Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 21:37

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:17

KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Thu 21 Nov 2024, 16:45

KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30

SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22

Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22

NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20

KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08

Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54

Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10

7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10

Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13

Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07

Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36

Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09

Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46

Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06

Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04

DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19

Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37

Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34

TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17

CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05

Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04

Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39

Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41

Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1 ... 5 ... 7, 8, 9 ... 13 ... 19  Next
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 I_icon13Fri 16 Aug 2019, 11:43

Chương 10
applause
Lê Đạt (1929-2008)

● Những bài thơ khóc bác Hồ không được đăng

Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm cho biết "lý lịch" một số những bài thơ ca tụng bác Hồ:

"Làm thơ ca tụng bác Hồ, trước tiên là Tố Hữu. Thời trước cách mạng, tôi đọc được trên báo một số bài thơ ký tên Tố Hữu, trong đó có một bài tên là Hồ Chí Minh. Lúc bấy giờ, chưa mấy ai biết rõ bác Hồ. Phải đến ngày 2/9/1945, người ta mới biết đó là một lãnh tụ ở xa về. Còn tên Tố Hữu chưa biết là ai. Bài thơ Hồ Chí Minh rất dài trong có một câu làm tôi chú ý: "Hồ Chí Minh mắt sáng quắc tay xanh lè mã tấu. Quyết vùng lên thề phanh thây uống máu lũ cường quyền. Ôi khoái trá vô biên". Bài thơ tả một người: mắt sáng quắc, tay xanh lè mã tấu, thế ông ấy là tướng cướp à? Còn câu: Thề phanh thây uống máu quân thù thì có trong quốc ca của Văn Cao, trong bài Đêm Liên Hoan của tôi cũng có moi gan uống máu quân thù, và ngay quốc ca Pháp cũng có, nghe thấy mà ghê. Nhưng đặc biệt câu này: Ôi khoái trá vô biên, mới thật là rùng rợn, uống máu quân thù mà thấy khoái trá vô biên thì ghê quá, khát máu quá, không thể chấp nhận nổi. Đấy, tôi biết Tố Hữu qua bài thơ ấy.

Đến khi ông Hồ mất, năm 1969, Đặng Đình Hưng mới đưa ra ý kiến: Một người như bác Hồ mất đi thì ai cũng có cái xúc động. Vậy nhân dịp này, nếu chúng ta còn cái cảm tình gì đối với ông Hồ thì mỗi thằng nên làm một bài thơ, gửi lên Trung Ương để tỏ rằng: chúng tôi là những người công dân chân chính, cái gì đáng yêu đáng kính thì chúng tôi trân trọng. Trước cái chết của bác Hồ, chúng tôi biết rung động, tác phẩm của chúng tôi đây. Mọi người đều tán thành. Đặng Đình Hưng viết bài "Bác còn", tức là Bác không chết đâu. Tôi viết bài "Bác về", Lê Đạt viết "Bác Hồ" gồm 3 bài dài như trường ca. Riêng Trần Dần quanh quẩn mãi sau chịu thua: "Tao loay hoay mãi mà không làm nổi một câu nào!" Đành thôi. Thế là được ba bài, gửi lên bốn nơi: Ban Tuyên Huấn Trung Ương, đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Trường Chinh và Hội Nhà Văn.

Chúng tôi nhận được hai danh thiếp trả lời: Ông Phạm Văn Đồng trả lời anh Đặng Đình Hưng, đại ý: "Anh Hưng thân mến, tôi đã nhận được bài thơ anh viết về Bác, tôi đọc và rất xúc động. Ở trên này chúng tôi vẫn hết sức đấu tranh, thảo luận để làm thế nào cho anh em trở lại sáng tác như trước." Hoàng Cầm nhận được thiếp của ông Trường Chinh vỏn vẹn: "Cảm ơn đã nhận được bài thơ về Hồ Chủ Tịch".

Lê Đạt không nhận được gì cả.

Lê Duẩn, Tố Hữu không viết lời nào.

Đến Tết năm ấy, trên báo Nhân Dân người ta mở cái mục gọi cảm tình của "Quần chúng với Bác Hồ", tôi cũng gửi bài thơ ấy đến báo Nhân Dân, kèm lá thư cho ông chủ nhiệm Hoàng Tùng, giãi bày: nhân danh công dân, trước cái chết của bác Hồ, tôi làm bài thơ "Bác về" mong được báo Nhân Dân trích dăm ba câu, như một tác giả vô danh, đăng trong mục "Quần Chúng với bác Hồ".

Gửi hôm trước thì hôm sau anh Nguyễn Địch Dũng cầm trả tôi bản thảo cả bài thơ đó, bảo anh Hoàng Tùng có nhận được thư anh nhưng báo chật chỗ quá rồi. Điều đó chứng tỏ, người ta thù ghét anh em NVGP đến thế nào, đến khóc bác Hồ mà cũng không được phép đăng báo" (278).

Việc làm thơ khóc bác Hồ của ba thành viên NVGP, có thể có hai ý nghĩa: ý nghĩa trữ tình, phát xuất tự tâm hồn của họ và ý nghĩa chiến lược: muốn nhân dịp này để đo mức độ tình cảm của Đảng dành cho họ.

Sự trả lời của Đảng thật rõ ràng, tàn nhẫn, nhất là đối với Lê Đạt.

Tóm lại, dường như ở những nhà thơ như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, luôn luôn có một con người ngây thơ, lãng mạn, trữ tình, khi nhìn vị lãnh tụ.

Trong khi những nhà trí thức như Phan Khôi, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang... phán xét lãnh tụ sáng suốt, rạch ròi hơn, vì họ không mấy lãng mạn mà nghiêng về lý trí.

● Quốc Dân Đảng

1- Trong bản "tự thú" Lê Đạt viết một câu đáng chú ý: "Đảng đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn tay phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lãnh tụ, cho tôi đi thực tế để cải tạo, nâng đỡ những sáng tác của tôi, đến khi va chạm vào quyền lợi cá nhân, tôi trở mặt tấn công vào Đảng, nhẩy sang trận địa của giai cấp tư sản phản động và làm người phát ngôn của chúng" (279).

2- Khi trả lời phỏng vấn Phạm Tường Vân, Lê Đạt cho biết: "Nhà mẹ vợ tôi là cơ sở cách mạng, hai anh của Thúy một người là bí thư chi bộ xã, một người đi bộ đội. Hồi cải cách mẹ vợ tôi bị quy là gián điệp và anh cả bị quy là Quốc Dân Đảng chờ đem ra xử bắn. Thúy đương được ở đoàn kịch trung ương, lúc nào cũng nơm nớp sợ bị đưa về xã đấu tố. Thì vừa lúc sửa sai bắt đầu, cả nhà may mắn thoát nạn" (280).

3- Truyện ngắn "Thế là… chị ơi!" của Vũ Ngọc Tiến, đăng trên Talawas, gián tiếp viết về đời sống nhà thơ Trần Dần và bà Bùi Thị Ngọc Khuê, vợ ông, đặc biệt có đoạn tả cái chết của ông Phán Hậu (ân nhân của bà Khuê) như sau: "Cuối cùng thì thơ anh cũng được tôn vinh (...) . Song cái án oan kết tội ông Phán Hậu, nhà chí sĩ yêu nước giầu có, danh giá bậc nhất tỉnh Nam Định bị bôi nhọ là tên phản động Quốc Dân Đảng, tay sai đế quốc Pháp ai rửa cho ông?

Đêm trước ngày bị các Ông Đội sai cán bộ chuỗi, rễ đến nhà bắt trói ông đem đi đấu tố, ông lập bàn thờ giữa sân nhà, có bài vị Nguyễn Thái Học bằng chữ Nho, rồi ông đội khăn xếp, mặc áo the đen, lầm rầm khấn vái: “Tiên sinh năm nào lên máy chém vẫn để lại lời bất hủ rằng “không thành công cũng thành nhân”. Giờ độc lập thành công rồi, mai tôi lên đoạn đầu đài sẽ thành gì đây? Tiên sinh hỡi, tiên sinh!...” Cái án oan ấy khiến anh đang đi công tác Cải cách ruộng đất ở Thái Bình bị triệu hồi về giam lỏng ở đơn vị. Ngày ấy, nếu lần anh tự tử bằng dao lam trót lọt thì còn đâu những tác phẩm sau này anh viết cho người đời chiêm ngưỡng, hậu thế tôn vinh?"


Câu chuyện ông anh cả của Thuý Thuý, và ông Phán Hậu, ân nhân của Ngọc Khuê, khơi lại chính sách thanh trừng những người có "liên quan" với Quốc Dân Đảng và hiểu tại sao Lê Đạt phải tuyệt đối giấu quá khứ Quốc Dân Đảng của mình. Trong NVGP, ba người có "liên quan" với Quốc Dân Đảng là Phan Khôi, Thụy An và Lê Đạt, vì thế, một mối thâm tình liên kết họ với nhau:

- Trả lời phỏng vấn RFI, Lê Đạt nhắc đến Thụy An và Phan Khôi, với những lời đầy ý nghiã: "Phan Khôi với tôi vốn có những quan hệ đặc biệt". "Trong thâm tâm tôi, bao giờ tôi cũng coi ông là người lãnh đạo tờ Nhân Văn". Việc công nhận Phan Khôi là người lãnh đạo tờ Nhân Văn, chứng tỏ Lê Đạt chỉ coi Nguyễn Hữu Đang như bạn đồng hành, Phan Khôi mới là thủ lãnh. Ngoài uy tín của Phan Khôi trong văn học, còn có lý do nào khác, nếu không vì Phan Khôi là người theo Quốc Dân Đảng, lý tưởng đầu đời của Lê Đạt?

- "Tôi có thể bảo đảm 100% chị Thụy An không phải gián điệp", "Chị Thụy An rất thân với anh em trong NVGP và đặc biệt là thân với tôi". "Riêng tôi thì không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An đối với tôi". Tại sao Lê Đạt dám bảo đảm 100% Thụy An không phải gián điệp, nếu ông không biết rõ hành động của Thụy An? Nếu họ không cùng một lý tưởng?

Câu "Tôi không bao giờ quên công của chị Thụy An đối với tôi", có nhiều ý nghĩa. Công gì? Thụy An có công với nhiều người, công dạy Phùng Quán tiếng Pháp tiếng Anh, công giúp đỡ vợ con Lê Đạt... Nhưng từ khi Thụy An bị nạn cho đến khi chết, những bạn đồng hành không ai nói một lời biện hộ công khai cho bà, trừ Lê Đạt. Vậy có thể hiểu chữ "công" này là một công lớn: Ngoài sự kính phục người chị văn nghệ can trường, còn có sự hàm ơn Thụy An, đã không "khai" những điều bà biết về Lê Đạt, như một thành viên cũ của VNQDĐ.

Câu châm ngôn mà Lê Đạt cho ghi lại trong bộ Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại (281) là: "Một nhà văn tự trọng nên bận tâm đến việc thành nhân hơn là thành danh" có gì rất gần với lời Nguyễn Thái Học: "Không thành công thì thành nhân".

_____________________

(278) Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

(279) Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 80. 280 Lê Đạt trả lời Phạm Tường Vân, bđd.

(281) Nxb Hội Nhà Văn, 2007.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 I_icon13Mon 19 Aug 2019, 10:03

Chương 10
applause
Lê Đạt (1929-2008)

● Tinh thần yêu nước phát sinh từ Yên Bái


Đất Yên Thế và đất Yên Bái đối với Lê Đạt có những gắn bó sâu xa: Yên Thế, quê nội và Yên Bái, quê ngoại.

Yên Thế là đất của Đề Thám, triều Nguyễn thuộc phân Phủ Lạng Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Giang), có 2 mảnh đất lịch sử: tổng Nhã Nam và tổng Yên Thế:

- Nhã Nam, nơi Hoàng Hoa Thám làm lễ tế cờ khởi nghĩa (1889), và cũng là nơi Lương Tam Kỳ đem thủ cấp Đề Thám nộp cho Pháp lãnh thưởng (1913).

- Yên Thế, nơi Đề Thám đặt đại bản doanh chiến đấu trong hơn 20 năm, vị trí hiểm trở, "rừng thiêng nước độc", nằm giữa rặng Cai Kinh (Lạng Sơn) và đồi núi Thái Nguyên.

Yên Thế, một địa hình, một bối cảnh đất nước lâm nguy, một can trường chống Pháp thất bại:

Đất quê cha tôi
            đất quê Đề Thám
Rừng rậm sông sâu
Con gái cũng theo đòi nghề võ
Ngày nhỏ
        cha tôi dẫn đầu
                        lũ trẻ chăn trâu
Phát ngọn cờ lau
               vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ làm Đề Thám...

(Cha tôi)

Rồi người cha buông tay, bỏ cuộc, vì miếng cơm manh áo. Người con, tiếp tục lên đường:

Cuộc sống hàng ngày
                         nhỏ nhen
                                 tàn bạo
Rác rưởi gia đình
                  miếng cơm
                             manh áo
                                      tàn phá con người
Những mơ ước thời xưa
                        như con chim gẫy cánh
Rũ đầu chết ngạt trong bùn
Năm tháng mài mòn
                   bao nhiêu khát vọng.
Cha đã dạy con một bài học lớn
Đau thương
            kiên quyết làm người.

(Cha tôi)

Bài Cha tôi sáng tác tháng 7/56, giữa Giai Phẩm Mùa XuânNhân Văn, trong thời kỳ phục xuống mà sáng tác theo lời Văn Cao, như một tuyên ngôn, xác định con đường tranh đấu của Lê Đạt, lấy đất Yên Thế làm khởi điểm. Yên Thế được Lê Đạt công khai xác nhận, vì Yên Thế là tỉnh cha, là đất của Đề Thám.

Ngược lại, Lê Đạt không thể công khai trình làng Yên Bái, quê ngoại, bởi Yên Bái là quê hương Quốc Dân Đảng.

Yên Bái có pháp trường xử lòng ái quốc. Khi Nguyễn Thái Học và 12 bạn đồng hành lên đoạn đầu đài (1930), Lê Đạt mới lên một. Yên Bái là đất sinh, Yên Bái là Tỉnh mẹ. Yên Bái, hơn là một nơi chôn rau cắt rốn, đã trụ lại như cái mốc đầu đời, là khởi điểm của cõi viết Lê Đạt và nẩy mầm ý chí cách mạng vùng lên chống Pháp.

