nhiều người có khuynh hướng cải cách chữ “i” và “y” cho đơn giản nhưng chưa được hưởng ứng rộng rãi.

Nói qua về cách dùng trạng từ

Trong khi tĩnh từ bổ nghĩa cho danh từ, thì trạng từ bổ nghĩa cho động từ, hay đôi khi cho tĩnh từ.

    Ví dụ. Anh ta nói tiếng Anh một cách thành thục; Chị ta cư xử khôn khéo.

Như thế vị trí của trạng từ là theo sát động từ, trước hay theo sau.

    Ví dụ: Cô Ba nhanh nhảu trả lời. Cô Ba trả lời một cách nhanh nhảu.

Chỉ có khi cần nhấn mạnh, người ta mới đặt trạng từ ra trước, nhưng phải cách mệnh đề bằng một dấu phẩy.

    Ví dụ: Đột nhiên, anh ta ngã xuống.

Chúng ta thấy bây giờ người bên Việt Nam viết báo, hầu hết cho trạng từ ra đầu câu.

    Ví dụ: Choáng công thức pha chế sữa đậu nành “bẩn” của Việt nam. Kinh hoàng đứa cháu chém bà ngoại vì không xin được tiền.

    Câu trước chữ choáng viết ngắn của choáng váng, nghe đã chướng tai, rồi lại đặt nó ở đầu câu, nghe càng khó chịu.

Người Việt tuyệt đối không áp dụng cách kỳ cục này.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7114
Registration date : 01/04/2011

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh   Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh I_icon13Wed 10 Aug 2022, 10:26

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh  (tt)

Đỗ Văn Phúc

Tên ngoại quốc

Có nhiều tên người, tên các quốc gia; nên giữ nguyên chữ của nước họ, hay dọc theo âm Việt Nam, hay dịch sang tiếng Việt?

Tên người, tên quốc gia là các danh từ riêng. Chắc chắn không ai dịch danh từ riêng ra tiếng nước mình mà có thể đọc theo âm sắc nước mình, nhất là giới bình dân. Nhưng khi đọc như thế, nghe vừa kỳ cục vừa bất lợi khi một người ta cần tra cứu, tìm hiểu thêm, sẽ không làm được vì không biết nguyên từ của các chữ đó để tìm trong tự điển hay trên google. Vì thế, theo ý tôi, tên các quốc gia, tên người (nói chung là danh từ riêng) nên để nguyên văn.

Tên các quốc gia, người Việt đọc theo chữ Hán. Người Trung Hoa họ đọc nguyên từ theo phát âm Trung Hoa, rồi viết ra theo chữ Hán. Người Việt lần nữa đọc chữ Hán đó theo âm Việt.

Vì thế, nhiều danh từ khi đọc tiếng Việt càng xa với nguyên từ.

Vài thí dụ:

   Roma: Người Trung Hoa không phát âm được chữ ‘R’. Họ đọc thành ‘L’. Roma thành Lỏ Ma. Việt đọc thành La Mã.
   France: Trung Hoa đọc là Phơ Lang Sa. Việt đọc theo chữ Hán thành Pháp Lang Sa, gọi tắt là Pháp.
   Espagne: Trung Hoa đọc là Sì Pa Nhơ, Việt thành Tây Ban Nha.
   America: Trung Hoa đọc là A Mei Li Ca, Việt dọc thành Á Mỹ Lợi Á, gọi tắt là Mỹ.
   Washington: Trung Hoa đọc Hwa-Shing-Tơn, Việt đọc lại thành Hoa Thịnh Đốn.

Quý vị thấy, về mặt này, người Trung Hoa họ Hán Hoá các danh từ riêng của Tây Phương. Đó là chuyện của họ, coi như tạm ổn vì họ phát âm không khác mấy nguyên từ. Nhưng khi cha ông chúng ta lại phiên âm them thêm lần nữa (Việt hoá các chữ Hán) thì càng xa lạ với nguyên từ. Vì thế, tôi thích để nguyên từ của Tây Phương.

Nhưng đó là ý kiến của riêng tôi. Còn vị nào muốn giữ các chữ Việt thì tùy họ.

Việc Việt hoá những danh từ riêng Tây Phương cũng không nên. Vì khi đọc nghe chướng tai lắm. Ngươi ta từng chế nhạo việc phiên âm các tên Nga như Móc Cu Ra Bóp, Lút Mi La; hay tên Lào như Cay Xỏn, Xi Xa Phỏn… Và nếu một người cần tra cứu thêm, thì phải dùng nguyên từ, chứ dùng danh từ đã Việt Hoá sẽ không tìm thấy trong sách vở ngoại quốc hay trên internet.

Ví dụ, khi cần nói với người Mỹ, nếu chúng ta đọc Ý Đại Lợi, Hoa Thịnh Đốn, Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng… không ai biết cả. Nhưng nếu đọc Yi Ta Li, Hwa-Shing-Tơn, Teng Xiẻo Ping, Li Ping thì chắc có người biết ngay.

Một điểm đáng nói, là tiếng Việt đọc theo đơn âm, tiếng các nước Tây phương theo đa âm. Hai cách phát âm cũng khác xa. Vì thế, với các danh từ riêng, thay vì đọc rời từng âm một (ví dụ: Ca-Li-For-Nia), nên tập đọc nhanh thành một chuỗi âm (California).

