Bài viết mới | Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 21:37
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:17
KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Thu 21 Nov 2024, 16:45
KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22
Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22
NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20
KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08
Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54
Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10
7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10
Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21
Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13
Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07
Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36
Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09
Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46
Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06
Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04
DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19
Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37
Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17
CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05
Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39
Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41
Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
|
| Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê | |
| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê Tue 26 Nov 2019, 14:10 | |
| Chương 13
Văn Cao (1923-1995)
● Văn Cao có để lại hồi ký không?
Viết về Văn Cao, câu hỏi đầu tiên là: Văn Cao có để lại hồi ký không? Có hai cuốn sách đáng chú ý: Văn Cao, người đi dọc biển của Nguyễn Thụy Kha (428) trình bày như lời "ký thác" của Văn Cao. Và cuốn Nhạc sĩ Văn Cao, tài năng và nhân cách của Bích Thuận (429) trình bày như lời "ký thác" của bà Văn Cao Nghiêm Thúy Băng.
1- Nguyễn Thụy Kha là một trong những cây bút trẻ gần gụi Văn Cao lúc cuối đời. Tác phẩm viết giọng tự thuật, như lời nhạc sĩ kể lại, nói lên được phần nào tâm sự Văn Cao. Tuy nhiên, có những nhược điểm: Không rõ đâu là lời Văn Cao, đâu là lời Thụy Kha. Không rõ chỗ nào thực, chỗ nào Thụy Kha thêm vào. Thí dụ, đoạn viết về Tiến quân ca, nếu đem so sánh với bản hồi ký đích thực của Văn Cao tựa đề Bài Tiến quân ca in trên Sông Hương (430) năm 1987, thì đã bị cắt xén rất nhiều. Những chỗ có tên Ph. D (Phạm Duy) đã biến mất. Có đoạn sửa đi và thêm vào mấy chữ mơ hồ cho người ta hiểu đó là Nguyễn Đình Thi. Thụy Kha viết: "Căn gác số 171 phố Mông-grăng, Hà Nội chợt lặng phắc như vừa qua bão tố. Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi đã đi chỉ còn lại Văn Cao với bản nháp bài "Tiến quân ca". Mới ít phút trước, căn gác còn vang lên giọng hát trầm ấm của Văn Cao trong nhịp hành khúc rắn rỏi này. Vẫn còn nguyên gương mặt xạm đen của Vũ Quý. Đôi mắt và nụ cười lấp lánh. Nụ cười thật hài lòng. Vẫn còn nguyên gương mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi và nụ cười hồn nhiên khi nhẩm xướng âm bài hát. Thi còn nói với Văn Cao: "Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về mật trận Việt Minh xem sao" (431).
Trong đoạn này, Nguyễn Thụy Kha cho biết: Nguyễn Đình Thi và Vũ Quý chứng kiến sự ra đời của Tiến Quân Ca. Văn Cao hát. Nguyễn Đình Thi nhẩm xướng âm bài hát, tại số 171 phố Mông-grăng, Hà Nội.
Nhưng Văn Cao không viết vậy -Xin đọc toàn bài của Văn Cao trong phụ bản ở dưới- Văn Cao cho biết khi ông sáng tác Tiến Quân Ca thì Phạm Duy ở cùng và: "Anh [Phạm Duy] rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến quân ca"
Văn Cao viết Phạm Duy là người chứng kiến sự ra đời của Tiến Quân Ca. Và ở một đoạn sau, ông mới nhắc đến Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi:
"Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều mây và nhiều hy vọng.
Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm, đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó. Thi nói với tôi:
- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt trận Việt Minh xem sao?"
Đoạn văn này có nghiã: Văn Cao đang ở Việt Bắc, lùm cây của Hà Nội không còn nữa, và ông nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Quý và nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó. So với đoạn trên, ông viết về việc Phạm Duy chứng kiến sự ra đời của Tiến quân ca, thì phải hiểu rằng: khi lên Việt Bắc, Văn Cao mới đưa nhạc phẩm cho hai đồng chí Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi xem, ông gọi họ là đồng chí, trong khi gọi Phạm Duy là anh, có khác. Cũng không thấy Văn Cao nói đến khuôn mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi, đấy là Nguyễn Thụy Kha thêm vào. Tóm lại, chỉ cần thay đổi vị trí, thêm, bớt một vài câu chữ, là ý nghĩa văn bản có thể hoàn toàn thay đổi.
Bài hồi ký tựa đề Bài tiến quân ca của Văn Cao đăng trên Sông Hương năm 1987, không đề ngày viết, được cắt ngắn, thành bài Tại sao tôi viết Tiến quân ca (432), và đề ngày 7/7/76 để có vẻ như viết trước bản Sông Hương. Nhưng cũng không loại trừ khả năng bản Sông Hương được viết từ trước 1976, đến khi được đăng lần đầu, đề ngày 7/7/76, thì bị cắt xén và sửa chữa. Đến năm 1987, thời kỳ đổi mới, Văn Cao gửi cho báo Sông Hương bản đầy đủ.
Bởi vì khi so sánh hai văn bản, thì bản 7/7/76, ngoài việc cắt bỏ, sửa các lỗi có trong bản Sông Hương, câu văn cũng được "biên tập" lại: ngắn gọn hơn, thêm chấm phẩy, làm mất thi tính trong nguyên tác. Người biên tập lại không có trình độ văn hoá của Văn Cao, ví dụ, câu "những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim" của ông được sửa thành "Những băng cờ đỏ sao vàng đã thay cho những băng vàng bẩn thỉu của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim". Văn Cao không viết như vậy. Một người tự trọng không viết như vậy. Huống hồ tác giả Tiến Quân Ca không thể không biết rõ lịch sử, biết rõ công việc của chính phủ Trần Trọng Kim.
2- Cuốn sách của Bích Thuận có ý lãng mạn hoá và tô điểm cho Văn Cao trở thành nhà cách mạng trung thành với Bác và Đảng. Một điểm đáng lưu ý, ở chỗ bà trích một đoạn hồi ký của Văn Cao, viết về bài Tiến Về Hà Nội, có câu: "Văn Cao viết trong hồi ký: "Tôi còn nhớ trong một buổi họp ở chi bộ Liên Khu Ba, tôi đã hứa với các đồng chí Khuất Duy Tiến, Lê Quang Đạo là tôi sẽ viết một ca khúc về Hà Nội. Tối hôm ấy, tôi đã cùng ăn cơm với anh Lê Quang Đạo. Anh Đạo đã nắm chặt tay tôi và nói..." Trích đoạn này dài hơn một trang (433). Chỉ nhờ câu "Văn Cao viết trong hồi ký" mà chúng ta biết Bích Thuận đã được đọc hồi ký của Văn Cao, ít nhất là một mảng, ngoài Bài Tiến Quân Ca, đã in trên Sông Hương.
Cuốn sách của Nguyễn Thụy Kha, đoạn mô tả Văn Cao lùng "Việt gian" V.V.C, có những chi tiết mà ngoài Văn Cao không ai biết được. Rồi những câu như: "Sông Hương, quả là một lưỡi kiếm dựng giữa trời xanh - Tiếng nước rơi bán âm - Chợt xé ra một nỗi nhớ sông Hương trong cảm xúc, v.v...", xem ra rất Văn Cao, lác đác trải dài trong tác phẩm.
Vậy nguồn của những câu, những chữ ấy là đâu? Nếu lấy từ những trang hồi ký đích thực của Văn Cao, thì hiện giờ toàn bộ cuốn hồi ký ở đâu?
Nguyễn Thụy Kha và Bích Thuận đã "làm việc" như thế nào với những trang hồi ký mà có thể họ đã được đọc bản chính ấy? Để ghi lại chân dung một người, không gì bằng in thẳng những điều người ấy viết, trước hết, vì tôn trọng sự thật của tác giả và nhất là khi người ấy có bút pháp độc đáo như Văn Cao, vì tôn trọng văn chương của tác giả.
3- Đây là sự kiện thường xẩy ra ở Việt Nam. Phát xuất từ những lý do:
- Sự trừng trị của chính quyền đối với những chữ, những câu, những tác phẩm không đi đúng đường lối của Đảng - kiểm duyệt, tịch thu, cách chức Tổng biên tập, v.v...
- Sự sợ hãi và sự tự kiểm của nhà xuất bản.
- Sự an phận, đồng tình của giới văn học -kể cả những người ở ngoài về in trong nước- nói theo một trí thức nổi tiếng "cái nước mình nó thế!" Biết nó thế thì phải hành động làm sao cho nó thay đổi đi. Nhưng không. Chấp nhận. Lý lẽ: thà bị cắt, nhưng được in còn hơn không!
- Sự sợ hãi của tác giả, hoặc thân nhân - nếu tác giả đã qua đời. Đặc biệt, đối với những gia đình NVGP, sau gần nửa thế kỷ bị trù dập, không mấy ai còn muốn đối đầu. Họ muốn xoá "dấu chàm" trên trán để có thể sống bình thường. Muốn được chính quyền "nhìn nhận". Các giải thưởng, huân chương, chính là sự "nhìn nhận" ấy. Những người Nhân Văn "được" giải thưởng lúc cuối đời, bị đứng trước lựa chọn: gia đình hay khí phách. Họ đã chọn gia đình. Nhận giải thưởng không vì tùng phục mà vì thương gia đình, muốn con cháu thoát nạn Lý lịch ba đời mấy đứa con thơ, như lời Lê Đạt.
- Những điều đã bị bỏ, bị sửa, dưới mắt người kiểm duyệt và người bị kiểm duyệt, có thể chỉ là những "chi tiết không quan trọng". Nhưng nhiều "chi tiết không quan trọng", bị đục bỏ, thêm thắt, xuyên tạc có thể thay đổi hẳn cục diện tác phẩm. Bằng chứng trước mắt là văn bản Bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Đó là một hình thức ngụy tạo tác phẩm, ngụy tạo sự thật. Nhiều tác phẩm ngụy tạo sẽ dựng nên một lịch sử ngụy tạo.
- Một câu hỏi đặt ra: Tại sao báo Sông Hương, tháng 78/1987 do Tô Nhuận Vỹ tổng biên tập và Nguyễn Khắc Phê phó tổng biên tập đã "dám" in đầy đủ bài của Văn Cao không cắt xén, mà sau này không ai "dám" in lại văn bản này?
Tình trạng chung của sách báo miền Bắc trước 1975 và cả nước sau 75, về văn học hay lịch sử cận đại, là đương nhiên phải gạt bỏ những người bị chính quyền coi là "phản động", là "ngụy", nghiã là một nửa nước ra ngoài.
Người nghiên cứu nếu muốn tác phẩm của mình tồn tại sau thời kỳ cộng sản, thì không thể chỉ viết về một nửa nước. Không ai cần biết Nguyễn Du, Xuân Hương... có "trung thành" hay "phản động" đối với Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh. Nhưng một cuốn sách viết về văn học thời kỳ Nguyễn Huệ-Nguyễn Ánh mà gạt Nguyễn Du, Xuân Hương... ra ngoài, sẽ là vô dụng.
___________________ (428) Nxb Lao Động 1991.
(429) Nxb Thanh Niên, 2005.
(430) Sông Hương số 26 tháng 7/1987.
(431) Nguyễn Thụy Kha, sđd, trang 29.
(432) In trong Thiên thai, tuyển tập nhạc Văn Cao, Trẻ, 1988, in lại trong Văn Cao cuộc đời và tác phẩm, trang 86.
(433) Bích Thuận, Nhạc sĩ Văn Cao, tài năng và nhân cách, Thanh Niên 2005, trang 77-78.
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê Wed 27 Nov 2019, 14:07 | |
| Chương 13
Văn Cao (1923-1995)
● Văn Cao Phạm Duy trước kháng chiến
Người viết hay nhất và đầy đủ nhất về Văn Cao là Phạm Duy. Phạm Duy có thói quen ghi chép khá cặn kẽ các sự kiện và những sáng tác hay của các bạn. Riêng với Văn Cao, Phạm Duy chép từ những bản nhạc hướng đạo rất ít người biết, đến những lời hai, tuyệt vời của bản nhạc mà ca sĩ lười không hát, như trường hợp Trương Chi.
Tạ Tỵ viết: "Phải thừa nhận rằng, nếu không có giọng hát của Phạm Duy, nhạc Văn Cao cũng khó mà phổ biến; trái lại nếu không có Văn Cao, chưa chắc Phạm Duy đã sáng tác! Cả hai hỗ trợ nhau, cùng dìu nhau đi vào bất tử!" (434)
Văn Cao gặp Phạm Duy lần đầu năm nào?
Theo Phạm Duy là khi ông theo gánh hát Đức HuyCharlot Miều xuống Hải Phòng, nhưng có chỗ ông ghi 1943, chỗ 1944. Phải đọc kỹ những chi tiết Phạm Duy viết, thì mới biết lúc đó Văn Cao còn "đang thất nghiệp" và đã sáng tác những bản Buồn tàn thu, Thu cô liêu, Cung đàn xưa... Vậy họ gặp nhau sớm hơn 43-44; chắc chắn trước khi Văn Cao sáng tác Suối mơ và Bến xuân, năm 42, bởi vì Phạm Duy có đóng góp trong hai tác phẩm này, cho nên Tạ Tỵ viết: "Khi hai nhạc phẩm được in ra, tên Phạm Duy xuất hiện lần thứ nhất trước công chúng, bên cạnh tên Văn Cao" (435).
Sở dĩ có sự lộn xộn về ngày tháng, vì Phạm Duy vác đàn đi khắp đất nước, riêng Con đường cái quan (xuyên Việt) ông đi về ít nhất 5 lần trong kháng chiến, và Văn Cao cũng viết: "Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm" (436).
Nguyễn Thụy Kha cũng ghi lại lời tâm sự của Văn Cao khi ở Huế năm 1940: "Đầu năm nay nó xuống Hải Phòng. Và "Buồn tàn thu" đã được nó lôi đi hát vang lên trên các nẻo đường xứ Bắc. Và thế là người yêu nhạc chốn Hà Thành đã biết có một Văn Cao tiếp sau Đặng Thế Phong" (437).