Tỉnh mẹ
là tỉnh mình sinh ra, là đất mẹ: Yên Bái. Tập thơ Tỉnh mẹ, tạm coi như tập thơ đầu đời của Lê Đạt, âm thầm dành cho Yên Bái chỗ đứng thiêng liêng, nói lên tâm sự người thanh niên sinh ở Yên Bái. Tỉnh mẹ, in trong phần di cảo của Đường chữ, tác giả mơ hồ cho biết đây là tập thơ bị thất lạc đã 40 năm. Không một bài thơ nào có ghi ngày tháng ở dưới. Lê Đạt cũng không hề nhắc đến Tỉnh mẹ khi còn sống. Vậy Tỉnh mẹ có thật sự bị thất lạc? Hay đã bị "tịch thu", sau này mới được trả lại? Tỉnh mẹ bị tịch thu, hay vì Yên Bái là một "liên quan" thầm kín mà tác giả cần phải giấu đi? Cũng như, về nơi sinh, Lê Đạt chỉ ghi Âu Lâu, trên bờ sông Hồng, không dám nhắc đến tên Yên Bái?

Tỉnh mẹ nói lên tinh thần chống Pháp của một thanh niên, nguồn gốc quốc dân đảng. Thơ làm theo lối leo thang, không vần, đã là giọng thơ Lê Đạt, đã có những hình ảnh lạ, táo bạo hơn thơ người khác. Điểm đặc biệt là sự gắn bó với Yên Bái, như cái nôi của hành động và tư tưởng, như một tiền trạm của lòng yêu nước, như một ý chí cách mạng, một sự đổi thay, một sự lập thân, khởi đi từ Yên Bái. Từ Yên Bái, cậu bé đã thấy một "người hàng xóm", "người chị", và cũng là "người yêu", bị con trai quan phủ làm nhục, bị xóm làng hắt hủi:

Đêm ấy
        chị ra sông tự tử
Theo những chiếc lá dâu ngày xưa
Áo trắng
        như buồm mộng
                    về một chân trời nào
                                   cao rộng
                                           thăm thẳm xa
(282)

Từ Yên Bái, cậu bé nhìn thấy người ăn mày chết trước cửa giáo đường, bèn hỏi Chúa có thấy không?

Chúa về tự bao giờ
Có phải thật Người không?
Tiếng chuông
          lu loa
              hối hả
                   giục
                      người bõ già
Quét
    chiếc xác
           nằm co quắp
Chết
   giữa ngày Phục sinh
(283)

Từ Yên Bái, nhà thơ thấy một người anh, ban đầu có "chí lớn", rồi chí ấy lụi tàn trong bổng lộc quan trường, cuối cùng nhìn lại sổ đời: Người anh không sống trong thời Pháp thuộc mà đang ở thời cách mạng:

"Trong khoảnh khắc
                    đối diện cùng sự thật
Sởn tóc gáy
    như kẻ sát nhân
         đột nhiên
             thấy  
                người mình thủ tiêu
                          lững thững
                                 hiện theo về
                                         đối chất.
"Anh có thể lừa
            cha mẹ
                 vợ con
                     lừa cả nước
Nhưng thế nào
          cũng có lần
              anh phải lôi ra
                    trước vành móng ngựa bản thân anh"
(284)

Yên Bái, một xã hội Việt Nam thoi thóp, tê liệt, đợi chờ:

Yên Bái
     dăm cô gái
        lỡ thì
            thổn thức
               Nhất Linh
                   tay
                     Loan Dũng
                        lên ô kính bụi
Chơ chỏng
        mấy con búp bê
                       gẫy cẳng
                              bạc màu
Yên Bái
    một phố chiều
                 thượng du nắng lụi
Một con đường
              rơm rớm
                   máu rơi
Đôi vợ chồng già
             không con
                  nhìn bóng tối
Ôm con mèo gầy
              nhức nhối
                   chuyện ngày xưa
Yên Bái
     hôm nào
          cũng ra ga
Hôm nào
    cũng nhỡ tàu
            ở lại
Với những tiếng còi
               rứt ruột
                     gọi đi
Và một chân trời
               nhêu nhếch
                         khói (...)
Yên Bái
     những ngày trích lục nhau
                 sao thành nhiều bản (...)
Yên Bái
      một quê hương vỡ nợ (...)
Một ngã ba thành năm sáu ngã ba
(285).

Và người thanh niên ấy đã gửi những lời tạ tội về Yên Bái, tạ tội đã trót đốt quê hương. Tiêu thổ là bài thơ duy nhất trong thời kháng chiến đặt lại vấn đề tiêu thổ kháng chiến như một tội đồ đối với quê hương, dân tộc:

Yên Bái
     chỉ để lại
          trong tôi
              những kỷ niệm
                     nhạt
                        như nước ốc
Sao hôm nay
        khi tiêu thổ quê hương
               tôi bỗng khóc (...)
Yên Bái ơi!
         Cố sống
                lấy thêm
                       dăm ngày nữa (...)
Hôm nay
        ta đánh vỡ
                    quê hương
Đánh vỡ
    từng viên gạch
                 tổ tiên ta
                       cóp nhặt (...)
Quê hương ơi!
               Ta không phải
                          kẻ ăn tàn phá hại
Vén tay áo xô
          đốt gia tài
                 ông cha để lại...
(286)

Yên Bái chính là khởi điểm của cuộc lên đường, cũng là cuộc đi vào tan nát, khổ đau:

"Ôi! Những ngày đầu
                  quê hương tan nát lửa
Như đàn cò
            vỡ tổ
                  bế nhau đi
Đằng trước một chân trời sẹo đạn
Đằng xa
        thông thống một đường về
Ta đã
   chọn
       đường
             đi về phía trước
Chân chảy máu
                  nạng vào nhau ta bước
Điểm chỉ
        trên khắp mọi ngả đường
Trong bản giao kèo
                     ta ký
                          với tương lai
(287)

Yên Bái còn là mẹ của cả những người lính viễn chinh:

Bà mẹ Âu Lâu
              ngồi
                 như gốc mai nở trắng
                         giữa đàn con
                                         đủ
                                     các giống người
Thằng cả
         Xa lum
            người Xê nê gan
                      làm mỏ than Ma rốc
Vào hầm than
               đen
       như thấy dân tộc mình
                      mấy ngàn đời
                                   vùi dập
                                         chết
                                             ở đây
Tan tầm về
      ra bờ sông nước trong
                                 rửa mặt
Rửa xong
          nhìn
             mặt vẫn nhọ than
Thằng hai
          Ma Hô Mét
Công nhân bốc vác
                       An Giê
Gù gù
     lưng cánh phản
Ngày ngày
         khuân tổ quốc
                     xuống tàu buôn... (288)

Đối diện với những hô hào chém giết, máu, thù, trong thi ca thời ấy, Mẹ là bài thơ phản chiến, nhân bản nhất trong văn chương Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Nhà thơ không phân biệt chiến tuyến, "dám" coi "quân thù" cũng là con của mẹ Âu Lâu. Vì vậy "tội" của Lê Đạt phải là rất nặng, nặng từ trước thời kỳ NVGP.
_____________________

(282) Thơ ngây, Tỉnh mẹ, Đường chữ, trang 298.

(283) Người ăn mày già, sđd, trang 319.

(284) Một cuộc đời, sđd, trang 309.

(285) Phác họa màu xám, sđd, trang 333.

(286) Tiêu thổ, sđd, trang 345.

(287) Quê hương du ca, sđd, trang 353.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 I_icon13Wed 21 Aug 2019, 10:41

Chương 10
applause
Lê Đạt (1929-2008)

● Nhân Văn Giai Phẩm

Xuân Diệu lên giọng: "Đã rõ rệt như ban ngày, tập Giai Phẩm Mùa Xuân 1956 phất lá cờ đầu tiên chống Đảng, chống chế độ, và Lê Đạt là nhà lý luận trong đó. Lê Đạt mở đầu Giai phẩm với cái tuyên ngôn: "Trích thơ gửi người yêu" (...) và bài thơ tuyên ngôn thứ hai "Mới" đăng trong Giai phẩm (...) Lê Đạt là một người chủ chốt của báo Nhân Văn, tham mưu cho cả tờ báo, tự tay sửa chữa nhiều bài đả kích chế độ ta rất cay độc (...) Cùng với Nguyễn Hữu Đang làm bộ óc của báo Nhân Văn, đứng làm "nhà lý luận" của bọn chống Chế độ (...) Sau khi báo Nhân Văn bị cấm, Lê Đạt liên lạc cấu kết với Thụy An, Lê Đạt đóng vai trò quan trọng trong việc lũng đoạn Hội Nhà Văn, Lê Đạt tích cực dùng ngòi bút viết lối văn hai mặt; Lê Đạt luôn luôn giữ một cương vị đứng chủ trường phái; mãi đến trong lớp học văn nghệ lần thứ hai (tháng 3 và 4/1958) vẫn còn tìm cách quay quắt. Cho nên, xét Lê Đạt, ta phải nhìn thấy cho hết, rằng Lê Đạt chống đối ta, phá hoại ta từ trong bản chất giai cấp thù địch" (289).

Lê Đạt không chối cãi vai trò chủ chốt của mình trong bài tự kiểm thảo: "Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận của tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm có 4 người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi. Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi góp ý, vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch. (...) Nhân Văn bị đóng cửa nhưng tư tưởng Nhân Văn, tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau một thời gian các báo ngớt đánh, tình hình trở lại bình thường, chúng tôi lại vẫn gặp nhau đả kích Đảng, cho là độc đoán" (290).

Trong thời kỳ NVGP, ngoài những bài xã luận chính trị ký tên Người Quan Sát cùng với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt là nhà thơ sáng tác nhiều nhất và chống đối mạnh mẽ nhất. Ngoài những bài thơ in trên báo, còn có: Thế giới này là của chúng ta (phát hành tháng 12/1955). Bài thơ trên ghế đá (nxb Hội Nhà Văn, 1957). Cửa hàng Lê Đạt, (đang in, bị đình chỉ, Lê Đạt bị khai trừ khỏi đảng, tháng 7/1957). Đụng long mạch (in trên Tự Do Diễn Đàn, tháng12/56, báo bị cấm). Lê Đạt còn nói đến bút ký "Vào 21", viết về thời kỳ bị kỷ luật. Hiện nay không biết văn bản này thất lạc ở đâu.

Trong tinh thần Đỗ Phủ, thơ Lê Đạt phản ảnh xã hội thời ông sống. Nhưng thơ bị cấm, bị tịch thu, hoặc bị thất lạc. Nếu muốn tìm hiểu thực chất của xã hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản cần phải tìm lại những tác phẩm này, không chỉ của Lê Đạt, mà của toàn thể các tác giả trong NVGP đã bị chôn vùi. Những tác phẩm viết trong tù của Thụy An, có lẽ ở Sài Gòn, gia đình các em, hoặc bạn bà là Trinh Tiên -tên thật là Trinh Nữ, chồng là Bửu Đảo- còn giữ.

Nhờ hai bài đánh Lê Đạt của Xuân Diệu và Xuân Hoàng mà chúng ta có thể biết được nội dung một số thơ Lê Đạt sáng tác trong thời kỳ NVGP, đã bị cấm. Tập Bài thơ trên ghế đá, theo Xuân Diệu "dưới sự lũng đoạn của Hoàng Cầm" nhà xuất bản Hội Nhà Văn đã in tập thơ này năm 1957, sau khi Nhân Văn bị đóng cửa. Vẫn theo Xuân Diệu, tác phẩm này "là cả một hệ thống có ý thức phá hoại tinh thần từ đầu chí cuối", "anh ta [Lê Đạt] vẫn cứ "đầu thai nhầm chế độ", bài "Đu""một sự khiêu khích". Bài "Gia đình", với những câu như: "Nhiều dự định sa lầy trong đống tã", "tình yêu bị những cái hàng ngày bóp cổ", "Lê Đạt đưa những xót xa đau đớn ra và cho nó thắng trận". Bài thơ trên ghế đá "đầy một điệu hưởng lạc, chết lịm trong tình yêu".

Vẫn theo Xuân Diệu, trong bản đánh máy đưa cho nhà xuất bản còn có bài "Trong hầm bí mật", nhưng không in, bài này rất tiêu biểu cho cái triết lý "máu, sướng và chết" của Lê Đạt. Xuân Diệu viết tiếp:

"Bài thơ trên ghế đá "còn có dã tâm đả kích Đảng. Cho Đảng là phao phí nhân tài (Con búp bê, Tình người), ví Đảng như một anh thợ cầu già chưa vợ, bắc rất nhiều cầu, xây dựng kinh tế được nhiều đấy, nhưng chưa bắc qua được một lòng người".

"Hàng triệu lòng người đã nhờ Đảng mà tái sinh, yêu Đảng sâu sắc, nhưng cố nhiên lòng của bọn Nhân văn-Giai Phẩm thì chỉ có bọn tư sản phản động mới bắc được cầu" (291).

Nhờ bài đả kích của Xuân Hoàng, chúng ta biết thêm nội dung bài Đụng long mạch, in trên Tự Do Diễn Đàn, tháng 12/56, báo bị cấm:

"Trong bài thơ "Đụng long mạch" (...) Lê Đạt dựng lên khung cảnh một địa phương đang bị hạn hán, có cán bộ về khuyên đào giếng nhưng vì sợ bị "đụng long mạch" nên các cụ nhất định không nghe. Sau có vợ chồng anh Ân đêm về bí mật bàn với nhau nên lén lút đem cuốc ra vườn đào giếng, đến sáng hôm sau bà con thức dậy thấy "mạch nước đùn lên nước phun loang loáng", và từ đấy cả làng noi gương vợ chồng anh đào giếng chống hạn khắp nơi.