Vài thí dụ nhà nước và báo chí Việt Cộng đã Việt hoá các danh từ riêng và viết rời thành từng chữ đơn âm:

   Christina: Khơ Ri Chi Na
   Gorbachev: Go Rơ Ba Chốp
   Tchenenko: Tờ-Réc-Nen-Cô, có khi là Chéc Nen Cô
   Johnson: Giôn Xơn

Dù chúng tôi đã nhiều lần lên tiếng về tình trạng thoái hoá của tiếng Việt trong nước, và nhắc nhở những người quốc gia tại hải ngoại, nhất là các nhà văn, nhà báo phải cẩn thận khi chuyển tin, sao chép tin từ trong nước, hay là khi viết bài vở, phải dò kỹ, thật kỹ để không lọt những từ ngữ kỳ quái này vào. Hiện nay, các đài truyền hình, truyền thanh lớn như BBC, VOA, cả RFA cũng tuyển dụng những nhân viên sanh đẻ, lớn lên, hấp thụ văn hoá Việt Nam Cộng Sản, nên trong các bài viết của họ, nhan nhản những chữ sai. Vì đa số báo chí hải ngoại ít nhân viên, không nhiều thì giờ để chăm sóc, nên hiện tượng này cứ tiếp diễn dài dài. Nó vô tình đầu độc chúng ta, làm cho người đọc quen dần và không cảm thấy khó chịu. Chúng tôi biết có nhiều nhà văn, nhà bình luận, thậm chí nhiều nhà hoạt động cộng đồng, đoàn thể, thỉnh thoảng vẫn dùng những chữ sai như nói ở trên.

Ở trong nước thì chúng tôi khó trách. Vì gần hết dân số 90 triệu họ nghe, đọc và nói quen rồi. Lâu dần, nó trở thành tiêu chuẩn mà chúng ta đành bất lực. Vấn đề đúng sai, hay dở thật ra chỉ là tương đối. Cái đúng, cái hay của người này; có thể là cái sai, cái dở của người kia! Khi đa số mọi người chấp nhận điều mà quá khứ coi là sai, thì trong hiện tại hay tương lai nó sẽ là điều đúng. Chuyện của dân trong nước, mình đành chịu thua!

Nhưng khi còn gần ba triệu người ở hải ngoại mà đại đa số hấp thụ văn hoá Việt Nam chính thống, chúng ta phải kiên quyết bảo lưu văn hoá của chúng ta. Chúng ta phải thắng trên mặt trận văn hoá.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7114
Registration date : 01/04/2011

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh   Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh I_icon13Wed 10 Aug 2022, 10:36

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh  (tt)

Đỗ Văn Phúc

Bảng tóm tắt một số chữ dùng sai


Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh 111
Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh 210
Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh 312
Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh 412
Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh 512

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7114
Registration date : 01/04/2011

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh   Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh I_icon13Fri 12 Aug 2022, 10:54

Những Chữ Có Thể Bị Hiểu và Dùng Sai

Đỗ Văn Phúc

Tư Cách

1. Tư Cách 資格 trước hết, có nghĩa là cái khả năng đúng mức (ability,capacity, eligibility, qualification); nói chung là những điều phải có đối với một người để có thể được công nhận ở một địa vị, một chức vụ nào đó trong xã hội. Theo nghĩa này, khi nói một ai đó chưa có hay không có tư cách, không có nghĩa là chê người đó sai hay xấu mà chỉ vì người đó thiếu một hay vài điều kiện mà thôi.

Ví dụ:

- Chúng ta nên cho phép ông Lê Văn H. tham dự cuộc họp với tư cách dự thính viên.

- Ông Nguyễn Văn D. có đủ tư cách để đại diện cho công ty chúng tôi.

- Bà Lê Thị K. chưa có đủ tư cách để đảm nhận trọng trách lãnh đạo một tập thể lớn.



Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh 1471vn10



2. Nghĩa thứ hai của Tư Cách là cách cư xử, lối ăn ở (conduct, behavior) biểu hiện phẩm chất của một người. Nó có thể tốt, nhưng cũng có thể xấu.

Trong thiên hạ, khi nói đến hai chữ “Tư Cách” người ta thường nghĩ đến ý nghĩa tốt.

Ví dụ:

“Anh B. là một thanh niên có tư cách” là một câu khen về một người trẻ đứng đắn, đàng hoàng.

Theo định nghĩa này, thì  Tư Cách không ám chỉ điều tốt hay xấu. Phải nói thật rõ ra cụ thể.

Ví dụ:

Tôi chọn cậu B. ví cậy ấy có tư cách đàng hoàng, trong khi cậu C. thì tư cách quá tệ!

Ngày xưa, khi còn Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà, ở cổng ra vào các doanh trại thường có gắn một tấm gương soi lớn với câu khẩu hiệu “Nhìn quân phục, biết tư cách.” Người quân nhân trước khi ra khỏi doanh trại, phải đứng soi mình để chỉnh trang quân phục. Tư cách người lính được đánh giá qua cách ăn mặc đúng kiểu, nghiêm chỉnh hay luộm thuộm, bê bối.

Như thế, “tư cách” cũng như “phẩm chất” chỉ là những danh từ trung dung, không hẳn là nói về cái tốt.

Nói đến tư cách, thì tưởng cũng nên nói qua hai chữ Nhân Cách.

Nhân cách là tính cách của con người; phân biệt với tính cách loài thú..

Nói một ai đó có nhân cách, tức là khen người đó có đủ tính chất của một con người, biết hành xử theo lý trí, biết phân biệt giữa điều đúng và điều sai; biết kiềm chế trước những đòi hỏi, dục vọng.