Đầu năm nay, tức là đầu năm 1940, nó tức là Phạm Duy. Vậy Văn Cao gặp Phạm Duy lần đầu, khoảng đầu năm 1940, là hợp lý hơn cả. Từ đó phát xuất một tình bạn lâu dài trong sáng tác, trong hoạt động cách mạng.
Về gia cảnh Văn Cao, Phạm Duy viết: "Văn Cao là tên thật, họ Nguyễn, ra đời sau tôi vài năm tại bến Bính, bên dòng sông Cấm. Cha (hay anh ruột, tên là Tú) làm cai của nhà máy bơm nước ở bờ sông đó nên suốt thời niên thiếu, anh sống trong nhà máy nước này. Học tiểu học tại trường Bonnal, trung học ở trường Saint Joseph, Văn Cao đã có khiếu văn nghệ ngay từ khi còn đi học. Ăn ở trong một căn nhà nhỏ có cái máy bơm rất lớn nằm chình ình giữa nhà suốt ngày đêm hút nước từ dưới sông lên không lúc nào ngừng nghỉ, Văn Cao còn vất vả hơn nữa là phải lấy một tấm phản kê lên máy bơm để làm bàn học. Sau này nhớ tới "giọng máy bơm nước", Văn Cao sẽ có câu thơ: Anh muốn giơ tay lên mặt trời Để vui da mình hồng hồng sắc máu Mấy năm một điệu sáo Như giọng máy nước thâu đêm chảy... (Anh có nghe không, trong Lá, tuyển tập thơ Văn Cao.)
Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà "xổ chữ nho". Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngã vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng" (438).
Nhận xét về thơ Văn Cao, Phạm Duy viết: "Vào năm 1941 mà anh đã có những câu thơ nghe như thơ Huy Cận:
Sông chầm chậm chảy trong mưa Nghe chừng cô gái đã thưa nhát chèo Mưa trong trăng tiếng nhỏ đều Bến mờ mịt: mấy mái lều bơ vơ - Đêm mưa
Chưa gặp Văn Cao nhưng tôi đã biết tài soạn nhạc qua mấy bài nhạc hùng của anh rồi. Khi tới Hải Phòng, sau khi gặp Hoàng Quý tôi tìm đến Văn Cao. Cũng như tất cả thanh niên "mỏ trắng" (blanc bec) thời đó, Văn Cao đang thất nghiệp sau một tháng làm việc tại Nhà Bưu Điện. (...) Gặp tôi đang lập cuộc đời mới trong một gánh hát thì kết thân ngay. Lúc đó, tôi đã tập toẹ đánh đàn với các nhạc sĩ trong ban nhạc Tây của gánh Đức Huy (...) Và tôi đã hát cho Văn Cao nghe. Nghe xong, Văn Cao vội vàng đưa cho tôi dăm ba bài anh ta mới làm xong. Lúc đó bên cạnh hai đứa chúng tôi còn có Đỗ Hữu Ích, con ông chủ bán đồ sắt phố Hàng Đồng, soạn lời ca rất hay. Đa số những bản đầu tay của Văn Cao đều đã được Đỗ Hữu Ích giúp đỡ phần lời ca" (439).
Điểm đáng chú ý là Phạm Duy không hề nhắc đến việc ông giúp bạn làm lời các bài Suối mơ, Bến xuân -vì lần in đầu có tên Phạm Duy. Ngược lại, ông nhắc nhiều đến công của Đỗ Hữu Ích. Có thể vì Phạm Duy đã có một sự nghiệp âm nhạc đồ sộ Ngàn lời ca, với 45 ca khúc trong 6 năm kháng chiến, trong khi Đỗ Hữu Ích không mấy ai biết đến.
Phạm Duy cũng giải thích việc bạn bè phụ giúp Văn Cao: "Có đôi khi Văn Cao không hoàn tất vài ba sáng tác của mình, có thể vì anh là người vung vãi tài hoa nhưng thiếu tự tin. Bạn bè ở bên anh có cơ hội giúp anh hoàn thành những gì anh bỏ dở. Cũng nên biết rằng những bài hát đầu tiên của Văn Cao, về phần lời ca, còn có thêm sự phụ giúp rất hữu hiệu của một anh bạn khác là Đỗ Hữu Ích" (440). "Bạn bè" ở đây, ngoài Phạm Duy, còn có cả Hoàng Quý, Kim Tiêu (441). Việc tranh chấp sau này về lời bản Tiến quân ca, dường như cũng trong bối cảnh ấy: có thể Đỗ Hữu Ích đã phụ giúp ý kiến. Bởi nếu Đỗ Hữu Ích làm lời cả bài Tiến Quân Ca, thì tại sao ông lại không "kiện" Văn Cao, ít nhất từ sau 1954, mà lại để đến 1991 mới lên tiếng? Về tính nhút nhát của Văn Cao, Phạm Duy viết: "Lúc đó, Văn Cao đã nổi danh vì những bản nhạc thanh niên và hướng đạo nhưng nếu có ai hỏi anh có phải là nhạc sĩ Văn Cao hay không thì không hiểu vì sao cu cậu cứ trả lời là không!" (442) Văn Cao cũng xác nhận sự nhút nhát này: "Mày ơi! Vì sao mày đưa nàng đến để cùng tập những bài hát đầu tay của tao (...) Tao chỉ là một Văn Cao hết sức nhút nhát trước phái yếu. Nhút nhát đến gàn dở. Tuyết đến rồi qua nhanh khi Sài Gòn lùi lại sau lưng. Mày đã biết rồi đấy, tao bao lần không dám nhận mình là Văn Cao" (443).
Đặt Văn Cao trong bối cảnh Tân Nhạc Việt Nam trước kháng chiến với hai loại Nhạc hùng và nhạc tình, Phạm Duy xác định sự đóng góp của Văn Cao: "Bây giờ hai nhóm Tiếng gọi sinh viên và Đồng Vọng tung ra những bài như Vui Xuân, Bạn Đường, Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước, Đêm Trong Rừng, Bóng Cờ Lau, Nước Non Lam Sơn của Hoàng Quý. Đều là những bài hát hay nhưng chỉ hay một cách bình thường. Văn Cao đóng góp vào loại nhạc hùng này với những bài như Vui Lên Đường, Gió Núi, Anh Em Khá Cầm Tay, Đống Đa, Thăng Long Hành Khúc... Theo tôi, những hướng đạo ca và thanh niên-lịch sử ca của Văn Cao có nhiều souffle (hơi thở) hơn trong câu nhạc và có nhiều tính thơ hơn trong lời ca. Trong những bài ca hướng đạo Anh Em Khá Cầm Tay, Gió Núi ta đã thấy manh nha những phóng bút tuyệt vời của Chiến Sĩ Việt Nam, Bắc Sơn hay Thiên Thai, Trương Chi sau này (...) Về phần nhạc hùng thì bài Đống Đa với câu ca: "Tiến quân hành khúc ca, thét vang rừng núi xa... nó phải dẫn tời bài Tiến quân ca của Cách Mạng Tháng Tám" (444).
Về nhạc tình của Văn Cao, Phạm Duy viết: "Vào đầu thập niên 40, nhạc tình ở Hà Nội nằm trong tay nhóm Myosotis (Hoa Lưu Ly) với những bài như Thuyền Mơ, Khúc Yêu Đương, Hồ Xưa... của Thẩm Oánh, Tâm Hồn Anh Tìm Em của Dương Thiệu Tước và trong tay nhóm Tricéa với những bài như Đoá Hồng Nhung, Bóng Ai Qua Thềm của Văn Chung, Bẽ Bàng của Lê Yên, Cô Lái Thuyền, Biệt Ly của Dzoãn Mẫn. Nhạc tình đang phổ biến dữ dội lúc đó cũng còn là của một người Nam Định, Đặng Thế Phong với ba bài hát mùa Thu: Đêm Thu, Con Thuyền Không Bến và Giọt Mưa Thu... Ở Hải Phòng, nhạc tình là địa hạt của Lê Thương với những bài đầu tay rất hay như Bản Đàn Xuân, Một Ngày Xanh (hay Bên Bờ Đà Giang), Nàng Hà Tiên... Nhất là với bài Thu Trên Đảo Kinh Châu soạn trên âm giai Nhật Bản và đang rất thịnh hành (đến độ đi vào nhạc mục của Hát Quan Họ ở Bắc Ninh).
Trong không khí nhạc tình lãng mạn toàn nói về mùa Thu như vậy, chàng tuổi trẻ Văn Cao cũng soạn ra những bài hát mùa Thu như Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu... nhưng chưa bao giờ anh có cơ hội để phổ biến. Tôi sẽ là người đầu tiên đem nhạc của Văn Cao đi - nói theo lời Văn Cao đề tựa trong một bài hát - gieo buồn khắp chốn. Danh từ người du ca đầu tiên cũng do chính Văn Cao đã gán cho tôi với một sự thèm sống cuộc đời "xướng ca vô loài" như tôi lắm lắm" (445).
Sau khi phân tích giá trị từng tác phẩm của Văn Cao, Phạm Duy xác định: "Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của 50 năm Tân Nhạc thì những bài Suối Mơ, Bến Xuân là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam. Sẽ không bao giờ có những bài ca lãng mạn như thế nữa! (...) Khi Thiên Thai và Trương Chi ra đời, với tài năng đã đến độ chín mùi, Văn Cao sẽ dắt ta tới đỉnh cao nhất của ái tình cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của khổ đau với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thủa" (446).
___________________ (434) Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, Thằng Mõ, Hoa Kỳ 1990, trang 39.
(435) Tạ Tỵ, Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Văn Sử Học, Sài Gòn 1971, trang 47.
(436) Văn Cao, Bài tiến quân ca, Sông Hương số 26, tháng 7/1987.
(437) Nguyễn Thụy Kha, Văn Cao người đi dọc biển, trang 17.
(438) Phạm Duy, Hồi ký I, Thơ Ấu Vào Đời, trang 234-235.
(439) Phạm Duy, Hồi ký I, trang 236-237.
(440) Phạm Duy, Hồi ký II, Cách mạng kháng chiến, trang 49-50.
(441) Kim Tiêu là một trong những danh ca hàng đầu trước kháng chiến đã hát nhạc Văn Cao tuyệt vời như Thái Thanh hát nhạc Pham Duy, nhưng số phận ông vô cùng bi đát. Phạm Duy nhắc đến vai trò của Kim Tiêu trong việc truyền bá ca khúc Văn Cao: "Trong đám nam ca sĩ lúc đó, tôi cho rằng Kim Tiêu là người hát hay nhất. Trong khi tôi vác bài Buồn tàn thu đi lưu diễn ở trong Nam thì ở Hà Nội, chính nhờ giọng hát Kim Tiêu mà những bài Thiên Thai, Trương Chi của Văn Cao được nổi tiếng" (Phạm Duy, Hồi ký II, trang 56- 57).
Về số phận người danh ca này, Tạ Tỵ cho biết: Kim Tiêu về thành trước ông nhiều tháng, nhưng sau vì chống đối, bị Pháp bắt và buộc tội là Việt Minh: "Vào tù, anh vẫn không sợ, dù bị đánh đập tra khảo thế nào, anh cứ coi thường. Pháp nhốt anh vào xà-lim (Cellule), anh vẫn ca hát, những bài hát của Việt Minh. Sáng nào, anh cũng nắm chặt tay vào song sắt hát bản Tiến quân ca của Văn Cao để đánh thức mọi tù nhân khác dậy. Từ ngoài khu kháng chiến, Văn Cao được tin, cảm động lắm, làm một bài thơ bí mật đem vào Hà Nội, rồi nhờ các cán bộ tình báo nội thành đưa vào Hoả Lò cho ca sĩ Kim Tiêu. Tôi có được đọc cả bài thơ, nhưng lâu ngày, bây giờ chỉ nhớ vài câu: ... Người danh ca ấy nằm trong ngục Hà Nội nhớ tôi, hát bài ca cũ Tiếng ca như buổi sớm trong Tiếng ca vang vang phá phách Xà-lim nổ tung ra Cả Hoả Lò vỡ toang thành khối nhạc!... Câu chuyện về ca sĩ Kim Tiêu, tôi chỉ biết tới đấy, còn sau này, Kim Tiêu sống hay chết trong tù, tôi không hay" (Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, trang 114)
Trong đoạn viết về Bến Xuân, Nguyễn Thụy Kha có nhắc đến người ca sĩ giọng vàng nhưng không (dám?) nêu tên, và sau cùng có câu "Và đau đớn nhất là chàng đã chết trong cơn đói không thể nào sống được (Nguyễn Thụy Kha, Văn Cao người đi dọc biển, trang 28). Tại sao? Tìm kỹ thì chúng tôi thấy trong tạp chí Âm Nhạc, Minh Hiền viết: "Kháng chiến, Kim Tiêu ở lại hoạt động vùng địch. Ông đã bị bắt. Trong tù, Kim Tiêu vẫn hát vang những bài cách mạng. Khi được thả, ngay giữa Hà Nội tạm chiếm, trong một liên hoan sinh viên, Kim Tiêu đã hát Sông Lô của Văn Cao mà không hề sợ sệt chút nào. Rất tiếc, sau hoà bình, do bị nghi ngờ được thả ra tù vì đã khai báo, Kim Tiêu buồn chán đi lang thang. Càng buồn ông càng hát hay. Kim Tiêu đã hát đến hơi thở cuối cùng ở Ga Hàng Cỏ". (Minh Hiền, Những giọng vàng một thủa, tạp chí Âm Nhạc số 34-5, 1994, trang 43-44.) Bi kịch Kim Tiêu chắc hẳn còn nhiều u uẩn.
(442) Phạm Duy, Hồi ký II, trang 49.
(443) Nguyễn Thụy Kha, Văn Cao người đi dọc biển, trang 23.