(...) Lê Đạt hết lời khen ngợi vợ chồng Ân - những "anh hùng" trong câu chuyện qua cái nhìn của Lê Đạt đã "dám cả gan đánh bốc với những già nua cũ kỹ của cuộc đời". Lê Đạt đã kêu ầm lên một cách hậm hực rằng:

"Những con người ụ
Ềnh ra cản đường"

Và Lê Đạt hô hào:

"Cần biết bao nhiêu
Những cái đầu táo bạo
Dám nghĩ, dám làm
Không nô lệ chung quanh"

(...) Còn đây là cái nhìn của Lê Đạt về Đảng. Đó là:

..."lưng con rồng, Ai đào giếng đụng vào long mạch
Thì phải tội mù hai con mắt
Cả nhà hộc máu chết tươi"

Và nhay đi nhay lại cái ý đó một cách dọa dẫm:

"Long mạch này mà đứt
Cả nhà không thoát một người"

hoặc:

"Long mạch hôm nay rung chuyển
Phen này rồi chết cả nhà"
(292).

Đời chữ của Lê Đạt chia làm hai thời kỳ, dưới hai ngòi bút: Nhà thơ thời thế, theo truyền thống Đỗ Phủ, ghi lại bộ mặt của xã hội toàn trị trên đất nước ta. Nhà thơ cách tân, theo truyền thống Mallarmé, mở một kỷ nguyên mới cho đường chữ.

Lê Đạt, nhà thơ thời thế, xác định tính chất cơ bản của lịch sử:

Lịch sử muôn đời duyệt lại
Không ai lừa được cuộc đời.


Lê Đạt, nhà thơ cách tân, gửi lại hậu thế những lời trăn trối đau thương:

Vũ trụ ơi
               tha cho tôi
Tất cả những gì
               thơ tôi chưa làm được
Khi tắt thở
                mắt tôi đừng ai vuốt
Còn gì buồn hơn
                màn đóng lại mục đời.

_____________________

(288) Mẹ, sđd, trang 363.

(289) Xuân Diệu, Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân tư sản trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 13 tháng 6/58, in lại trong tập Dao có mài mới sắc của Xuân Diệu, 1963, các trang 86, 87, 89 và 95.

(290) Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.

(291) Xuân Diệu, Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 13, tháng 6/58.

(292) Xuân Hoàng, Thực chất tư tưởng chống đảng trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 11, tháng 4/1958, trang 71-72.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 I_icon13Wed 28 Aug 2019, 10:22

Chương 11

Trần Dần (1926-1997)

40 năm sau Nhân Văn, Trần Dần đã chỉ thấy những hòm bản thảo của mình: 2/3 bị tiêu tán, mục nát, 1/3 còn lại bị kết án chung thân trong trạng thái nằm. Vậy mà vẫn viết. Viết đều. Bởi ông cho rằng viết hay ghi là phương pháp duy nhất nói chuyện với mình khi không thể nói được với ai.

Từ 1958, "ghi trở nên một hình phạt", người thanh niên 32 tuổi ấy đã bị "đòn ngấm quá cuống tim rồi".

Tác phẩm chịu chung số phận với người: gần 30 tập thơ, 3 cuốn tiểu thuyết, và không biết bao nhiêu bản thảo đã bị mối mọt.

Trần Dần tên thật Trần Văn Dzần, sinh ngày 23/8/1926 tại Nam Định trong một gia đình giàu có. Mất ngày 7/1/1997 tại Hà Nội. Đậu Thành Chung ở Nam Định, lên Hà Nội học, đậu Tú Tài.

Tháng 11/1946, cùng với Đinh Hùng, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch (293) xuất bản tạp chí Dạ Đài. Trên Dạ Đài số 1 ra ngày 16/11/46, công bố bản "Tuyên ngôn tượng trưng" ký tên Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch. Nhưng Đinh Hùng mới thực là "chủ soái", bởi thơ của cả nhóm: Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Nguyễn Văn Tậu, đều chịu ảnh hưởng Đinh Hùng.

Bài Về nẻo thanh tuyền của Trần Dần là một ví dụ, những câu thơ mở đầu, đậm mầu sắc Mê hồn ca (294):

Đời bỏ ta nằm dưới Thủy Cung
Mờ đi! ơi ánh nguyệt vô cùng
Hồn ta qua xứ ma làm loạn
Nên thác trong đường trận hỏa công
(295)

Năm 1947, Trần Dần về Nam Định theo kháng chiến, ngành thông tin tuyên truyền, và được kết nạp vào đảng ngày 19/8/1948 (296).

Năm 1951, sau khi dự lớp Chỉnh huấn "có kết quả", Trần Dần được giao việc huấn luyện đoàn Văn công quân đội. Nhưng vì "đả kích cán bộ sáng tác" nên bị kỷ luật và bị chuyển về Tuyên huấn, làm việc đến 1953 (297).

Năm 1954 tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, viết tiểu thuyết Người người lớp lớp (298). Theo Hoàng Cầm, đây là một ký sự được viết dưới dạng tiểu thuyết, có nhân vật binh nhì tên là No, và nhân vật chính ủy chính là Trần Độ.

10/10/54 được cử viết thuyết minh cho phim Điện Biên Phủ, đi Trung Quốc thu thanh. Bị chính trị viên Hoàng Xuân Tuỳ kiểm soát gắt gao. Bỏ về.

10/12/54 trở về Hà Nội.

24/12/ 54 bắt đầu tổ chức thảo luận đòi thay đổi chính sách văn nghệ quân đội.

Tháng 2/55, Trần Dần viết bản Đề nghị Chính sách Văn nghệ.

Trong tháng 3 và 4/55, Trần Dần, Tử Phác tổ chức phê bình tiểu thuyết Vượt Côn Đảo của Phùng Quán và tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.

Tháng 4/55: Bản Đề nghị Chính sách Văn nghệ không được Tuyên huấn thông qua.

23/4/55: Trần Dần quyết định viết đơn xin ra khỏi quân đội, và dự định, đường cùng sẽ ra đảng, kết hôn với cô Bùi Thị Ngọc Khuê, bất chấp quân kỷ (299).

Tháng 4/55, Hoàng Cầm làm đơn xin ra khỏi quân đội.

16/5/1955: Trần Dần gửi đơn xin giải ngũ, ra Đảng. Hoàng Tích Linh cũng xin giải ngũ (300).

13/6/1955: Tất cả các tổ Đảng ở Cục Tuyên huấn phê phán lá thư xin ra Đảng và xin giải ngũ của Trần Dần là chống đối, phá hoại tổ chức Đảng (301).

13/6 đến 13/9 Trần Dần và Tử Phác bị cấm trại 3 tháng. Trần Dần ghi trong nhật ký "Ba tháng bị giữ lại kiểm thảo", "Nọc bệnh: anarchiste" "Khi xưa phản đối xã hội cũ bằng symbolisme", "Bây giờ phản đối những cái sai trong lãnh đạo văn nghệ bằng loạn ẩu". Trong thời gian bị cấm trại, sáng tác Nhất định thắng, đưa cho Lê Đạt giữ (302).

21/6/1955: Trong vòng một tuần, chi bộ khai trừ Trần Dần và Nguyễn Anh Chấn (Tử Phác). Riêng Tử Phác, bị đình chỉ công tác và sinh hoạt Đảng để kiểm điểm (303).

Từ 3/11/55 đến giữa tháng 2/56 Trần Dần, Tử Phác phải đi "tham quan Cải cách ruộng đất đợt 5" ở Yên Viên (Bắc Ninh). Ông ghi lại bi kịch Cải cách ruộng đất trong nhật ký, với những chi tiết, những con số, những màn đấu tố, những cảnh giết người.

Khi biên tập cuốn Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài cho biết, chị chỉ mới đưa được một phần, phần còn lại sẽ dành cho cuốn sách riêng về Cải cách ruộng đất. Nhưng cho tới nay, vẫn chưa thấy tác phẩm về Cải cách ruộng đất của Trần Dần ra đời.

Cùng trong thời gian này, Hoàng Cầm và Lê Đạt tổ chức Giai Phẩm Mùa Xuân, lên Yên Viên bàn với Trần Dần đưa bài thơ Nhất định thắng ra in, Trần Dần đồng ý (304).

Cuối tháng 1/56 Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, bị tịch thu ngay. Tháng 2/56 Lê Đạt bị Tố Hữu gọi tên tuyên huấn khiểm thảo 15 ngày. Tố Hữu tổ chức đại hội Tuyên Huấn phê phán Giai Phẩm Mùa Xuân; ra lệnh bắt Trần Dần. Trần Dần, Tử Phác bị bắt ở Yên Viên. Bị giam kín. Sợ bị thủ tiêu, Trần Dần lập kế dùng dao cạo cắt cổ, được đưa vào bệnh viện. Ngày 21/2/56, Trần Dần viết lá thư dài 15 trang, trần tình với tướng Nguyễn Chí Thanh (305).

Hội Văn Nghệ tổ chức phê bình Nhất định thắng.

Ngày 7/3/56 Bắt đầu chiến dịch đánh Trần Dần trên báo với bài của Hoài Thanh.

Ngày 5/5/56, Trần Dần được thả với điều kiện phải viết "một bản kế hoạch sửa chữa sai lầm sáu tháng cuối năm". Sau đó được chuyển sang Hội Văn Nghệ (306). Từ tháng 8/56, tham gia NVGP và bị kỷ luật cùng điều kiện với Lê Đạt.

● Tác phẩm:

1946: Bài thơ Về nẻo thanh tuyềnBản tuyên ngôn Dạ đài.

Phạm Thị Hoài trong Trần Dần: cuộc đời, tác phẩm, thời đại (307) liệt kê những tác phẩm sau đây:

1954: Anh đã thấy, Tiếng trống tương lai (trường ca).

1955: Cách mạng tháng Tám, Nhất định thắng (bản Hoàng Văn Chí, in trong Trần Dần thơ, Nhã Nam, Đà Nẵng, 2007).

1957: Hãy đi mãi, Đi! Bài thơ Việt Bắc (trường ca), (Hội Nhà Văn, 1991).

1959: Sắc lệnh 59 (thơ), Con tàu xã hội (thơ), 17 tình ca (thơ).

1959-1960: Cổng tỉnh (thơ), (Hội Nhà Văn, 1994).

1961: Đêm núm sen (tiểu thuyết).

1963: Jờ Joạc (thơ) (Trần Dần thơ, 2007).

1964: Mùa sạch (Văn Học, 1997), Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết).

1965: Một ngày Cẩm Phả (tiểu thuyết).

1967: Con trắng (thơ văn xuôi) (Trần Dần thơ, 2007).

1968: 177 cảnh (hùng ca lụa).

1974: Động đất tâm thần (nhật ký thơ).

1978: Thơ không lời - Mây không lời (thơ - họa).

1979: Bộ ba: Thiên Thanh - 77 - Ngày ngày.

1980: Bộ ba: 36 - Thở dài - Tư Mã dâng sao.

1987: Thơ Mini (in trong Trần Dần thơ).

Nhưng bản kê khai trên đây chưa phải là tất cả, vì trong tuyển tập Trần Dần thơ do Vũ Văn Kha biên tập, cho biết: "phần lớn di cảo thơ Trần Dần vẫn tiếp tục số phận nằm".

Tuyển tập Trần Dần thơ (Nhã Nam, Đà Nẵng, 2007) tập hợp các trường ca truyền thống như Bài thơ Việt Bắc, Cổng Tỉnh, và các tác phẩm rất mới như: Mùa sạch (thử nghiệm thơ độc âm), Con OEE (biến tấu âm) và Con I (thơ bè), cả ba đều khá cường điệu và nệ hình thức, hoặc lập dị như Jờ Joạcx. Ngược lại, hai tập Sổ bụithơ Mini, thực sự thành công, xác định sự độc đáo của của Trần Dần, khác với Đặng Đình Hưng và Lê Đạt. Vậy lần công bố này, tầm quan trọng và sự độc đáo nằm trong Sổ bụi, và thơ Mini.

Sổ bụi tập hợp lối ghi chép đặc biệt Trần Dần: đó là những bài thơ văn xuôi cô đọng, mới, đầy biến ảnh, thể hiện mỹ học khổ đau một cách toàn diện. Thơ Mini, là những bài triết luận thu gọn đến cạn kiệt. Một Trần Dần đi từ thực tại thi nhân để đến với tâm linh hiền triết.

_____________________

(293) Em ruột Vũ Hoàng Chương.

(294) Tác phẩm của Đinh Hùng.

(295) In trong Thơ Mới 1932-1945, Lại Nguyên Ân sưu tập, Hội Nhà Văn, 1999, phụ lục, trang 1395.

(296) Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.

(297) Vũ Tú Nam, bđd.

(298) nxb Quân Đội Nhân Dân, 1954.

(299) Nhật ký Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài, biên soạn, Văn nghệ California, 2001.

(300) Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, hồi ký, chép lại 25/10/2006 (tạp chí Nhà Văn số 3/2007), mạng Talawas.

(301) Vũ Tú Nam, hồi ký, bđd.

(302) Hoàng Cầm, Con người Trần Dần.

(303) Vũ Tú Nam, hồi ký, bđd.

(304) Nhật ký Trần Dần ghi.

(305) Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.

(306) Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.

(307) Trần Dần ghi.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 I_icon13Thu 29 Aug 2019, 10:12

Chương 11

Trần Dần (1926-1997)

● Từ kháng chiến đến Nhân Văn Giai Phẩm

Dạ Đài số 1
ra đời 16/11/46, số 2 vừa xong thì chiến tranh bùng nổ (308), Trần Dần đi theo kháng chiến. Đạo diễn Trần Vũ thuật lại: Ban đầu, Trần Dần làm công tác tuyên truyền cùng Vũ Khiêu và Vũ Hoàng Ðịch. 1948, khi thành lập khu 14 ở Tây Bắc, Trần Dần cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Ðịch lên Tây Bắc. Một thời gian sau, khu 14 bị giải thể. Trần Dần vào quân đội, nhận công tác địch vận của trung đoàn Sơn La từ 1948 đến 1950 (309).