Trái với nhân cách là thú tính hay còn gọi là bản năng loài vật. Những người không có nhân cách sẽ hành xử hoàn toàn theo bản năng thôi thúc. Đói thì quơ quào bất cứ nơi đâu, bất cứ thứ gì cũng cho vào miệng; túng thì trộm cắp; hứng tình thì tay chân bốc hốt, và khi có cơ hội thì sẵn sàng làm điều sằng bậy mà không nghĩ đến hậu quả.

Tổng Hợp

Chỉ có sau năm 1975, chúng ta mới nghe nhiều đến những nhóm chữ “Đại Học Tổng Hợp,” “Cửa Hàng Thương Nghiệp Tổng Hợp,” vân vân.

Danh xưng Đại Học Tổng Hợp chỉ thấy ở các trường Đại Học thuộc khối Cộng Sản mà không nghe đến trong hệ thống đại học ở Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà. Ở Pháp và các nước thuộc ảnh hưởng Pháp thì có các Đại Học Bách Khoa như Institut Polytechnique de Paris, Polytechnique Montréal.

Năm 1956, sau khi tiếp thu Hà Nội, Cộng Sản đã đổi tên Viện Đại Học Đông Dương thành Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Mãi cho đến năm 1993, họ thành lập Đại học Quốc gia Hà Nội gồm các Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Công nghệ, Trường Đại học Ngoại ngữ, Trường Đại học Kinh tế, Trường Đại học Y Dược, Trường Đại học Giáo dục và Trường Đại học Việt Nhật.

Cũng thế, năm 1976, ở Sài Gòn, họ đã sáp nhập Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn và Trường Đại học Khoa học Sài Gòn và đặt tên là Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh có 7 trường đại học thành viên: Trường Đại học Bách khoa, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Quốc tế, Trường Đại học Công nghệ Thông tin, Trường Đại học Kinh tế – Luật, Trường Đại học An Giang.

Các chữ Đại học Tổng hợp biến mất không chiêng không trống!

Tại sao gọi là Tổng Hợp?

1. Tổng Hợp (總合 synthesis, synthetic, synthesize) là sự hợp lại, gom lại, pha trộn lại hai hay nhiều phần tử khác nhau để tạo ra một vật mới. (The composition or combination of parts or elements so as to form a whole). Ngược lại với tổng hợp là Phân Tích (analysis)

Trong khoa học, nhất là ngành hoá học, người ta dùng các phản ứng hoá học, các diễn trình cơ học để tổng hợp hai hay nhiều hoá chất, kim loại khác nhau tạo ra những hợp chất, hợp kim mới có độ bền, độ cứng, sức chịu nhiệt cao hơn để đưa vào sử dụng trong các ngành công nghệ. (The production of a substance by the union of chemical elements, groups, or simpler compounds or by the degradation of a complex compound).

Ví dụ:

Chiếc bánh đậu là tổng hợp của đậu xanh, bột, đường, vanilla. Các thứ này sau khi nhào trộn kỹ sẽ qua một thời gian nướng trong lò để trở thành chiếc bánh thơm ngon.

Methanol là do sự tổng hợp của hai chất khí Hydrogen và Carbon Monoxide.

Sắt, Chromium và Carbon được tổng hợp thành thép; thay Carbon bằng Nickel thì sẽ có hợp kim Nichrome. Bronze là hợp kim của của đồng và thiếc (Copper, Tin).

Trong đời sống hàng ngày của chúng ta, có rất nhiều đồ dùng làm ra từ chất plastic, nhựa (nylon). Đó là sản phẩm làm ra do sự tổng hợp của dầu lửa qua một quá trình pha trộn, phản ứng hóa, nhiệt, cơ. Phó sản của dầu là các chất sợi (fiber), hay tấm mỏng (film), hoặc những dạng khác mà chúng ta nghe qua chữ synthetic polymers.

2. Tổng Hợp cũng có ý nghĩa phối hợp các ý kiến, tư tưởng để tạo ra một hệ thống lý thuyết mới.  (The combining of often diverse conceptions into a coherent whole).

Học thuyết Cộng Sản là sự tổng hợp của các lý thuyết của Engels, Marx và tư tưởng của các nhà xã hội học như Thomas Paine, Charles Fourier, Robert Owen…

Có lẽ những người cầm quyền Cộng Sản muốn dịch chữ Poly trong Institut Polytechnique ra chữ Tổng Hợp?

Tiếp đầu ngữ poly có nghĩa là nhiều (hơn một cái gì đó). Trường Polytechnique là trường có nhiều ngành học về kỹ thuật. Trong đó có trường Điện học, trường Hóa học, trường Vật lý, trường Cơ học… Các ngành học này song hành nhau chứ không hoà lẫn, trộn vào nhau để thành một ngành học mới nào khác. Vì thế chỉ có thể dịch là Đại Học Bách Khoa chứ không thể gọi là Đại Học Tổng Hợp.

Cũng thế, một cửa tiệm bán đủ loại hàng (Department Store) chỉ có thể gọi là tiệm Bách Hóa chứ không thể đặt thêm hai chữ tổng hợp theo sau nó.

Một vài chữ cũng cần làm sáng nghĩa và dùng cho đúng:

Chúng cư 眾 居, không phải là chung cư.

Khác với các căn nhà biệt lập (home), song lập (duplex), tứ lập (fourplex), chúng cư là những dãy nhà xây lên dành cho nhiều gia đình cư ngụ. Chữ Chúng Cư là danh từ Hán Việt.