(444) Phạm Duy, Hồi ký I, trang 237-239.
(445) Phạm Duy, Hồi ký I, trang 240-241.
(446) Phạm Duy, Hồi Ký I, trang 247- 249.
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê Fri 03 Jan 2020, 08:57 | |
| Chương 13
Văn Cao (1923-1995)
● Văn Cao họa sĩ
Phạm Duy học Mỹ thuật Đông Dương một năm (19401941) với các thày Nam Sơn, Georges Khánh, Tô Ngọc Vân... và cùng lớp với Võ Lăng, Đinh Minh, Mai Văn Hiến, Bùi Xuân Phái, Phan Kế An, Quang Phòng, Phan Tại, Nguyễn Thanh Đức, Tạ Thúc Bình, Trần Phúc Duyên... Phạm Duy viết: "Học trước chúng tôi vài năm là Tạ Tỵ, Phạm Văn Đôn, Trần Văn Lắm, Nguyễn Thị Kim... (...) Tạ Tỵ vẽ dessin hoặc vẽ tranh sơn dầu theo lối cổ điển hay ấn tượng (impressionisme) rất thành công, nhưng anh lại chọn con đường lập thể (cubisme) của Picasso. Ngoài Tạ Tỵ ra tôi không thấy có họa sĩ Việt Nam nào dám đi vào loại tranh đó cả. Tạ Tỵ còn đi xa hơn nữa khi anh đi vào loại tranh vị lai (futurisme)" (447).
Sự cách tân hội họa của Văn Cao, sẽ được Tạ Tỵ (448) nhận định trong bối cảnh chung của hội họa Việt Nam thập niên bốn mươi:
"Vào những năm 40-41, tôi học chung với nhiều bạn nhưng chỉ có vài người có tinh thần tiến bộ như Nguyễn Đăng Trí, Bùi Xuân Phái và Nguyễn Sáng. Cả ba đều học dưới tôi vài lớp. (...) Bùi Xuân Phái người Hà Nội, có đôi mắt to sáng, vầng trán cao với bộ râu đỏ hoe và nụ cười khinh bạc (...) Anh thích vẽ phố vì nhà anh ở gần phố Hàng Thiếc, Hàng Điếu, Hàng Hòm là những con phố cổ của Hà Nội ngày xưa (...) Do vậy, về sau anh em thường gọi đùa là "Phái Phố"! Tôi và Bùi Xuân Phái sau này còn rất nhiều dịp sống gần nhau để tạo nên kỷ niệm (...) Còn Nguyễn Sáng, người miền Nam, tình tình nóng nẩy. Sáng cũng có vầng trán thật cao, thân xác khỏe mạnh như lực sĩ (...) Nguyễn Sáng khéo tay lắm, nhất là tranh thiếu nữ vẽ trên lụa (...)
"Phạm Duy và Văn Cao cũng có một thời gian theo học Mỹ Thuật cũng như Phan Tại, nhà đạo diễn kịch sau này, nhưng cả ba đều bỏ ngang, có lẽ vì không thích hợp. Chỉ riêng Văn Cao vẫn vẽ, có vài tác phẩm được trưng bày tại Salon Unique năm 1943 do chính phủ Pháp tổ chức. Tác phẩm mang tựa đề "Những kẻ tự sát" (Les suicidés) với bút pháp phong phú gây được nhiều thiện cảm của giới yêu mỹ thuật lúc ấy. Qua tác phẩm này, ý thức cách mạng đã có ở Văn Cao nhưng chưa ai biết (...)
Văn Cao khi ở Hải Phòng, khi lên Hà Nội, mỗi lần có mặt ở thành phố, Văn Cao thường đến tìm tôi mời lại căn nhà ở trong con ngõ nhỏ đường Hàm Long để khoe tranh mới. Trong khoảng thời gian từ 42 đến 45, tôi đâu biết Văn Cao đã dấn thân vào cách mạng, hoạt động bí mật cho Mặt Trận Việt Minh. Quả thật tôi không để ý đến cách mạng và chính trị nên thường có những lập luận đối nghịch với Văn Cao về sáng tác. Văn Cao cho rằng nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi nó phục vụ cho số đông và một bức tranh đẹp phải truyền cảm, gây được ấn tượng tốt cho người xem tranh. Còn tôi cho rằng nghệ thuật, bất cứ ở bộ môn nào, trước hết, phải có bản sắc cũng như đặc tính của nghệ phẩm. Một bức tranh đẹp không cần sự giải thích, chỉ cần sự cảm thông giữa người xem tranh và tác phẩm (...) Nhưng tuy miệng nói vậy, chứ Văn Cao vẽ cũng mới lắm; những bản nhạc như Buồn Tàn Thu, Suối Mơ, Thiên Thai, Trương Chi, v.v... được in ra đều do Văn Cao trình bày bìa đi rất gần với trường họa lập thể, mà hồi đó chưa có một bản nhạc nào, cuốn sách nào trình bày dưới hình thức đó" (449).
Tạ Tỵ còn gặp lại Văn Cao nhiều lần trong kháng chiến và cũng chính ông là người sẽ thuật lại sinh hoạt hội họa trong kháng chiến. Bây giờ hãy tìm hiểu về giai đoạn cách mạng tháng Tám, giai đoạn Tiến Quân Ca và những ngày lịch sử. ________________________________________ (447) Phạm Duy, Hồi ký I, trang 183.
(448) Tạ Tỵ, sinh năm 1921 tại Hà Nội, là họa sĩ Việt Nam đầu tiên vẽ theo lối lập thể từ 1940. Tạ Tỵ theo kháng chiến từ những ngày đầu. Tháng 5/1950, sau khi bức tranh lập thể Mưa núi, bị phê bình gay gắt, ông quyết định về thành. Năm 1951, ông tổ chức cuộc triển lãm tranh lập thể đầu tiên với 60 tác phẩm tại Hà Nội. Năm 1953, bị động viên đi lớp Sĩ quan Thủ Đức. Ông tiếp tục sự nghiệp hội họa tại Sài Gòn, với hai cuộc triển lãm lớn năm 1956 và 1961. Tạ Tỵ phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà, cấp bậc sau cùng là Trung Tá. Sau 1975, ông bị đi cải tạo và đưa ra Bắc. 1981 được tha về. 1982, cùng gia đình vượt biển. Viết hồi ký Đáy Địa ngục (nxb Thằng Mõ, 1985, Hoa Kỳ). Năm 2004, sau khi vợ ông từ trần, Tạ Tỵ trở lại sống tại Sài Gòn và mất ngày 24/8/2004. Tạ Tỵ, như Vũ Bằng nhận xét là "một nghệ sĩ "trọn vẹn", ngoài môn vẽ, viết, thơ ca, anh lại còn có tài về nhạc và trình diễn". Ông để lại những trang hồi ký giá trị về sinh hoạt văn nghệ Việt Nam, từ tiền chiến đến thập niên 80.
(449) Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, trang 18-34.
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê Tue 21 Jan 2020, 09:06 | |
| Chương 13
Văn Cao (1923-1995)
● Tiến quân ca và những ngày lịch sử
1945, là thời điểm bản lề, phát xuất sự phân chia QuốcCộng, phân chia Nam-Bắc, phân chia chiến tuyến. Theo Lại Nguyên Ân thì người nghiên cứu ngoài Bắc có rất ít tư liệu văn học về thời kỳ này, phải nhờ đến những bài báo của Vũ Bằng trên Trung Bắc chủ nhật, mà ông vừa tìm lại, mới biết được những sự việc như: "Học giả Trần Trọng Kim trong vai trò thủ tướng; việc khôi phục Hà Nội trong quy chế một thành phố của nước Việt Nam độc lập; việc Hà Nội khôi phục đền Trung Liệt thờ những bậc quản thủ đã tử tiết vì thành phố..." (450)
1945, là năm sôi động nhất của lịch sử cận đại và Tiến Quân Ca lần đầu tiên đến với quần chúng.
Để giúp bạn đọc dễ theo dõi tiến trình hành động và sáng tác của Văn Cao và các văn nghệ sĩ thời đó, chúng tôi xin nhắc lại một số mốc lịch sử sau:
▪ 04/2/1945, Hội nghị tối cao Đồng Minh họp tại Yalta, chia thế giới làm hai khu vực: vùng ảnh hưởng Nga và vùng ảnh hưởng Anh Mỹ.
▪ Tháng 3/1945 (Ất Dậu), nhiều ngàn người chết đói ở Bắc.
▪ 09/3/45, Pháp đầu hàng Nhật.
▪ 10/3/45, Nhật tuyên bố: ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Đông Dương.
▪ 11/3/45, Viện Cơ Mật Huế thông báo: hủy bỏ hiệp ước bảo hộ 1884. Việt Nam khôi phục chủ quyền.
▪ 17/3/45, vua Bảo Đại tuyên chiếu: đích thân cầm quyền theo nguyên tắc Dân Vi Quý.
▪ 17/4/45, Bảo Đại ủy Trần Trọng Kim lập chính phủ, thành phần: Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Trịnh Đình Thảo, Trần Đình Nam, Hồ Tá Khanh, Lưu Văn Lang, Trần Văn Chương, Nguyễn Hữu Thi.
Dùng cờ quẻ LY làm quốc kỳ và tiếp tục lấy Đăng đàn cung làm quốc ca.
Trần Trọng Kim giải thích: "Nước Việt Nam đã là một nước tự chủ thì phải có quốc kỳ và quốc ca. Bài quốc ca thì từ trước vẫn dùng bài "Ðăng Ðàn" là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ: trước khi có bài nào hay hơn và có nghĩa lý hơn thì hãy cứ dùng bài ấy. Còn lá quốc kỳ, mỗi người bàn một cách, chúng tôi định đem hỏi mọi người trong nước và ai có ý kiến gì, thì vẽ kiểu gửi về. Có kiểu lá cờ vàng có quẻ Ly ở giữa là có ý nghĩa hơn cả. Chúng tôi định lấy kiểu ấy làm quốc kỳ. Lá cờ vàng là từ xưa nước ta vẫn dùng. Trong sách Quốc Sử Diễn Ca nói khi bà Triệu Ẩu nổi lên đánh quân Tàu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có câu rằng "Ðầu voi phất ngọn cờ vàng". Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với cái ý cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ Ly là vì trong lối chữ tối cổ của ta có tám chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám quẻ, chỉ bốn phương chính và bốn phương bàng, nói ở trong kinh dịch, mà quẻ Ly chủ phương nam. Chữ Ly còn có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn phương. Lấy sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ Ly là hợp với vị trí nước nhà lại có nghĩa chỉ một nước văn hiến như ta thường tự xưng. Như thế là lá cờ vàng quẻ Ly có đủ các ý nghĩa" (451).
▪ 20/7/45, Nhật trả chính phủ Việt Nam các cựu nhượng địa Pháp: Hà Nội, Hải Phòng Đà Nẵng.
▪ 01/8/45, Đốc lý Trần Văn Lai cho phá các tượng Pháp ở Hà Nội: tượng Paul Bert, Jean Dupuis, Đầm Xoè ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm lính Khố Xanh, Khố Đỏ. ▪ 09/8/45, Nagasaki bị ném bom nguyên tử.
▪ 13/8/45, Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tuyên Quang, quyết định: Tổng khởi nghiã, đoạt khí giới quân Nhật, chiếm chính quyền trước khi quân Đồng Minh đến Đông Dương, lập chế độ Dân Chủ Cộng Hòa. ▪ 14/8/45, Nhật trả Nam Bộ cho triều đình Huế.
▪ 15/8/45, Nhật Hoàng kêu gọi quân đội đầu hàng. De Gaulle cử Leclerc làm tư lệnh Lục quân Pháp tại Đông Dương.
▪ 17/8/45, công chức Hà Nội biểu tình biểu dương ý chí bảo vệ đất nước, cuộc biểu tình biến thành biểu tình ủng hộ Mặt Trận Việt Minh. Phạm Duy cướp micro hát Tiến Quân Ca "lần đầu tiên và duy nhất" tại nhà Hát Lớn Hà Nội.
▪ 19/8/45, biểu tình lớn trước nhà Hát Lớn để nghe tuyên bố của Mặt trận Việt Minh. Bài Tiến Quân Ca được đoàn Thanh Niên đồng ca.
▪ 22/8/45, vua Bảo Đại thoái vị.
▪ 23/8/45, thành lập chính phủ lâm thời với Hồ Chí Minh, chủ tịch.
▪ 02/9/45, chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố Độc Lập tại Ba Đình. Vũ Hoàng Chương làm bài thơ Ngày Độc Lập, đăng trên Tiên Phong số 24, ngày 1/12/46.
▪ 09/9/45, quân đội Trung Hoa bắt đầu tới Hà Nội để giải giới quân Nhật.
▪ 05/10/45, tướng Leclerc tới Sàigòn, tuyên bố sẽ bình định Nam Bộ.
▪ 22/12/45, Hồ Chí Minh ký thỏa ước với Việt Quốc và Việt Cách (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt) lập chính phủ liên hiệp.
▪ 13/1/46, Vệ Quốc Quân tấn công bộ đội Việt Quốc tại Việt Trì. Quân Pháp chiếm xong Nam Bộ, tiếp tục đánh ra Bắc.
▪ 2/3/46, thành lập chính phủ liên hiệp với Hồ Chí Minh, chủ tịch; Nguyễn Hải Thần, phó chủ tịch; Huỳnh Thúc Kháng, bộ trưởng Nội Vụ; Nguyễn Tường Tam, bộ trưởng Ngoại Giao...
▪ 6/3/46, Hồ Chí Minh ký hiệp định Sơ bộ, thừa nhận Việt Nam là quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp.
▪ 16/3/46, cố vấn Vĩnh Thụy sang Trùng Khánh.
▪ 17/4/46, khai mạc hội nghị Việt Pháp tại Đà Lạt, Nguyễn Tường Tam làm trưởng phái đoàn. Hội nghị thất bại.