Hồ Phương kể lại: Trong nhóm văn nghệ Tây Bắc, có Trần Thứ (Trần Vũ), Trần Dần và Hoài Niệm... làm tờ báo Sông Đà, trình bầy đẹp, chuyên về thơ văn. "Hồi ấy Trần Dần hay làm thơ leo thang, bài thơ thường được trình bày khá kiểu cách. Dòng thì in chữ nhỏ, dòng lại in chữ to, thiên về hạng theo mốt" (310). Vũ Tú Nam viết: "Trần Dần làm thơ bí hiểm, vẽ theo lối lập thể, bị quần chúng bộ đội phản đối". Và 1951, sau khi dự "một lớp Chỉnh huấn có kết quả", Trần Dần được điều về phụ trách đoàn Văn công quân đội (311). Hoàng Cầm cũng xác định: "Tới trại hè năm 1951, các đoàn văn công nỗ lực tập luyện để phục vụ một chiến dịch lớn. Trần Dần phụ trách huấn luyện cho mấy trăm anh chị em: sáng tác đạo diễn và diễn viên" (312).

Nhưng Vũ Tú Nam bình luận: vì "có ít nhiều thành tích" trong việc luyện tập Văn công, Trần Dần "đâm ra chủ quan độc đoán, đả kích cán bộ sáng tác", "bị thi hành kỷ luật rồi điều về cục Tuyên huấn công tác, bất mãn ngấm ngầm" (313). Vậy việc về Cục tuyên huấn, là một hình phạt.

Đầu 1954, Trần Dần đi chiến dịch Điện Biên Phủ cùng với Đỗ Nhuận. Họa sĩ Tô Ngọc Vân chết trong chiến dịch này. Người người lớp lớp được sáng tác ở Điện Biên Phủ, hoàn thành cuối tháng 9/54.

Tháng 10/54, Trần Dần được cử viết thuyết minh cho phim Chiến thắng Ðiện Biên Phủ, và đi Trung Quốc để thực hiện. Ngày 10/10/54 khởi hành. Ngày 14/10, đến Nam Ninh. 20/10, đến Bắc Kinh, hoàn thành tập thơ Tiếng trống tương lai. Ngày 10/12/54 trở lại Hà Nội.

Hoàng Cầm viết: "Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trần Dần thức thâu đêm suốt sáng để viết bản thảo lần thứ ba cuốn truyện về những người đã tạo ra chiến thắng lịch sử lớn lao đó. "Nhưng cái hướng chính của tôi không phải là tiểu thuyết. Hướng đi của tôi là thơ. Tôi sẽ tìm tòi trong thơ và cố gắng tạo ra một lối diễn tả riêng biệt -không phải lập dị- nhưng độc đáo. Trần Dần đã nói với tôi như vậy sau khi anh viết xong "Người người lớp lớp". Hồi đó, anh có đưa tôi xem tập thơ làm đã lâu: "Tiếng trống tương lai" (314).

Trong nhật ký, Trần Dần chỉ ghi sơ lược về chuyến đi này, nhưng ông đã kể cho Hoàng Cầm và Hoàng Cầm thuật lại trong bài Con người Trần Dần:

"Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần được phân công viết thuyết minh cho cuốn phim Chiến thắng Điện Biên Phủ và anh được cử sang Trung Quốc làm nhiệm vụ đó. Nhưng đi kèm bên cạnh anh là một cán bộ chính trị có quyền tối hậu quyết định. Anh cán bộ này, đáng lẽ phạm vi công tác là góp ý kiến vào nội dung bản thuyết minh và bảo đảm cho nó không phạm những sai lầm về đường lối chính sách của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, thì đã lợi dụng uy quyền của mình đi quá xa vào phạm vi văn học, bắt Trần Dần phải viết như ý mình, từng câu từng chữ, lạm dụng danh từ chính trị khô khan rỗng tuếch để nhét cho kỳ được vào bản thuyết minh. Đầu tiên, Trần Dần rất phục tùng người cán bộ chính trị khi dự thảo thuyết minh, và hoàn toàn theo sát những vấn đề chính trị sẽ đặt ra khi thuyết minh. Đến khi thấy anh cán ấy "lên gân" và thọc bàn tay cứng lạnh vào phạm vi viết văn thì Trần Dần bắt đầu có phản ứng. Nhưng anh vẫn bình tĩnh, đề nghị cấp trên xét lại vấn đề. Đến khi "anh cán bộ vẫn là tối hậu quyết định cả từng câu chữ" thì Trần Dần thôi không làm công việc đó nữa, nhường cả phần "văn chương" cho đồng chí cán bộ.

Sau việc này sự mâu thuẫn giữa văn nghệ sĩ và cán bộ chính trị bắt đầu phát triển khá mạnh trong con người Trần Dần. Anh vẫn cố dẹp đi, nhiều lúc anh thẫn thờ ít cười ít nói nhưng vốn là con người chân thực – cái chân thực nhiều khi đến thô lỗ - lắm khi anh đã cục cằn, thốt ra những lời gay gắt thiếu lịch sự. (...)


Trong bài Con người Trần Dần, Hoàng Cầm đã phải giữ ý khi viết, nhưng trong băng ghi âm sau này, ông nói thẳng hơn:

"Ban Tuyên Huấn cử Trần Dần viết thuyết minh cho phim của Karmen về chiến thắng Điện Biên Phủ. Trần Dần được cử sang Trung Quốc. Theo lời Trần Dần kể, thì bản thảo thuyết minh đã viết xong ở nhà, ông Lê Quang Đạo đã duyệt rồi. Sang Bắc Kinh Trần Dần làm việc với ban kỹ thuật, về việc lắp ráp, thu thanh, lồng tiếng... Nhưng ít lâu sau, thì Hoàng Xuân Tuỳ sang, Hoàng Xuân Tuỳ là chính ủy trung đoàn, làm việc ở Tuyên Huấn, được gửi sang với nhiệm vụ kiểm soát mọi việc.

Vừa xem bản thuyết minh của Trần Dần, anh ta phát biểu ngay: "Cái này anh viết hỏng, không hay mà lại hỏng". Gặp ai chứ gặp phải Trần Dần, tính khí ngang tàng, làm sao chịu được: "Thế nào là hỏng? Thế nào là không hay, anh chỉ cho tôi biết?" Hoàng Xuân Tùy là một tay chính trị viên giáo điều, làm sao tranh luận được với Trần Dần. Nhất là cái bản thảo đã được ông Lê Quang Đạo thông qua trước khi đi. Thế là Hoàng Xuân Tuỳ ra lệnh: "Anh phải viết lại". Trần Dần dằn từng tíếng một: "Tôi- không- viết- lại". Không ai chịu ai.

Cuối cùng Trần Dần quyết định: "Thôi thế để anh làm nhá, anh tự viết, tự kiểm duyệt, tôi về nước". - "Cái đó tuỳ anh". Trần Dần xếp vali về nước, thuật lại chuyện với ông Lê Quang Đạo, thì tất nhiên ông ấy phải đứng về phía Hoàng Xuân Tuỳ, vì hắn là đảng viên cao cấp. Ông nói: "Thôi để anh Hoàng Xuân Tuỳ làm cũng được, anh về đây phụ trách tạp chí Văn (thực ra là tạp chí Sinh Hoạt Văn Nghệ)" (315).

Vậy sự chống đối của Trần Dần sau khi đi Trung Quốc về, không vì Hồ Phong, như trong các bản cáo trạng buộc tội ông, mà trực tiếp đến từ sự kiểm duyệt của Hoàng Xuân Tùy. Cung cách giáo điều của cán bộ này đã khiến
Trần Dần, khi bỏ Bắc Kinh, về bắt tay ngay vào việc tổ chức đấu tranh trong quân đội một cách quy mô và quyết liệt.

Chính sách áp chế tư tưởng và sự can thiệp vào đời sống tình cảm con người đã thúc đẩy Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, và rất đông anh em công tác văn nghệ dự thảo ra bản "Đề nghị cải tổ chính sách văn nghệ" gửi lên cấp trên, đòi bãi bỏ vai trò của chính trị viên trong quân đội.

● Tranh đấu trong quân đội, đầu năm 1955

Từ Bắc Kinh trở về Hà Nội, Trần Dần ghi tình hình trong nhật ký ngày 20/12/54:

"Về Hà Nội được đúng 10 ngày (...) Cơ quan văn nghệ chưa có gì thay đổi.(...) Vẫn những chính sách gò bó, mệnh lệnh và máy móc "quân sự hoá văn nghệ". Đời tôi chìm chết trong chính sách này, cũng như những anh em khác. Khó lắm. Nhưng tôi nghe nhiều tiếng cất lên. Phản đối. Bàn cãi. Mỉa mai. Và cả chửi bới. Cái đó có nghiã là tiếng trống báo tử của những tư tưởng và chính sách áp chế văn nghệ bộ đội. Những ngày gần đây sao mà tôi buồn. Buốt óc lắm. Và bực tức. Cơ quan và chính sách. Hội văn nghệ đánh mất bản thảo Người người lớp lớp (phần 4 và 5). Món nợ chính phủ, những kỷ niệm ngày bé, chua chát và mãnh liệt, những uất ức của 9 năm chiến tranh. Thơ tôi người ta không chê nhưng cũng không sốt sắng in. Những dự định khó thực hiện vì chính sách gò bó: tích lũy cuộc sống mới thì phải được tự do, v.v... Tôi bị bao vây. Chặt quá. Ép quá (...) Tôi muốn những gì?

- Một chính sách văn nghệ mở rộng ra, cho nó đúng đắn.

- Một cuộc sống sáng tạo. Cái cũ thì trút ra. (...)

24/12: Đêm Noël (...) Bước quanh Bờ Hồ. Trời tôi tối. Còn vẳng tiếng hát micro nhà thờ buông trầm trầm. Hai thằng đi. Tôi và Lê Đạt. Buồn quá. Đây là những lúc người tôi hẫng lắm. Rỗng lắm. Tôi còn đầy dư vị những câu chuyện trao đổi đêm nay về chính sách văn nghệ.

Dư vị chua, đắng, nhạt thếch"
(316).

Như vậy, những cuộc thảo luận đổi mới văn nghệ đã xẩy ra từ Noël 1955, trong không khí chán nản, "dư vị chua, đắng, nhạt thếch" như lời Trần Dần.

Không khí này được Từ Bích Hoàng mô tả trong bài buộc tội Trần Dần, như sau: "Từ Trung Quốc về, Trần Dần còn mang theo một bài thơ dài "Tiếng trống tương lai" trong đó Trần Dần gọi cán bộ chính trị là "người bệnh", "người ròi" [giòi], "người ụ". Đó chỉ có thể là cách nhìn của bọn thù địch đối với cán bộ của Đảng. Đủ biết sự hằn học của Dần lúc bấy giờ đã nặng đến thế nào! Không ngạc nhiên khi thấy Dần mới bước về Phòng Văn nghệ Quân đội đã đả kích luôn lãnh đạo, rồi nhân một số thắc mắc của anh em về công tác, Dần lợi dụng phát động từng người và biến thành một cuộc đấu tranh đối lập với lãnh đạo, lấy "áp lực quần chúng" hòng buộc lãnh đạo phải chấp nhận những yêu sách thoát ly chính trị, thoát ly quân đội như ta đã biết. Chính Trần Dần đã thú nhận tính chất hoạt động này của họ.

Cục Tuyên Huấn bảo anh em nghiên cứu lại bản đề nghị, Dần không chịu, bỏ mặc và phá phách ngày một dữ hơn. Dần lôi kéo được một số phá phách theo mình. Trần Công quá khích ăn nói lung tung: "Sống trong vòng K.50 (ý nói trong doanh trại, bên ngoài có bộ đội gác) nghẹt thở quá!" Những luận điệu vô kỷ luật này rất phù hợp với chủ trương "phải phá mà ra" của Trần Dần và mở đường cho bọn Dần càng đi sâu vào cạm bẫy của tư sản"
(317).


_____________________

(308) Theo lịch trình sau:16/11/46, Tự vệ Hải Phòng được lệnh chuẩn bị chống Pháp. 30/11/46, xung đột ở Đồ Sơn. 7/12/46, Võ Nguyên Giáp ra lệnh sửa soạn tấn công. 8/12/46, Hà Nội đào hầm, đục tường xuyên nhà nọ sang nhà kia. 10/12/46, Hà Nội bắt đầu tản cư. 20/12/46, lệnh kháng chiến từ Hà Nội, ban hành ở Nam Bộ.

(309) Đạo diễn Trần Vũ nói trong Chương trình tưởng niệm Trần Dần trên RFI, tháng 1/1997.

(310) Hồ Phương, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, Tác Phẩm Mới, 1987, trang 140.

(311) Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.

(312) Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1, 20/9/1956.

(313) Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, bđd.

(314) Hoàng Cầm, bđd.

(315) Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

(316) Trần Dần ghi, trang 63 và 65.

(317) Từ Bích Hoàng, Vạch thêm những hoạt động đen tối của một số cầm đầu trong nhóm phá hoại Nhân Văn Giai Phẩm, VNQĐ, số 5, tháng 5/1958.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 I_icon13Fri 30 Aug 2019, 13:19

Chương 11

Trần Dần (1926-1997)

● Trần Dần, Người-phá, Anarchiste

Ngày 10/3/55 Trần Dần ghi trong nhật ký:

"Chính sách tính lại thử xem có những gì? - Vài cái bàn. Vài cái đèn điện lạnh và vàng. Thêm một bàn hành chính. Tờ báo ra nhưng khổ và tên SHVN318 cũ. Người ta sợ đổi khổ là tính chiến đấu của nó [cũng đổi đi]. Có vậy thôi. Tôi không nói ngoa. Người ta quan niệm chính sách là như vậy. Đấy. Cái thông minh của người lãnh đạo năm 1955 tới cái mức ấy. Vậy là quá đáng lắm rồi. Còn đòi hỏi cái gì? Văn nghệ được thế là "chiếu cố", là "châm chước" tột độ rồi. Đáng lẽ chúng mày không có bàn, có điện, có báo nữa. Đáng lẽ chúng mày không được thức khuya hơn 9 giờ. Không được ra ngoài trại. Đằng này còn cho đi lại một chút. Vậy là rộng rãi lắm rồi còn gì!

Nhưng tôi nghĩ, những ông Cương (319) ông Thanh (320) gì đó không đáng trách (...) Đáng trách là cả một cái HỆ THỐNG! Nó nặng như núi... Nó ở trên có, ở dưới có. Ở ngang có. Đằng trước, đằng sau đều có nó. Hệ thống gì? Đó là hổ lốn: sợ hãi cúi đầu, làm thân con sên, con tầm gửi, -hò hét mệnh lệnh, làm ông sấm, ông sét. Đảng ở đâu? (...) Tôi nghĩ và tôi làm: Đảng ở tôi. Tôi phá HỆ THỐNG. Làm sao tới Hội Nghị Văn Thơ tôi phải làm được một số việc: vượt khỏi các ước lệ, điều lệ, thành kiến mà làm bằng được. (...)

