Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 01:16

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:03

KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Yesterday at 16:45

KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30

SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22

Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22

NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20

KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08

Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54

Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10

7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10

Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13

Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07

Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36

Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09

Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46

Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06

Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04

DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19

Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37

Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34

TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17

CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05

Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04

Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39

Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41

Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3 ... 10 ... 19  Next
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 I_icon13Wed 27 Apr 2016, 09:43

Lịch trình Nhân Văn - Giai Phẩm

● Vai trò của các tướng Nguyễn Chí Thanh, Lê Liêm, Lê Quang Đạo, Võ Hồng Cương, Trần Độ

Trong quân đội, thời ấy, đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tổng Tư Lệnh, đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, quyền lực ngang ngửa nhau. Tướng Lê Liêm, phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị; Lê Quang Đạo, cục trưởng Cục Tuyên Huấn và Võ Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn.

Theo Hoàng Cầm, tướng Nguyễn Chí Thanh đã có lần bênh vực ông trong buổi văn nghệ mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, do ông tổ chức theo yêu cầu của tướng Giáp. Trong buổi trình diễn, Hoàng Cầm đưa ra màn hát màn quan họ, có câu: "Yêu nhau cởi áo cho nhau", bị một người đứng lên hô hào cử tọa đả đảo đồi trụy, nhưng tướng Thanh lên sân khấu bênh vực, dẹp tiếng đả đảo, để nghệ sĩ tiếp tục trình diễn. Khi tướng Thanh về làm chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, cai quản khoảng một trăm văn nghệ sĩ, ông đề nghị Hoàng Cầm phân phối người đến dậy ông về nghệ thuật, như Mai Văn Hiến về hội họa, Nguyễn Đức Toàn về âm nhạc, Văn Chung về múa, Thanh Tịnh về viết... (31)

Tướng Nguyễn Chí Thanh cũng để cho Trần Dần và các bạn hội họp bàn về tự do sáng tác, nhưng sự phẫn nộ củaông khi nghe Trần Dần đọc bản dự thảo, chứng tỏ ông là người bảo thủ. Hoàng Cầm cho rằng, ở thời điểm 1954-1955, ông bị ảnh hưởng nặng nề chính sách của Mao Trạch Đông.
Nhưng khi Trần Dần bị bắt lần thứ nhì, dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện, dù tự ý hay do chỉ thị của Phạm Văn Đồng, ông cũng đã can thiệp cứu Trần Dần. Nhưng rồi cũng chính tướng Nguyễn Chí Thanh đã trao cho người bà con Vũ Tú Nam toàn bộ tư liệu về Trần Dần, kể cả 2 lá thư Trần Dần viết để xin ra khỏi đảng năm 55, để họ Vũ có đủ tư liệu viết bài đánh Trần Dần (32). Phải chăng ông muốn Vũ Tú Nam, ghi lại cho hậu thế những điều Trần Dần đòi hỏi dân chủ trong bản dự thảo?

Về Nhân Văn, Nguyễn Chí Thanh không viết bài đả kích, nếu ai hỏi về Nhân Văn, ông chỉ nói: "Ôi giời! mấy cậu văn nghệ sĩ nó cứ hay tự do chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa ấy mà!" (33) Trường hợp Nguyễn Chí Thanh vẫn còn là một nghi vấn: Ông bênh vực dân chủ hay ông là người cộng sản giáo điều?

Ngoài Nguyễn Chí Thanh, bản dự thảo còn được ai ủng hộ, khiến nó "sắp được thông qua" như lời Hoàng Cầm?

Theo phân tích của Boudarel, thì bản dự thảo này được sự ủng hộ của ba tướng tá cao cấp trong Tổng Cục Chính Trị: Lê Quang Đạo, Trần Độ, và nhất là Lê Liêm:

"Ở những buổi thảo luận nội bộ năm 1955 trong quân đội, có những cán bộ cao cấp ủng hộ nhóm văn nghệ sĩ đòi hỏi quyền tự do sáng tác, nhưng không ai chỉ rõ tên họ ra, rất có thể bởi vì muốn tránh cho họ rơi vào hoàn cảnh khó xử trước những đồng nghiệp quyết liệt. Duy có hai người, hai tướng chính uỷ Trần Độ và Lê Liêm là dễ nhận ra, nhưng cũng không chỉ có hai người đó. Một văn bản chứng minh rằng vào mùa thu năm 1956, tướng Lê Quang Đạo cũng can thiệp khi vụ việc xẩy ra. Nhưng trong chiều hướng nào? Lúc đó ông là cục trưởng cục Tuyên Huấn (34)".

Boudarel phác họa chân dung Lê Quang Đạo, Lê Liêm và Trần Độ, ba tướng lãnh trong Tổng Cục Chính Trị ủng hộ những nhà văn trẻ. Ông phân tích những khúc mắc trong hành động của họ, khi ủng hộ tự do sáng tác và mở rộng dân chủ, lúc phải lùi bước trở lại vị trí chính thống. Điều đặc biệt đáng chú ý là trong suốt thời kỳ NVGP, Boudarel không tìm thấy văn bản nào của các tướng lãnh trong Tổng Cục Chính Trị lên án phong trào.

Cuốn Bọn Nhân văn Giai phẩm trước toà án dư luận tập hợp những bài viết của hơn 80 văn nghệ sĩ và trí thức "dân sự". Trong các bài mà chúng tôi thu thập được trên báo quân đội, có bài Một vài ý kiến góp với bạn đọc (35) của tướng Lê Liêm, lời lẽ nhẹ nhàng, chẳng có ý khiển trách mà còn như bênh vực NVGP.

Theo lời Hoàng Cầm và Trần Duy, Võ Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn, là người hiền hoà, rất gần gũi với anh em. Sau vụ Thái Hà ấp, ông là người được chỉ định viết bài tổng kết đánh NVGP, với bài Cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận văn nghệ hiện nay ký tên Hồng Cương (36), giọng tuy sắt đá, nhưng thâm tâm hình như có ý hỗ trợ: ông chỉ trình bày những đòi hỏi tự do dân chủ của nhóm NVGP cho hậu thế biết, mà không buộc tội họ một cách độc ác như các ngòi bút "dân sự".

Tướng Lê Liêm, phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, một trong những tướng tài ở Điện Biên Phủ, hết sức ủng hộ văn nghệ sĩ. Trong cuộc thanh trừng NVGP, ông giữ một sự im lặng đầy ý nghĩa. Năm 1958, trở thành thứ trưởng Văn Hoá, tuy thăng chức, nhưng không có quyền, bắt đầu sự thất sủng. Phản đối việc thân Tàu, chống Nga. Năm 1965, ông làm thứ trưởng Giáo Dục, năm 1968, trong một bài diễn văn về việc cải tạo giáo dục, Lê Liêm trở lại quan điểm chính thống. Năm 1974, người ta đồn ông bị khai trừ khỏi đảng cùng với Ưng Văn Khiêm, tướng Nguyễn Văn Vịnh và Bùi Công Trừng, vì tội thân Nga. Lê Liêm là một khuôn mặt cởi mở, chấp nhận đối thoại.

Tướng Lê Quang Đạo, cục trưởng Cục Tuyên Huấn, theo lời Hoàng Cầm, "giáo điều", "máy móc", và xa cách hơn, có lúc ông đã kiểm duyệt một vở kịch của Hoàng Cầm, nhưng theo Boudarel, chắc ông cũng đã tác dụng vào những cuộc tranh luận văn học nội bộ trong thời kỳ này, và sau vụ NVGP, ông vẫn tiếp tục con đường cởi mở đến thập niên 80. Năm 1982, ở đại hội V, khuynh hướng bảo thủ thắng thế. Đến 1987, làm chủ tịch quốc hội, ông tiếp tục cổ động cho công cuộc đổi mới.

Trần Độ kiên trì trong quan điểm dân chủ hoá đất nước. Sau Nhân Văn, ông trở lại chiến trường. Dường như ông chỉ tạm thời lùi bước năm 1956 để tiến mạnh hơn, ba mươi năm sau. Năm 1982, trực diện với sự bảo thủ của Hà Xuân Trường trong đại hội V, Trần Độ thua cuộc, nhưng đến năm 1986, khi làm trưởng ban Văn Hoá Tư Tưởng Trung Ương, dưới sự cởi mở của Nguyễn Văn Linh, Trần Độ trở lại vai trò chủ đạo cho công cuộc đổi mới văn học.

Vậy có thể xác định: Trong vụ thanh trừng NVGP, quân đội đứng ngoài. Quân đội sạch tay hơn dân sự.

Nói như Boudarel: "Tất cả những vấn đề cơ bản đều quy về những năm 1955-1956".

Như vậy, NVGP mở đầu cho tinh thần đấu tranh tự do tư tưởng, cho việc đổi mới văn học, tinh thần này không chấm dứt khi phong trào bị dập tắt, chỉ ngủ yên trong ba mươi năm rồi lại bùng lên những năm 1987- 88.
_________________
(31) Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
(32) Boudarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, trang 100 và 126.
(33) Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
(34) Boudarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, trích dịch trang 101.
(35) Quân Đội Nhân Dân số 301, ngày 27/11/1956.
(36) Văn Nghệ Quân Đội số 6, tháng 6/1958.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 I_icon13Wed 04 May 2016, 15:41

Lịch trình Nhân Văn - Giai Phẩm

● Trần Dần, Tử Phác bị bắt


Vì hai sự kiện: phê bình thơ Tố Hữu và đề nghị cải cách chính sách văn nghệ quân đội, mà Trần Dần và Tử Phác bị kỷ luật, bị giam từ 13/6/55 đến 14/9/55. Nhưng về mặt "chính thức", Trần Dần bị kỷ luật vì lẽ khác: về chuyện tình cảm, yêu một người con gái có đạo -Cô Khuê, vợ Trần Dần sau này- cha mẹ đã đi Nam, không được đảng cho phép cưới, tự ý bỏ trại, về với người yêu ở phố Sinh Từ và không chịu lên trình diện. Tử Phác cũng không chịu lên trình diện.