▪ Từ tháng 4/46 trở đi, tình hình rối loạn: quân Tưởng đánh nhau với quân Pháp. Bộ đội Việt Minh đánh nhau với bộ đội Việt Quốc. Nguyễn Tường Tam sang Tàu.
▪ 6/7/46 Khai mạc hội nghị Fontainebleau, Phạm Văn Đồng làm trưởng phái đoàn. Chương trình nghị sự: Việt Nam và liên bang Đông Dương. ▪ 10/9/46, Hội nghị Fontainebleau thất bại.
▪ 14/9/46, đang đêm, chủ tịch Hồ Chí Minh thân hành đến nhà riêng của bộ trưởng Marius Moutet ký thoả ước tạm thời.
▪ 2/11/46, Hồ Chí Minh lập chính phủ mới, không còn tính cách liên hiệp.
▪ 19/12/46, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ (452).
Tóm tắt công việc của chính phủ Trần Trọng Kim trong hơn ba tháng cầm quyền, từ 17/4 đến đầu tháng 8/45:
• Bỏ Bộ Quốc Phòng, lập Bộ Thanh Niên do Phan Anh đảm nhiệm: Bỏ chiến tranh, rèn luyện tuổi trẻ.
• Hoàng Xuân Hãn, bộ trưởng Giáo Dục và Mỹ Thuật soạn thảo một chương trình giáo dục mới.
• Tiếp nhận các phần lãnh thổ bị Pháp chiếm: Nam Bộ và các thành phố Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Nội - Theo Phan Anh, việc này không dễ dàng, vì Nhật chưa muốn trả.
• Tổ chức đại lễ kỷ niệm Nguyễn Thái Học và các liệt sĩ Yên Bái tại vườn Bách Thảo.
• Phá những tượng đài của thực dân Pháp tại Hà Nội. Đặt lại tên Việt cho các đường phố Hà Nội.
• v.v...
Về phía các đảng phái, sự đoạn tuyệt đã rõ ràng từ khi bộ đội Việt Minh và Việt Quốc đánh nhau ở Việt Trì. Phe quốc gia, gồm những đảng đối lập với cộng sản, có khuynh hướng khác nhau: thân Tàu Tưởng Giới Thạch, thân Nhật hoặc thân Pháp. Phe cộng sản: thân Nga, thân Tàu Mao Trạch Đông. Nhưng Việt Minh đã thành công trong việc cổ động toàn dân theo Cách Mạng Tháng Tám.
Riêng về phía văn nghệ sĩ, gần như hầu hết những người không cộng sản cũng tham gia kháng chiến: Tạ Tỵ viết khẩu hiệu cho Việt Minh. Phạm Duy cướp micro hát Tiến quân ca. Vũ Hoàng Chương sáng tác Ngày độc lập với những câu thơ:
"... Hai cuộc tang thương tủi đọa đầy Núi sông còn có buổi hôm nay Kinh kỳ tám mặt reo đoàn kết Sóng đỏ gầm quanh ngọn bút này (...)
Ngoài kia dừng chén mà coi Núi lay xiềng khoá, sông đòi tự do Lắng nghe dân tộc reo hò Bốn phương thét lớn gào to: dân quyền..."
Tạ Tỵ thuật lại việc viết khẩu hiệu cho Việt Minh và Nguyễn Sáng vẽ giấy bạc cụ Hồ: "Trước ngày 19/8/1945 là ngày Việt Minh cướp chính quyền, Lê Quốc Lộc đến tìm tôi nói về tình hình chính trị: "Chúng mình không thể ngồi chờ được nữa, phải hành động!" Tôi hỏi: "Hành động cái gì?" Anh nhìn thẳng vào mắt tôi như dò xét: "Tôi nói hành động tức là phải tham gia cách mạng". - "Cách mạng nào?" Lộc trả lời với một giọng rắn chắc: "Tôi nói thực với cậu, tôi đang hoạt động cho Mặt Trận Việt Minh; tình thế đã chín mùi rồi. Nếu cậu bằng lòng, tôi mời cậu tham gia Mặt Trận". Tôi đang phân vân chưa biết trả lời ra sao, Lộc nói tiếp: "Công tác cũng nằm trong khả năng của tụi mình thôi, nghiã là chuyên môn". Tôi ậm ừ trả lời: "Nếu cậu làm được tôi cũng làm được". Lộc cười, cặp mắt một mí của anh hơi nheo trông giống như hai sợi chỉ kéo thẳng: "Vậy chúng ta bắt tay vào việc nhé!" (...) Chừng nửa giờ sau, Lộc mang vải, sơn đến với một tờ giấy nhỏ: "Cậu viết giùm mấy khẩu hiệu này". Nói xong Lộc đi ngay. Tôi mở tờ giấy ra coi, thấy mấy tiếng: "Hoan hô Mặt Trận Việt Minh. Chào mừng Cách Mạng thành công". (...) Sáng sớm hôm sau Lộc đến nhà tôi thật sớm. Hai tấm khẩu hiệu, Lộc cho vào chiếc bao bột mì, buộc gọn vào yên xe rồi ngồi lên trên, đạp nhanh như có chuyện gì gấp lắm. Ngay buổi chiều hôm đó, nhân có cuộc mít tinh của công chức và dân chúng, Mặt Trận Việt Minh lợi dụng ngay dịp đó, bắn mấy phát súng chỉ thiên và trương cờ đỏ sao vàng cùng khẩu hiệu. Thế là xong! Trang sử Việt Nam đã lật, nhưng nước Việt Nam còn phải kinh qua nhiều giai đoạn nhục nhằn ở mỗi hoàn cảnh đấu tranh để làm nên lịch sử (...) Mấy tháng sau, Tôi được Lê Quốc Lộc giới thiệu vào cơ quan tuyên truyền để vẽ những tấm tranh cổ động. Tiền công cũng đủ sống qua ngày. Trong lúc tôi làm công tác trên thì Nguyễn Sáng được tuyển dụng vào công việc vẽ giấy bạc "cụ Hồ". Sáng vốn khéo tay và cần cù, rất thích hợp với tài năng. Tôi không biết ai đã giới thiệu Nguyễn Sáng với Bộ Tài Chánh của Việt Minh. Nguyễn Sáng làm việc với một ông cụ tuy già nhưng kẻ chữ còn tinh vi lắm (...) Tất cả mọi loại giấy bạc tiêu dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đều do Nguyễn Sáng vẽ." (453)
Tạ Tỵ đã phản ảnh rõ tâm trạng và tình thế những người đi theo kháng chiến. Nguyễn Huy Tưởng trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô và Văn Cao trong Bài Tiến Quân Ca cũng có những cái nhìn tương tự.
________________________________________
(450) Lại Nguyên Ân, Đôi lời dẫn giải, trong Vũ Bằng, các tác phẩm mới tìm thấy, mạng Viet-studies.
(451) Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, hồi ký, chương 4, đã có trên Internet.
(452) Theo Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua, 1945-1964, việc từng ngày.
(453) Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, Thằng Mõ, Hoa Kỳ, 1990, trang 41 và 47.
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê Mon 03 Feb 2020, 10:39 | |
| Chương 13
Văn Cao (1923-1995)
● Ngày 17 và 19 tháng tám 1945 và Tiến Quân Ca
Tiến Quân Ca được viết từ mùa thu năm 1944, nhưng đến tháng tám năm 1945, mới có vai trò lịch sử. Chủ động trong hai ngày 17 và 19/8/45. Vậy những tác nhân chính viết gì về những ngày lịch sử đó?
Phạm Duy viết: "Sau khi Nhật đầu hàng, Quân Đội Nhật ở Việt Nam trao trả phủ Toàn Quyền cho phủ Khâm Sai Bắc Bộ. Để tỏ ý chí bảo vệ đất nước, vào ngày 17 tháng 8, công chức Hà Nội được lệnh của vị Khâm Sai Phan Kế Toại đứng ra tổ chức một cuộc mít tinh ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc mít tinh của các ông các bà công chức đang diễn tiến thì bỗng nhiên một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn được thả từ bao lơn của Nhà Hát xuống, rồi một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Thế là cuộc biểu tình của Tổng Đoàn Công Chức bỗng nhiên biến thành cuộc biểu tình của Mặt Trận Việt Minh.
Hai ngày sau, tức là 19 tháng 8, Việt Minh đích thân đứng ra tổ một cuộc mít tinh khổng lồ cũng ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Sau đó đoàn người biểu tình kéo đến bao vây Bắc Bộ Phủ. Ông Khâm Sai Phan Kế Toại đầu hàng ngay. Coi như cướp được quyền hành chánh rồi, đoàn người kéo luôn qua trại Khố Xanh ở đường Đồng Khánh để cướp quyền quân sự. Một ngàn lính Bảo An ở trong trại không kháng cự. Cờ quẻ Ly được hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên.
Thế là cuộc tổng khởi nghĩa thành công tại Hà Nội. Một Ủy Ban Nhân Dân được thành lập ngay hôm đó. Đồng thời tại nhiều địa phương, các đoàn võ trang tuyên truyền được gọi là "Dân Quân Giải Phóng" cũng tới chiếm chính quyền trong tay các tỉnh trưởng hay quận trưởng của một chính phủ mà ông Thủ Tướng là Trần Trọng Kim đã từ chức" (454).
Trong đoạn hồi ký trên, Phạm Duy viết ngắn và rất chi tiết, nhưng ông không hề nhắc đến vai trò của mình trong ngày 17/8/1945, chỉ ghi một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao và trong cuốn hồi ký, ông cho biết những ngày ấy ông ở trong Nam. Điều đó dễ hiểu vì Phạm Duy không thể công khai nhìn nhận mình có "vai trò lịch sử trong những ngày Việt Minh cướp chính quyền" cũng như Lê Đạt không thể công khai nhận mình đã theo Quốc Dân Đảng.
Nhưng Văn Cao ghi lại rõ ràng, trong hồi ký như sau: "Tôi ở lại một mình trên căn gác vắng455 vào những ngày đầu thu năm 1944.
Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu đang đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để lạc mất đứa cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể nó đã nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét sớm hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn đêm mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.
Căn gác được thêm một người ở. Anh Ph. D. là bạn thân của tôi từ Hải Phòng lên. Anh mới nhận nhiệm vụ làm giao thông của tổ chức giữa hai tỉnh Hà Nội và Hải Phòng. Từ lâu, tôi vẫn biết Ph. D là người của đoàn thể, và thường chú ý giúp đỡ tôi. (...) Lần này, Ph. D. lên ở với tôi vào giữa lúc tôi đã muốn bỏ tất cả hội họa, thơ ca, âm nhạc, bỏ tất cả giấc mơ sáng tạo thường đêm đêm đan mãi đan mãi cái vành mũ triền miên trên đầu như một vòng ánh sáng thần thánh.
Một hôm, Ph. D. nói với tôi:
- Văn có nhớ anh Vũ Quý không? Anh ấy vẫn ở Hà Nội? Văn có muốn gặp anh ấy không?
Tôi biết đồng chí Vũ Quý trong những ngày còn là vận động viên bơi lội ở Hải Phòng. Chúng tôi thường tập luyện hàng ngày trên sông Cấm. Từ khi biết anh bị mật thám Pháp bắt hụt, tôi hết sức khâm phục. Thế ra người cộng sản ấy vẫn hoạt động tại Hà Nội. Anh ấy vẫn nhớ đến tôi.
Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng, và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một hiệu ăn, ở đấy quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện của chúng tôi thật hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định công tác. Ngày đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.
Vũ Quý đến tìm tôi và giao công tác:
- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, nên phải dùng những điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng chúng ta.
Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen cố tìm một cái gì để nói, tìm một âm thanh đầu tiên. (...) Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một đứa bé gái nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người đó. Hình như nó là đứa trẻ bị lạc. Không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt và quay đi. Đêm ấy về gác tôi viết được nét nhạc đầu bài Tiến Quân Ca.
Những ngày ấy, Ph. D. sống chung với tôi. Thỉnh thoảng anh về Hải Phòng và mang tiền bán tín phiếu do các cơ sở gửi lên. Quần chúng ủng hộ Việt Minh ngày càng nhiều.(...)
Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm. Dưới ngọn đèn dầu, bộ mặt ngăm ngăm đen của anh chỉ thấy ánh lên đôi mắt sâu và trầm lặng. Anh rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh của từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca. (...) Ngày 17 tháng tám 1945, tôi đến dự cuộc mít-tinh của công chức Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài "Tiến quân ca" đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất lên vang theo những đoạn sôi nổi. Ở những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim. Trong một lúc, những tờ bướm in "Tiến quân ca" được phát cho từng người trong hàng ngũ các công chức dự mít-tinh. Tôi đã đứng lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa nhà Hát Lớn. Tôi đã nghe giọng hát quen thuộc của bạn tôi, anh Ph. D. qua loa phóng thanh. Anh là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát.
Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hôm đó, cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một lần duy nhất" (456).
Đoạn hồi ký này xác định năm sự kiện quan trọng:
1/ Bà mẹ Văn Cao vì đói khổ, phải đưa các cháu từ Nam Định ra Hải Phòng, giữa đường bị lạc mất đứa cháu lên ba. Việc này Hoàng Văn Chí có ghi lại đúng như thế.
2/ Phạm Duy ở trong "tổ chức" trước Văn Cao. Điều đó dễ hiểu vì Phạm Duy khi học trường Thăng Long là học trò của Võ Nguyên Giáp.
3/ Phạm Duy "nhắc nhở" Văn Cao tìm gặp Vũ Quý.
4/ Phạm Duy "chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca" ở căn gác phố Mongrand.
5/ Phạm Duy "buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát trước quần chúng lần đầu tiên" với "sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng" trong ngày 17/8/1945.
Trước kháng chiến, câu "Tương tiến nhạc sĩ Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn" của Văn Cao đã trở thành huyền thoại.