Chúng là đông đúc (chúng sinh, đại chúng, quần chúng…); trong khi Chung theo Hán tự có nghĩa là cái chén nhỏ盅 cái cốc 鍾, hết, cái kết sau cùng 終;  còn theo Việt ngữ, Chung là là tĩnh từ thuần Việt có nghĩa là cùng (ở chung, chung chạ, chung đụng, ở đời muôn sự của chung). Dùng hai chữ Chung Cư là sự gán ghép không đúng của hai từ Việt và Hán dù rằng cái nghĩa của nó tưởng như cũng có lý (nhà ở chung với nhau!)

Câu Kết 勾 結  và Cấu Kết.

Câu và cấu nguyên là hai chữ Hán có hai nghĩa khác nhau

Khi muốn nói sự móc nối, kết bè đảng, âm mưu để làm điều gì không đúng, thì đó là câu kết

Ví dụ: Bọn gian thương câu kết với đám tham quan để móc túi đồng bào.

Chữ Cấu 媾thì ngược lại, có nghĩa tốt; đó sự hoà hợp.

Ví dụ: Hai họ cấu kết dâu gia hoà hiếu với nhau (如舊昏媾 Như cựu hôn cấu).

Có những thuật ngữ chuyên ngành chúng ta ít nghe đến, nên có người tưởng lầm là chữ mới đặt ra sau này.

Phức Hợp 複 合là tập hợp những thứ phức tạp, không đồng bộ, đồng dạng, không cùng bản chất, không cùng công dụng.

Ví dụ: Một phức hợp kiến trúc trong đó có những căn nhà lớn, nhỏ, những toà nhà cao tầng, những công viên, tượng đài, cửa hàng, bãi đậu xe…

Quần Thể 羣 體là tập hợp những thứ có thể không đồng dạng nhưng đồng loại.

Quần theo Hán tự là họp lại thành đàn, bầy, bè bạn.

Ví dụ: Hợp quần 合羣 gây sức mạnh, đàn chim tụ lại (Điểu Quần 鳥羣). Quần Đảo Philippines, giành lại cảm tình của quần chúng, Vua Lê Lợi tụ họp các quần hùng, mãnh hổ nan địch quần hồ.

Hệ Quả

Một người bạn đã gửi điện thư hỏi về chữ Hệ Quả trong tựa đề cuốn sách Chiến Tranh “Mậu Dịch” Mỹ Trung và Hệ Quả đến Việt Nam của Tiến Sĩ Nguyễn Văn Chữ. Chúng tôi đã bỏ ra hơn một giờ tìm tòi trong gần chục cuốn tự điển xưa nay và gần như đã bỏ cuộc thì may thay cuối cùng tìm ra hai dòng chữ mờ nhạt ở trang 601 của cuốn Tự Điển Việt Nam của hai ông Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ.

Hệ Quả là thuật ngữ ngành pháp luật, được định nghĩa là kết quả liên thuộc , giằng buộc lấy nhau.

Như thế, những thành phần có liên quan trực tiếp đến một biến cố xảy ra thì sẽ gánh hậu quả; nhưng những thành phần khác tuy không liên quan trực tiếp, vẫn có thể nhận hệ quả vì những yếu tố khác.

Ví dụ: Cuộc chiến hiện nay do Nga xâm lược Ukraine mang lại hậu quả tàn phá nghiêm trọng tại xứ này, nhưng có thể đưa đến hệ quả không hay cho Việt Nam dựa trên bối cảnh địa lý chính trị và quan hệ lịch sử giữa Việt Nam và Trung Hoa.

Thông Tin

Theo Tự Điển Việt Nam của Tín Đức (trang 575) và Tự Điển Việt Nam của Lê Ngọc Trụ (trang 742) thì Thông Tin hay Thông Tín là động từ, có nghĩa là gửi tin, báo tin.

Ví dụ:

Tôi sẽ thông tin cho các anh.

Tôi sẽ chuyển các tin tức về vụ này cho anh.

Không nên nói “Tôi sẽ gửi thông tin này cho anh” vì thông tin không phải là danh từ!

Nói chung, thì có nhiều từ ngữ mà những người đang nắm chức năng truyền thông, giáo dục cần quan tâm. Còn đối với đại chúng thì chúng ta đành thông cảm mà sửa sai từ từ, được đến đâu hay đến đó.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7114
Registration date : 01/04/2011

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh   Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh I_icon13Thu 18 Aug 2022, 12:53

Hương Khói và Hương Lửa


Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Image10

Tình nghĩa vợ chồng, hương lửa mặn nồng!


Trong một hồi ký Người Vợ Lính của tác giả LTA đăng trong một tập đặc san, có trích một lá thư do người chồng gửi từ trong trại tù Cộng Sản, có đoạn như sau: “… nên nó có thể thay anh hương lửa cho giòng (sic) họ.” Câu này được lặp lại trong một đoạn kế theo đó: “Nó sẽ là người thay tôi hương lửa nếu chẳng may tôi chẳng có ngày về.” Một chữ được lập lại hai lần thì chắc không phải lỗi typo mà do chủ ý dùng chữ đó của tác giả mà ông cho là đúng.

Chúng tôi biết ý của tác giả là muốn các con thay ông ta lo việc hương khói cho ông bà; tức là các việc nhang đèn cúng giỗ, chạp mả. Trong tự điển Việt Nam còn có chữ “hương hoả” cũng có dịch như hương lửa, nhưng lại có ý khác. Đó là các di sản – thường là một mảnh ruộng tốt nhất – ông bà để lại cho con cháu để khai thác hay cho tá điền canh tác rồi dùng hoa lợi cho các công việc cúng giỗ trong đại gia đình. Tục lệ này xảy ra ở miền quê, nơi làng mạc gốc của dòng họ.