Độ này có hai chiến trường khá sôi sục:
1) Vượt Côn Đảo
2) Thơ Tố Hữu

Tôi thích những cuộc tranh luận này. Không phải vì bản thân những quyển sách và những tác giả ấy. Mà vì ý nghiã nó rộng ra nhiều mặt khác. Phát huy phê bình tự do (...) Tại sao bọn giả mạo được tin hơn người thực thà? Tại sao loài bò sát lại được dùng nhiều. Tại sao chúng nó có mặt ở thời đại này? Ở trong Đảng? Ở cách mạng?- Lạ lùng nhất là tại sao không vạch mặt chúng ra? Văn thơ tôi sẽ balayer bọn ấy. Quét! Quét! (...) Tất cả những cái gì, nguyên tắc gì trở ngại cho nguyên tắc lớn của tôi là tôi xoá hết! Mặc! Tôi chỉ còn một nguyên tắc mà thôi! Sống và viết để đánh bọn giả mạo, bọn ỳ ạch, bọn mốc xì, bọn người-bệnh, bọn người-dòi, bọn người-ụ. Anarchiste? Nếu vậy gọi là anarchiste thì tôi rất muốn là anarchiste (...) Tôi không có khả năng công chức, khả năng người-ụ. Khả năng tôi là khả năng người-phá."
(321)

Chủ đích của Trần Dần rất rõ: Làm Người-phá, phá toàn bộ HỆ THỐNG trói buộc văn nghệ sĩ. Trần Dần xác định mình là Anarchiste và ông đã dịch chữ Anarchiste rất tài tình thành Người-phá (322). Văn nghệ sĩ thường hay có thái độ anarchiste. Trần Dần thực hiện tinh thần Người-phá, phá cái HỆ THỐNG, cái cơ chế toàn trị áp đặt lên Văn nghệ sĩ, qua ba "chiến trường": Đề nghị cải tổ Chính sách Văn nghệ Quân đội. Phê bình tập truyện Vượt Côn Đảo của Phùng Quán. Phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.

Ba "mặt trận" này diễn ra song song, từ tháng 2 đến tháng 5/55 trong quân đội, do Trần Dần và Tử Phác cầm đầu (323).

Từ Bích Hoàng viết: "Lúc đó, Tử Phác đang làm thư ký toà soạn tờ Sinh Hoạt Văn Nghệ, Tử Phác đã lợi dụng tờ báo của quân đội để Dần nổ ra hai cuộc phê bình Vượt Côn Đảo và tập thơ Việt Bắc, với một dụng ý rất xấu. Trần Dần "bốc" thơ Hoàng Cầm lên để đẩy Cầm cùng mình và Lê Đạt đả tập thơ Việt Bắc, thông qua tập thơ đó đả vào đồng chí Tố Hữu lãnh đạo văn nghệ, "hạ thần tượng" như bọn Dần đã nói. (...) Suốt thời gian này, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm và cả Lê Đạt, luôn luôn bỏ việc đến tụ họp rượu chè trai gái ở nhà tư sản, đầu độc cho nhau những luận điệu phản động (...) Bọn họ bàn nhau "tập trung giải ngũ" để bắt bí lãnh đạo. Thấy không xong, lại bàn "phân tán giải ngũ". Bọn họ đã thực hiện chủ trương này. Trần Dần đi tiên phong làm một lúc hai lá đơn xin ra Đảng, quân đội, có tính chất tấn công vào Đảng, quân đội như ta đã biết. Chính những hoạt động chống đối của Trần Dần, Tử Phác và sự hùa theo càng ngày càng có ý thức của số người kể trên đã gây tình trạng rối loạn hoàn toàn, một thời gian, trong Phòng Văn Nghệ Quân Đội, cầm đầu hồi này là Trần Dần và Tử Phác". (324)


_____________________

(318) Tức là tờ Sinh Hoạt Văn Nghệ, do Tử Phác làm thư ký toà soạn.

(319) Tức Võ Hồng Cương, hay Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn.

(320) Tức Tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị.

(321) Trần Dần ghi, sđd, trang 73-75.

(322) Anarchiste thường được dịch là vô chính phủ, chỉ đúng trong nghĩa chính trị (nghiã gốc), nhưng nói rộng ra, anarchiste còn có nghĩa là quậy, phá, loạn, không chịu bất cứ một thứ kỷ luật sắt nào.

(323) Phần lớn văn nghệ sĩ lúc ấy đều ở trong quân đội. Những người chủ chốt trong nhóm phản kháng gồm: Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm, với "mưu sĩ số 1" Đặng Đình Hưng, "mưu sĩ số 2" Tử Phác và Lê Đạt. Nhóm quy tụ được gần 30 văn nghệ sĩ. Vũ Tú Nam và Từ Bích Hoàng cũng "cùng chí hướng", Đỗ Nhuận là thành phần "chủ chốt", cả ba người này sau quay lại viết bài đánh Trần Dần và NVGP.

(324) Từ Bích Hoàng, bđd.


Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 I_icon13Mon 02 Sep 2019, 08:10

Chương 11

Trần Dần (1926-1997)

● Bản đề nghị cải tổ chính sách văn nghệ quân đội

Tháng 2/55: Trần Dần viết bản Đề nghị Chính sách Văn nghệ, với sự góp ý của Tử Phác, Đỗ Nhuận, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, bài dài 12 trang đánh máy, được đưa ra thảo luận, điều đình, thêm bớt, trong các cuộc họp của Phòng Văn Nghệ Quân Đội từ tháng 2 đến tháng 4/55. Vũ Tú Nam, cháu tướng Nguyễn Chí Thanh, được ông Thanh giao toàn bộ hồ sơ Trần Dần (gồm bản Đề nghị, thư xin ra Đảng, thư xin giải ngũ, thư cầu cứu sau khi bị bắt lần thứ hai, phải lập mưu cứa cổ để thoát, vv...) để có đủ tài liệu viết hai bài:

- Bài Những ngày thử thách, nhật ký chép lại ngày 25/10/2006 (325). Nếu bài này chép đúng sự thật, thì Vũ Tú Nam và Từ Bích Hoàng lúc trước đã ở cùng nhóm với Trần Dần. Nhưng theo băng Hoàng Cầm, Vũ Tú Nam chống lại từ đầu. Vậy bài này có thể đã được sửa lại như nhiều "nhật ký" hoặc "hồi ký" xuất hiện gần đây.

- Bài Sự thực về con người Trần Dần, in trên Văn Nghệ Quân Đội, năm 1958 (326) là tài liệu gốc, chưa bị sửa, tuy viết với mục đích "đánh", nhưng có nhiều thông tin đáng tin cậy về con người Trần Dần, về nội dung bản Đề nghị cải tổ. Sự trích dẫn dài rộng của Vũ Tú Nam có thể do thiện ý muốn để lại dấu vết bản Đề nghị cho mai sau. Vũ Tú Nam viết:

"Cuối năm 1954 sang đầu năm 1955, các đồng chí trong Phòng Văn Nghệ Quân Đội đều thắc mắc muốn cải tiến tổ chức, chính sách cho hợp với tình hình mới, muốn đề đạt lên cấp trên nghiên cứu, giải quyết. Trong một cuộc họp với đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Trần Dần hùng hổ yêu sách mấy điểm, tự ý thêm thắt, không thật trung thành với những điều đã bàn với một số anh em trong Phòng:
1- Trả lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ.
2- Thành lập trong quân đội một chi hội văn nghệ trực thuộc Hội văn nghệ, không qua Cục Tuyên huấn và Tổng cục chính trị.
3- Bỏ mọi "chế độ quân sự hiện hành" trong văn nghệ quân đội...

Nghe xong, đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ ra, còn ấm ức, cho là cấp trên không thông cảm. Trần Dần và một vài người khác thì lồng lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản, muốn giải ngũ. Tháng 2/1955, trong Phòng Văn Nghệ Quân Đội có tình trạng lỏng lẻo, rã rời, buông thả đến cao độ. Có đồng chí phải thốt ra lời than thở "Anarchie totale!" (Vô chính phủ hoàn toàn)
(327). Trần Dần vẫn được tín nhiệm giao cho công tác phụ trách Ban Văn, chuẩn bị triệu tập hội nghị ngành Văn toàn quân vào tháng 4/1955. Bản báo cáo do chính Trần Dần viết (tháng 2/1955). Vì tư tưởng cán bộ trong Phòng Văn nghệ lúc đó lệch lạc nhiều, vì nội dung bản báo cáo có nhiều điều nguy hiểm, Cục tuyên huấn quyết định đình việc chuẩn bị cuộc họp ngành Văn lại, Trần Dần càng bất mãn, càng u uất hơn" (328).

Về Nội dung bản Đề nghị cải tổ, xin trích lại những đoạn đã được Vũ Tú Nam trích, những chỗ in đậm là do chúng tôi nhấn mạnh:

1- Về trách nhiệm của người cầm bút, Trần Dần viết: "Biểu hiện cao nhất của trách nhiệm người viết là thái độ tôn trọng, trung thành với sự thực. Đó là tiêu chuẩn cao nhất đánh giá tác giả và tác phẩm... Tôn trọng, trung thành với sự thực vừa là trách nhiệm, - vừa là lập trường, - vừa là phương pháp làm việc của người viết".

2- Thế nào là sự thực đối với một nhà văn? Trần Dần viết: "Thế nào là trung thành với sự thực? Đầu tiên, sự thực là gì?", "Có sự thực của vũ trụ, của lịch sử, của thế giới, của cách mạng. Lại có sự thực trong nước, từng địa phương, -từng ngành, từng giới, từng nghề, từng gia đình và từng người một nữa. Trong mỗi người cũng lại có triệu vấn đề, mỗi vấn đề là một sự thực (...) Tức là: những vấn đề, hiện tượng của xã hội, của con người là sự thực."

3- Nhà văn phải phục tùng sự thực hay phục tùng chính sách, chỉ thị, phục tùng tuyên huấn? Trần Dần trả lời: "Sự thực lớn gấp triệu triệu lần bất cứ chỉ thị, lý luận nào... Nếu như sự thực ngược lại chính sách chỉ thị, thì phải viết sự thực chứ không phải là bóp gò sự thực vào chính sách. Không bao giờ được biến chính sách, chỉ thị thành định kiến "đinh ninh" (...) Người viết chỉ viết do thôi thúc của thực tế. Những chân lý lớn, nhỏ, anh ta tự giác thấy ở cuộc sống, ở quân đội. Không phải viết để vừa lòng Tuyên huấn, vừa lòng cấp trên. Để có cái danh phục vụ kịp thời. Một triệu lần, không có mùi mè giác ngộ, phục vụ gì cả! Cái áo không thể che được mùi thối trong ruột. Cách mạng không cần những người vỗ tay hoan hô nhắm mắt. Những anh hót ca chính sách. Thậm chí những anh "thày cúng chính sách", leng keng bóp méo, nghèo nàn. (...) Liệu cứ viết như một anh thày cúng ê a căm thù yêu nước xông lên, có phải là trách nhiệm không?"

4 - Trần Dần mô tả bộ mặt thực của văn học kháng chiến: "Có thể nói văn chương hiện nay nhiều cái giả tạo (giả trá nữa). Gọi đúng tên nó là chủ nghiã công thức, giản đơn, sơ lược. Tức là người viết đặt ra một cái khuôn nhất định, rồi gò ép mọi sự thực vào đó.

"Tả anh hùng chả hạn thì là: căm hờn, vào bộ đội rồi anh dũng lập công. Đối trên thì phục tùng kỷ luật (...) Lệnh gì là làm ngay không thắc mắc, hoặc có thắc mắc thì phê bình sau (...) Đối bạn thì giúp đỡ, thân ái phê bình, ai ai cũng mến (có người nào như vậy không?) Đối với đảng thì mở mồm là biết ơn. Đối với dân thì yêu mến giúp đỡ. Đó là cái khuôn cho anh hùng. Cái kiểu anh hùng không khuyết điểm (...) ấy thực chất là kiểu iêng hùng gì? Có mùi mè gì của người anh hùng quần chúng không? Có mùi mè gì của nhân văn chúng ta không? Và có thực như vậy không? (...) Vậy mà qua cái khuôn trên kia dập ra thì thành ngòi bút, chậu thau giống nhau cả. Thật là lối sản xuất kỹ nghệ định đem vào sản xuất con người và sản xuất nghệ thuật!

"Tại sao không viết về cơ quan chẳng hạn? Tại sao sợ viết về tình yêu chẳng hạn? Mà viết tình yêu thì y như đưa ra ái tình hy sinh vì Tổ quốc!... Tại sao cứ xuất thân công nông mới đáng viết? (...) Ngày nay, trong văn chương, kẻ thù ghê tởm là chủ nghiã công thức, giản đơn sơ lược. Phải nói trắng ra là nó ở cả người viết, ở cả xã hội (...) Thực thà chỉ có một con đường: Đấu tranh tàn khốc với chủ nghiã công thức giản đơn sơ lược trong bản thân và chung quanh".


Sau cùng Vũ Tú Nam cho biết: "Bản báo cáo Trần Dần viết, không được Cục Tuyên Huấn thông qua, và cuộc họp ngành Văn Thơ toàn quân phải đình lại. Trần Dần càng bất mãn, gây gổ, thường thường bỏ doanh trại bộ đội ra ngoài phố ở, giao du rộng rãi, tự do" (329).

Theo Hoàng Cầm, thì ban đầu đã có nhiều ý kiến thuận của Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội (có thể là ba vị tướng lãnh cao cấp trong Tổng Cục Chính Trị lúc bấy giờ: Lê Liêm, Lê Quang Đạo và Trần Độ). Hoàng Cầm kể lại không khí buổi họp mang tính quyết định, như sau: "Đến ngày họp bàn về dự thảo chính sách, Trần Dần được anh em cử ra trình bày.(...) Anh nói say mê, nhiệt tình. Trong cách nói nhiều khi bốc. Mặt anh khi đỏ gay, khi tái lại:"Giả văn nghệ cho anh em văn nghệ sĩ! Phân rõ ranh giới giữa cán bộ chính trị và văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ phải có sự lãnh đạo của Đảng, nhưng không thể biến thành cái máy v.v…" Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:"Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!" Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang" (330).