Lần này, Văn Cao muốn trả lại vai trò lịch sử của Phạm Duy đối với Cách Mạng Tháng Tám. Vai trò đã bị lịch sử một chiều cuốn đi, cướp mất. Văn Cao muốn cái gì của César phải trả về cho César. ________________________________________
(454) Phạm Duy, Hồi Ký II, Cách mạng kháng chiến, trang 30-31.
(455) 171 phố Mongrand nay là số 45 Nguyễn Thượng Hiền.
(456) Văn Cao, "Bài tiến quân ca", hồi ký, Sông Hương số 26, tháng 7/1987.
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê Tue 11 Feb 2020, 14:17 | |
| Chương 13
Văn Cao (1923-1995)
● Không khí ám sát thủ tiêu
Tìm hiểu Văn Cao không thể bỏ qua giai đoạn ông hoạt động trừ gian. Nhưng muốn hiểu rõ hành động ấy, lại phải tìm hiểu không khí thanh trừng giữa Việt Minh và các đảng phái đối lập. Vũ Bằng viết về không khí thời ấy:
"Bầu không khí ấy là bầu "không khí cảnh sát" mà Việt Minh vừa mới nắm được chánh quyền đã tạo được liền: thu hút dân vì lẽ dám đứng ra đánh thực dân diệt phát xít cứu quốc, nhưng đồng thời cũng cho tiêu luôn các đảng phái không đi một con đường với họ.
Lúc ấy chưa có những chữ rùng rợn như "Đầm Đùn", "Lý Bá Sơ" nhưng người ta đã mang máng nghe thấy những vụ át các bỉnh bút báo "Việt Nam" ở Hàng Bún Dưới, báo "Sao trắng" đường Bô-Nan Hải-Phòng, hay vụ Ôn Như Hầu có hàng trăm cái xác ôm nhau mà chết... Sức mấy mà không sợ? Sức mấy mà phòng ngừa được bọn cán bộ bịt mắt bưng đi? Nhưng cùng tắc biến, biến tắc!.. liều, đã liều thì liều cho trót, chúng tôi cứ đả kích Trần Huy Liệu (457) và những sơ hở của guồng máy chánh quyền phôi thai của Việt Minh. Và rồi cũng chẳng làm sao hết" (458)
Trong tiểu thuyết Giòng Sông Thanh Thủy (459), Nhất Linh viết về Thanh và Ngọc, cán bộ Việt Minh và Việt Quốc, cả hai đều nhận được lệnh phải thủ tiêu nhau, nhưng họ rơi vào tình yêu, tình yêu đến chết. Nhất Linh mô tả rất rõ bối cảnh "Họ rình nhau như những con thú dữ mà người nào cũng vì một lý tưởng mình cho là cao đẹp". Nhất Linh đã viết những trang lạnh lùng và rùng rợn về tội ác của con người, nhân danh Cách Mạng. Các nhân vật tự hỏi: "Tại sao mình lại làm một việc độc ác như thế này". Tại cái "guồng máy": Họ ở hai guồng máy khác nhau. Đất nước là của chung, nhưng cách phụng sự đất nước của hai đảng, hai guồng máy chỉ đạo, khác nhau.
Tác phẩm của Nhất Linh giải thích hành động của Văn Cao trong kháng chiến: Văn Cao làm việc cho tình báo Việt Minh, tại Quán Biên Thùy năm 1947. Và Quán Biên Thuỳ, theo sự mô tả của Phạm Duy, có không khí rất Giòng sông Thanh Thủy:
"Vào khoảng đầu mùa hè năm 1947 tôi tới Lào Cai và thấy ở đây có một phòng trà với cái tên là Quán Biên Thùy, bề mặt là một nơi giải trí nhưng bề trong là một tổ chức tình báo. Lúc đó, đối diện với Lào Cai vẫn còn là vùng Trung Hoa Quốc Gia chưa bị nhuộm đỏ hoàn toàn. Tôi gặp Văn Cao ở đây và được mời ở lại hát cho phòng trà này. (...) Quán Biên Thùy đông nhân viên lắm. Tất cả đều là dân Hà Nội. Tôi không để ý nhiều tới hoạt động tình báo của quán này, chỉ ngờ rằng vùng Lao Kai còn khá nhiều đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau khi bị Việt Minh tảo thanh từ vùng trung du, Việt Quốc tập trung ở đây để sẽ lánh sang Trung Hoa. Nhân viên tình báo của Quán Biên Thùy này đang đi lùng Việt Quốc để báo cho Công An tới bắt hay báo cho bộ đội tới tiêu diệt. Tôi biết rằng Việt Quốc trước đây sống nhờ ở tiền thuế của sòng bạc Cốc Lều, nay sòng bạc này phải đóng thuế cho Việt Minh (...) Trong thời gian ở Lào Kai, tôi còn có cái thú tới hút thuốc phiện tại dinh của một lãnh chúa người Nùng là Hoàng A Tưởng (...) Thuốc phiện chẳng bao giờ làm tôi say cả nhưng thứ thuốc phiện được hạ thổ lâu năm của Hoàng A Tưởng lần nào cũng đánh gục hai "anh hùng" kháng chiến là Văn Cao và Phạm Duy." (460)
Không khí thanh trừng này nằm trong quỹ đạo trừ gian của Văn Cao những ngày đầu cách mạng: ám sát Đỗ Đức Phin. Bi kịch xẩy ra năm 1945, khi ông hoạt động trong đội "Biệt động vũ trang".
● Văn Cao bắn Đỗ Đức Phin
Tại sao Văn Cao vào đội biệt động vũ trang? Giả thuyết của Vũ Bằng: "... Cho tới một ngày kia, lúc Nhật đổ bộ vào Đông Dương, tôi mới lại nghe nói đến Văn Cao hai lần nữa. Đó là lần Nghiêm Xuân Huyến báo tin cho tôi biết con gái anh sắp lấy chồng, mà người chồng đó là Văn Cao và một lần sau khi Việt Minh "át" cô Nga (461) "giao du" với một sĩ quan Nhật bị bắn chết liền, ở Hải Phòng lại xẩy ra vụ bắn Đỗ Đức Phin mà lúc đó ai cũng bảo người bắn là Văn Cao.
Nghiêm Xuân Huyến, sước hiệu (462) là Voi đen (...) Tôi đi lại thường xuyên nhà Voi đen vì anh có ra một tờ tuần báo mười hai trang - tờ Rạng Đông. Sau này (...) anh ra tờ tuần báo trào phúng tên là Con ong do Tam Lang Vũ Đình Chí chủ biên. (...) Xa nhau được ít lâu, tôi nghe thấy Nghiêm Xuân Huyến bị Nhật bắt và "xin âm dương" cho đến chết ở nhà lao. Anh em hồi đó bảo rằng anh bị Nhật giết vì nhà in của anh in truyền đơn cho Việt Minh. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu cái vụ Nhật bắt và đánh đập tàn nhẫn Huyến cho đến chết có liên quan gì đến vụ con gái Huyến lấy Văn Cao hay không, hay là Văn Cao có liên quan gì đến việc in truyền đơn đó hay không -nếu quả có in truyền đơn tại nhà in của Huyến- chỉ biết sau đó Văn Cao im lìm, không ai biết hành tung ra sao hết cho đến lúc xẩy ra vụ ám sát Đỗ Đức Phin trong một tiệm hút ở Hải Phòng. (...) Cái tên Văn Cao nổi bật lên từ đó. Đối với một số anh em văn nghệ, có một số anh em nói cho đúng, đã lấy làm hãnh diện về điểm đó.
Sau ngày 19/8 tiếng của Văn Cao nổi như cồn". (463)
Doãn Tòng, bạn đồng hành với Văn Cao trong đội trừ gian, thuật lại các sự kiện: "Năm 1945, ở Hải Phòng có Đỗ Đức Phin là một tên mật thám cho Nhật - nó đã phá hoại nhiều cơ sở của ta, trên có lệnh phải trừ khử nó. Tháng 71945, Văn Cao trừ Đỗ Đức Phin. Việc này được đồng chí Nguyễn Khang, Xứ Ủy Bắc Kỳ đồng ý. Nguyễn Đình Thi giao cho Văn Cao khẩu súng 7165. Tổ phân công cho em Trần Liễn là cô Liên thăm dò đường đi lối lại của Đỗ Đức Phin. Cô Liên chơi với em vợ Đỗ Đức Phin, nên rất tiện cho việc điều tra. Văn Cao, Trần Liễn có lần đã đến lớp học tiếng Nhật do Đỗ Đức Phin tổ chức nên biết mặt hắn. Hắn nghiện thuốc phiện, hay hút ở tiệm số nhà 51 phố Đông Kinh. Nắm chắc được cách đi lại ăn ở của hắn, tổ bắt đầu hành động.
Vào khoảng 6 giờ chiều một ngày tháng 7 năm 1945, trời nhá nhem tối, anh em cải trang cho Văn Cao thành một anh cai xe bận quần đen, áo va-rơi, đầu đội mũ cát dầy, đeo đôi kính gọng. Hoá trang vào không ai nhận ra Văn Cao nữa. Văn Cao đạp xe đến phố Đông Kinh, vào ngồi ở một quán nước, đưa mắt quan sát. Khi Trần Khánh ra hiệu bằng cách nhẩy lò cò: có ý là Đỗ Đức Phin đang ở trên, Văn Cao bắt đầu hành động. Anh lên gác thấy rõ Đỗ Đức Phin đang nằm hút thuốc phiện. Bên cạnh là người bồi tiêm. Văn Cao bắn một phát vào đầu Đỗ Đức Phin, tên này gục xuống. Tên bồi tiêm sợ quá, nhẩy qua ban công bám vào ống máng tụt xuống chạy biến. Một số đồng bào nghe tiếng súng nổ, chạy đến nhốn nháo. Văn Cao bình tĩnh nói:" Xin mọi người ngồi im. Tôi chỉ diệt một tên Việt Nam bán nước thôi".
Nói rồi dưới ánh đêm mờ mờ, Văn Cao nhẩy lên xe đạp đi về nhà tôi thay quần áo. Sau đó Văn Cao lên Hà Nội hoạt động, tôi ở Hải Phòng" (464).
Hành động "trừ gian" này sẽ ở lại trong thơ Văn Cao như một lương tâm trầm uất suốt đời.
● Tại sao Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa?
Sau ngày hòa bình lập lại, Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa, lý do sâu xa được ghi trong bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường: "Đêm ấy, trong cuộc tâm tình nghệ sĩ của Văn Cao với những ngư phủ trên phá Tam Giang, tôi muốn biết một điều mà với tôi là một bí ẩn thuộc về đời ông:
- Tại sao sau kháng chiến chống Pháp, anh vẫn vẽ, vẫn làm thơ, nhưng người ta không nghe anh hát nữa?
- Hồi nhận lời viết Tiến Quân Ca, tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài hát, mà là một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viện biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng, vào một thành phố để giết một người. Tôi đã làm xong việc ấy. Đó là chiến tranh và căm thù, đơn giản thôi. Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đã trở lại căn nhà ấy, thấy còn lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công hay phải nói một điều gì khác? Nên tôi im lặng, và chỉ viết nhạc-không-lời.
Giữa tiếng sóng ồ ạt vỗ quanh tàu, dưới đêm sao, tôi vẫn nghe rõ giọng nói dịu dàng của Văn Cao, sâu thẳm đến lạnh người, như thể là tiếng nói đến từ một biển khác. Trời ơi, tôi đã dại dột chọc tay vào vết thương. Nhưng tôi nghĩ, chỉ có những nghệ sĩ lớn mới nuôi cho mình những bi kịch như vậy" (465).
Nhiệm vụ của Văn Cao đã được Nhất Linh làm sống lại với nhân vật Ngọc trong Giòng Sông Thanh Thủy. Vết thương Văn Cao cũng là vết thương Nhất Linh. Nhất Linh viết Giòng Sông Thanh Thủy hai năm trước khi tự vận, như một chúc thư văn học và chính trị gửi lại đời sau: cuối cùng trên dòng Xích Bích, Tào Tháo, Chu Du không còn nữa, chỉ còn lại tiếng thơ Tô Đông Pha, chỉ còn lại tiếng thơ, cho muôn đời...
________________________________________
(457) Trần Huy Liệu lúc ấy là Bộ Trưởng Thông Tin.
(458) Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, Tủ sách Nam Chi, nxb Phạm Quang Khai, Sài Gòn, 1969, trang 160.
(459) Nhất Linh viết sai chính tả: thực ra là Dòng sông Thanh Thuỷ.
(460) Phạm Duy, Hồi Ký II, trang 105- 107.
(461) Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm cho rằng Văn Cao bắn cô Hoàng Thị Nga, chắc ông lầm, vì cả Vũ Bằng lẫn Văn Cao đều không xác định việc này. (462) Sước hiệu tức biệt hiệu.
(463) Vũ Bằng, Văn Cao - Một nghệ sĩ tài hoa, Văn Học số đặc biệt Văn Cao, tháng 11/1970, Sàigòn, in lại trong Văn Cao cuộc đời và tác phẩm, trang 173.
(464) Doãn Tòng thuật lại, theo ghi chép của Bích Thuận, sđd, trang 197-198.
(465) Hoàng Phủ Ngọc Tường, Cảm nhận Văn Cao, Hợp Lưu số 8, đặc biệt Văn Cao, tháng 12/1992.
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê Wed 12 Feb 2020, 10:41 | |
| Chương 13
Văn Cao (1923-1995)
● Lưu Hữu Phước và Tiếng Gọi Thanh Niên
Viết về Tiến Quân Ca của Văn Cao, không thể không nhắc đến Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước, bài quốc ca của miền Nam trong thời kỳ chia đôi Nam Bắc.