Về việc này, Boudarel có những phân tích thỏa đáng:

"Đối với Trần Dần, trận bút chiến trong ba tháng đầu năm 1955 đi đôi với sự tranh đấu không cân bằng trong Cục Chính Ủy quân đội về vấn đề lý thuyết chính trị và nhân sự, cả hai đan cài khó gỡ. Việc bản dự thảo bị hủy bỏ đối với Trần Dần là một thất bại, nhưng cũng không đau đớn bằng việc bị các bạn đồng hành bỏ rơi, chạy sang phe bên kia. Vì lý do sức khỏe, Trần Dần xin nghỉ một thời gian để thoát khỏi trại binh. Mãi không thấy cấp trên trả lời, anh tự ý bỏ trại về nhà người bạn gái ở phố Sinh Từ. Hai lần cấp trên gọi về chờ lệnh, anh đều từ chối. Bị kiểm thảo vắng mặt, và có lẽ bị trừng phạt nữa, bởi vì trong lần gọi thứ ba, anh đòi hủy bỏ những quyết định chống lại anh. Những phê phán Trần Dần phạm quân kỷ đi đôi với việc trật tự trở lại trong văn nghệ quân đội. Mãi không thấy gì mới, đến giữa tháng 5/1955, Trần Dần viết hai lá đơn xin ra khỏi đảng và ra khỏi quân đội (một cho đảng và một cho quân đội) trong đó anh trình bày những lý lẽ của mình với một sự thẳng thắn, đến độ ngây thơ lạ lùng (37)".

Đây là lần thứ nhất Trần Dần, Tử Phác bị giam, thật ra bị cấm trại, không phải tù. Trong thời gian này, Trần Dần viết bài thơ dài Nhất định thắng trao bản thảo cho Lê Đạt giữ (38). Hết cấm trại, Trần Dần và Tử Phác được về nhà, và hơn tháng sau, cả hai bị gửi đi tham gia Cải Cách Ruộng Đất tại Yên Viên, Bắc Ninh, từ 2/11/1955 đến giữa tháng 2/1956.

Trong khi ấy Hoàng Cầm và Lê Đạt ra Giai Phẩm Mùa Xuân.

Tháng 1/1956, Giai Phẩm Mùa Xuân xuất hiện, đăng bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần. Sách vừa phát hành, Lê Đạt bị gọi lên Tuyên Huấn để kiểm thảo. Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu.

Lê Đạt kể lại trên RFI:

"In ra được một tuần thì thấy ảnh hưởng của nó ghê gớm quá, tôi với anh Trần Dần cũng không ngờ. (...) Nhưng mà đồng thời dông bão cũng đã bắt đầu thấy xuất hiện ở trên vòm trời rồi. Hôm tôi đến Hội, tôi gặp cụ Phan Khôi. Cụ Phan Khôi bảo: "Này, gay go đấy nhé!" Tôi bảo: "Cái gì mà gay go hở cụ?" Hôm nọ Tố Hữu đến đây phê phán Giai Phẩm Mùa Xuân nặng lắm và nói rằng: "Lũ này là lũ phản động", thì tôi (Phan Khôi) có nói rằng: "Phản động hay không phản động chưa biết, cứ biết rằng người ta nói mình không bằng lòng thì mình viết, rồi để cho người ta trả lời", thì Tố Hữu nói ngay rằng: "Thừa giấy cho chúng nó viết à?" Phan Khôi bảo tôi: "Cẩn thận!" Rồi chúng tôi chia tay nhau. Lúc đó đi đâu cũng thấy người ta nói đến Giai Phẩm Mùa Xuân. Bấy giờ là gần Tết rồi và hôm ấy, vào khoảng độ 28 Tết (9/2/1956) trên đường đi tôi gặp một người liên lạc của tôi, đang đi tìm tôi, bảo rằng: "Anh Tố Hữu có điện đi tìm anh và nói rằng mời anh lên Tuyên Huấn để kiểm thảo".(... ) Tôi bảo với cậu liên lạc: "Bây giờ em về, em cứ nói với cơ quan là không tìm thấy anh, rồi sau Tết anh sẽ lên". Tôi nghỉ ăn Tết xong, mùng 5 Tết (16/2/1956) tôi lên gặp Tố Hữu. Lên, thì lúc ấy Tố Hữu ở trên gác, một anh chánh văn phòng xuống gặp tôi, nói rằng: "Anh đợi một lúc, anh Tố Hữu sẽ xuống!" (...) Trong lúc ngồi ghế đợi, tôi thấy quyển Giai Phẩm Mùa Xuân để trên bàn, bài Nhất định thắng của Trần Dần với rất nhiều câu hỏi của anh Lành (Tố Hữu) đánh bằng bút bi đỏ, ở chung quanh. Nói ghê lắm. Còn bài Mới của tôi, thì bên cạnh câu: Bay cho cao, bay cho xa, anh Tố Hữu có đề câu hỏi: Bay đi đâu? Có phải bay vào miền Nam không? (...) Lúc đó, anh Tố Hữu đi trên gác xuống (...) Câu đầu tiên anh nói với tôi rất lạnh lùng: "Các anh muốn gì?". Tôi hơi bực mình, tôi trả lời: "Chúng tôi chẳng muốn gì cả, chúng tôi chỉ muốn làm văn nghệ. Anh Tố Hữu này, chúng ta vẫn còn là đồng chí với nhau, cho nên anh không thể xử sự với tôi như người ngoài được. Có gì anh cứ nói một cách bình tĩnh." Lúc ấy anh Tố Hữu nghĩ thế nào, mới rút một điếu thuốc lá mời tôi và chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Câu đầu tiên mà anh Tố Hữu nói là: "Tôi rất lo cho tương lai chính trị của anh. Anh thì còn là người ở trong nội bộ, còn Trần Dần hỏng rồi. Chúng tôi đã có tài liệu rằng Trần Dần là có bàn tay của địch dúng vào. Vì anh còn là người của nội bộ cho nên chúng tôi mời anh đến đây kiểm điểm. Anh phải ở lại đây 15 ngày để kiểm điểm và để anh thấy rõ bộ mặt phản động của Trần Dần."

Thế là tôi ở lại đấy ăn cái Tết kiểm thảo 15 hôm (39) (...) Trong 15 ngày thì có một cuộc Hội Nghị rất lớn, hầu hết các nhân vật sừng sỏ nhất của Tuyên Huấn, nào là anh Kỉnh này, Kỉnh là Trung ương Ủy viên và là phó ban Tuyên Huấn, Nguyễn Chương này. Nguyễn Chương, anh em quen gọi là Xứ Chương, là một cán bộ kỳ cựu sừng sỏ về lý luận (sau này cuộc tranh luận giữa Xứ Chương và Nguyễn Hữu Đang trên báo được rất nhiều độc giả lưu ý). Cả thiếu tướng Lê Chưởng... nhiều, nhiều lắm. Cuộc họp rất to, mà ở bên này chỉ có tôi thôi
(cười). Một người thì không thể nào cãi lại được tất cả mọi người. Nhưng tôi cãi được một điểm duy nhất mà tôi có thể cãi lại, và tôi cho là đúng, đó là:" Tôi không thể nào căn cứ vào một văn bản mà kết luận một người (tức Trần Dần) là phản động được". (...)

Tóm lại, cuộc đấu tranh rất căng thẳng. Sau đó, tôi được thả về vì đến đấy coi như đã xong và anh Dần cũng đã bị bắt rồi. Tức là cùng lúc tôi bị gọi lên kiểm điểm ở Tuyên Huấn thì anh Dần bị bắt ở chỗ cải cách ruộng đất. Trần Dần bị bắt cùng với Tử Phác, (...) Ba hôm sau, anh Dần cứa cổ tự tử" (40).

Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho biết:

"Ít ngày sau khi tịch thu Giai Phẩm Mùa Xuân, Tố Hữu triệu tập đại hội toàn thể các cán bộ Tuyên Huấn miền Bắc để phê bình Giai Phẩm Mùa Xuân, họp từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Trong hội nghị này, vai trò của Chế Lan Viên nổi bật. Trần Đĩnh (41) làm việc trong báo Nhân Dân, đi dự hội nghị kể lại với tôi: Tố Hữu khai mạc, Chế Lan Viên "nổ phát súng đầu tiên" lên án -không phải lên án tập sách mà lên án một bài thơ của Trần Dần thôi- rằng nó đã bôi ra một bức tranh u ám của miền Bắc. Trong khi chúng ta đang phấn khởi, tưng bừng đón chế độ mới, mà lại nói "mưa sa trên mầu cờ đỏ" là thế nào? Rõ là mầu cờ cách mạng. Đem quệt một cái màu hết sức u tối lên trên cờ Đảng, là bôi nhọ thành tích của Đảng, của nhân dân. Rõ ràng là một câu thơ hết sức phản động... Tiếp theo Chế Lan Viên, mọi người ào ào lên phát biểu đả kích Trần Dần..., không ai bênh vực.

Vẫn theo lời Hoàng Cầm kể lại lời Trần Đĩnh, đến 5 giờ chiều, tan họp, chỉ còn lại độ 5,7 người, Tố Hữu mới hỏi Văn Phác: Thế bây giờ chúng nó đâu? Văn Phác trả lời:

"Báo cáo anh, hai anh ấy (42) đang đi cải cách ruộng đất ở bên kia huyện Gia Lâm". Trần Đĩnh cũng chỉ nghe đúng sáu tiếng: "Gọi nó về, giam nó lại!" (43). Với thông tin của Lê Đạt và Hoàng Cầm, chúng tôi xin tạm dựng lại bối cảnh:

Trong hạ tuần tháng 2/1956 có hai đại hội quan trọng: Đại Hội Tuyên Huấn, họp từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều, trong nội bộ tuyên huấn, và Đại Hội Văn Nghệ, do Hội Văn Nghệ tổ chức, 150 người dự, từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng, ở 51 Trần Hưng Đạo. Số phận Trần Dần đã được trung ương quyết định từ trước hai đại hội. Tố Hữu, Chế Lan Viên, gọi đó là "tội phản động", còn Lê Đạt "tội" nhẹ hơn, vì là người của Tuyên Huấn. Lê Đạt bị gọi lên Tuyên Huấn từ 9/2/56, nhưng đến 16/2/56 mới lên trình diện Tố Hữu và bị giữ lại kiểm thảo 15 ngày. Trong thời gian này, Tố Hữu triệu tập Đại Hội Tuyên Huấn. Đại hội này xẩy ra sau ngày 16/2, Chế Lan Viên khai ngòi tuyên cáo tội trạng Trần Dần. Nếu Hoàng Cầm kể đúng lời Trần Đĩnh, thì Trần Dần, Tử Phác bị bắt sau Đại Hội Tuyên Huấn, tức là vào hạ tuần tháng hai.