Người nói câu đó là Tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Vũ Tú Nam xác định: "Nghe xong, đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị". (331)
_____________________

(325) In trên tạp chí Nhà Văn số 3/2007Talawas.

(326) Số 4, tháng 4/1958.

(327) Anarchie totale ở đây nên dịch là Loạn!

(328) Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.

(329) Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.

(330) Hoàng Cầm, Con người Trần Dần.

(331) Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 I_icon13Tue 03 Sep 2019, 11:03

Chương 11

Trần Dần (1926-1997)

● Phê bình Vượt Côn Đảo

Theo Vũ Tú Nam, có ba buổi phê bình Vượt Côn Đảo của Phùng Quán:

"7/3/1955: Chiều thứ bảy, mình [Vũ Tú Nam] và Dần … xin phép không họp chi bộ để đi thảo luận về Vượt Côn Đảo. Ông Tú Mỡ hoàn toàn khen. Mình nói lại rằng Vượt Côn Đảo có những nhược điểm. Anh em bộ đội nói nhiều nhất. Ra về, mình dồn anh Lưu Trọng Lư rằng lãnh đạo cần phải thay đổi, quan liêu và trì trệ quá".

"14/3/1955: Tranh luận về Vượt Côn Đảo lần ba ở trường Nguyễn Trãi, vì CLB Đoàn Kết mắc bận. Họp tới 11 h, vẫn găng hai ý kiến. Trần Dần phê phán: "Nhân vật trong Vượt Côn Đảo là người cụt đầu, không óc không tim"(?!). Ông Hoài Thanh phát biểu trân trọng về cuốn sách. Lê Đạt rất bốc"
(332).

Qua những lời này, thì Vũ Tú Nam cùng lập trường với Trần Dần, khác hẳn với luận điệu trong bài Sự thực về con người Trần Dần viết tháng 3/1958. Vậy đâu là sự thật?

Theo Hoàng Cầm trong băng ghi âm:

"Vượt Côn Đảo là một cuốn sách hấp dẫn, khen thì khen lên chín từng mây như bài của các ông Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư... Trên báo Văn Nghệ, ông Hoài Thanh ca ngợi Vượt Côn Đảo một cách quá đáng, thì ông Trần Dần, báo Văn (333) bên này, mới quật lại bằng một bài, đầu đề to tướng: Bạn đã đọc kỹ Vượt Côn Đảo chưa? Bài báo hấp dẫn lắm, Trần Dần trích những câu non nớt của Phùng Quán ra phân tích, cũng chả đụng gì đến các ông Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, mà chỉ vạch ra cái non kém của Phùng Quán thôi. Phùng Quán nói: Anh đánh em đau quá Trần Dần chỉ cười. Tôi bảo: Trong văn chương được một người đàn anh đánh như thế là tốt, để cậu học tập, có đau mới tiến bộ được. Tất nhiên Phùng Quán nó không giận lâu" (334).


Lúc đó, Trần Dần, chủ trương phê bình tự do, chống lại sáng tác ca tụng, có ý đưa hai cuốn sách tiêu biểu của văn học cách mạng ra để phê bình. Văn xuôi là Vượt Côn Đảo của Phùng Quán và thơ là Việt Bắc của Tố Hữu. Phùng Quán nổi tiếng với tác phẩm đầu tay, viết theo lối văn tuyên truyền, bán rất chạy, trong vòng một năm tái bản bốn lần: Tiểu thuyết Vượt Côn Đảo (335) ca tụng sự can trường của các chiến sĩ cộng sản tổ chức vượt ngục Côn Đảo. Trần Dần chủ trương viết về bất cứ điều gì, cũng phải viết sự thực, tự phê cuốn Người người lớp lớp của mình trong nhật ký như sau: "Tôi vừa viết xong cuốn Người người lớp lớp. Viết về chiến tranh ở Điện Biên Phủ đấy. Nhưng mà tôi chán rồi. Tại vì rằng tôi ít thấy sự thực của chiến tranh trong đó quá. Và vì rằng tôi ít thấy sự thực của bản thân tôi trong đó quá. Chưa phải là chiến tranh, chưa phải là tôi. Cho nên tôi viết tới hơn 300 trang mà không thích bằng một bài thơ tôi cũng mới làm về chiến tranh: "Anh đã thấy" (Mes douleurs) trên dưới có 6 trang!" (336)

Trước Nguyễn Minh Châu 30 năm, Trần Dần đã đòi hỏi nhà văn phải viết sự thực về chiến tranh một cách quyết liệt và toàn diện: viết sự thực không tô hồng, không nói dối, không nặn ra những anh hùng giả, toàn tim, không óc.

Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần đi Trung Quốc. Khi trở về sách đã in, nhưng Hội Văn Nghệ đánh mất bản thảo Người người lớp lớp (phần 4 và 5) (337). Như vậy cuốn sách đã in không có phần 4 và 5. Có nghĩa là 2 phần này tác giả viết "không đúng đường lối" chăng?

Chính Trần Dần, cũng không bằng lòng với cách viết của mình, cho nên qua Vượt Côn Đảo, ông muốn phê phán cả một tầng lớp nhà văn chính thống, từ Nguyễn Đình Thi trong Xung kích, Vỡ bờ đến cách Hoài Thanh, Xuân Diệu nhắm mắt ca tụng Việt Bắc của Tố Hữu. Lý do thứ hai, vì Phùng Quán là đàn em, cho nên việc phê bình sách của Phùng Quán cùng với sách Tố Hữu, chứng tỏ họ "không bè phái", chê cả người trong nhóm.

Trần Dần phê bình Vượt Côn Đảo như thế nào?

Nguyên Ngọc viết:

"Bấy giờ Phùng Quán còn choáng mắt lên vì sự thành công của mình. Quán đang tin ở tài năng của mình và chưa kịp bình tĩnh suy nghĩ gì về những nhược điểm, khuyết điểm còn lại. Thì giữa lúc đó Trần Dần viết bài "Bạn đã đọc kỹ Vượt Côn đảo chưa?" đăng trên tạp chí Sinh Hoạt Văn Nghệ ra ngày 1/4/1955.(...) Trần Dần lật ngược tất cả những nhận định trước nay về Vượt Côn đảo, thẳng tay đập tơi bời cuốn sách đầu tay đó của Phùng Quán. Trần Dần nhận định:

Về cốt chuyện "tinh thần chung của nó là hỏng. Mới xét qua cốt chuyện đã thấy nó là một quyển sách ca tụng chủ nghiã anh hùng cá nhân, ca tụng kiểu quân sự bạo động, tình cảm sốc nổi và phiêu lưu". Về nhân vật trong chuyện: "về nhân vật quần chúng thì tôi không hiểu tác giả mắc bệnh gì mà mỗi khi tả quần chúng thì tả họ ngây ngô... cái nhân vật quần chúng đã bị bôi nhọ quá nhiều".

Về những nhân vật khác, Trần Dần cho là: "tác giả đưa lên những người toàn tim cả mà không có óc. Hay chỉ có một chút xíu". Nói về cái chết của những người anh hùng trong tác phẩm của Phùng Quán, Trần Dần viết một cách vô lương tâm: "Tôi đã không khóc mà lại còn muốn nói rất nhiều về những cái chết mù quáng như vậy. Không phải cứ mang cái chết ra mà cảm động được chúng ta đâu!... Tôi không rỏ một giọt nước mắt nào cho những con người chết như thế. Đó là cái chết của những con người khờ dại... đảng viên ấy không phải là đảng viên, chiến sĩ ấy không phải là chiến sĩ..." (...)

Suốt cả bài ấy Trần Dần dùng một lối văn đả kích bằng cách chơi chữ, lập lờ, một thứ "thủ đoạn văn chương" mà sau này ta đã tìm thấy lại trên báo Nhân Văn, trong các tập Giai phẩm và Đất Mới của nhà xuất bản Minh Đức. Ví dụ chê một chỗ tác giả đưa lên một khó khăn quá ngây thơ, Trần Dần viết: "lần này là khó khăn con chó".

Một tháng sau Lê Đạt cũng viết một bài phê bình Vượt Côn đảo (Sinh Hoạt Văn Nghệ, số 39 ra ngày 19/5/1955) ý kiến không có gì khác Trần Dần lắm. (...)

Sau khi đã đập Phùng Quán tơi bời bằng một bài phê bình trên báo, sau khi đã làm cho Phùng Quán hoang mang suy nghĩ về tài năng, về trình độ mọi mặt của mình, Trần Dần lại nói riêng với Phùng Quán: "Tao đập là đập bọn chúng nó ngu dốt không biết gì chứ có phải đập mày đâu". (...) Thế là Trần Dần hoàn thành cái thủ đoạn của mình một cách khôn khéo, bắn một phát trúng nhiều mục tiêu: qua phê bình Vượt Côn đảo mà thoá mạ những chiến sĩ cộng sản, qua Phùng Quán mà chửi quần chúng là ngu dốt, tâng bốc Phùng Quán, đưa Phùng Quán đến chỗ đối lập lại quần chúng độc giả và lãnh đạo, lôi kéo Phùng Quán. Trần Dần đã thành công trong việc đó thật"
(338).

_____________________

(330) Hoàng Cầm, Con người Trần Dần.

(331) Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.

(332) Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, nhật ký chép lại, bđd.

(333) Thực ra là báo Sinh Hoạt Văn Nghệ của quân đội, do Tử Phác phụ trách.  

(334) Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

(335) nxb QĐND, Hà Nội 1954.

(336) Trần Dần ghi, trang 47.

(337) Trần Dần ghi.

(338) Nguyên Ngọc, Con đường đi của Phùng Quán, con đường sai lầm điển hình của một người viết văn trẻ, VNQĐ, số 4, tháng 4/1958.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 I_icon13Mon 09 Sep 2019, 09:13

Chương 11

Trần Dần (1926-1997)

● Phê bình Việt Bắc

Phê bình tập thơ Việt Bắc
là ngòi nổ công khai đầu tiên của phong trào NVGP. Việt Bắc của Tố Hữu được tôn sùng như cuốn "thánh kinh" của văn học cách mạng. Từ khi tác phẩm ra đời cuối năm 1954 cho đến ngày nay, bao nhiêu giấy bút đã dành cho sự ca tụng nó. Hiếm có nhà phê bình nào, dám viết một câu phạm thượng về Việt Bắc. Đúng như Lê Đạt nhận xét: "Ở Việt Nam người ta chưa quen chê anh Tố Hữu bao giờ" (339). Sở dĩ việc phê bình thơ Tố Hữu, không chỉ khép kín trong các buổi họp nội bộ quân đội, mà thoát ra ngoài, nhờ hai người: Tử Phác, thư ký toà soạn báo Sinh Hoạt Văn Nghệ, tung trên Sinh Hoạt Văn Nghệ trước. Rồi Lê Đạt, phụ trách Văn Nghệ, đưa lên Văn Nghệ sau.

Vũ Tú Nam viết:

"Ngày 4/3/1955, nổ ra cuộc họp đầu tiên tranh luận phê bình tập thơ Việt Bắc, Trần Dần gọi thơ Tố Hữu là "tí ti la haine, tí ti l'amour" (tí ti căm thù, tí ti tình yêu) một cách hằn học, đểu cáng. Ngày 7/3/1955, bắt đầu tranh luận phê bình Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, Trần Dần gọi những chiến sĩ Côn Đảo trong truyện là những "người cụt đầu", "toàn tim", mù quáng (...) Bài phê bình Vượt Côn Đảo của Trần Dần lệch lạc nguy hiểm như vậy, nhưng cũng có một số đồng chí trong quân đội không nhận ra, viết bài hưởng ứng. Cuối tháng 3/1955, khi duyệt những bức thư bạn đọc chung quanh việc phê bình Vượt Côn Đảo để in báo Sinh hoạt Văn nghệ, Cục Tuyên huấn quyết định bỏ bớt một số bài tán thành Trần Dần. Lúc này, Trần Dần phản ứng rất mạnh, gọi lãnh đạo là "répression policière!" (đàn áp kiểu cu-lít). Và đầu tháng 4/1955, mượn cớ đau óc, Trần Dần xin nghỉ dài hạn, bỏ công tác, bỏ doanh trại bộ đội, tự tiện ra ngoài phố ở." (340)

Về không khí các buổi phê bình thơ Tố Hữu, Vũ Tú Nam ghi trong nhật ký, như sau:

5/3/1955: Tối qua, tranh luận về thơ Tố Hữu ở Cửa Đông, anh Nguyễn Chí Thanh tới (...) anh em đông lắm, cả Hồ Dzếnh. Hoàng Yến trình bày vấn đề “khả năng hiện thực trong thơ Tố Hữu - Tố Hữu có tiêu biểu cho thời đại không?” Trần Dần, Lê Đạt nói bốc nhất. Hoàng Trung Thông, Nguyễn Xuân Sanh ngồi ghi mà không nói gì. Tố Hữu không tới, Xuân Diệu không tới.

8/4/1955: Đêm 7-4, phê bình thơ Việt Bắc ở 51 Trần Hưng Đạo đến 12 h khuya. Dần tâm sự khi anh đi xe đạp có hai bộ đội theo dõi (?). Tối vào nhà bạn, lúc ra Dần bị bộ đội giữ mấy tiếng. Mình báo cáo sự việc với chi ủy. Trần Việt nói: Dần vào 69 Quán Thánh, nhà Hoàng Cơ Bình cũ, nên có thể bị theo dõi.