Còn hai chữ “hương lửa” thì lại có nghĩa là tình cảm gắn bó nồng nàn giữa vợ chồng khi chung sống với nhau. Ca dao có câu: “Phải duyên hương lửa cùng nhau.”

Thật ra, ít người dùng lầm chữ “hương lửa,” nhưng chúng tôi phải nhắc đến vì biết đâu sẽ có các bạn trẻ đọc thấy trong truyện mà tưởng là dùng đúng cho tình nghĩa vợ chồng!

Cũng trong câu dẫn trên, tác giả đã dùng chữ “giòng” ít thấy trong tự điển tiếng Việt, mà đúng ra phải là “dòng” như dòng nước, dòng sông, dòng dõi, dòng giống… Đã có nhiều tranh luận về hai chữ “dòng” và “giòng.” Nhưng tra hết các tự điển Việt Nam, chỉ thấy nhiều chữ “dòng” mà chỉ một chữ “giòng” không ghi nghĩa mà chỉ có thí dụ “gái nạ giòng” mà thôi.

Chuyện vs. Truyện

Người miền Bắc thường phát âm hai phụ âm kép “TR” na ná như “CH.” Vì thế, có nhiều người tưởng rằng không có gì khác biệt giữa hai chữ Truyện cũng như Chuyện, mà chỉ do cách nói của người Bắc thôi.

Thật ra, hai chữ này có nghĩa khác nhau.

Chuyện (talk) là sự truyền đạt, bàn luận, thảo luận qua lời nói nói về những điều xảy ra, những vấn đề, lắt nhắt có thể không đầu không đuôi, có thể từ chuyện này dẫn qua chuyện kia. Những chương trình truyền hình có hai hay nhiều người nói gọi là talk show.

Các chữ liên quan: Chuyện trò, chuyện vãn, câu chuyện, nói chuyện, chuyện vui, chuyện phiếm, chuyện tình…

Ví dụ: Chuyện hôn nhân hai cháu có tôi lo liệu. Chuyện mình thì quáng, chuyện người thì sáng. Đương chuyện nọ xọ chuyện kia. Người lắm mồm nhiều chuyện. Bà ấy là người nói chuyện duyên dáng…

Truyện (story) là sự tích đã xảy ra. Truyện là một diễn biến được ghi lại trên giấy, trong sách vở để kể về một điều gì, một nhân vật, một sự kiện có thể có thật, có thể do hư cấu. Truyện có một nội dung rõ ràng, có nhân vật, địa danh, hoàn cảnh câu kết với những tình tiết có lớp lang thứ tự. Ngày xưa, vì nhu cầu giáo dục, các truyện hư cấu đều có thủy có chung, có một hồi kết tốt đẹp. Người hiền lành sẽ được an bình, hạnh phúc; kẻ hung ác sẽ bị trừng trị. Người ta nói đó là chuyện có hậu. Nhưng dần dà, người viết truyện chạy theo xu hướng thực tế, nên có lúc truyện không cho cái hậu tốt đẹp; có khi để lửng lơ cho độc giả tự đoán lấy.

Các loại truyện: truyện ngắn, truyện dài, truyện  Tây Du, truyện Kiều, truyện Tấm Cám, truyện thánh, truyện trinh thám, truyện cổ tích…

Ví dụ:

- Em ơi, đừng khóc chị yêu,
nín đi chị kể truyện Kiều em nghe.


- Chung trại tù với tôi có anh Hy là một người kể truyện rất hấp dẫn.

Thư vs. Thơ

Người Việt cũng thường lẫn lộn hai chữ Thư và Thơ.

Thư 書 trong Hán Ngữ là sách, truyện (books): Tứ Thư Ngũ Kinh, thư viện, thư khố, thư phòng, thư sinh, thư tịch, quản thư. Thư cũng có nghĩa là biên chép (thư pháp, thư ký, thư lại, thư phù…)

Ví dụ: Thư trung hữu nữ nhan như ngọc (Trong sách có cô gái mặt đẹp như ngọc).

Thư tín (letter, mail) cũng là nội dung những lời ghi lên giấy để trao đổi về vấn đề nào đó, từ tình cảm đến việc làm ăn. Ngày nay, chúng ta dùng computer để gửi thư (email) thì không cần giấy mực và tem thư gửi qua bưu điện nữa.

Thơ do chữ Thi 詩 nói lệch mà ra. Thơ là hình thức văn có vần, có điệu. Thơ ngũ ngôn, thơ Đường, Ngâm thơ, làm thơ.

Ví dụ:

- Xin chàng đọc sách ngâm thơ,
Dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu.


Đa số người Việt cũng dùng chữ Thơ  khi nói về thư tín.

Ví dụ:

- Tôi đã gửi thơ cho anh rồi!

Và cũng lẫn lộn khi muốn nói nói về nạn hành chánh quan liêu, nặng về thủ tục, giấy tờ là “hệ thống thơ lại” (bureaucracy). Đúng ra phải là “hệ thống thư lại.”  theo nghĩa của thư là sách vở, giấy bút.

Đỗ Văn Phúc
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7114
Registration date : 01/04/2011

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh   Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh I_icon13Thu 18 Aug 2022, 13:01

Cơ Chế và Cơ Cấu


Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Image-11


Hiện nay, trên báo chí chúng ta nghe nhiều hai chữ “Cơ Chế” được dùng khi nói về các thành phần của một tổ chức nào đó. Việc dùng sai và bừa bãi này bắt nguồn từ trong nước Việt Nam và người ở hải ngoại lại vô tình học theo.