Đại Hội Văn Nghệ họp ở 51 Trần Hưng Đạo lập lại kịch bản đánh Trần Dần đã tập dượt trong Đại Hội Tuyên Huấn. Phan Khôi tham dự Đại Hội Văn Nghệ và trong bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, ông cảnh cáo các lãnh đạo văn nghệ như sau:

"Hội Văn Nghệ khai hội từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng để phê bình bài thơ Trần Dần, mà kỳ thực là hỏi tội Trần Dần, một mầm non văn nghệ. Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa lũ người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công".


Trần Dần và Tử Phác bị bắt. Bị giam dưới hầm, Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện. Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh ngày 21/2/56 và được tha ngày 5/5/56 (44).

Hoàng Cầm viết trong bài Con người Trần Dần trên Nhân Văn số 1 như sau:

"Giai Phẩm Mùa Xuân bị kết tội, bài thơ "Nhất định thắng" bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù: Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam".

"Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội"
(45).

Nguyễn Chí Thanh đọc bài Con người Trần Dần, cử Lê Quang Đạo triệu Hoàng Cầm lên để giải thích. Theo lời "thú nhận" của Hoàng Cầm, sau khi nghe Lê Quang Đạo, ông đã viết bài đính chính rằng có nhìn thấy công lao của quân đội đối với Trần Dần, nhưng ông vẫn thêm vào đoạn cuối: "Việc bỏ tù Trần Dần là quá đáng, đến nỗi Trần Dần phải tự tử, và tôi vẫn viết một câu đại ý: Đồng chí Tố Hữu là người phụ trách toàn bộ công tác lãnh đạo văn nghệ, phải chịu trách nhiệm về việc này" (46). Bài đính chính của Hoàng Cầm không đăng trên Nhân Văn.

Và đây là lời buộc tội của Tố Hữu:

"Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái "điệu tâm hồn" ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đọa.(...) Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là "những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra". Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên "tiếng trống tương lai" chửi cán bộ chính trị là "người bệnh", "người ròi" [dòi], "người ụ". Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh "buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu" của họ. Họ đòi thực hiện những gì? "Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội Văn Nghệ trực thuộc Hội Văn Nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính trị". Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ" (47).

Như vậy, có thể nói, Tố Hữu đánh theo chỉ thị, nhưng tư thù là một trong những động lực chính.
_________________
(37) Boudarel, sđd, trang 125-126.
(38) Theo Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1.
(39) Tức là từ 16/2/1956 đến 2/3/1956.
(40) Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
(41) Trần Đĩnh là một trí thức bạn thân của Hoàng Cầm, Lê Đạt.
(42) Trần Dần và Tử Phác.
(43) Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
(44) Theo Boudarel, sđd, trang 46. Chúng tôi dùng thoại của Boudarel, vì tin rằng Boudarel đã thấy hoặc có tài liệu về bức thư viết ngày 21/2/56. Xin xem thêm thoại của Hoàng Cầm ở phần dưới: Tại bệnh viện, bác sĩ điện thoại cho thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông Đồng trao cho tướng Thanh giải quyết. Có thể cả hai thoại đều đúng: Tướng Thanh sau khi gặp Trần Dần ở bệnh viện đã dặn Trần Dần phải viết thư khiếu nại cho ông, để ông có thể can thiệp hữu hiệu hơn.
(45) Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1.
(46) Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
(47) Tố Hữu, Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm "Nhân Văn-Giai Phẩm",
BNVGPTTADL, nxb Sự Thật, Hà Nội 1959, trang 22-24.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 I_icon13Mon 20 Jun 2016, 12:58

Lịch trình Nhân Văn - Giai Phẩm

Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần

Về việc Trần Dần cứa cổ, chỉ có Hoàng Cầm kể lại, trong bài cải chính -không in- mà Hoàng Cầm nhắc đến ở trên. Trong buổi nói chuyện với RFI, ông thuật lại ít nhiều chi tiết. Đặc biệt trong hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, đoạn ghi lời của Hoàng Cầm về việc Trần Dần, rõ hơn:

"Hồi Hoàng Cầm cho in tập Giai Phẩm Mùa Xuân, có đăng bài của Trần Dần, Tử Phác. Tố Hữu triệu tập mấy người đến họp: Hoàng Cầm, Văn Phác (phụ trách tổ chứcBộ Văn Hoá), Chế Lan Viên ... Tố Hữu cầm cuốn Giai Phẩm Mùa Xuân, hỏi mọi người: "Các anh thấy tập sách này thế nào?" Không ai dám trả lời, vì không đoán được ý Tố Hữu.

Chế Lan Viên nhanh trí, đoán trúng ý thủ trưởng. Anh nói:

"Cuốn sách đại phản động!"

Tố Hữu hỏi Văn Phác: "Hiện nay chúng nó đang ở đâu?" Văn Phác: "Thưa, các anh ấy đang đi thực tế ở Yên Viên".

Tố Hữu ra lệnh - Hoàng Cầm nhớ đúng sáu tiếng: "Gọi nó về, bắt lấy nó!"

Thế là Văn Phác làm giấy tờ để bắt Trần Dần, Tử Phác."


Và đây là lời kể của Trần Dần, Hoàng Cầm thuật lại:

"Chiều hôm ấy, có một cái xe ô tô nhà binh đến Yên Viên. Họ gọi Trần Dần, Tử Phác ra và lập tức bịt mắt. Trần Dần kịp thấy trên xe có lính mang súng, lưỡi lê tuốt trần. Hoàng Cầm nói, Trần Dần là tay thần kinh rất vững. Anh ta bình tĩnh lắng nghe để đoán xem xe đi đâu. Qua một cái cầu dài. Thế là vào Hà Nội. Nhưng xe lại chạy tiếp khá lâu. Thế là đi quá Hà Nội. Đến một chỗ nào đấy, xe đỗ lại. Người ta dắt Trần Dần, Tử Phác, đi xuống một địa điểm ở sâu dưới đất - vì cứ thấy xuống nhiều bậc, xuống mãi. Đến một độ sâu nào đấy, họ dừng lại và đẩy Trần Dần vào một căn hầm, đóng cửa lại. Trần Dần nghĩ bụng, chắc bị thủ tiêu. Thủ tiêu ở đây thì ai biết được? Coi như mất tích. Anh nghĩ phải tìm cách lên được mặt đất.

Sáng ra, thấy đây là một cái hầm đào sâu dưới đất. Ánh sáng lọt xuống từ nóc hầm qua một ô cửa có chấn song, ở trên thoáng thấy có bóng một anh lính gác.

Trần Dần thấy trong hầm có một cái phản gỗ và một bình nước. Anh kéo cái phản ra chỗ ánh sáng từ trên nóc hầm rọi xuống, cởi áo ngoài, để phơi áo sơ mi trắng bên trong ra, lấy một cái mince lame trong túi, nằm ngửa lênphản, dùng lưỡi dao cứa vào cổ cho máu phun ra ngực áo, rồi giẫy đạp ầm ĩ, cốt cho anh lính gác nghe thấy. Anh lính gác nhìn xuống thấy thế hoảng quá: Nó tự tử, phải đưa cấp cứu ngay! Một lát sau, cửa hầm mở, người ta đưa Trần Dần đi cấp cứu ở một bệnh viện gần đó. Té ra là bệnh viện Hà Đông. Ở đây, Trần Dần may vớ được một người quen bèn viết mẩu giấy nhờ đưa đến Tổng Cục Chính Trị nơi anh công tác. Nguyễn Chí Thanh lập tức đến bệnh viện và ra lệnh tha ngay cả Trần Dần và Tử Phác.

Hoàng Cầm rất phục Trần Dần. Thằng cha thần kinh rất vững. Hoàng Cầm cũng từng bị bắt giam. (Ông nghe Hoàng Hưng, định đưa tập thơ Về Kinh Bắc sang Pháp in). Ông nói: "Tôi nhát lắm, mọi tội tôi xin nhận hết" (Hết hạn tù, người ta cho ra, còn xin ở lại viết kiểm thảo. Tô Hoài cho tôi biết thế). Sợ nhất là trong tù cứ thấy tiếng phát ra đều đều không biết từ đâu: Khai thật đi! Khai thật đi! Khai thật rồi về với vợ con!

Chuyện nghe khá sợ. Một hình thức khủng bố về tâm lý. Chẳng biết Hoàng Cầm có thêm thắt gì vào sự thật không. Nhưng quả là đáng sợ. Hoàng Cầm cũng hay tưởng tượng thêu dệt thêm ra nữa (48)".