Lưu Hữu Phước sinh ngày 21/9/1921 tại Cái Răng, Cần Thơ. Học nhạc từ nhỏ. 1940, ông ra Hà Nội học y khoa. Khoảng 1940-44, Lưu Hữu Phước nổi tiếng với những ca khúc lịch sử như Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hát Giang trường hận, Hồn Tử sĩ, Hờn Sông Gianh, Hội Nghị Diên Hồng... và một loạt hành khúc cho sinh viên như: Ta cùng đi, Tiếng gọi thanh niên, Bài hát của thiếu sinh, Bài hát của thiếu nữ Việt Nam, Việt nữ gọi đàn... Sau Cách Mạng Tháng Tám, Lưu Hữu Phước sáng tác Khúc khải hoàn, Ca ngợi Hồ chủ tịch... Ca khúc của Lưu Hữu Phước có ảnh hưởng rất lớn đối với thanh niên từ thập niên bốn mươi đến ngày nay. Trong cuốn sách của Mai Văn Bộ tựa đề Lưu Hữu Phước con người và sự nghiệp (466) không thấy ông nhắc đến hoạt động Quốc Dân Đảng của Lưu Hữu Phước. Điều đó dễ hiểu.
Tô Hoài kể lại, trong một dịp "học tập bảo vệ Đảng", ông nhận được lá đơn tự tố cáo của Nguyễn Hải Trừng: "thành khẩn bộc lộ thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ 1938 ở Sài Gòn, tôi đã sinh hoạt trong một tổ chức phản động là Quốc Dân Đảng. Tổ phản động này gồm ba người là: Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Hải Trừng" (467). Việc này xẩy ra khi Mai Văn Bộ làm đại sứ tại Paris và Lưu Hữu Phước đang ở trong B, Tô Hoài đưa lá thư cho Hà Huy Giáp, lúc đó là bí thư, nhưng Hà Huy Giáp ỉm đi.
Trong Giòng sông Thanh Thủy, đoạn Nhất Linh viết về nhân vật Ngọc (Quốc Dân Đảng) dẫn Tứ và Nghệ (Việt Minh) đến chỗ Ngọc sẽ đầu độc họ, trên đường xuyên núi rừng, phong cảnh hùng vĩ, Ngọc vừa đi vừa hát:
"Chàng cất tiếng hát cao giọng, đi thật mau cho bước chân ăn nhịp với bài hát mà chàng cố hát thật mau:
Hồn nước muôn năm sống cùng non nước! Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng, Dù khó thế mấy quyết cùng nhau bước, Làm cho vang tiếng cháu con nòi giống Tiên Long.
Chàng chuyển sang điệp khúc:
Mau, mau đồng lòng, tay cầm tay, trông cờ nước, ta đều bước, Tuốt gươm, thề với núi sông ... Hồn nước muôn năm sống cùng ...
Bài hát ấy là của Lưu Hữu Phước, đảng viên Việt Quốc trong thời kỳ bí mật từ trong nước truyền ra, do Ninh dạy chàng. Ninh có nói là thay đổi lời đi đôi chút cho nó mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Trời bắt đầu nắng mỗi lúc một gắt; Nghệ và Tứ không biết là bài hát gì nhưng vì nhịp quyến rũ nên cũng cố bước theo cho đúng nhịp" (468).
Chính Nhất Linh đã sửa lời bài Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước cho mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Lời gốc của Lưu Hữu Phước như sau:
Hồn nước vẫn sống với trời, non, nước Ngày nay, ta noi tấm gương anh hùng Dầu khó thế mấy, quyết cùng nhau bước! Làm cho rõ biết cháu con nòi giống Tiên Long!
Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là Nhất Linh xác nhận: Lưu Hữu Phước theo Quốc Dân Đảng.
Sự kiện này đưa đến một số nghi vấn khác: trong thời kỳ kháng chiến, Lưu Hữu Phước sáng tác rất ít, tại sao? Lưu Hữu Phước thực sự là người của Việt Quốc hay Việt Minh? Nếu ông là người cộng sản, tại sao Tiếng Gọi Thanh Niên lại được chính phủ Nguyễn Văn Xuân (của Bảo Đại) chọn làm quốc ca? Tiếng Gọi Thanh Niên sáng tác tháng 4/1941. Ngày 2/6/1948, bản nhạc này được chính phủ Nguyễn Văn Xuân chọn làm quốc ca, và trở thành quốc ca của Việt Nam Cộng Hoà, sau 1954.
Sau ngày thống nhất đất nước, Lưu Hữu Phước, Bộ trưởng Thông tin văn hoá, ký ba Thông tri cấm lưu hành sách báo "phản động". Bản đầu, số 218/CT. 75, ngày 20/8/75, trong có danh sách 130 tác giả bị cấm toàn bộ, với những tên tuổi như: Hồ Hữu Tường, Nguyễn Vỹ, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Tạ Tỵ, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Mặc Đỗ, Nguyễn Mạnh Côn, Chu Tử, Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, Tuý Hồng, Phan Nhật Nam... (469)
Tất nhiên Lưu Hữu Phước chỉ thi hành chính sách của Trung Ương. Nhưng người nghệ sĩ, khi ký những công hàm huỷ diệt tác phẩm văn học của nửa phần đất nước, hẳn không thể không nghĩ đến hậu quả. Riêng đối với người dân miền Nam hơn 20 năm gắn bó với Tiếng Gọi Thanh Niên, Lưu Hữu Phước đáp lại những ân tình của họ bằng một văn bản tiêu diệt tự do tư tưởng. ________________________________________
(466) Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước con người và sự nghiệp, Trẻ, 1989.
(467) Tô Hoài, Chiều chiều, Hội Nhà Văn, 1999, trang 195.
(468) Nhất Linh, Giòng Sông Thanh Thủy, tập 1, trang 214.
(469) Bản Thông tri và toàn bộ danh sách các tác phẩm, tác giả bị cấm, in trong cuốn Văn hoá Văn nghệ... Nam Việt Nam của Trần Trọng Đăng Đàn (nxb Thông Tin, 1993), phần Phụ Lục II, từ trang 697 đến 754.
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê Tue 18 Feb 2020, 08:50 | |
| Chương 13
Văn Cao (1923-1995)
● Kháng chiến và văn nghệ sĩ
Trong hoàn cảnh cực kỳ phân hoá giữa Việt Minh và Quốc Dân Đảng, tại sao văn nghệ sĩ lại theo Việt Minh?
Vì phần lớn không làm chính trị.
Tạ Tỵ kể rõ các chặng đường từ bước đầu:
"Thủ đô Hà Nội chết cứng trong máu lửa. Cuộc giao tranh gay go ngay từ phút đầu giữa Trung Đoàn Thủ Đô, Tự Vệ Thành và quân đội Pháp. Phần lớn dân chúng đã tản cư. Mọi nhà đều đục tường thông qua nhau, theo lệnh của chính phủ từ mấy tháng trước. (...) Những con đường có cây to được đốn ngã dùng làm chướng ngại vật cản đường xe bọc sắt của Pháp. Không khí trước ngày chiến tranh thật nghẹt thở. Vợ con tôi đã theo ông bà nhạc tản cư về quê cả tháng nay. Gia đình phía tôi cũng vậy. Tôi ở một mình vừa sáng tác vừa vẽ tranh cổ động" (470).
Và ông tìm cách ra khỏi Hà Nội, đi kháng chiến:
"Tôi chọn lối xuyên cửa ô Cầu Dền, qua làng Hoàng Mai rồi men theo bờ ruộng ra đường số 1, con đường xuyên Việt. Tôi chợt nghĩ đến Phạm Duy, không biết Duy ra khỏi Hà Nội bằng ngả nào? Sau này khi gặp lại nhau trong kháng chiến, Duy mới cho biết đã ra khỏi Hà Nội qua ngả Khâm Thiên, tức phường Dạ Lạc. Văn Cao có báo cho Duy biết nhưng Duy không tin".
Tìm liên lạc với tổ chức:
"Tôi ăn Tết với gia đình xong rồi đến làng Bài Trượng thăm vợ con, trước khi lên đường đi Việt Bắc (...) Từ phủ Đoan Hùng, tôi quay về Phú Thọ, mong gặp anh em quen biết có thể giới thiệu mình với một cơ quan nào đó. Người thì đông, anh em chẳng thấy ai. Nản quá, tôi cũng định quay về quê nhà, bỗng gặp Phạm Duy từ trong một quán cà phê đi ra. Nói chuyện hồi lâu, Duy cho biết sẽ đi Yên Bái. Nếu tôi muốn đi cùng, sáng mai đến chỗ này chờ. Tôi bằng lòng, hỏi Duy có phương tiện gì không? Duy trả lời không, sẽ đi bộ. Ngay buổi chiều hôm đó, tôi quay về chỗ tá túc đêm qua, bán chiếc xe đạp cho người chủ nhà để lấy tiền tiêu. Sáng hôm sau, tôi đeo ba lô đến nơi hẹn. Chờ một lúc, tôi thấy Duy đội mũ ca-lô, mặc bộ ka ki Mỹ, đeo cây đàn trên vai, còn một tay xách chiếc túi đựng quần áo. Chúng tôi cứ men theo đường xe lửa đã bóc hết đường rầy đi ngược lên. Duy không chịu đeo chiếc túi vải lên vai, vừa đi vừa ném về phía trước. Đến nơi, cúi xuống nhặt lên ném nữa. Tôi hỏi:
- Sao làm vậy?
Duy nói:
- Đeo mệt xác, ném khoẻ hơn!
Trong lúc đi đường. Duy nói về chuyện mấy tháng trước. Sau khi ra khỏi Hà Nội, Duy tìm đường lên Vĩnh Phúc Yên, gia nhập đoàn Văn Nghệ Giải Phóng, rồi Việt Trì, bây giờ là Phú Thọ. Duy nói về dự tính tương lai với những bản dân ca. Duy lúc này đã nổi tiếng, chẳng những về hát, mà còn ở sáng tác nhưng ca khúc như Cô hái mơ, Gươm tráng sĩ, v.v...
Năm ấy, chúng tôi mới có 24 tuổi. Đi cùng với Duy rất vui vì Duy hay nói tục. Nhưng sau đó, lại trầm ngâm, có lẽ, trong đầu, Duy đang có dự tính nào đó, có thể, một ca khúc sắp ra đời. Sau cặp kính trắng, đôi mắt Duy long lanh như được chiếu dọi bởi luống ánh sáng kỳ dị. Đến Yên Bái, một thành phố đã tiêu thổ 95%, tôi gặp thêm Văn Cao. Cũng từ nơi đó, tôi và Duy chia tay. Tôi ở lại Yên Bái chơi với Văn Cao vài ngày. Mỗi chiều chúng tôi rủ nhau đi uống rượu, loại rượu đế nặng. Văn Cao trông vẫn thế, sắc mặt tai tái, đôi mắt thật sắc với nụ cười chìm lắng. Có khác chăng chỉ là bộ bà ba nâu, bên ngoài phủ thêm chiếc trấn thủ" (471).
"Văn Cao nổi tiếng từ tiền chiến, trong kháng chiến và mãi mãi, mọi người đều nghe nhạc của anh. Nhưng anh, con người đa tài, ngoài nghệ thuật còn làm nhiều thứ khác. Tôi lại chia tay với Văn Cao cũng ở Yên Bái. Văn Cao ngược Lào Cai để đi làm công tác tình báo biên giới được ngụy trang bằng một phòng ca nhạc. Phạm Duy có lên Lào Cai và hát ở phòng trà này. Bài Bên Cầu Biên Giới của Duy được sáng tác tại đó." (472)
Tạ Tỵ đi theo ban kịch truyền bá quốc ngữ được nửa năm thì bị sốt rét nặng, phải về Liên khu Ba (vùng Thái Bình), vẽ tranh hí họa chống Pháp trên báo Cứu Quốc Thủ Đô, sáng tác văn thơ và dạy hội họa. Tạ Tỵ kể về nhiệt tình cách mạng của Văn Cao:
"Một chiều khi gần tối, bỗng Văn Cao và Nguyễn Đình Thi đến thăm. Thật không gì vui hơn, khi nằm một mình trong căn nhà vắng lại được bạn đến thăm. Văn Cao cho biết từ Liên khu 1 mới xuống công tác ở Khu 3, nhân tiện ghé chơi. (...) Nói chuyện tầm phào mãi cũng chán, tôi yêu cầu Văn Cao đọc lại bài thơ "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc". Văn Cao tuy làm nhạc nhưng không có giọng hát, nhạc Văn Cao nổi tiếng nhờ tài hát của Phạm Duy, Bùi Công Kỳ v.v... Văn Cao cũng không có tài ngâm thơ, hát chèo như Hoàng Cầm, nhưng tiếng đọc thơ của Văn Cao nghe rất lạ, nghe ghê rợn như tiếng vọng từ đáy huyệt. (...) Tôi nhớ, đêm ấy Văn Cao nói với tôi:
- Này cậu, tôi có ý định giới thiệu cậu vào Hội Nghiên Cứu Chủ Nghiã Các-Mác (473) cậu nghĩ sao?
Tôi thẳng thắn trả lời, không thích chính trị, chỉ yêu nghệ thuật thôi!
Trong đêm tối, tôi không nhìn thấy nét mặt Văn Cao và Nguyễn Đình Thi ra sao, nhưng qua câu nói của Văn Cao:
- Không còn con đường nào khác đâu, nghệ thuật cũng phải phục vụ chính trị. Tôi chỉ biết nói thế. Còn tùy cậu. Vả lại, Hội cũng ở gần đây thôi, mất công gì đâu mà cậu ngại?
Tôi không trả lời nói lảng sang truyện khác. (...) Sáng hôm sau, Thi và Văn Cao đều dậy sớm, đi ngay". (474)
Tạ Tỵ và Phạm Duy cho biết trong thời gian đầu kháng chiến, nghệ sĩ được tương đối tự do sáng tác. Tạ Tỵ vừa vẽ tranh tuyên truyền (hí họa chống Pháp) vừa sáng tác nghệ thuật theo ý riêng mình và có thể triển lãm. Phạm Duy viết:
"Trong ba, bốn năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, những văn nghệ sĩ rời thành thị ra thôn quê đều là những người tự động tham gia cuộc chiến đấu chung và dù có gia nhập vào một tổ chức văn nghệ nào của chính quyền thì cũng được tự do đi lại, tự do sáng tác hay tự do biểu diễn. Dù Đảng Cộng Sản đã có đề cương văn hoá từ lâu (475) quy định mọi sáng tác văn nghệ đều phải có "tính Đảng" nhưng chỉ tới khi có Đại Hội Văn Hoá lần thứ hai được tổ chức ở Bắc Kạn vào năm 1950 (476) thì mới có những đường lối văn nghệ được Ban Chấp Hành đưa ra để văn nghệ sĩ ngoài Đảng học hỏi" (477).