Ví dụ: Trong một tập san mới đây của một tổ chức lớn, khi giới thiệu thành phần nhân sự của các Hội Đồng Chấp Hành, Hội Đồng Giám Sát, và Hội Đồng Cố Vấn; người ta đã giới thiệu với tựa đề như sau: “Ba Cơ Chế của Tổ Chức X là…”

Chữ CƠ CHẾ bị hiểu sai và bị dùng không đúng trường hợp.

CƠ, theo tự điển Tiến Đức trang 93, có cả một tá định nghĩa khác nhau; Xin dẫn ra hai định nghĩa khá gần gũi là:

1. CƠ là “máy, với nghĩa rộng là những gì có dường (sic) mối.” Đi đôi với chữ “Cơ” này là Cơ Khí, Động Cơ, Cơ Học, Phi Cơ, Cơ Hành. Cơ Quan là cái then máy được định nghĩa là “bộ phận quan yếu trong một công cuộc gì.”

Thí dụ: Các chính đảng thường có một tờ báo để làm cơ quan. Nguyệt San Chiến Sĩ Cộng Hoà và nhật báo Tiền Tuyến là hai cơ quan ngôn luận chính thức của Quân Lực VNCH.

2. Nghĩa thứ hai của CƠ là cái nền tảng. Thí dụ: các chữ Cơ Đồ, Cơ Ngơi, Cơ Nghiệp, Cơ Sở, Cơ bản.

Tra trong các tự điển Hoa Ngữ, Anh Ngữ, và Pháp Ngữ; chúng tôi ghi nhận ba định nghĩa tương tự nhau:

1. Theo Tự điển Thiều Chửu, CƠ (còn gọi là KY) 機 là cái máy. Ráp lại bởi nhiều bộ phận để làm một việc gì đó.


Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Image-13


2. Theo Merriam Webster và The Free Dictionary by Farlex, CƠ (Mechanism) định nghĩa tượng tự như trên “a system of parts working together in a machine; a piece of machinery.” Các thí dụ là: apparatus, machine, appliance, tool.

3. Tự điển Larousse của Pháp cũng định nghĩa tương tự. CƠ là “cái máy ráp bởi các phần lệ thuộc vào nhau để làm được một việc ấn định.” (Dispositif constitué par des pièces assemblées ou reliées les unes aux autres et remplissant une fonction determinée).

Thí dụ: entraînement, freinage, verrouillage, etc.

CƠ chế theo Anh ngữ là Mechanism, có nghĩa sự vận hành, sự tác động hỗ tương giữa những bộ phận (elements) của một cấu trúc. Nói gọn, đó vừa là cái máy, vừa là sự vận hành; nó không hề có nghĩa là một hệ thống tổ chức.

Ngoài định nghĩa cụ thể là cái máy, thì chữ CƠ còn có nghĩa là “một diễn trình tự nhiên hay có sắp xếp qua đó mà hoàn tất một công việc.” (a natural or established process by which something takes place or is brought about).

Theo như các nghĩa vừa dẫn ra “sự vận hành của một cỗ máy hay diễn trình để thực hiện điều gì đó,” thì chữ “Cơ Chế” mang tính nội dung, điều hành của một vật thể, một tổ chức – lớn thì như một nền chính trị, nhỏ thì như một hội đoàn – chứ không phải là hình thức tổ chức của nó.

Ví dụ: Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có một cơ chế chính trị độc tài so với nước Việt Nam Cộng Hoà có cơ chế dân chủ.

Còn khi muốn nói đến tổ chức ra sao, gồm có các thành phần nào, thì chữ đúng để dùng là “Cơ Cấu” (Structure).

Ví dụ: Cơ cấu tổ chức của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hoa Kỳ gồm có ba hội đồng là Hội Đồng Quản Trị, Hội Đồng Chấp Hành, và Hội Đồng Giám Sát).

Để phân biệt Cơ Chế và Cơ Cấu, chúng ta lấy thí dụ là một phần vận hành của chiếc xe đạp:

Cơ cấu của nó gồm hai bàn đạp nối vào một đĩa lớn có răng cưa bằng hai thanh sắt, một đĩa nhỏ ít răng cưa được nối với đĩa lớn bằng một sợi dây xích, và cuối cùng là bánh xe có trục gắn với cái đĩa nhỏ.


Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Image-12


Cơ chế là cái đĩa lớn khi quay một vòng, sợi dây xích sẽ kéo cái đĩa nhỏ quay nhiều vòng, tuỳ theo tỷ lệ các răng cưa giữa hai đĩa. Nhu thế, bánh xe sẽ quay theo và chiếc xe đạp tiến tới.

Trong lãnh vực chính trị, Cơ Chế có thể ví với Chế Độ tức nội dung, sự vận hành của chính quyền ra sao – độc tài hay dân chủ… ; trong khi Cơ Cấu là các Chính Thể tức hình thái của chính quyền – quân chủ hay cộng hoà.


Đỗ Văn Phúc
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7114
Registration date : 01/04/2011

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh   Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh I_icon13Fri 19 Aug 2022, 09:02

Chất và Lượng


Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Image-14

Phẩm vs. Lượng, Anh chọn bên nào?


Chúng ta thường nghe nhiều người đánh giá các sản phẩm, vật chất là có chất lượng. Việc đánh giá không chỉ giới hạn các món hàng, các thực phẩm mà có khi còn là những thứ thuộc lãnh vực trừu tượng như văn chương, học thuật.

Ví dụ: Chiếc xe này có chất lượng, cuốn sách chất lượng, phim này chất lượng.

Chúng tôi đã vất vả dành nhiều thì giờ để tra cứu mong tìm ra  sự đúng sai khi dùng hai chữ chất lượng ghép đôi với nhau.