Hoàng Cầm kể lại việc bắt Trần Dần

Trong băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ông kể rõ nhiều chi tiết hơn:

Việc này Trần Dần kể lại với tôi và Lê Đạt như sau:

Khi ấy tao đang đi cải cách ruộng đất, tao và Tử Phác mỗi người ở một nhà. Một đêm ra ngoài Tết, vào khoảng 12 giờ khuya, tao đang ghi chép, thì thấy đèn pin lấp loá ngoài sân, rồi có tiếng quát: Trần Dần đâu? Có người sập cửa liếp, tao ra mở thì có người hỏi: Anh là Trần Dần phải không? Rồi đọc lệnh bắt, ký tên Ngô Minh Loan, cục trưởng Cục QuânPháp. Họ bảo tao sắp hết đồ đạc vào ba lô, rồi ra sân. Ra sân thì họ bịt mắt rồi đẩy lên thùng xe, tao nghe tiếng vũ khí tuốt trần chạm nhau. Xe đi độ một lúc, thì qua cái cầu, tao đoán là cầu Yên Viên, sông Đuống. Đi lúc lâu nữa thì đến một con đường phẳng phiu, tao đoán là quốc lộ số 1, rồi qua một cái cầu rất dài, chắc là cầu Long Biên. Đi khoảng một tiếng nữa thì xe dừng, họ nhấc tao xuống, dẫn đi độ dăm phút thì bắt đầu đi xuống, chân chạm các bậc đá, khá cao, tao đếm đúng 37 bậc, vai vẫn đeo ba lô. Xuống đến nơi thì nghe họ mở xích sắt, rồi họ đẩy tao vào. Đến lúc họ tháo băng ra thì mình vẫn thấy tối mù, hai người lính đi lên, lại khoá xích lách cách. Tao nhìn tít lên cao thấy một khoảng sáng mờ độ bằng bàn tay, thỉnh thoảng có ánh đèn pin chiếu xuống, nhờ đó mà tao thấy cái hầm nhốt mình rộng độ hai mét vuông, có cái phản làm bằng hai tấm ván kê trên hai mễ gỗ, một bình nước và cái bô vệ sinh. Tao thấy mệt, nằm xuống ngũ đã. Tỉnh dậy trời đã sáng, qua cái lỗ bé tý trên đỉnh, vẫn thấy đèn pin thỉnh thoảng chiếu xuống. Tao nghĩ mãi không biết mình bị bắt vì tội gì, thằng nào bắt, mà nó giam kiểu này thì tội nặng lắm. Bấy giờ ở Phòng Văn Nghệ quân đội cũng nhiều đứa ghét mình, như loại Vũ Tú Nam, Vũ Cao... Thôi, cứ nghỉ một ngày cho thoải mái đã, tao nằm một lúc thì thấy trên lỗ ném xuống một gói, mở ra thấy hai nắm cơm, kèm gói muối. Tao thấy đói, ăn ngon lắm, lại nằm, lại nghĩ, cứ bình tĩnh, cố giữ tâm hồn thanh thản... Qua hai đêm sau, tao điểm tên những gười có thể ra lệnh bắt, trong quân đội thì chỉ có thể là ông Nguyễn Chí Thanh, không thì ông Lê Quang Đạo, hay ông Lê Chưởng. Có thằng Văn Phác, là chính ủy trung đoàn lên làm trưởng Phòng Văn Nghệ nó cũng ghét tao lắm. Ngô Minh Loan chỉ là cục trưởng Quân Pháp thì ký lệnh thôi, chủ trương bắt đến từ người khác. Chắc tại mình bướng làm bản kiến nghị 36 điều, tại thế chăng? Bây giờ phải làm sao thoát được chỗ này, phải lên được mặt đất, chứ nằm dưới hầm, mỗi ngày nó ném cho hai lần, hai nắm cơm, không ai hỏi han gì, không ai biết ở đâu, chắc vài tháng thì chết. Đây là âm phủ rồi. Phải làm sao lên được trần gian. Nghĩ ngợi tính toán, nằm thêm một đêm nữa, sáng hôm thứ ba tao nghĩ ra: nó bắt giam thế này là tội to, mà tội to thì còn phải hỏi cung, nó không thể để cho mình chết. Nó bảo cô Khuê vợ mình là gián điệp cài lại, thì chắc nó cho mình đã đi theo địch, hay ở trong tổ chức nào của địch gài lại chăng? Vậy nó phải để cho mình sống để moi móc tài liệu. Tao mới nghĩ cách lên mặt đất bằng giả chết, bắt buộc nó phải cho lên mặt đất, giữ mình sống để còn điều tra. May trong ba lô của tao còn hộp dao cạo, có hai mince lame, một còn mới, vậy tao phải đổ máu tại đây. Tao lấy trong ba lô cái chemise trắng mặc vào, nằm thẳng trên ván, kéo hết sức da cổ ra, cắt đứt, cho máu tứa ra cái áo chemise trắng, rồi tao đập chân đập tay vào ván, thế thì trên nó quét ngay đèn pin xuống, thấy máu trên nền chemise trắng, nó nghĩ ngay tên tù này định tự tử. Quả nhiên chỉ một phút sau là cửa xích sắt mở và 2, 3 thằng xuống khiêng tao lên. Tao giả vờ chết đến nơi, xỉu đi, thế là chúng nó đưa ngay vào bệnh viện cấp cứu, Viện 103, là một trong những quân y viện lớn nhất của quân đội, cách thị xã Hà Đông 3, 4 cây số.

Tên đại đội trưởng ra lệnh cho bác sĩ cấp cứu ngay: "Đây là một tên tội phạm tội to lắm, trên giao cho chúng tôi bảo vệ nó, mà để nó tự tử thì chúng tôi bị kỷ luật". Tao được ưu đãi lắm, trưa hôm ấy họ cho ăn cháo gà. Nghĩ lại mình quá may, nếu không có mince lame thì làm sao lên được mặt đất. Đến chiều thì người bác sĩ trực mới lân la hỏi chuyện: "Anh là Trần Dần chứ gì, tôi đã gặp anh ở Sơn La, anh không nhớ à?" Lại hỏi: "Sao anh xử sự thế này, ai bắt anh?" Tao chỉ trả lời vắn tắt: "Chuyện nó dài lắm, lúc khác anh em mình nói chuyện". Anh bác sĩ kể, lúc họ đưa anh vào đây, tôi có điện thoại cho anh Phạm Văn Đồng, tôi nói: "Thưa thủ tướng, tại sao anh Trần Dần đi chiến dịch Điên Biên, viết Người người lớp lớp mới đây, mà lại bị bắt, lại tự tử?" Tôi nghe đầu kia ông Đồng hét lên: "Cái gì? Làm sao? Ai bắt?" Rồi tôi nghe trong máy có giọng ông Nguyễn Chí Thanh, ông Thanh hơi gắt: "Sao thế nhỉ? Sao chuyện ấy tôi lại không biết? Thôi được rồi, anh cứ để tôi giải quyết ngay lập tức". Thế là ông Thanh điện thoại lại Quân Y Viện, căn dặn chúng tôi là tên tội phạm to thì phải chữa cho thật khỏe lên, sáng mai 9 giờ tôi sẽ xuống bệnh viện. Hôm sau ông Thanh xuống, mang theo một nải chuối và hai cân cam, ông nói với tao: "Anh Dần buồn cười nhỉ, tại sao lại phải tự tử? Anh là đảng viên, có gì thì phải viết thư cho tôi, phải ở trong tổ chức, nếu tôi không giải quyết được thì đề đạt lên Bộ Chính Trị, mà trên nữa còn Hồ Chủ Tịch". Tao trả lời: "Nếu tôi không tự tử thì làm sao gặp được anh hôm nay?" - "Thế anh giả vờ chứ gì?" - "Vâng, tôi giả vờ, nhưng nếu không làm thế thì tôi chết ở đâu anh cũng không biết". Ông Thanh dịu giọng: "Thôi nằm tĩnh dưỡng đi rồi còn về làm việc" (49).

Thoại của Hoàng Cầm, theo ông, là do Trần Dần kể lại, chắc gần sự thực hơn cả nhưng không thấy ông nói đến việc Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh. Vậy có thể hiểu: Khi tướng Nguyễn Chí Thanh xuống bệnh viện thăm, có thể chính ông Thanh đã căn dặn Trần Dần phải viết lá thư trần tình để ông dễ bề can thiệp. Lá thư này đã được Boudarel nhắc đến và Vũ Tú Nam sử dụng.


Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu, Lê Đạt bị kiểm thảo. Trần Dần bị kết tội phản động. Trần Dần, Tử Phác bị bắt. Sự khủng bố trở nên công khai nhưng cũng mở màn cho một phong trào đấu tranh cho dân chủ rộng lớn hơn, nửa năm sau.

Vậy nội dung Giai Phẩm Mùa Xuân chứa đựng những gì?

_________________
(48) Trích Hồi Ký Nguyễn Đăng Mạnh, chưa in.
(49) Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 I_icon13Wed 22 Jun 2016, 09:51

Chương 3
Giai Phẩm Mùa Xuân


Giai Phẩm Mùa Xuân do Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương. Hoàng Cầm trong bài Con người Trần Dần (50), và sau này, trả lời phỏng vấn RFI, đều xác nhận Trần Dần không biết gì về việc in bài thơ Nhất định thắng vì lúc đó đang tham gia Cải Cách Ruộng Đất ở xa. Có lẽ là để gỡ tội cho Trần Dần. Sự thực Trần Dần có tham gia Giai Phẩm Mùa Xuân: Sau khi bị bắt lần thứ nhất, bị cấm trại 3 tháng, Trần Dần và Tử Phác bị gửi đi tham gia Cải Cách Ruộng Đất. Trong lời "thú tội", Trần Dần viết: "Sau thời gian đó, trên có cho tôi đi tham quan cải cách ruộng đất để tự cải tạo. Song, tôi lại dựa vào cái thế tham quan, cứ đi lại Hà Nội, tiếp tục quan hệ với một người vợ chưa được phép. Hơn nữa lại quan hệ với Hoàng Cầm, Lê Đạt, ra Giai Phẩm Mùa Xuân. Tuy là họ đề ra, song sau khi thống nhất trước với nhau là: “Tự do lấy bài tôi đưa vào”, thì tôi hoàn toàn đồng tình. Mỗi lần gặp lại thúc đẩy, dục dã, ra cho nhanh. Việc tập hợp bài vở, tôi không rõ chi tiết. Bài Lão Rồng là do tôi viết. Tôi ví đồng chí Văn Phác như tên lý trưởng đã chà đạp Lão Rồng (51)".