Trong không khí còn khá dễ thở, Văn Cao trở lại Liên khu ba năm 1949, và các họa sĩ có thể tổ chức triển lãm chung, Tạ Tỵ kể: "Từ khi có Văn Cao ở gần, chúng tôi mỗi lần gặp lại bàn về chuyện làm phòng triển lãm. Văn Cao cũng vẽ được hai tấm tranh sơn dầu. Anh cho rằng vấn đề mở Phòng Tranh là việc nên làm vì từ ngày kháng chiến, Liên Khu 3 chưa có Phòng Tranh nào. Chúng tôi (478) giao việc liên lạc với chính quyền cho Văn Cao lo, còn tranh, có bức nào bày bức đó. (...) Văn Cao bày hai tác phẩm: Cây đàn đỏ và Đường cấm. Tôi có hai bức: Lìa phố và Chiến tranh. Cả bốn bức là sơn dầu, còn toàn là tốc họa, bút chì vẽ trên giấy. Tuy vậy, phòng Triển Lãm cũng nhiều người xem lắm, nhiều buổi phải chen lấn nhau, làm chúng tôi lên tinh thần, tuy sự trưng bày này hoàn toàn có tính cách biểu dương, chứ không bán. Có bán cũng chẳng ai mua. Sau khi phòng triển lãm bế mạc, Văn Cao gửi tôi giữ giùm hai tác phẩm nói trên vì lý do không ở đây lâu, nhưng sau khi tôi đã "dinh tê", đến năm 1951, quân Pháp đánh vào quê tôi, lấy đi tất cả!" (479)
Trước đây, người ta chỉ biết bức tranh Cây đàn đỏ của Văn Cao bị phê bình, nhưng nội dung phê bình ra sao, không ai rõ. Nhờ những điều Tạ Tỵ viết về buổi phê bình tranh Mưa Núi của ông, chúng ta có thể đoán được cảnh phê bình tranh Văn Cao: "Tôi vẽ thêm được bức tranh Mưa Núi, vẫn theo kỹ thuật lập thể. Một buổi chiều, tôi nhận được giấy mời đi tham dự buổi họp của Chi Bộ Văn Nghệ Liên Khu (...) Đúng ngày, tôi mang tranh đến một ngôi làng sát chân núi, bên kia sông Đặng. Đến nơi đã có nhiều anh em, tuy vậy, tôi quen rất ít, chỉ có Phái (480), Huyền Kiêu và Lương Xuân Nhị, là bạn.(...)
Sau vài giờ thảo luận sinh hoạt về chiều hướng sáng tác phục vụ kháng chiến, anh trưởng ban Tổ Chức (tôi không nhớ tên) đặt tác phẩm Mưa Núi của tôi trên chiếc giá bằng tre, xong mời anh em phát biểu ý kiến về tác phẩm đó. Mỗi người nói một cách, tôi phải trực tiếp giải thích, bào chữa cho tác phẩm mình có "nội dung cách mạng". Chắc đã được sắp đặt trước, anh trưởng ban Tổ Chức cho mời một số ông bà già, con nít chăn trâu đến trước bức tranh, hỏi mỗi người về cảm tưởng của họ. Thật khốn đốn cho tôi khi phải chống đỡ với những lời phát biểu vô cùng thật thà vì không hiểu gì về hội họa của những người dân quê mùa chất phác và các em bé chăn trâu, cắt cỏ. Trước cảnh huống đó, tôi muốn phát điên lên, nhưng cố nén giận, giữ vẻ mặt bình tĩnh tới phút chót.
Sau cuộc phê bình khốn khổ, tôi dự đoán được Tổ Chức Chi Bộ Văn Nghệ muốn đối xử với tôi ra sao rồi! Phái và Huyền Kiêu thông cảm, nhưng đứng về phía thiểu số, cũng chẳng đỡ đòn gì được, đành làm ngơ. Cuộc họp chỉ có một ngày. Đáng lẽ sau khi họp xong, tôi phải ở lại vui chơi với anh em, nhưng tối hôm đó, tôi về ngay, nại cớ ngày mai phải đi gặp trưởng Cơ Quan Bình Dân Học Vụ nhận công tác. Cũng kể từ đó, trong tôi đã dứt khoát, nếu có dịp thuận lợi là "dinh tê", chứ ở lâu không xong!" (481)
Đó là tình hình năm 1949. Và đó là lý do khiến những hoạ sĩ như Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng... bỏ kháng chiến về thành.
Sự "dinh tê" của văn nghệ sĩ được Vũ Bằng cảm nhận như sau: "Thế rồi tôi rinh tê. Tôi rinh, nhưng không có một chút mặc cảm, là vì tôi quan niệm rằng Hà Nội là đất nước mình, mình có quyền ở đó, còn vấn đề hèn hay không, đó là tùy ở nhân cách của từng người" (482).
________________________________________
(470) Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, Thằng Mõ, 1990, trg 53.
(471) Tạ Tỵ, sđd, trang 55-56.
(472) Tạ Tỵ, sđd, trang 57.
(473) Tức là Đảng Cộng sản, ngày 11/11/1945, tuyên bố "tự giải tán", đổi tên thành Hội nghiên cứu chủ nghiã Mác ở Đông Dương, mục đích thu phục toàn dân.
(474) Tạ Tỵ, sđd, trang 68-69.
(475) Tức là bản Đề Cương văn hoá Việt Nam do Trường Chinh viết năm 1943.
(476) Tại đại hội này Hoàng Cầm phải treo cổ kịch thơ của mình.
(477) Phạm Duy, Hồi ký II, trang 111-112.
(478) Tức là Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Lương Xuân Nhị...
(479) Tạ Tỵ, sđd, trang 99.
(480) Bùi Xuân Phái.
(481) Tạ Tỵ, sđd, trang 102.
(482) Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, trang 167.
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê Thu 20 Feb 2020, 11:53 | |
| Chương 13
Văn Cao (1923-1995)
● Nhân Văn Giai Phẩm: Thơ Văn Cao
Sau khi hoà bình lập lại, Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa. Ông trở lại với hội họa thì Hoàng Cầm đến mời ông viết bài cho Giai Phẩm Mùa Xuân. Văn Cao nhận lời và làm thơ, vì chỉ có thơ mới nói được những bi đát sâu lắng trong nội cảnh của tâm hồn. Với sự "đốc thúc" của Hoàng Cầm, Văn Cao dành cả mùa xuân để sáng tác trường ca Những người trên cửa biển.
Lần này trở lại, Văn Cao như người anh cả, đứng lên chỉ mặt bọn người đã làm cho nghệ sĩ phải điêu đứng trong sáng tác từ 1949. Tác giả quốc ca hỏi tội:
"Bao giờ nghe được bản tình ca Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật Bao giờ Bao giờ chúng nó đi tất cả"
"Chúng nó" đây là những khuôn mặt đã tạo dựng nên cái xã hội có nửa mặt:
"Một nửa thế giới Một nửa tâm hồn Một nửa thế kỷ Chưa khai thác xong".
"Chúng nó" đây là những con người:
"... những con người khôn ngoan Không có mồm Mắt không bao giờ nhìn thẳng"
"Chúng nó" đây là những vi khuẩn đã len lỏi vào sự sống của con người:
"Chúng nó còn ở lại Trong những tủ sách gia đình Ở điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm Từng bước chân các cô gái Từng con đường từng bãi cỏ từng bóng tối Mắt quầng thâm còn nhỡ mãi đêm"
Và một lần nữa tác giả Tiến Quân Ca kêu gọi mọi người đứng lên bảo vệ tự do như đã từng bảo vệ tổ quốc:
"Vào một cuộc đấu tranh mới Để mở tung các cánh cửa sổ Mở tung các cửa bể Và tung ra hàng loạt hàng loạt Những con người thật của chúng ta." (483)
Những lời kêu gọi thiết tha trên đây của Văn Cao làm rung động những tâm hồn yêu tự do, yêu nghệ thuật và yêu đất nước. Chỉ riêng những kẻ cảm thấy mình bị gọi là "chúng nó" mới động lòng. Xuân Diệu thốt lên những lời tàn nhẫn:
"Những tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhãn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ. (...)
Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối mùa đồi trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. (...)
Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái khinh bạc tột độ của mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một mình mình trên trái đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm khí nặng nề:
Ngồi đây ta gõ mạn thuyền Ta ca trái đất còn riêng ta! (...)
Những ngày đầu Cách Mạng Tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu, tìm thi vị xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng nhiều người; mơ ước “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một trạng thái của lòng yêu nước.
Nhưng ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát:
Ta là đàn chim bay trên mây xanh Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan… … Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Ta không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi đó còn thấp. Chúng ta giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình đó là tiền thân của cái lối “Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta giật mình hơn nữa là cái máu anh hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy “những kinh thành tan” dưới bom đạn mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại là của “không quân Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ!
Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt, nhưng cũng bộc lộ cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan rã, như bài "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc", hay như bài "Ngoại ô mùa đông 46" (484)
Ta đi trong nhà đổ Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh Còn xiêm hài dành hương phấn cũ… ... Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp Gió lạnh khi qua viện tàng thư Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche… (...)
Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là “chúng nó”? Đối lập với ai là “chúng ta”?
Bao giờ nghe được bản tình ca Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật Bao giờ Bao giờ chúng nó đi tất cả (...)
Trên đất nước ta “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân vănGiai phẩm; chúng nó là thế đấy (...)
Những con người của chúng ta, từ Cách Mạng Tháng Tám đến nay, xuất hiện, trưởng thành dần dần và mãnh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, dù chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả Trái Đất cũng biết chúng ta vĩ đại!" (485)
Lời Xuân Diệu chứng minh những điều Văn Cao viết về "chúng nó" là đúng. Xuân Diệu còn cho biết: Đảng chưa bao giờ hiểu nghệ thuật của Văn Cao. Tất cả những sáng tác tuyệt vời của Văn Cao đều bị Đảng coi là "thuốc độc". Tóm lại, Đảng chỉ lợi dụng bài Tiến Quân Ca.
Nhưng Văn Cao không thuộc về Đảng. Văn Cao là nghệ sĩ của dân tộc. Nếu nhạc Văn Cao đưa người vào mộng, thì thơ Văn Cao xoáy vào thực tại cuộc đời: phần đời thực với Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa đông 1946, Những người trên cửa Biển và phần nội tâm sâu xé của con người mất tự do trong các bài thơ ngắn, cô đọng đau thương những giọt nước mắt không rơi ngoài tim mình như lời thơ Thanh Tâm Tuyền.
Nhạc sĩ kỳ tài, Văn Cao còn là nghệ sĩ tiên phong trong hội họa và thi ca. Ngày nay khó tìm được họa phẩm của Văn Cao nhưng theo Tạ Tỵ, Văn Cao đã tự trình bày bìa những bản nhạc của mình bằng những bức tranh avant garde. Nếu tìm lại được những bản nhạc đó, ta có thể có ý niệm về hội họa tiên phong của Văn Cao.
Riêng về thơ, Văn Cao âm thầm tiếp tục con đường tân tạo. Mỗi chặng sống, ông viết những tác phẩm giá trị.
Cúi xuống lầm than của kiếp người, Văn Cao đã để lại những hình ảnh kinh hoàng của trận đói tháng ba năm Ất Dậu. Nếu không có Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, chúng ta không thể hình dung cảnh xe xác lăn trong xóm cô đầu của một Hà Nội bán linh hồn:
"Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ (...) Ta về gác chiếu chăn gào tự tử Trên đường tối đêm khoả thân khiêu vũ Kèn nhịp xa điệu múa vô luân Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc Kiếp người tang tóc Loạn lạc đòi nơi xương chất lên xương Một nửa kêu than, ma đói sa trường Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc!"
Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc song hành với Tiến quân ca, là những tiếng bi thương và hùng tráng, báo hiệu một dân tộc vùng đứng lên kháng chiến. Ngoại ô mùa đông 1946 viết về ngày toàn quốc kháng chiến, với một bút pháp độc đáo, kinh hoàng, gây hoang loạn:
"Phố chết rồi vài mảnh rêu ngơ ngác The thé thất thanh giọng kêu tàn ác Quạ dăm con, chập choạng cánh dơi xa Lơ láo tường vôi, than bụi dui nhà (...) Cửa ô cần lao Cửa ô trụy lạc Cửa ô trầm mặc ... Mấy bức tường hồng rơi xuống cùng trâm Một dẫy phố nghiêng cả thành Hà Nội Dòng ngõ chợ xưa máu dâng ngập lối Mấy xác quân thù bên cống tanh hôi Sọ nứt toang óc chảy lẫn với ròi ... Xóm âm u thành khối đen đặc quánh Ơi ai ngâm mình hố lạnh Gió mùa rú ghê người Trăng đông dầm khe rãnh Lưỡi lê đậu sương rơi..." (486)
Kháng chiến không chỉ là hào hùng, là hoa treo đầu súng. Kháng chiến còn là chiến tranh, chết chóc, tàn phá, kinh hoàng... Ngoại ô mùa đông 46 là bài thơ khốc liệt nhất viết về toàn quốc kháng chiến. Trong những năm đầu, người nghệ sĩ còn được tự do sáng tác, mới có thể có Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc và Ngoại ô mùa đông 1946, in trên báo Tiên Phong. Đó là Văn Cao thời kháng chiến.