15/4/1955: Đêm qua, thảo luận về thơ Việt Bắc đến 12h đêm. Hoàng Yến, Trần Dần, Hoàng Cầm nói gay gắt. Trương Tửu tranh luận rất phản khoa học. Huy Cận ngồi im. Tạ Hữu Thiện nói nhiều suy diễn, ví dụ cho đoạn nào là giống Kiều… Hoàng Cầm dẫn thơ Hồ Xuân Hương để chứng minh "chất sống" và "hồn thơ" của nữ thi sĩ.
(341)

Trong bài Cách nhìn sự vật của nhà thơ Tố Hữu, viết tháng 5/55, Trần Dần viết: "Nói chung thơ Tố Hữu có rất nhiều cái lười biếng. "Ý lời tầm thường (...), rất nhiều cái kiểu "lòng ta xao xuyến, rung rinh", - "chúng bay chỉ một đường ra, một là tiêu diệt hai là tù binh", - hoặc "đời vẫn ca vang núi đèo", hoặc "Cụ Hồ sáng soi". Không phải là thiên lệch trích ra một số câu như vậy, hãy đọc lại cả tập Việt Bắc xem, ta thấy nhan nhản những lối lười, nhạt, cả lảm nhảm nữa (...) Phá đường: "Nhà neo việc bận vẫn đi" - làm thì thi đua -, thi đua kết quả thì rồi mai địch chết. Ta đi tới: đủ cả Bắc Nam, Việt, Miên, Lào, Itsala, Itsarắc... xem ra thì có vẻ đúng chính trị. Nhưng xét sâu xem? (...) Tố Hữu nhìn sự vật nó chính trị công thức quá, lười tìm tòi quá. Chỗ nào hay thì là lập lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao... Tố Hữu chưa đem tới một cái nhìn mới mẻ gì. (342)

Tiễn đưa Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang ghi sổ tang:

"Lần đầu gặp anh trong cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc, đến nay dù hơn bốn mươi năm, biết bao là gian nan, trong những cố gắng chung để tìm cho văn nghệ Việt Nam một con đường phát triển thuận lợi nhất. Đúng hay sai, hôm nay tôi vẫn chưa dám khẳng định... Dù sao thiện chí của chúng ta chỉ có kẻ ác ý mới cố tình phủ nhận. Tiễn đưa anh về cõi vĩnh hằng, có lẽ tôi chỉ có thể nhắc lại cùng anh vế đối của Ngô Thì Nhậm nói cái lẽ tất yếu: Gặp thì thế, thế thì phải thế. (...) Cả nước biết lúc nào anh cũng có tư tưởng Nhất định thắng, dù cho ý chí ấy anh không đạt được thì cũng vẫn là phẩm giá cao đẹp của một con người" (343).

● Trần Dần ghi


Về NVGP, có những sự việc đã bị chôn sống, tưởng rồi sẽ tan trong lòng đất. Có những sự thực đã bị bóp méo đến độ dị dạng. Trong hơn nửa thế kỷ, người ta đã quen sống với những quái thai dị đạng đó: những xuyên tạc, bôi nhọ được đề cao như những chân lý. Ngờ đâu, những con chữ trong hòm lại có ngày đứng dậy, thuật lại truyện mình. Tập Trần Dần ghi 1954-1960 (344) là một trong những tư liệu hòm, tự khai, tự quật. Tác phẩm mở ra những dòng chữ đầu tiên để lấp những trang còn trắng về một thời kỳ văn học sử, còn chưa được biết, còn chưa được viết.

Tập Trần Dần ghi 1954-1960 thực chất là ba quyển sách gồm một: Phần đầu tích lũy những suy nghĩ về sáng tạo. Phần thứ nhì, tác giả quay lại chiến dịch đấu tố với những hình ảnh khủng khiếp kinh hoàng. Phần thứ ba, viết về cuộc sống cải tạo trong những năm kỷ luật. Với một lối viết tốc ký, ngắn gọn, thể hiện mỹ học khổ đau của Trần Dần.

Chuyện cải tạo sau Nhân Văn, nằm trong lối tốc ký ấy:

"9/9/58 (...) Ðêm, tôi thiếp đi trong mộng ác. Tay mưng, đau nhất là ở những chỗ đã thành chai mà lại mưng tái lại. Mọi bắp thịt suốt đêm lọc acide, và chôn cất những tế bào chết vì lao lực quá sức... Lục đục suốt đêm như vậy trong toàn bộ xác thịt tôi.

10/9/58 (...) Gió khiếp quá. Hàng sư đoàn gió bấc trèo qua núi lúc nào đổ xuống đồng cỏ. Suốt buổi sáng, mùa hè bị đánh tan nát. Nắng bị gió may thổi mát đi, nguội lửa.

Gió tốc mái, rứt mấy lá gồi chuồng bò. Cây cành bị túm tóc, vật vã kêu gào, gió vẫn không tha. Các tàu chuối bị tước xơ ra. Có tàu rách mướp, trông hệt một con rết xanh khổng lồ, hàng nghìn chân xanh ngọ ngoạy điên cuồng, cào trong không khí, cái đuôi nó bị giữ rịt ở thân, nó lồng lộn ngang ngửa, không thoát. (...)

Các nón lá bị gió nó hất chụp mặt. Nó kéo ra sau, quai nón xiết cổ như thừng thắt cổ! Bụi phả vào mắt chúng tôi, chưa dụi xong, gió đã ném thêm. Bọn tôi đào gốc, đã nhọc, còn bị lũ gió may kia trêu chọc. Nó đùa dai chứ... Có lúc tôi cuốc đất, mắt nhắm tịt, một anh mù làm việc"
(345).

Về những ngày sôi động sau 2 cuộc Chỉnh huấn ở Thái Hà ấp, 16/4/1958, Trần Dần ghi:

"Hiện nay Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An, Minh Ðức đã bị bắt, chẳng bao lâu sẽ ra tòa. Báo chí vẫn tiếp tục diệt đánh Nhân Văn Bộ 6 Giai Phẩm Mùa Xuân
(346). Bộ 6 đã buông nhau ra. Bọn Nhân Văn Giai Phẩm cũng ô-rơ-voa (347) nhau hết (...) Sỹ Ngọc đóng cửa, miễn tiếp khách. Bản thân tôi, do chỗ đã tự giác đình bản tư tưởng thù địch (thứ tự giác kết quả của áp lực...) nên mọi mặt khác, tôi cũng đình bản cả giao du, đình bản cả việc viết lách. Có nên đi gặp những đồng chí lãnh đạo để hỏi những việc cần phải làm không? Ði thì lại sợ bị hiểu lầm. Nhưng nếu ngồi nhà, tiêu cực đợi, có khi còn bị hiểu lầm gấp bội. (...)

Bọn Ðang - Minh Ðức - Thụy An thân thì bị cầm tù, tội ác thì đem bêu đầu trên báo chí. Vai trò của bọn chúng trong các vụ phá hoại 3 năm đang được vạch trần. Phan Khôi thì đóng cửa, nằm khàn, không đọc báo. Trương Tửu, Trần Ðức Thảo làm gì? Còn cả loại B chúng tôi hiện ra sao? Làm gì? Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt đang tiếp tục kiểm thảo ở cơ quan, cùng với những Quang Dũng, Trần Lê Văn, v.v...

Chúng tôi đi sâu vào kiểm điểm sáng tác hơn nữa. Kiểm điểm sáng tác cho sâu mới thật là khó sao! Cứ như phải rứt bỏ một mảng thịt của mình.(...) Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. Hình phạt của một người bị bung dừ (...) Tôi vừa là một tội nhân, vừa phải cố tách mình ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi và đám Nhân Văn"
(348).

Những người nhân văn ấy, đã phải nhận tội, phải "cắt bỏ những mảng thịt của mình", phải tự chửi rủa mình, phải tìm gặp lãnh đạo, phải tố cáo bạn bè để xin một chút ơn huệ thừa, nhưng rồi cũng không ai thoát được guồng máy, không ai tránh khỏi bị "ninh nhừ".

Con người nhất định thắng ấy, sau trận Thái Hà, đã thua, đã hàng, đã nhận tội, đã ly khai những lý tưởng ngày trước, đã phải đứng về phía bên này, để nhìn "bọn" bên kia: gồm những "tên thủ lĩnh chủ nghiã xét lại" Nguyễn Hữu Đang, "tên phá hoại" Minh Đức, "con mụ gián điệp" Thụy An..., đã xuống đến nấc thang cuối cùng của sự "giẻ rách hoá" con người.

10/12/ 59, Trần Dần ghi: "Sớm mai tòa án xử Thụy An gián điệp và Nguyễn Hữu Ðang phá hại, cả hai: hiện hành. Tôi không có giấy gọi cho dự, có lẽ vì không có vị trí gì ở đó. Không phải là nhân chứng, cũng không phải là đại biểu của nhân dân...

Người có một cái gì văng vắng. Tôi đã có đứng với nhóm Ðang cầm đầu. Tôi đã ly khai với "lý tưởng" đó. Cả khi đứng ở đó, cả khi ly khai, cả bây giờ, tôi vẫn cứ rớm máu. Chao ơi! Con đường để đi đến chỗ "Đúng" mới nhiều máu làm sao? Tương lai có để dành cho tôi nhát dao nào nữa không? Đang đã nhìn thấy cái sai lớn của Đang chưa? (...)

Ngoài trời mưa bụi. Rét xoàng. Không có gió. Ðôi lúc vài tiếng chuông xe đạp. Năm nay rét muộn. Ðang ra tòa cuối năm. Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ôi! Con đường để đi tới chỗ "Ðúng" mới nhiều máu làm sao!"
(349)

Từ lâu "ghi trở nên một hình phạt". Nhưng vẫn ghi.

Cuốn sổ 1958, ghi lại con đường của những người muốn ngoi lên để đi đến chỗ "Đúng". Ai cũng muốn tìm một đường "máu" để thoát thân: biết đâu Đảng chả đoái thương mà nghĩ lại? Phương tiện nào cũng tốt kể cả "khai". Cả "tố".

Bao nhiêu khuôn mặt đã bước trên con đường "nhiều máu "ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã vo ve sự "Đúng" ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu tên tuổi đã đạt được sự "Đúng" ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã "Sai." Trần Dần ghi.

Cả đúng lẫn sai đều lầm than, đều tiến dần tới tha hóa. Họ tan tác cả. Họ chia tay. Có những oán hận, căm thù. Chính quyền đã thành công trong sự "giẻ rách hoá" con người, như lời Lê Đạt.

Thành công lớn nhất của guồng máy là đã đánh vào những yếu tố thiêng liêng nhất của con người: đánh vào tình bạn, tình người, đánh tan tác hết. Những người nhân văn không chết, nhưng họ bị rút máu, rút gân, rút dần sinh lực. Họ đều rời rã, đều muốn hàng. Nhiều người đã đầu hàng, trong đó có Trần Dần. Họ muốn được lãnh đạo thương xót, họ muốn được lãnh đạo đoái hoài. Họ đã xuống đến đáy vực, họ chịu hết nổi. Họ sẵn sàng "chút lòng trinh bạch từ nay xin chừa" nhưng người ta vẫn lạnh lùng quay đi. Người ta vẫn không cho ngoi lên. Cái phận người nhỏ nhoi. Phận người nhân văn bị sa lầy, lún xuống, trong thời không nhân văn của dân tộc mình. Câm và điếc. Như đã chết.

Và điều đó chỉ có mỹ học khổ đau của Trần Dần mới viết nên được.


_____________________

(339) Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.

(340) Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.

(341) Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, nhật ký chép lại, bđd.

(342) Nhật ký Trần Dần ghi, trang141.

(343) Bài điếu của Nguyễn Hữu Đang, in lại trong Trần Dần ghi, trang 460.

(344) Văn Nghệ, California, 2001.

(345) Trần Dần ghi, trang 334-335.

(346) Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Ðạt, Trần Dần, Sỹ Ngọc, Tử Phác.

(347) Au revoir, tạm biệt.

(348) Trần Dần ghi, trang 244, 245- 260.

(349) Trần Dần ghi, trang 376.

Về Đầu Trang Go down
Ai Hoa

Ai Hoa

Tổng số bài gửi : 10638
Registration date : 23/11/2007

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 I_icon13Mon 09 Sep 2019, 12:58

Trà Mi đã viết:
Chương 11

Trần Dần (1926-1997)

● Phê bình Việt Bắc

Phê bình tập thơ Việt Bắc
là ngòi nổ công khai đầu tiên của phong trào NVGP. Việt Bắc của Tố Hữu được tôn sùng như cuốn "thánh kinh" của văn học cách mạng. Từ khi tác phẩm ra đời cuối năm 1954 cho đến ngày nay, bao nhiêu giấy bút đã dành cho sự ca tụng nó. Hiếm có nhà phê bình nào, dám viết một câu phạm thượng về Việt Bắc. Đúng như Lê Đạt nhận xét: "Ở Việt Nam người ta chưa quen chê anh Tố Hữu bao giờ" (339). Sở dĩ việc phê bình thơ Tố Hữu, không chỉ khép kín trong các buổi họp nội bộ quân đội, mà thoát ra ngoài, nhờ hai người: Tử Phác, thư ký toà soạn báo Sinh Hoạt Văn Nghệ, tung trên Sinh Hoạt Văn Nghệ trước. Rồi Lê Đạt, phụ trách Văn Nghệ, đưa lên Văn Nghệ sau.

Vũ Tú Nam viết:

"Ngày 4/3/1955, nổ ra cuộc họp đầu tiên tranh luận phê bình tập thơ Việt Bắc, Trần Dần gọi thơ Tố Hữu là "tí ti la haine, tí ti l'amour" (tí ti căm thù, tí ti tình yêu) một cách hằn học, đểu cáng. Ngày 7/3/1955, bắt đầu tranh luận phê bình Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, Trần Dần gọi những chiến sĩ Côn Đảo trong truyện là những "người cụt đầu", "toàn tim", mù quáng (...) Bài phê bình Vượt Côn Đảo của Trần Dần lệch lạc nguy hiểm như vậy, nhưng cũng có một số đồng chí trong quân đội không nhận ra, viết bài hưởng ứng. Cuối tháng 3/1955, khi duyệt những bức thư bạn đọc chung quanh việc phê bình Vượt Côn Đảo để in báo Sinh hoạt Văn nghệ, Cục Tuyên huấn quyết định bỏ bớt một số bài tán thành Trần Dần. Lúc này, Trần Dần phản ứng rất mạnh, gọi lãnh đạo là "répression policière!" (đàn áp kiểu cu-lít). Và  đầu tháng 4/1955, mượn cớ đau óc, Trần Dần xin nghỉ dài hạn, bỏ công tác, bỏ doanh trại bộ đội, tự tiện ra ngoài phố ở." (340)

Về không khí các buổi phê bình thơ Tố Hữu, Vũ Tú Nam ghi trong nhật ký, như sau:

5/3/1955: Tối qua, tranh luận về thơ Tố Hữu ở Cửa Đông, anh Nguyễn Chí Thanh tới (...) anh em đông lắm, cả Hồ Dzếnh. Hoàng Yến trình bày vấn đề “khả năng hiện thực trong thơ Tố Hữu - Tố Hữu có tiêu biểu cho thời đại không?” Trần Dần, Lê Đạt nói bốc nhất. Hoàng Trung Thông, Nguyễn Xuân Sanh ngồi ghi mà không nói gì. Tố Hữu không tới, Xuân Diệu không tới.