Chất nói về xấu tốt; lượng nói về nhiều ít.

“Chất” 質 (quality) là phẩm chất, là tiêu chuẩn dánh giá một vật nào đó so với các vật khác cùng thể loại. Chất cũng là mức độ tốt xấu của một vật. Chất có thể đánh giá là tốt, ưu việt, khá, vừa, kém, xấu, tệ…

Ví dụ: Chúng ta cố gắng cải thiện kỹ thuật để nâng cao phẩm chất của món hàng.

Chất cũng được dùng khi nói về cá tính, năng lực của con người.

Ví dụ: Ông ấy là người lãnh đạo có một phẩm chất cao quí.

Còn “Lượng” 量 (quantity) nói về con số. Theo Hán tư, lượng là đồ để đong như cái đấu, cái hộc. Lượng dùng cho những gì có thể cân, đo, đong, đếm được bằng các dụng cụ và các đơn vị cụ thể.

   - Số lượng được đếm bằng con số.

      Ví dụ: Trong sân này có 15 chiếc xe.

   - Trọng lượng nói về sức nặng; đơn vị là gram, kilogram, tấn, pound…
   
   - Dung lượng nói về sức chứa; đơn vị là lít, quart, gallon…

      Ví dụ: Thùng nhựa này có sức chứa 20 lít.

   - Khối lượng nói về thể tích; đơn vị là mét khối, cubic khối…

      Ví dụ: Đống cát này có khối lượng 10 mét khối.

   - Năng lượng được dùng trong lãnh vực vật lý.

      Ví dụ: Nhà máy đện này có năng lượng một triệu kilowatts.

   - Âm lượng, nói về mức độ âm thanh. Đơn vị là decibels.

      Ví dụ: Xin mở âm lượng vừa đủ nghe để khỏi làm phiền hàng xóm.

   - Nhiệt lượng là sức nóng/lạnh, đo bằng độ bách phân hay Farenheits.
   
   - Hàm lượng là đơn vị ẩn chứa bên trong.

      Ví dụ: Hàm lượng muối trong món dưa này là 15 miligrams. Chai coca này chứa 200 calories.

   - Trữ lượng: số lượng được cất giữ.

      Ví dụ: Trữ lượng dầu ở kho này là 300 tấn.

   - Sản lượng: số lượng sản xuất được.

      Ví dụ: Năm nay thời tiết tốt, nông dân đạt sản lượng cao chưa từng thấy.

Vì thế, không thể đánh giá một vật là có chất lượng nếu cái lượng của vật đó không thể cân, đo, đong, đếm được.

Chúng ta không thể nói chiếc áo, chiếc ví tay, chiếc xe, đôi giày… có chất lượng! Chúng ta thấy nó tốt, làm kỹ, màu sắc đẹp; có độ bền. Đó là về chất. Nhưng lượng thì thế nào, đếm cách nào?

Chỉ có vài trường hợp để dùng chữ chất lượng. Ví dụ:

     Vùng Alaska có nhiều mỏ dầu đầy chất lượng (dầu vừa tốt, sản lượng nhiều).

     Vùng biển ở Tiểu bang Maine cho ngư dân những hải sản đầy chất lượng (cá, tôm vừa ngon, vừa nhiều).

Thông thường, phẩm và lượng có tỷ lệ nghịch với nhau. Món ngon, hàng tốt thường ít về số lượng; còn ham nhiều, rẻ thì chỉ mua các thứ xấu. Chúng ta phải biết chọn lựa giữa chất (tốt, xấu) hay lượng (nhiều/ít) tuỳ khả năng và nhu cầu.

Tóm lại, không nên đánh giá một món đồ là có “chất lượng” cả; và khi nói đến chất, phải nói rõ ràng là phẩm chất tốt hay xấu.


Đỗ Văn Phúc
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7114
Registration date : 01/04/2011

Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh   Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh I_icon13Wed 24 Aug 2022, 08:36

Những Chữ Có Thể Bị Hiểu và Dùng Sai

Long Lanh, Lóng Lánh, Lấp Lánh, Lung Lay

Long lanh, lóng lánh, lấp lánh (sparkling) để diễn tả một vật gì sáng lên, nhấp nháy khi phản chiếu ánh sáng

Ví dụ: Long lanh đáy nước in trời. Đôi mắt em long lanh đẹp tuyệt. Hoa đèn lóng lánh mặt gương Quảng Hàn. Viên kim cương lóng lánh.

Lung lay (cũng như Lung linh, flickering) chỉ hiện tượng khi mờ khi tỏ do tác động nào đó

Ví dụ:Ngọn đèn lung linh mờ ảo. Hàng cây lá lung lay trước gió.

Tháng Tuổi


Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh 29907710


Từ hơn chục năm qua, nhiều người rất khó chịu khi nghe những câu trả lời về các em bé sơ sinh “Cháu xinh quá! Được mấy tháng tuổi rồi? Dạ. cháu mới được năm tháng tuổi”

Tuổi là do người Việt đọc trại từ chữ Tuế 歲 của Trung Hoa mà người Quảng Đông đọc là “Tsủi.” Tuế có nghĩa là năm, là tuổi tròn một năm. Người Hoa hỏi bao nhiêu tuổi: “Kỷ tố tsúi?”

Ví dụ:

Đá cũng trơ gan cùng tuế nguyệt

(Trích bài thơ “Thăng Long Thành Hoài Cổ” của Bà Huyện Thanh Quan).

Cây tùng bách tuế là cây tùng sống cả trăm năm.