Thời NVGP, Văn Cao viết trường ca Những người trên cửa biển, bài ca lịch sử của Hải Phòng, gắn liền với cuộc đời Văn Cao, từ lúc sinh ra dưới thời Pháp thuộc, đến cuộc kháng chiến đẫm máu mà Văn Cao đã phụng sự hết mình. Văn Cao chờ đợi một mùa xuân khi hoà bình lập lại. Nhưng ngày dứt chiến tranh cũng là ngày chia đôi đất nước, ngày những con bạch tuộc hiện hình:
Vợ xa chồng Anh xa em Chiều Nam chiều Bắc cùng sầu Tiếng thức dậy niềm cô đơn nuối tiếc ... Gió bão tới đâu cũng không một lúc Rụng hết lá vàng Ngày báo hiệu mùa xuân mầm nở mầm tàn Có người tự nhiên tiếc bàn tay đã mất Từng đêm đau nhức vết đạn trên mình ... Trong những ngày khó khăn chồng chất Kẻ thù của chúng ta xuất hiện Những con rồng đất khi đỏ khi xanh Lẫn trong hàng ngũ Những con bói cá Đậu trên những dây buồm Đang đo mực nước Những con bạch tuộc Bao tay chân cố dìm một con người ... Tôi sẽ vạch từng tên từng mặt (487)
Văn Cao trở lại vị trí chiến sĩ trừ gian. Lần này cuộc cách mạng sẽ xẩy ra trên mặt trận tư tưởng, bằng ngòi bút. Và những kẻ sợ Văn Cao vạch mặt, chỉ tên đã hoảng loạn tinh thần, viết nên những điều cuồng dại.
Sau Nhân Văn, Văn Cao vẫn làm thơ. Lần này thơ ông đi sâu vào nội tâm con người. Một con người:
Có lúc một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ có lúc ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt có lúc nước mắt không thể chảy ra ngoài được (488)
Con người bị cầm tù tư tưởng âm thầm nhìn cái chết chậm, như bức tường vô tri, nhích dần, nhích dần trên thân xác mình:
Cái bức tường lê từng bước một Đến gần chân chúng tôi hàng ngày Chúng tôi nhìn chậm chạp Châm chạp một cái chết Thời gian đang héo thời gian đang rụng (489)
Bài thơ khóc Nguyễn Huy Tưởng, nhưng là điếu tang những người bị mất tự do. Bài thơ bị cấm trong ba mươi năm. Kiên trì, Văn Cao vẫn tiếp tục vẽ bằng thơ. Lần này ông phác họa chân dung một kẻ xưa kia là bạn:
Tôi đã gặp lại anh Im lìm như một bức ảnh Người anh dẹt như một con dao Gây nhiều vết thương cho bạn hữu Anh mang trong tôi nhiều bộ mặt Đâu là cái cuối cùng Chỉ còn hai con mắt Trắng dã không thể lừa dối (490)
Bài Ba biến khúc tuổi 65, tổng kết cuộc đời Văn Cao trong một tình thế chính trị không lối thoát. Biến khúc I viết về thời kháng chiến trừ gian:
Một người cho tôi con dao găm Không biết dùng làm gì đêm nhìn qua cửa sổ một khoảng trống đen tôi ném vào khoảng trống ... bỗng nhiên có tiếng ngã ngoài sân một người trúng tim đã chết tôi không hề biết người ấy tôi là kẻ không muốn giết người chỉ biết bóng tối mà tôi đã ném dao.
Những lời tự họa đớn đau của Văn Cao đã gặp những lời tự phán kinh hoàng của Nhất Linh trong Giòng sông Thanh Thủy: Khi anh đã lọt vào guồng máy, anh sẽ phải giết người, anh sẽ có «bàn tay bẩn» (JP Sartre).
Biến khúc II viết về bi kịch của người Nhân Văn:
Tôi đi trên phố bỗng nhiên mọi người nhìn tôi một ai đó kêu lên: thằng ăn cắp tôi chạy tôi chạy tại sao tôi chạy? tôi không hiểu tôi cả phố đuổi theo tôi xe cộ đuổi theo tôi tôi chạy bạt mạng gần hết đời tới chỗ chỉ còn gục xuống tỉnh dậy mồ hôi chảy tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội.
Chạy hết trọn đời, nhưng người Nhân Văn không tìm ra lối thoát.
Biến khúc III, viết về mạng lưới công an trị:
Tôi rơi vào mạng nhện mạng nhện cuốn lấy tôi không còn cách gì gỡ được... muốn phá cái mạng nhện tôi không đủ tay (491)
Sau Nhân Văn, người ta vẫn không dám đối xử với tác giả Tiến Quân Ca như những thành viên khác của NVGP. Họ đành đưa Văn Cao vào bóng tối. Không nhắc tới. Không cho in. Không cho hát. Không cho vẽ. Trong ba mươi năm. Nhưng Văn Cao vẫn hiện diện. Hiện diện bằng sự vắng mặt. Người dân miền Nam vẫn nghe những tuyệt tác của Văn Cao qua tiếng hát những ca sĩ thượng thặng Thái Thanh, Hà Thanh, Khánh Ly... Và người dân miền Bắc mỗi lần chào cờ là một lần hội ngộ với Văn Cao.
Sau này, khi đất nước ra khỏi chế độ toàn trị, lá cờ đỏ sao vàng gắn liền với Đảng Cộng Sản sẽ không còn lý do tồn tại. Nhưng Tiến Quân Ca là xương thịt của một nghệ sĩ thiên tài, suốt đời đóng góp cho nghệ thuật chân chính và tranh đấu cho tự do của đất nước, sẽ mãi mãi còn lại. Bởi khó có tác phẩm nào thay thế được Tiến Quân Ca trong lòng dân tộc Việt Nam.
________________________________________
(483) Văn Cao, Anh có nghe thấy không, Giai Phẩm Mùa Xuân.
(484) Bài Ngoại ô mùa đông 46 của Văn Cao đăng trên Văn Nghệ số 2, tháng 45/1948.
(485) Xuân Diệu, Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao, in trong Dao có mài mới sắc, Văn Học, 1963, tr. 101-114. Bản điện tử của Lại Nguyên Ân, Talawas.
(486) Văn Cao, Ngoại ô mùa đông 1946.
(487) Văn Cao, Những ngày báo hiệu mùa xuân, Nhân Văn số 4, ra ngày 30/9/56
(488) Bài Có lúc.
(489) Bài Với Nguyễn Huy Tưởng.
(490) Bài Về một người.
(491) Bài Ba biến khúc tuổi 65.
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê Fri 21 Feb 2020, 11:28 | |
| Chương 14
Phùng Cung (1928-1998)
Phùng Cung đại diện cho tất cả những người bị tù không có án, thậm chí không có lý do, hoặc lý do mơ hồ, khó hiểu, trong danh sách hàng trăm người bị xử lý nặng, hoặc hàng ngàn người đã "liên hệ" xa gần với NVGP. Mỗi cá nhân là một trường hợp, một chân dung bị xoá, bị đưa đi biệt tích, trong cô đơn, đau khổ.
Phùng Cung cũng là khuôn mặt văn nghệ sĩ cuối cùng trong nhóm NVGP mà chúng tôi đề cập trong loạt chân dung, trước khi bước sang địa hạt trí thức. Nhưng không có nghĩa là những người khác không có giá trị: Mỗi con người đã góp phần vào việc đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến ngày nay là một giá trị, một biệt cách. Chỉ riêng trong phong trào NVGP không thôi, sự can trường của Hữu Loan không giống sự can trường của Phùng Cung. Lòng nhiệt tình của Phùng Quán không dễ ai sánh được. Sự đóng góp của Bùi Xuân Phái không giống Nguyễn Sáng. Kịch của Hoàng Tích Linh không giống kịch của Chu Ngọc. Mỗi văn nghệ sĩ là một chân dung mà ký ức lịch sử văn học sẽ không thể bỏ qua.
Sau này, khi nhắc đến Phùng Cung, người ta thường cho rằng ông bị tù vì truyện "Con ngựa già của chúa Trịnh". Sự thực phức tạp hơn nhiều, nó nằm trong toàn bộ thái độ sống và sáng tác của Phùng Cung. Chúng tôi cố gắng tìm hiểu những nguyên do sâu xa đã đưa Phùng Cung vào vòng tù tội và bị theo dõi suốt đời. Nguyên do ấy có thể tóm tắt như sau: • Một tinh thần bất khuất không đầu hàng bạo lực cách mạng. • Một sự nghiệp thơ văn chống lại chiến tranh và xây dựng văn hoá dân tộc.
● Tiểu sử Phùng Cung
Những chi tiết đáng tin cậy nhất về Phùng Cung nằm trong bài Nhà thơ Phùng Cung của Phùng Hà Phủ, con trai Phùng Cung, nay đã qua đời.
Phùng Cung sinh ngày 18/7/1928 tại làng Kim Lân, xã Hồng Châu, huyện Yên Lạc, Vĩnh Yên. Mất ngày 9/5/1998 tại Hà Nội. Quê tổ xã Cam Lâm, quận Đường Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây. Vĩnh Yên, quê sinh và Hà Tây, quê tổ của Phùng Cung đều thuộc tỉnh Sơn Tây. Họ Phùng ở Cam Lâm dòng dõi Phùng Hưng - Bố Cái Đại Vương.
Con trưởng một gia đình giàu có, đông con, được gửi đi trọ học ở Sơn Tây, đỗ bằng Trung Học - Brevet. Tháng 4/45, Nhật đảo chính Pháp, Phùng Cung trở lại quê nhà.
Tháng 9/45, Phùng Cung, 17 tuổi, được bầu làm chủ tịch liên xã Hồng Châu-Liên Châu. Tên xã do ông đặt và tên ấy vẫn còn giữ đến ngày nay. Phùng Cung làm chủ tịch xã được 2 năm.
Tháng 10/1947, Pháp chiếm Tông và Sơn Tây, Phùng Cung chạy lên Việt Bắc cùng mấy anh em trai. Tại quê nhà, gia đình bị liên lụy vì có con đi làm cách mạng.
Phùng Hà Phủ viết: "Khi lên chiến khu, bố tôi làm công tác thông tin ở liên khu 10 Việt Bắc, cơ quan thông tin của ông Nguyễn Tấn Gi Trọng (bác sĩ Trọng sau này làm công tác chuyên môn tại trường Ðại học Y Dược Hà Nội và là người giúp mẹ tôi theo học lớp dược tá khi hòa bình lập lại). Sau một thời gian làm tại liên khu 10, bố tôi mới chuyển sang an toàn khu và làm công tác văn nghệ, cùng sống và làm việc với các ông Ngô Tất Tố, Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài,... cho đến khi hòa bình lập lại (1954) thì cùng với cơ quan Hội văn nghệ về tiếp quản thủ đô Hà Nội" (492).
Trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất, gia đình bị quy vào thành phần địa chủ cường hào. Cha ông bị đem ra đấu tố, rồi bị đưa lên giam giữ ở trại Cò Nỉ - Thái Nguyên. Khi ấy, Phùng Cung đang làm việc trong cơ quan văn nghệ kháng chiến ở Tuyên Quang. Phùng Hà Phủ viết: "Khi bố tôi hay tin, bố rất nóng lòng chuyện nhà và muốn quay về xem sự thể ra sao. Những bạn bè thân trong cơ quan biết chuyện như ông Tô Hoài (lúc này đang phụ trách công tác Ðảng - Ðoàn của Cơ quan văn nghệ) đều khuyên nên thật bình tĩnh, chờ Ðảng sẽ sửa sai. Trong một lần kết hợp đi công tác, bố tôi có tìm lên thăm và những mong gặp mặt để tiếp tế cho cụ. Nhưng tới nơi thì được một người bạn tù già cùng lán với cụ, chưa kịp nói câu nào vội vã dẫn bố lên khu đồi trọc phía sau trại giam và chỉ cho bố lùm đất mà ngọn sắn làm dấu mới héo lá. Quá bất ngờ trước cái chết của cụ, bố tôi quay ngay về Hà Nội, bố rất buồn, suy nghĩ nhiều và tránh mọi sự tiếp xúc với bên ngoài." (493)
1954, Phùng Cung làm việc tại Hội Văn Nghệ.
1956, tham gia phong trào NVGP với truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh (494).
Theo Phùng Hà Phủ, tháng 5/1961 công an đến nhà bắt Phùng Cung. Theo Nguyễn Hữu Hiệu, đó là ngày "19 tháng Chạp năm Canh Tý" tức ngày 4/2/1961. Ông bị tịch thu tất cả bản thảo và bị giam vào Hỏa Lò Hà Nội. Rồi bị chuyển đi các trại Bất Bạt (Sơn Tây), Yên Bình (Yên Bái) và Phong Quang (Lào Cai), bị tù 12 năm, với 11 năm biệt giam, không có án.
Trong suốt thời gian từ khi ông tham gia NVGP năm 1956 đến tháng 5/61, khi ông bị bắt, Phùng Cung vẫn sáng tác đều, không hề nhụt tay trong sự lên án chế độ.
Tháng 11/1972 được tha về. Phùng Cung làm nghề thợ đinh, vẫn âm thầm sáng tác, vẫn bị công an đến thăm dò và kiểm soát. Ông phải chép bản thảo làm nhiều bản gửi nhiều nơi. Phùng Cung mất năm 1998 tại Hà Nội.
________________________________________
(492) Phùng Hà Phủ, Nhà thơ Phùng Cung, in trong cuốn Phùng Cung truyện và thơ chưa hề xuất bản (Văn Nghệ, California 2003); in lại trong cuốn Phùng Cung (Trung Tâm Dân Chủ Cho Việt Nam, Canada 2004) và Talawas.
(493) Phùng Hà Phủ, bđd.
(494) Đăng trên Nhân Văn số 4.
|
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê | |
| |
| | | |
Similar topics | |
|
Trang 12 trong tổng số 19 trang | Chuyển đến trang : 1 ... 7 ... 11, 12, 13 ... 15 ... 19 | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |