CHÚ THÍCH BÀI VĂN TẾ NGUYỄN BIỂU, VIẾT BẰNG CHỮ NÔM CỦA TRÙNG QUANG ĐẾ
Câu 1 : Sinh rồi lại mất, luân chuyển không cùng, máy tạo hóa thật là mầu nhiệm mà khó thấy.
Câu 2 : Có đó rồi không cũng đó, bụi cõi đời rõ thay.
Câu 3 : Thù không đội trời chung, trời đất chứng giám.
Câu 4 : Hận đến vô cùng, thề để quỷ thần rõ.
Câu 5 : Nhớ thời tiên sinh giơ cao chiếc mũ có hình con giải trãi, (giải trãi là con vật mà tương truyền, tự nó có thể biết được ai chính ai tà. Vì lẽ đó, các quan Ngự sử thường đội mũ giải trãi. Mũ giải trãi tượng trưng cho khí tiết ngay thẳng, không thiên vị bất cứ ai).
Câu 6 : Vững lòng nơi làm việc can gián, cam làm cột đá để ngăn dòng nước chảy sai chiều (ý chỉ ngăn việc sai trái).
Câu 7 : Cho đến lúc tiên sinh lên ngựa đi xa, hăm hở mà chỉ,
Câu 8 : Cán cờ của sứ giả bỗng gặp gió thu cản trở mà nên nỗi.
Câu 9 : Giặc Hồ hôi tanh chỉ hòng làm hại.
Câu 10 : Gan như sắt đá ; Tô Vũ (thời Hán bên Trung Quốc) cũng chẳng dễ sánh.
Câu 11 : Quan Vân Trường vì gặp Lữ Mông (tướng của nhà Đông Ngô) nên mới sa cơ.
Câu 12 : Thoáng thấy chữ phệ tề hà cập (ăn năn sao kịp) mà lòng dạ bùi ngùi.
Câu 13 : Lưu Huyền Đức giận Lục Tốn, mong trả thù này,
Câu 14 : Nghĩ đến câu thường đảm bất vong (nếm mật đắng cho khỏi quên) lòng thêm dọi dọi.
Câu 15 : Sấu kia không lấp cạn dòng (ý nói nỗi sầu rất lớn, khó có thể quên, nhưng vẫn không ngăn được chí lớn),
Câu 16 : Thảm nọ dễ xây nên núi (ý nói nỗi thảm quá lớn, nhưng vẫn không che được hướng đã chọn).
Câu 17 : Lấy chi để báo đáp đức dày, rượu kim tương (rượu quý) này một lọ.
Câu 18 : Vơi vơi xin chuốc ba tuần (ba lần rót rượu quý để tê)
Câu 19 : Lấy chi để vỗ về hồn thơm, văn dụ tế mấy câu,
Câu 20 : Thăm thẳm thông xuống tận nơi chín suối. (Bài văn tế viết bằng chữ Nôm nói trên, vừa có nhiều điển tích, lại vừa có một số khái niệm rất khó giải thích cho tường tận, nhất là chỉ trong vài ba hàng.
Chúng tôi chỉ lược chữ như trên để bạn đọc dễ theo dõi mà thôi).
_________________________