8/4/1955: Đêm 7-4, phê bình thơ Việt Bắc ở 51 Trần Hưng Đạo đến 12 h khuya. Dần tâm sự khi anh đi xe đạp có hai bộ đội theo dõi (?). Tối vào nhà bạn, lúc ra Dần bị bộ đội giữ mấy tiếng. Mình báo cáo sự việc với chi ủy. Trần Việt nói: Dần vào 69 Quán Thánh, nhà Hoàng Cơ Bình cũ, nên có thể bị theo dõi.

15/4/1955: Đêm qua, thảo luận về thơ Việt Bắc đến 12h đêm. Hoàng Yến, Trần Dần, Hoàng Cầm nói gay gắt. Trương Tửu tranh luận rất phản khoa học. Huy Cận ngồi im. Tạ Hữu Thiện nói nhiều suy diễn, ví dụ cho đoạn nào là giống Kiều… Hoàng Cầm dẫn thơ Hồ Xuân Hương để chứng minh "chất sống" và "hồn thơ" của nữ thi sĩ.
(341)

Trong bài Cách nhìn sự vật của nhà thơ Tố Hữu, viết tháng 5/55, Trần Dần viết: "Nói chung thơ Tố Hữu có rất nhiều cái lười biếng. "Ý lời tầm thường (...), rất nhiều cái kiểu "lòng ta xao xuyến, rung rinh", - "chúng bay chỉ một đường ra, một là tiêu diệt hai là tù binh", - hoặc "đời vẫn ca vang núi đèo", hoặc "Cụ Hồ sáng soi". Không phải là thiên lệch trích ra một số câu như vậy, hãy đọc lại cả tập Việt Bắc xem, ta thấy nhan nhản những lối lười, nhạt, cả lảm nhảm nữa (...) Phá đường: "Nhà neo việc bận vẫn đi" - làm thì thi đua -, thi đua kết quả thì rồi mai địch chết. Ta đi tới: đủ cả Bắc Nam, Việt, Miên, Lào, Itsala, Itsarắc... xem ra thì có vẻ đúng chính trị. Nhưng xét sâu xem? (...) Tố Hữu nhìn sự vật nó chính trị công thức quá, lười tìm tòi quá. Chỗ nào hay thì là lập lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao... Tố Hữu chưa đem tới một cái nhìn mới mẻ gì. (342)

Tiễn đưa Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang ghi sổ tang:

"Lần đầu gặp anh trong cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc, đến nay dù hơn bốn mươi năm, biết bao là gian nan, trong những cố gắng chung để tìm cho văn nghệ Việt Nam một con đường phát triển thuận lợi nhất. Đúng hay sai, hôm nay tôi vẫn chưa dám khẳng định... Dù sao thiện chí của chúng ta chỉ có kẻ ác ý mới cố tình phủ nhận. Tiễn đưa anh về cõi vĩnh hằng, có lẽ tôi chỉ có thể nhắc lại cùng anh vế đối của Ngô Thì Nhậm nói cái lẽ tất yếu: Gặp thì thế, thế thì phải thế. (...) Cả nước biết lúc nào anh cũng có tư tưởng Nhất định thắng, dù cho ý chí ấy anh không đạt được thì cũng vẫn là phẩm giá cao đẹp của một con người" (343).

● Trần Dần ghi


Về NVGP, có những sự việc đã bị chôn sống, tưởng rồi sẽ tan trong lòng đất. Có những sự thực đã bị bóp méo đến độ dị dạng. Trong hơn nửa thế kỷ, người ta đã quen sống với những quái thai dị đạng đó: những xuyên tạc, bôi nhọ được đề cao như những chân lý. Ngờ đâu, những con chữ trong hòm lại có ngày đứng dậy, thuật lại truyện mình. Tập Trần Dần ghi 1954-1960 (344) là một trong những tư liệu hòm, tự khai, tự quật. Tác phẩm mở ra những dòng chữ đầu tiên để lấp những trang còn trắng về một thời kỳ văn học sử, còn chưa được biết, còn chưa được viết.

Tập Trần Dần ghi 1954-1960 thực chất là ba quyển sách gồm một: Phần đầu tích lũy những suy nghĩ về sáng tạo. Phần thứ nhì, tác giả quay lại chiến dịch đấu tố với những hình ảnh khủng khiếp kinh hoàng. Phần thứ ba, viết về cuộc sống cải tạo trong những năm kỷ luật. Với một lối viết tốc ký, ngắn gọn, thể hiện mỹ học khổ đau của Trần Dần.

Chuyện cải tạo sau Nhân Văn, nằm trong lối tốc ký ấy:

"9/9/58 (...) Ðêm, tôi thiếp đi trong mộng ác. Tay mưng, đau nhất là ở những chỗ đã thành chai mà lại mưng tái lại. Mọi bắp thịt suốt đêm lọc acide, và chôn cất những tế bào chết vì lao lực quá sức... Lục đục suốt đêm như vậy trong toàn bộ xác thịt tôi.

10/9/58 (...) Gió khiếp quá. Hàng sư đoàn gió bấc trèo qua núi lúc nào đổ xuống đồng cỏ. Suốt buổi sáng, mùa hè bị đánh tan nát. Nắng bị gió may thổi mát đi, nguội lửa.

Gió tốc mái, rứt mấy lá gồi chuồng bò. Cây cành bị túm tóc, vật vã kêu gào, gió vẫn không tha. Các tàu chuối bị tước xơ ra. Có tàu rách mướp, trông hệt một con rết xanh khổng lồ, hàng nghìn chân xanh ngọ ngoạy điên cuồng, cào trong không khí, cái đuôi nó bị giữ rịt ở thân, nó lồng lộn ngang ngửa, không thoát. (...)

Các nón lá bị gió nó hất chụp mặt. Nó kéo ra sau, quai nón xiết cổ như thừng thắt cổ! Bụi phả vào mắt chúng tôi, chưa dụi xong, gió đã ném thêm. Bọn tôi đào gốc, đã nhọc, còn bị lũ gió may kia trêu chọc. Nó đùa dai chứ... Có lúc tôi cuốc đất, mắt nhắm tịt, một anh mù làm việc"
(345).

Về những ngày sôi động sau 2 cuộc Chỉnh huấn ở Thái Hà ấp, 16/4/1958, Trần Dần ghi:

"Hiện nay Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An, Minh Ðức đã bị bắt, chẳng bao lâu sẽ ra tòa. Báo chí vẫn tiếp tục diệt đánh Nhân Văn Bộ 6 Giai Phẩm Mùa Xuân
(346). Bộ 6 đã buông nhau ra. Bọn Nhân Văn Giai Phẩm cũng ô-rơ-voa (347) nhau hết (...) Sỹ Ngọc đóng cửa, miễn tiếp khách. Bản thân tôi, do chỗ đã tự giác đình bản tư tưởng thù địch (thứ tự giác kết quả của áp lực...) nên mọi mặt khác, tôi cũng đình bản cả giao du, đình bản cả việc viết lách. Có nên đi gặp những đồng chí lãnh đạo để hỏi những việc cần phải làm không? Ði thì lại sợ bị hiểu lầm. Nhưng nếu ngồi nhà, tiêu cực đợi, có khi còn bị hiểu lầm gấp bội. (...)

Bọn Ðang - Minh Ðức - Thụy An thân thì bị cầm tù, tội ác thì đem bêu đầu trên báo chí. Vai trò của bọn chúng trong các vụ phá hoại 3 năm đang được vạch trần. Phan Khôi thì đóng cửa, nằm khàn, không đọc báo. Trương Tửu, Trần Ðức Thảo làm gì? Còn cả loại B chúng tôi hiện ra sao? Làm gì? Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt đang tiếp tục kiểm thảo ở cơ quan, cùng với những Quang Dũng, Trần Lê Văn, v.v...

Chúng tôi đi sâu vào kiểm điểm sáng tác hơn nữa. Kiểm điểm sáng tác cho sâu mới thật là khó sao! Cứ như phải rứt bỏ một mảng thịt của mình.(...) Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. Hình phạt của một người bị bung dừ (...) Tôi vừa là một tội nhân, vừa phải cố tách mình ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi và đám Nhân Văn"
(348).

Những người nhân văn ấy, đã phải nhận tội, phải "cắt bỏ những mảng thịt của mình", phải tự chửi rủa mình, phải tìm gặp lãnh đạo, phải tố cáo bạn bè để xin một chút ơn huệ thừa, nhưng rồi cũng không ai thoát được guồng máy, không ai tránh khỏi bị "ninh nhừ".

Con người nhất định thắng ấy, sau trận Thái Hà, đã thua, đã hàng, đã nhận tội, đã ly khai những lý tưởng ngày trước, đã phải đứng về phía bên này, để nhìn "bọn" bên kia: gồm những "tên thủ lĩnh chủ nghiã xét lại" Nguyễn Hữu Đang, "tên phá hoại" Minh Đức, "con mụ gián điệp" Thụy An..., đã xuống đến nấc thang cuối cùng của sự "giẻ rách hoá" con người.

10/12/ 59, Trần Dần ghi: "Sớm mai tòa án xử Thụy An gián điệp và Nguyễn Hữu Ðang phá hại, cả hai: hiện hành. Tôi không có giấy gọi cho dự, có lẽ vì không có vị trí gì ở đó. Không phải là nhân chứng, cũng không phải là đại biểu của nhân dân...

Người có một cái gì văng vắng. Tôi đã có đứng với nhóm Ðang cầm đầu. Tôi đã ly khai với "lý tưởng" đó. Cả khi đứng ở đó, cả khi ly khai, cả bây giờ, tôi vẫn cứ rớm máu. Chao ơi! Con đường để đi đến chỗ "Đúng" mới nhiều máu làm sao? Tương lai có để dành cho tôi nhát dao nào nữa không? Đang đã nhìn thấy cái sai lớn của Đang chưa? (...)

Ngoài trời mưa bụi. Rét xoàng. Không có gió. Ðôi lúc vài tiếng chuông xe đạp. Năm nay rét muộn. Ðang ra tòa cuối năm. Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ôi! Con đường để đi tới chỗ "Ðúng" mới nhiều máu làm sao!"
(349)

Từ lâu "ghi trở nên một hình phạt". Nhưng vẫn ghi.

Cuốn sổ 1958, ghi lại con đường của những người muốn ngoi lên để đi đến chỗ "Đúng". Ai cũng muốn tìm một đường "máu" để thoát thân: biết đâu Đảng chả đoái thương mà nghĩ lại? Phương tiện nào cũng tốt kể cả "khai". Cả "tố".

Bao nhiêu khuôn mặt đã bước trên con đường "nhiều máu "ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã vo ve sự "Đúng" ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu tên tuổi đã đạt được sự "Đúng" ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã "Sai." Trần Dần ghi.

Cả đúng lẫn sai đều lầm than, đều tiến dần tới tha hóa. Họ tan tác cả. Họ chia tay. Có những oán hận, căm thù. Chính quyền đã thành công trong sự "giẻ rách hoá" con người, như lời Lê Đạt.

Thành công lớn nhất của guồng máy là đã đánh vào những yếu tố thiêng liêng nhất của con người: đánh vào tình bạn, tình người, đánh tan tác hết. Những người nhân văn không chết, nhưng họ bị rút máu, rút gân, rút dần sinh lực. Họ đều rời rã, đều muốn hàng. Nhiều người đã đầu hàng, trong đó có Trần Dần. Họ muốn được lãnh đạo thương xót, họ muốn được lãnh đạo đoái hoài. Họ đã xuống đến đáy vực, họ chịu hết nổi. Họ sẵn sàng "chút lòng trinh bạch từ nay xin chừa" nhưng người ta vẫn lạnh lùng quay đi. Người ta vẫn không cho ngoi lên. Cái phận người nhỏ nhoi. Phận người nhân văn bị sa lầy, lún xuống, trong thời không nhân văn của dân tộc mình. Câm và điếc. Như đã chết.

Và điều đó chỉ có mỹ học khổ đau của Trần Dần mới viết nên được.


_____________________

(339) Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.

(340) Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.

(341) Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, nhật ký chép lại, bđd.

(342) Nhật ký Trần Dần ghi, trang141.

(343) Bài điếu của Nguyễn Hữu Đang, in lại trong Trần Dần ghi, trang 460.

(344) Văn Nghệ, California, 2001.

(345) Trần Dần ghi, trang 334-335.

(346) Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Ðạt, Trần Dần, Sỹ Ngọc, Tử Phác.

(347) Au revoir, tạm biệt.

(348) Trần Dần ghi, trang 244, 245- 260.

(349) Trần Dần ghi, trang 376.


Lãnh đạo VN oai hơn cả hoàng đế ngày xưa, Cao Bá Quát chê thơ vua Tự Đức còn chưa đến nỗi bị chém đầu! :potay:

_________________________
Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 Love10

Sông rồi cạn, núi rồi mòn
Thân về cát bụi, tình còn hư không
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 8 I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Giai thoại văn học Việt Nam
» Nguyên Sa - Thuỵ Khuê
» Việt Sử Giai Thoại - Tập 2 - Nguyễn Khắc Thuần
» Việt Sử Giai Thoại - Tập 1 - Nguyễn Khắc Thuần
» Việt Sử Giai Thoại - Tập 3 - Nguyễn Khắc Thuần
Trang 8 trong tổng số 19 trangChuyển đến trang : Previous  1 ... 5 ... 7, 8, 9 ... 13 ... 19  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: TRÚC LÝ QUÁN :: Tài Liệu-