Lê Đạt cũng xác định việc chủ trương và tổ chức Giai Phẩm Mùa Xuân như sau: "Trần Dần ra rồi, chúng tôi mới nghĩ đến chuyện này: bây giờ làm sao mà in được một tập thơ, trái với nguyên tắc lúc bấy giờ - nguyên tắc bấy giờ là tất cả các bài đều bị kiểm duyệt. Tôi chủ trương tập này phải là một tập tự do sáng tác hoàn toàn, tức là mỗi cá nhân đều chịu trách nhiệm về bài của mình và không có kiểm duyệt gì cả. Tôi có bàn với Dần, Cầm, với Văn Cao, Tử Phác và mấy anh hội họa nữa là Sỹ Ngọc và Nguyễn Sáng. Lúc đó thì chưa tìm được chữ gì hay lắm. Tôi cũng không thích chữ Giai Phẩm tại chữ Giai Phẩm có vẻ Tự Lực Văn Ðoàn, nghe chữ ấy nó sang trọng quá tôi không thích. Nhưng lúc đó anh Minh Ðức và anh Ðang đều thích chữ ấy. Trước tôi định cái tít là "Thơ năm người", nhưng mọi người bảo thế là "gây sự" quá, thì sau cũng đành lấy chữ Giai Phẩm (52)".

Căn cứ vào các sáng tác trong Giai Phẩm Mùa Xuân, ta có thể xác định: Giai Phẩm Mùa Xuân là giai phẩm đầu tiên ở Bắc, sau cách mạng tháng Tám, đáp ứng hai đòi hỏi: tự do sáng tác và đổi mới văn học do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương, với sự cộng tác của Trần Dần, Văn Cao, Tử Phác...

Giai Phẩm Mùa Xuân chuyên về thơ. Tất cả có 9 bài thơ - Lê Đạt ba, Hoàng Cầm hai, Văn Cao, Nguyễn Sáng, Phùng Quán, mỗi người một và Nhất định thắng của Trần Dần. Ngoài ra, có truyện ngắn Sổ tay của Sỹ Ngọc và truyện phiếm Lão Rồng của Trần Dần.

Về hình thức, thơ trong Giai Phẩm Mùa Xuân khác với Thơ Mới: câu dài, ngắn, không đồng đều; nhịp điệu phóng khoáng; có thể nói đây là giai phẩm thơ đầu tiên thể hiện thơ hiện đại không vần ở miền Bắc.

Sáng tác trong Giai Phẩm Mùa Xuân có ba hướng:

- Khuynh hướng tuyên truyền cách mạng: Cổ động cho chính sách Cải Cách Ruộng Đất: Chống địa chủ, cường hào ác bá, đề cao cách mạng (Mùa xuân đến rồi đây của Hoàng Cầm); thơ chiêu hồi gửi miền Nam (Thơ qua đài phát thanh, Hoàng Cầm); thơ đề cao chiến thắng và công lao của Đảng (Hoa đào vẫn nở, Nguyễn Sáng); thơ kiến thiết đất nước, xây dựng xã hội mới (Mỗi ngày mỗi lớn - Gửi kế hoạch nhà nước 1956, Lê Đạt); thơ ca tụng công nhân quét đường (Thi sĩ và công nhân, Phùng Quán); văn tả cảnh đói khổ của người lao động, sự bóc lột của địa chủ, nhưng nhờ ánh sáng của Đảng, từ nay, trời sẽ "trong sáng vĩnh viễn" (Sổ tay, Sỹ Ngọc).

- Khuynh hướng vừa chống vừa theo: Trần Dần (Nhất định thắng).

- Khuynh hướng chống đối và đòi tự do sáng tác: Văn Cao (Anh có nghe thấy không) và Lê Đạt (Làm thơ và Mới).

● Thơ Hoàng Cầm

Tiểu biểu cho khuynh hướng đầu tiên là thơ Hoàng Cầm. Là một trong những người xây dựng nên phong trào, nhưng khác với Trần Dần và Lê Đạt, hai nhà thơ trẻ, Hoàng Cầm thuộc lớp đàn anh, đã có vị trí vững vàng trên nhiều địa hạt văn nghệ. Trái với Tố Hữu, được coi là chủ soái dòng thơ cách mạng, ca tụng Bác và Đảng, Hoàng Cầm là nhà thơ dân tộc. Từ Bắc chí Nam, trước và sau 1954, thơ Hoàng Cầm được mọi người yêu mến. Hoàng Cầm cũng làm thơ tuyên truyền, nhưng tuyên truyền cho lòng yêu nước, rất ít những câu ca tụng đảng, ca tụng lãnh tụ. Ông giữ được ngòi bút độc lập, có uy tín đối với quần chúng.

Vì vậy, không phải tình cờ mà Nguyễn Hữu Đang, khi ra Nhân Văn số 1, đã hết sức vận động Hoàng Cầm và nhờ Hoàng Cầm viết bài bênh vực Trần Dần: Bởi trong nền thi ca cách mạng, chỉ Hoàng Cầm mới có đủ tư thế văn học để đương đầu với Tố Hữu lúc bấy giờ.

Hoàng Cầm cùng với Lê Đạt tổ chức Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng thơ ông trong Giai Phẩm Mùa Xuân, còn rất hiền lành, nếu không muốn nói là vẫn theo đường chính thống, không có tính cách quyết liệt như thơ Văn Cao, không tố giác như thơ Trần Dần và cũng không đòi đổi mới thi ca như thơ Lê Đạt.

Bài Mùa xuân đến rồi đây theo đúng chính sách Cải Cách Ruộng Đất lúc bấy giờ, nói lên nỗi khổ của người dân trong bảy mươi năm nô lệ, đói khổ, dưới sự thống trị của bọn "địa chủ cường hào ác bá", nhưng rồi cách mạng thành công đem lại ấm no, công bằng, hạnh phúc:

Bảy mươi mùa xuân không xuân
Bảy mươi năm cùng tháng tận
Dòng sông Nhị ơi! Con cò lận đận
Bãi ngô dài cát trắng
Lòng sông cuốn nặng
Phù sa
Nước mắt mẹ con ta
Chảy ra ngoài biển rộng
Réo lên đầu sóng
Đùn đùn mây đen
Mưa lọt mái nhà rách thủng.
Mưa thốc xuống tàu chuối khô
Ướt đẫm manh tải
Mẹ con nằm trong đêm mưa
Nằm trong nước mắt đỏ như máu
Nằm trong nước sông đầy bùn nhơ
Dòng sông Nhị ơi! Lúa mượt hai bờ
Địa chủ đứng trên đê
Mắt ngầu hổ dữ ...


Sau khi duyệt lại những năm tháng tối tăm cùng khốn đói khổ, bị đàn áp, Hoàng Cầm ca tụng mùa xuân trở về -cách mạng thành công- mang lại ấm no, công bằng:

Dòng sông Nhị ơi! Mùa xuân đến rồi đây
Mẹ con được chia: hai gánh thóc đầy
(53)

"Thơ qua đài phát thanh" là bài thơ gửi "người em" bên kia vĩ tuyến, người yêu hiện đang ngâm thơ trên đài Sài Gòn, trong khi Hoàng Cầm ngâm thơ trên đài Hà Nội, bài thơ có những câu rất lãng mạng:

Tôi tìm Em trên sóng điện bao la
Thơ đã đứng lên, vút đi, cao lớn
Ống nói như môi em chờ đón
Trầm ngâm, ấp một nụ cười
Tôi sung sướng truyền thơ tôi
Cho những Người yêu khắp nước


Tóm lại, trong Giai Phẩm Mùa Xuân Hoàng Cầm mới chỉ thử nghiệm mấy câu thơ không vần, tinh thần cách mạng, chưa đả động đến những vấn đề gai góc như tự do tư tưởng, tự do sáng tác, chưa có câu thơ nào "bôi đen" chế độ.

_________________
(50) In trên Nhân Văn số 1, 8/1956.
(51) Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ, số 12, tháng 5/58, trg 60.
(52) Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
(53) Mùa xuân đến rồi đây
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 I_icon13Thu 07 Jul 2016, 10:24



● Trần Dần


Trần Dần đưa ra một nhân vật kỳ quái trong truyện ngắn Lão Rồng, một bần nông say rượu bét nhè, nhưng là một "nhà sáng tác", chuyên làm những bài vè phạm thượng, chế giễu, từ bọn sư mô đến lũ tai to mặt lớn trong làng. Lão Rồng vừa "sáng tác" xong một bài vè là đã có bọn con nít lập tức "xuất bản và phát hành". Cuối cùng lão bị người ta lập mưu đánh chết.

Truyện ngắn Lão Rồng mở đầu phong cách đổi mới tư tưởng trong văn xuôi miền Bắc. Ngòi bút sắc sảo của Trần Dần đã chọc thủng những cấm kỵ, để lộ sự khao khát tự do của con người cùng khốn.

Bài thơ Nhất định thắng là tác phẩm chính của ông trong thời kỳ NVGP, giọng anh hùng ca, phản ánh tính mâu thuẫn trong tư tưởng tác giả. Trần Dần lồng bi kịch cá nhân -yêu người con gái ở phố Sinh Từ- trong bối cảnh chung của đất nước sau hiệp định Genève:

Miền Bắc nghèo đói, thất nghiệp "Anh bước đi không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ". Miền Nam dưới gót dày của "giặc": "Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô, tài của hắn là Khuyển Ưng của Mỹ". Nhưng chúng ta "Nhất định thắng", đất nước sẽ thống nhất: "hàng triệu tâm hồn, đã bỏ miền Nam ra Bắc", và "kẻ thù" -nghèo đói, Ngô, Mỹ- sẽ phải thua: "bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi". Rồi trời lại xanh: "Anh bước đi đã thấy phố đã thấy nhà, không thấy mưa sa, chỉ thấy nắng lên, trên màu cờ đỏ".

♦ Nhất định thắng, như một bài thơ tuyên truyền

Đây là đoạn mở đầu:

Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui?
Tổ Quốc hôm nay
tuy gọi sống hoà bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh...
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui - khi chợt nhớ - chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt,
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt.
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta?
Người ta nói thằng Ngô con đĩ
Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô
Tài của hắn là: Khuyển Ưng của Mỹ
Bửu bối gớm ghê là: một lưỡi đao cùn
Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc.


Tác giả trình bày cảnh đói khổ của miền Bắc, nhưng thầm ngụ ý Mỹ Diệm mới là nguồn cơn của mọi đớn đau: "Em ơi, Em có biết đâu, Ta khổ thế này, Vì sao? Em biết đâu, Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?". Khi chửi Ngô Đình Diệm, Trần Dần có những câu sắt máu: "Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm", "Đất trời sâu / đương vẩy máu / đuổi theo chân hắn. Hắn run sợ - Quỳ xin đã muộn! / Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu / Máu vẫn đỏ / trúng đầu trúng mặt / Tên tội nhân kia! / Lịch sử vang tên mày!"

Bài thơ kết thúc có hậu: "Em có thấy bay trên trời xanh / Hàng triệu tâm hồn / Họ đã bỏ miền Nam ra Bắc! / Chúng đem súng mà ngăn / Đem dây mà trói! / Giữ thân người không giữ được nhân tâm / Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả / Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi / Đổ lên chúng nó / Mây đen / lửa loạn / bão thù".

Và khi "ta" đã toàn thắng: "Anh bước đi / đã thấy phố thấy nhà / Không thấy mưa sa / Chỉ thấy nắng lên / trên màu cờ đỏ". Người dân phố Sinh Từ đóng cửa xuống đường đi mít tinh: "Vung cờ đỏ hát hò vỡ phổi".

Đó là một bài anh hùng ca theo lối cách mạng, có nhiều câu tuyên truyền rập thông tin nhà nước. Thực ra, tháng 4/1955, khi Trần Dần viết Nhất định thắng, Mỹ chưa vào miền Nam. Ngô Đình Diệm mới về, chỉ là thủ tướng, đang lo dẹp Bình Xuyên, Hoà Hảo, chưa thật sự nắm quyền và chưa có chính sách chống Cộng triệt để như sau này. Ngày 23/10/1955, ông mới tổ chức cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại. Vì vậy, bài Nhất định thắng, trong bối cảnh lúc bấy giờ, là một bài thơ "hai hàng".

Cho nên, khi Chế Lan Viên buộc tội Trần Dần phản động, chống Đảng, ông chứng tỏ mình là tay sai đắc lực của Tố Hữu.

Và khi Hoài Thanh viết: "Toàn bài của Trần Dần toát ra một sự hằn học sâu sắc đối với chế độ tươi sáng ở miền Bắc, đối với sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, thống nhất của nhân dân ta. Tôi không kết luận về người. Tôi chỉ căn cứ vào bài văn. Tự nó, bài “Nhất định thắng” trong lời và chữ của nó, chứa đựng những tư tưởng phản động, đứng về phía địch chống lại nhân dân ta, chống lại cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Trong nền văn nghệ chúng ta đầy tin tưởng ở hiện tại và tương lai của chế độ, của dân tộc, bài "Nhất định thắng" của Trần Dần thật đúng như lời đồng chí Nguyễn Tuân nói, là một thứ mụn lở trên một cơ thể lành mạnh (54)".

Viết như vậy, Hoài Thanh không còn đứng ở cương vị một nhà phê bình, dựa trên văn bản để xét, mà ông đã xuyên tạc, nói ngược lại ý nghiã của bài thơ.

Thế nhưng chính Trần Dần cũng lại viết trong bài "tự thú" như sau:

"Bài Nhất định thắng sinh ra trong cái nôi những tư tưởng chống đối như thế. Dưới chiêu bài “phát hiện mâu thuẫn xã hội”, "chống công thức, tìm cái mới”, bài Nhất định thắng bôi đen miền Bắc. Thất nghiệp hàng ế, đi Nam, hai năm không thống nhất được v.v… và cái điệp khúc “mưa sa trên màu cờ đỏ” nó nhấn mạnh: “Đảng là nguyên nhân của cái xã hội thê thảm này.” Những sự quy kết khác ép cho địch, thực chất chỉ là chiêu bài. Có những câu đả kích cán bộ chính trị “nhà chính trị lắm mưu trong bụng” về sau in xoá đi. Bài Nhất định thắng là một cuộc đánh thẳng vào tư tưởng của Đảng, trắng trợn và hung hăng (55)".

"Thú nhận" như thế tức là đã hoàn toàn chấp nhận luận điệu của các ông Chế Lan Viên, Hoài Thanh, hoàn toàn nhận lỗi chống chế độ về mình. Mà thực tế văn bản đâu phải thế? Tại sao? Vậy có thể hiểu trong bối cảnh trù dập của lớp học Thái Hà, Trần Dần đã phải thú nhận tất cả mọi "tội", kể cả những tội không phải của mình, ví dụ như "chống công thức, tìm cái mới" "tội" của Lê Đạt. Nhất định thắng không thể "là một cuộc đánh thẳng vào tư tưởng của Đảng, trắng trợn và hung hăng" như Trần Dần đã tự xác nhận.

Tóm lại xung quanh bài Nhất định thắng có ba vấn đề:
- Tính mâu thuẫn trong tư tưởng Trần Dần
- Việc bắt buộc phải nhận tội dưới áp lực của Đảng.
- Bi kịch Trần Dần.

_________________
(54) Hoài Thanh, Vạch trần chất phản động của bài Nhất định thắng của Trần Dần, Báo Văn nghệ, Hà Nội, số 110 (1.3.1956), Lại Nguyên Ân sưu tầm.
(55) Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ, số 12, tháng 5/58, trg 60.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 I_icon13Fri 28 Jul 2017, 07:26



♦ Nhất định thắng, như một tác phẩm văn học

Nhất định thắng trước hết là một bài thơ tuyên truyền, nhiều câu khẩu hiệu, có lẽ vì thế mà cả Hoàng Cầm lẫn Phan Khôi, hai người cực lực bênh vực Trần Dần, đều không cho Nhất định thắng là một bài thơ hay.

Nhưng nếu cắt những đoạn tuyên truyền máu mê thô thiển đi, như Hoàng Văn Chí đã làm thì Nhất định thắng trở thành một tác phẩm văn học giá trị. Bởi khi đem bi kịch riêng lồng vào lịch sử, Trần Dần đã có những câu thơ thật xúc động:

Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
          không thấy phố
                          không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
                trên màu cờ đỏ
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ!
         họ vẫn bảo chờ...
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
                     ba tháng rồi
                     em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã...
Em đi
     trong mưa
                 cúi đầu
                        nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi


Khi nói đến tình trạng thất nghiệp ở miền Bắc, Trần Dần có những hình ảnh thơ mộng và nhức nhối:

Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ,
        họ vẫn bảo chờ...
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
                     ba tháng rồi
                     em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã...
Em đi
     trong mưa
               cúi đầu
                     nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi.


Khi nói đến nghịch cảnh chia đôi đất nước, Trần Dần có những lời thiết tha, đòi đoạn:

Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những cơn mưa rơi mãi tối sầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
...
Tôi nức nở giữa trời mưa bão.
Họ vẫn ra đi.
- Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
         Họ có gì thất vọng?
Đất níu chân đi
              gió cản áo bay về
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống
...
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống
             quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ
Khổ nhiều rồi!"


Chính những câu thơ hay này đã khiến Nhất định thắng sống mãi trong lòng người dân miền Nam. Toàn bài phản ánh tâm sự mâu thuẫn của Trần Dần về tình hình đất nước, vừa nói lên cái khổ của người dân Bắc dưới chế độ cộng sản: tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà...
nhưng lại mong miền Bắc thắng trong việc thống nhất đất nước. Hoặc khi nói về màu cờ: Trần Dần vừa thấy "mưa sa trên màu cờ đỏ", nhưng lại cũng thấy "nắng lên đỏ phố đỏ cờ", "cờ bay đỏ phố đỏ nhà", và có lúc ông còn "cầm cờ đỏ hét hò vỡ ngực".

Phần dở là những câu, những đoạn gợi căm thù: "Hôm nay hàng triệu mối thù sâu / Tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng / Vung đao cùn chém phải quãng trời không".

Phần hay là những đoạn nhân bản, nói lên những đau đớn của người dân đói khổ, thất nghiệp, ở Bắc; của người dân lìa bỏ quê cha đất tổ, đi Nam, và mong một ngày sẽ có hiệp thương, thống nhất, để hai miền cùng đọc tác phẩm và như thế độc giả sẽ tăng lên gấp bội.

Hoàng Văn Chí khi in Nhất định thắng trong Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, đã cắt những câu, đoạn, những lời sắt máu, oán thù, khiến bài thơ hay hơn, nhân bản hơn. Nhưng việc cắt xén này làm thay đổi ý nghĩa của bài thơ và lập trường chính trị của Trần Dần năm 1956, làm cho Nhất định thắng trở thành một tác phẩm chống cộng, được chính quyền miền Nam trưng dụng như một biểu tượng "tố cộng". Và chính quyền miền Bắc dựa vào đó để buộc tội Trần Dần.

Bi kịch của nhà thơ là tác phẩm của ông, đã bị/được, bên này, bên kia gán cho những ý nghĩa không có trong văn bản, sử dụng để tung hô hay buộc tội. Độc giả miền Bắc, năm 1956, theo lời Lê Đạt, khi đọc Nhất định thắng, cũng chỉ giữ lại những câu hay nhất: "Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ". Bởi nó đã nói lên được tâm sự của con người sống dưới chế độ cộng sản. Hậu thế sẽ nhớ đến Trần Dần qua hai câu thơ kiệt tác đó.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 I_icon13Thu 03 Aug 2017, 08:20



● Thơ Văn Cao

Hai tác giả đích thực "có vấn đề" trong Giai Phẩm Mùa Xuân phải là Văn Cao và Lê Đạt, bởi họ đã nói đến thực chất của chế độ, đòi quyền tự do tư tưởng, tự do sáng tác, và chủ trương đổi mới văn học. Với bài Anh có nghe thấy không Văn Cao nói đến sự bế quan toả cảng tinh thần trong chế độ cộng sản, đến khát vọng tự do của con người:

Cửa đóng lại từ chín giờ
Không một cuốn sách chờ đợi (...)
Tất cả hướng về biển
Bọt cứ tan trên bãi cát xa
Mà cửa bể vẫn im lìm chưa mở
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả
Những con người không phải của chúng ta
Vẫn ngày ngày ngang nhiên sống
Chúng nó còn ở lại
Trong những áo dài đen nham hiểm
Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người
Chúng nó còn ở lại
Trong những tủ sách gia đình
Ở điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm (...)
Chung quanh còn những người khôn ngoan
Không có mồm
Mắt không bao giờ nhìn thẳng (...)
Anh có nghe thấy không
Chỗ nào cũng có tiếng
Chưa nói lên
Những người của chúng ta
Đang mờ mờ xuất hiện
Le lói hy vọng
Trên những cánh đồng lầy
Nghìn năm cũ phủ mất nhiều giá trị
Đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời
Vào một cuộc đấu tranh mới
Với những người không phải của chúng ta
Anh có nghe thấy không
Vào một cuộc đấu tranh mới
Để mở tung các cánh cửa sổ
Mở tung các cửa bể
Và tung ra hàng loạt hàng loạt
Những con người thật của chúng ta


Giọng Văn Cao nhẹ nhàng, nhưng ý thơ quyết liệt: đòi tự do, lên án sự bưng bít của chế độ và kêu gọi mọi người đứng dậy tranh đấu đến cùng. Những lời đầu, mở vào không gian kín mít, không gian nghẹt thở sau khi cách mạng thành công:

Cửa đóng lại từ chín giờ
Không một cuốn sách chờ đợi
Dù những ngôi sao đang nở trên trời
Dù đêm mùa xuân bắt đầu trở lại


Đó là thứ không khí thiết quân luật. Cửa đóng. Không có sách hay không còn sách. Mặc dù sao -vàng- lấp lánh trên trời. Mặc dù mùa xuân đã đến. Mọi con mắt đều hướng ra biển -về phía tự do- nhưng cửa biển vẫn im ỉm đóng:

Tất cả hướng về biển
Bọt cứ tan trên bãi cát xa
Mà cửa bể vẫn im lìm chưa mở


Giọng ôn hoà nhưng không kém phần khắc hạch, Văn Cao trỏ thẳng bọn gian thần, bọn dốt nát, bọn kìm kẹp văn hoá tư tưởng, mắng và đuổi, khi nào "chúng nó" còn đây thì:

Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả


Chúng nó là ai? Nhà thơ trả lời:

"Chúng là:
Những con người không phải của chúng ta
Vẫn ngày ngày ngang nhiên sống
Chúng nó còn ở lại
Trong những áo dài đen nham hiểm
Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người
".

"Chúng nó", bọn áo thụng, len lỏi khắp nơi, từ trong tủ sách gia đình đến điếu thuốc trên môi đứa bé mười lăm, quẩn trong bước chân người con gái. "Chúng nó" nấp trong mọi lứa tuổi, mọi từng lớp xã hội, "chúng nó" trà trộn vào đời sống hàng ngày, làm ô uế không gian, lũng đoạn thời gian. Sách cũ, sách mới đem bán cân giấy lộn, đến cả những bài thơ mới nhất của Anh. Những kẻ "khôn ngoan" thì ngậm miệng "mắt không bao giờ nhìn thẳng".

Nhưng Anh, người nghệ sĩ tự do, Anh có nghe thấy không?

Bọn chúng đã "đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời".

Còn Anh, anh phải bước vào cuộc đấu tranh mới: mở tung các cửa bể, và anh phải tung ra những con người thật của chúng ta, để thay thế "chúng nó", những con người giả.

Thơ Văn Cao là nộ khí trầm lặng của một nghệ sĩ bị giam hãm tư tưởng, của một kẻ sĩ can trường hạch tội gian thần. Giọng nhẹ nhàng nhưng tha thiết kêu gọi mọi người đứng lên đấu tranh cho tự do tư tưởng. Văn Cao là một nghệ sĩ và cũng là một kẻ sĩ.

Nhưng lạ lùng là cả triều đình và bọn nịnh thần không ai dám động đến Văn Cao. Chẳng lẽ họ không hiểu? Kể cả những người lắm chữ như Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi?

Dĩ nhiên là họ hiểu. Nhưng bởi Văn Cao là một tài năng lớn, trên tất cả "chúng nó". Văn Cao là tác giả quốc ca. Chính bài quốc ca đã đỡ đòn cho Văn Cao trong toàn bộ hành trình Nhân Văn Giai Phẩm.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 I_icon13Sun 17 Sep 2017, 09:07



●Thơ Lê Đạt

Lê Đạt là nhà thơ trẻ chưa có tên tuổi gì khi chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng đường lối tranh đấu của Lê Đạt đã rõ ràng qua hai bài: Làm thơ và Mới.

Bài Làm thơ nói lên tâm trạng và hoài bão của một nhà thơ trẻ, trước tình thế đất nước:

Đêm khuya
Bóng đầu anh
Hằn lên trang sách nhỏ
Như bóng hàng cây
quặn gió
Lắng xuống mặt đường
Giông bão mênh mông
Anh nhìn Tổ quốc
Đất nước đêm nay trĩu đầu ngòi bút
Hàng vạn vần thơ mang nặng tình người
Anh nghe tiếng đất trời
Xao động lùm cây ngọn cỏ
Như hiệu thính viên
Đêm không ngủ
Ghi những lời cuộc sống
                         điện về
Những tiếng nặng nề
Những tiếng cục cằn uất ức
Những tiếng căm thù chua xót
Những tiếng yêu thương


Lê Đạt tự coi mình như một hiệu thính viên lắng nghe tất cả những tiếng đau thương do người đồng loại điện về và thầm kín nói lên tham vọng "Anh nghe tiếng đất trời" như một lãnh tụ. Năm 1956, với những câu thơ như:

Ghi những lời cuộc sống
                         điện về,


hoặc:

Óc anh là một công trường,
mỗi dòng thơ là một cây số mới,


hoặc:

Một tiếng súng tương lai
                        nổ vào đầu dĩ vãng


Lê Đạt là người đầu tiên làm thơ hiện đại ở miền Bắc, đã thực sự đưa ra cách suy nghĩ, cách tạo hình và kiến trúc tư tưởng rất mới. Trước đó có Nguyễn Đình Thi với bài Đất nước, nhưng ý thơ Nguyễn Đình Thi còn nằm trong không gian lãng mạn.

Lê Đạt còn là người đầu tiên đặt vấn đề nhà văn dấn thân - écrivain engagé: nhà văn không thể làm ngơ trước những khó khăn của dân tộc, của con người và của cuộc sống. Sự dấn thân này là tự thân Lê Đạt, không do ảnh hưởng của JP Sartre, vì năm 1956, ông chưa đọc Sartre và cả sau này ông cũng không mấy chú ý đến tư tưởng của Sartre.

Tóm lại, Lê Đạt là người có hoài bão chính trị cho dân tộc ngay từ những bước thơ đầu, khác hẳn với Trần Dần là nhà thơ "nổi loạn" chống lại mọi áp bức bó buộc bản thân, nhưng không có mục đích tranh đấu chính trị cho quốc gia dân tộc. Lê Đạt xác định một lần nữa, bản chất và nhiệm vụ của một nhà thơ dấn thân, phải đi vào cuộc sống, phải tìm cách thay đổi xã hội, xây dựng lại con người:

Người làm thơ nắng mưa thiêu đốt
                           ăn nằm với cuộc đời
Thai nghén đất trời
                      sinh ra sự sống (...)
Như người thợ
             chui xuống lòng hầm mỏ
Moi than moi lửa
               đốt sáng cuộc đời
Anh muốn Đảng gọi anh đến nơi
                                 hội ý về cuộc sống
Điều động anh vào
              bộ Tâm Hồn quần chúng
Giúp Trung Ương
             xây dựng
                         những con người
Từng từng giọt mồ hôi
                           đẫm bản đồ chính sách
Anh mở lối giữa cuộc đời ngóc ngách
Óc anh là một công trường
Mỗi dòng thơ là một cây số mới
NHÂN VĂN GIAI PHẨM 67
Trên con đường đi tới
                           xã hội
                                   ngày mai
Một tiếng súng tương lai
                  nổ vào đầu dĩ vãng
Anh vác bút đi theo Đảng
                                 xông lên hàng đầu

Năm 1956, khi chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân, Lê Đạt vẫn còn làm việc ở Tuyên Huấn, cạnh những cột trụ Trường Chinh, Tố Hữu. Lê Đạt chưa thể tách rời khỏi Đảng. Đoạn kết bài Làm thơ có những câu tỏ ý ông vẫn tin tưởng vào Đảng, một Đảng sẽ lành mạnh hơn, biết đặt văn nghệ sĩ vào những vị trí xứng đáng để họ có thể nhả tơ xây dựng lại đời sống con người. Đó là chiến lược của chính trị gia Lê Đạt, hay niềm tin của nhà thơ Lê Đạt? Khó biết.

Tố Hữu nhìn thấy những "nguy cơ" trong bài thơ thứ nhì của Lê Đạt, bài Mới, như một lời tố cáo, mạnh mẽ và quyết liệt của lớp đảng viên trẻ, muốn đổi mới văn học, muốn "đập cánh bay lên", muốn chống lại "bao nhiêu gồng xiềng tập quán / cột lấy bước chân", muốn chống lại những
thành phần kỳ cựu đã sống quá lâu, trở thành những ông bình vôi, khép kín trong công thức, bị xỏ dây vào mũi:

Tôi mới hai mươi lăm tuổi
Chung quanh tôi bao cuộc đời mệt mỏi
Thất bại cúi đầu
Công thức xỏ giây vào mũi
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Ỳ như một chiếc bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Tôi đã sống rất nhiều ngày thảm bại
Khôn ngoan không dám làm người
Bao nhiêu lần tôi không thực là tôi


Lê Đạt nhìn quanh: một xã hội "công thức giả tạo", với những ông bình vôi hủ lậu kéo dài cuộc sống và nhìn lại chính mình, còn trẻ, nhưng đã tự đánh mất mình, vì "khôn ngoan", nên không dám làm người! Cuối cùng nhà thơ mạnh dạn đứng lên hô hào đổi mới toàn diện thi ca, xã hội và con người:

Mới Mới!
Luôn luôn Mới
Bay cho cao
Bay cho xa
Trên những vết già nua cũ kỹ
Trên lề đường han rỉ
Vượt ngày hôm nay
Vượt ngày mai, ngày kia,
Vượt mãi


Tố Hữu khó chịu nhất những câu thơ này, có thể coi là bản tuyên ngôn, là lời kêu gọi của Lê Đạt cho một đường hướng sáng tác mới vượt trên lối mòn cũ của các bậc đàn anh Xuân Diệu, Tố Hữu. Thấy sự nghiệp thi ca cách mạng của mình có thể bị chao đảo, sẵn quyền uy trong tay, Tố Hữu đã thẳng tay triệt hạ mầm mống nổi loạn đòi thay đổi cục diện văn nghệ, đòi "chôn đàn anh" của nhà thơ trẻ.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 I_icon13Sun 17 Sep 2017, 09:20

● Phục xuống mà sáng tác

Theo Hoàng Cầm, sau khi Giai Phẩm Mùa Xuân bị phê phán, Trần Dần Tử Phác được về rồi, chúng tôi vẫn họp nhau ở phòng trà Phúc Châu: Văn Cao, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng. Một hôm, bàn nhau: mình mới ra được Giai Phẩm Mùa Xuân, chỉ mới hoe hoe lên gọi là đổi mới một chút, mà nó đã đánh như vậy, liệu mình có chịu được không? Đéo thằng nào chịu được chuyện phê phán như thế, tức là chính quyền nó không cho mình ra một tờ báo nào hết. Thế thì Văn Cao mới nói một câu có thể ghi vào văn học sử: Nhưng quyền sáng tác là ở mình, vậy mình phải phục xuống mà sáng tác. Những chữ ấy chính là của Văn Cao: Phải phục xuống mà sáng tác.