Tuế nguyệt đây là năm tháng. Bách tuế là trăm năm.

Như thế, một đứa trẻ mới 9 tháng, chưa đầy năm không thể nói là 9 tháng tuổi, mà phải nói thật đúng: “Cháu mới được chín tháng.”

Người ta nói: “Tôi ba mươi lăm tuổi” chứ không ai nói: “Tôi ba mươi lăm năm tuổi” cả!

Như Là & Giống Như Là

Như được định nghĩa là giống, bằng (like, as).

Ví dụ: Cô ấy đẹp như một đoá hoa. Anh ta oai hùng như một chiến sĩ.

Giống như mang ý mạnh hơn, cụ thể hơn.

Ví dụ: Cô ta trông giống nữ tài tử Deborah Kerr. Cái bình này cũng giống như cái bình tôi mua hôm qua.

Chữ giống trong hai câu trên cho chúng ta hình ảnh so sánh rất tương quan giữa hai người, hai vật mà có thể nói như từ một khuôn đúc ra (resemble, look like).

Cũng có thể nói rằng: Cô ấy đẹp như (là) một đoá hoa; giống như (là) tài tử Deborah Kerr. Chữ là có thêm là như một tiếng đệm thì cũng vui tai.

Ngoài ra, chữ Như còn có được dùng khi cần liệt kê những thứ gì đó (such as).

Ví dụ: Các con vật thuộc loài bò sát như (là): rắn, rết, giun, sâu, vân vân.

Vị Hôn Thê, Vị Hôn Phu

Người vợ hoặc chồng chưa cưới thì gọi là vị hôn thê và vị hôn phu. Chữ “vị” ở đây có nghĩa là chưa.

Hai chữ “hôn thê, và hôn phu” là sự ghép chữ hoàn toàn sai. Đã là phu (chồng) hay thê (vợ) tất là đã cưới nhau rồi, còn thêm hôn làm gì?

Như thế, chữ “vị hôn phu, vị hôn thê” là ghép các chữ “vị hôn” + “ thê”, hay “vị hôn” + “phu”. Chứ không phải “vị”+ “hôn thê”, hay “vị” + “hôn phu.”

Hồi trước tôi cũng có học và nói được tiếng Quan Thoại và Quảng Đông. Tôi còn nhớ “Phánh txấy, phánh phúa” là vợ, chồng. Txấy và Phúa là Thê và Phu, còn chữ Phánh này tôi không nhớ ký tự Hán văn nên không biết đọc theo chữ Nho là gì. Nhưng khi nói về vợ, người ta thường nói “Wò t’ai t’ai, n’i t’ai t’ai”  (Ngã Thái Thái, Nhĩ Thái Thái).

Hôn Nhân

Nhân tiện, nói sơ qua chữ “Hôn“.

Có 4 chữ Hôn trong Hán tự viết khác nhau 昏 昬 婚 惛. Ngoài ra có chữ Hôn 閽 là lính canh cửa (có thêm bộ môn)

Hôn 昏 là tối (không đứng một mình), như hoàng hôn, hôn dạ, hôn quân.

Ngày xưa bên Trung Hoa, lễ cưới kéo dài đến tối nên họ gọi là “Hôn Lễ” 昏禮; sau này mới đổi cách viết Hôn 婚 mà nghĩa hẹp là cưới vợ (cầu hôn, kết hôn), nghĩa rộng là nàng dâu. Trong chữ “Hôn” 婚 này, chúng ta thấy có ghép thêm chữ Nữ 女 là đàn bà ở trước chữ Hôn 昏. Vì thế, chỉ khi đàn ông đi lấy vợ với gọi là “hôn” như kết hôn, tái hôn… Vợ chồng mới cưới gọi là “tân hôn,” trai mới lấy vợ gọi là “tân lang,” gái mới lấy chồng gọi là “tân giai nhân.” Xin phân biệt chữ “tân lang” 新郞 (trai mới lấy vợ) với “tân lang” 檳榔 là cây cau.

Chữ Tân trong Hán tự có nhiều nghĩa. Ngoài nghĩa thông thường “Tân” là mới (新) còn có một chữ “Tân” 賓 có nghĩa là “khách”

Vì thế câu “Phu phụ tuơng kính như tân” 夫婦 相敬如賓 có nghĩa là vợ chồng ăn ở nên kính nể nhau. Lời khuyên này là để tránh các vợ chồng lấy nhau lâu sinh ra sàm sỡ, không giữ gìn ý tứ, lời ăn tiếng nói hay cử chỉ trong đời sống lứa đôi để đi đến sự chán ghét nhau, coi thường, thậm chí thù oán nhau..

Hiện nay, có tình trạng các đôi vợ chồng lớn tuổi bày trò tổ chức tiệc tùng, mặc áo quần diêm dúa mời bạn bè chung vui cái họ gọi là “hấp hôn.”

Chữ “hấp” này theo Hán tự có 4 chữ viết khác nhau  nhưng nghĩa tương đồng trong đó các nghĩa chính là:  吸  hút vào (hô hấp, hô là thở ra), 翕 thu liễm, hợp nhau.

Trong tiếng Việt thì Hấp có nghĩa “để một vật đang nóng, đậy lại”. Ví dụ: hấp bánh, hấp trứng vào nồi cơm và một số nghĩa khác.

Do đó, việc đặt ra chữ “hấp hôn” là sai, chỉ có tính cách đùa giỡn chứ không chính đáng.

Đỗ Văn Phúc
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh   Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : 1, 2  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: GIẢI TRÍ :: Quê Hương yêu dấu :: Tiếng Việt-