Sau này khi phê phán Nhân Văn, họ cứ vin vào câu ấy mà đánh: Cái âm mưu của bọn NVGP nó kiên trì lắm: nằm phục xuống, tức là chúng nó nằm im, giấu mình một chỗ, để mà sáng tác chống Đảng. Họ phê phán Nhân Văn ghê gớm hơn phê phán Giai Phẩm nhiều, các ông văn nghệ sĩ chính cống như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi... rồi những nhân vật như Lê Đình Kỵ, Vũ Tú Nam, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ... nhất là Vũ Đức Phúc, lúc bấy giờ đã ở Viện Văn Học rồi, nhân vật này nó đánh Nhân Văn ghê gớm nhất. Bọn phê bình chỉ đánh theo khẩu hiệu, còn bọn văn nghệ sĩ nó đánh mới ác, đánh sâu sắc chứ không như bọn phê bình đâu, nó đánh ác mà trúng: Đại khái nó bảo bọn NVGP chúng nó không yêu gì Đảng cả, chúng nói yêu Đảng chỉ là nói giáo đầu, nói để đỡ đòn, chứ sự thực thì chúng chẳng yêu gì Đảng cả. Mà nó đánh như vậy là đánh trúng, đánh vào tâm mình, sự thực thì cũng không sai đâu.

Cho nên Văn Cao nói : Phục xuống mà sáng tác, thì tất cả chúng tôi đều tán thành, nó không cho mình ra báo thì mình phục xuống mà sáng tác: Trần Dần bắt đầu viết Cổng Tỉnh, Lê Đạt bắt đầu viết những bài thơ về quê hương, tôi viết trường ca Tiếng hát quan họ... Vậy, ngay từ năm 1956,
sau Giai Phẩm Mùa Xuân, chúng tôi đã "phục xuống mà sáng tác" như lời Văn Cao (56).


Giai Phẩm Mùa Xuân là tác phẩm đầu tiên ở miền Bắc chủ trương đổi mới thi ca, tự do sáng tác, với những khuynh hướng khác nhau: tuyên truyền theo đường lối cách mạng của Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Phùng Quán; nói lên tình hình nghèo khổ thất nghiệp ở Bắc và tố cáo tội ác Mỹ Diệm trong
Nam của Trần Dần; đòi tự do tư tưởng và chửi bọn nịnh thần của Văn Cao; xây dựng một xã hội mới, một nền thơ mới của Lê Đạt.

Bài thơ quyết liệt nhất là của Văn Cao. Nhưng không ai dám đánh Văn Cao. Chế Lan Viên khai ngòi đánh Trần Dần, nhưng không dám đụng đến Văn Cao. Tất cả mũi dùi đổ vào Trần Dần, Lê Đạt, hai nhà thơ trẻ chưa nổi tiếng.

Chính vì vụ đánh Trần Dần và Lê Đạt mà trí thức nhập cuộc. Lúc đầu trí thức chưa tham gia, nhưng việc đánh hội đồng Trần Dần, Lê Đạt khiến Phan Khôi trở lại vai "ngự sử văn đàn" với bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ.

Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang đọc trước lớp học 18 ngày và bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi là hai yếu tố chủ chốt, đã thuyết phục Trương Tửu và những trí thức khác tham gia, tạo nên một phong trào rộng lớn: Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

______________
(56) Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 I_icon13Fri 27 Oct 2017, 11:00

Chương 4
Nguyên nhân đưa đến cuộc Cách Mạng Mùa Thu Của Tư Tưởng

Hiện nay, thời điểm chính thức xác định chính sách Đấu Tranh Giai Cấp theo đường lối Trung Quốc là tháng 1/1950, tại Đại Hội III của Đảng Cộng Sản, sau khi Hồ Chí Minh bí mật đi Liên Xô và Trung Quốc về.

Thời điểm quyết định và giải thích chính sách Cải Cách Ruộng Đất là bài diễn văn Hồ Chí Minh đọc tại Hội Nghị Nông Vận Và Dân Vận Toàn Quốc ngày 5/2/1953.

Thời điểm chính thức áp dụng chính sách Cải Cách Ruộng Đất là tại Đại Hội I của đảng Lao Động, họp tại Việt Bắc từ 14 đến 23/11/1953, với bản báo cáo của Trường Chinh.

Đấu Tranh Giai Cấp - phát sinh Cải Cách Ruộng Đất là nguyên nhân sâu xa đưa đến chia rẽ, hận thù.

Heinz Schütte, trong bài Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua đua nở ở Việt Nam 1954-1960, tóm tắt khá rõ tình hình miền Bắc thập niên 1950 như sau:

"Tháng 1/1950, Đại Hội III Đảng Cộng sản, tuyên bố Việt Nam chính thức đi theo đường lối Trung Quốc và đẩy mạnh chủ trương đấu tranh giai cấp trong cả nước. Điều này dẫn tới việc thủ tiêu những người bị cho là những "phần tử phản cách mạng". Sách vở Trung Quốc, đặc biệt những tác phẩm của Mao được dịch ra tiếng Việt -vài tác phẩm do chính Hồ Chí Minh dịch- để truyền bá những phương pháp của Trung Quốc trong việc vận dụng chủ nghiã Mác-Lê-Mao, trong việc tiến hành cách mạng và cải tạo tư tưởng ở Việt Nam. Tại chiến khu Việt Bắc, từ những năm 1951 đã có các khoá Chỉnh huấn tư tưởng dành cho trí thức". (57)

Đấu Tranh Giai Cấp phát sinh Chỉnh Huấn, chuẩn bị cho chiến dịch Giảm Tô, rồi Cải Cách Ruộng Đất (58)... kéo dài từ 1950 đến 1956, đã gây những tội ác làm đảo lộn xã hội Việt Nam. Sự phát động Đấu Tranh Giai Cấp là yếu tố chính trị có tính cách quyết định đối với những người không theo cộng sản. Nhưng sự bất mãn của trí thức bắt đầu từ trước.

Trường hợp Nguyễn Hữu Đang, sự bất mãn có thể đã bắt đầu ngay từ 1930, với bản Luận Cương Chính Trị của Đảng do Trần Phú soạn, nội dung ngụ ý: "Tất cả giai cấp tư sản đều là phản động", nhưng chỉ thực sự thành hình khi Trường Chinh, lý thuyết gia Đảng Cộng sản, hoàn thành bản "Đề Cương Văn Hoá Việt Nam", năm 1943, nội dung thu gọn trong công thức: Đảng lãnh đạo tư tưởng, học thuật và nghệ thuật, mà không một người làm văn hoá chân chính nào có thể chấp nhận được.

Tuy nhiên, bản Đề Cương chỉ lưu hành trong đảng Cộng Sản, và đảng này đến năm 1945, theo Nguyễn Hữu Đang, chỉ có khoảng 5000 người. Vì vậy, đến tháng 12/1946, khi hầu hết trí thức văn nghệ sĩ đi theo tiếng gọi toàn quốc kháng chiến của Việt Minh, phần lớn chưa biết có một chính sách văn hoá như vậy. Tạ Tỵ, Hoàng Cầm, Trần Duy... đều nói lúc đó không biết Cộng Sản là gì và Hồ Chí Minh là ai.

Nhưng ngày 19/7/1948, khi Trường Chinh đọc bài Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam tại Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc II, ở Việt Bắc, xác định đường lối văn nghệ kháng chiến: Văn nghệ thi đua, văn nghệ tuyên truyền, phục vụ công nông binh, văn nghệ phân biệt ta-địch, văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì sự đổ vỡ bắt đầu: Nguyễn Hữu Đang bỏ về Thanh Hoá.

1948 chắc chắn là năm bản lề: kết thúc sự hợp tác chặt chẽ trong kháng chiến giữa hai thành phần dân tộc: cộng sản và không cộng sản. Từ 1949 trở đi, nhiều văn nghệ sĩ bỏ kháng chiến về thành, hoặc vào Khu Bốn với tướng Nguyễn Sơn.

______________
(57) Trích bản dịch từ tiếng Đức của Talawas.
(58) Vấn đề Cải Cách Ruộng Đất sẽ được trình bầy trong chương 24.

Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 2 I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Giai thoại văn học Việt Nam
» Nguyên Sa - Thuỵ Khuê
» Việt Sử Giai Thoại - Tập 2 - Nguyễn Khắc Thuần
» Việt Sử Giai Thoại - Tập 1 - Nguyễn Khắc Thuần
» Việt Sử Giai Thoại - Tập 3 - Nguyễn Khắc Thuần
Trang 2 trong tổng số 19 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3 ... 10 ... 19  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: TRÚC LÝ QUÁN :: Tài Liệu-