Bài viết mới | Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 19:36
QUY NHƠN TÔI YÊU by phambachieu Yesterday at 16:58
Lịch Âm Dương by mytutru Yesterday at 09:00
Khoảnh Khắc Vui Với Đường Thi by Tam Muội Yesterday at 07:51
CHUYỆN VỤN (Phương Nguyên) by Phương Nguyên Fri 31 May 2024, 16:32
Quán Tạp Kỹ - Đồng Bằng Nam Bộ by Phương Nguyên Fri 31 May 2024, 09:56
Một thoáng mây bay 13 by Phương Nguyên Fri 31 May 2024, 09:55
LỀU THƠ NHẠC by Trà Mi Fri 31 May 2024, 09:34
Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Thu 30 May 2024, 16:51
Hoa Dừa nhà Tôi by Tú_Yên tv Thu 30 May 2024, 14:46
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Thu 30 May 2024, 14:38
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Tue 28 May 2024, 21:45
SƯ Minh Tuệ by mytutru Tue 28 May 2024, 18:44
Mái Nhà Chung by mytutru Mon 27 May 2024, 22:42
Chết rồi! by Phương Nguyên Sun 26 May 2024, 10:14
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Fri 24 May 2024, 15:40
Lời muốn nói by Tú_Yên tv Fri 24 May 2024, 15:35
EM CHIM HÁT HAY QUÁ by mytutru Thu 23 May 2024, 23:04
NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH by mytutru Wed 22 May 2024, 21:01
MỪNG SINH NHẬT 85 by mytutru Tue 21 May 2024, 21:54
ĐƯỜNG THƠ MÁI ẤM ĐÀO VIÊN by mytutru Tue 21 May 2024, 21:21
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 21 May 2024, 20:43
50 năm Hải chiến Hoàng Sa by Trà Mi Mon 20 May 2024, 10:58
BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Mon 20 May 2024, 10:46
MÂY NGŨ SẮC 13.05.2024 by mytutru Sat 18 May 2024, 01:48
Nguyễn Thái Học 1902- 1930 (Nhượng Tống) by Ai Hoa Wed 15 May 2024, 10:25
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 15 May 2024, 10:08
4 chữ by Tinh Hoa Mon 13 May 2024, 20:23
CÁC LOÀI CHIM ĐẸP by mytutru Sun 12 May 2024, 10:51
ĐÔI BÀN TAY NGHỆ NHÂN by mytutru Sun 12 May 2024, 00:04
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
| | THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ | |
| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
HanSiNguyen
Tổng số bài gửi : 2855 Registration date : 12/10/2009
| Tiêu đề: Re: THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ Thu 12 May 2016, 23:09 | |
| GIẢN CHÚ đoạn 8PHẠM THƯ SANG TẦNBy NGUYỄN PHÚ1-NHIẾP CHÍNH : Tạm nắm quyền chính, xử lý mọi việc trong triều đình thay cho vua còn nhỏ tuổi 2-NGHỊCH THIÊN : làm trái ngược lại lẽ trời (Ý nói : Nhương hầu Ngụy Nhiễm là bề tôi nhưng lại lấn quyền, hiếp vua) 3-TAM ĐẦU : Chế độ chính trị do 3 người đứng đầu bộ máy nhà nước, có quyền hành ngang nhau. 4-HÌNH NHÂN : Hình người cắt bằng giấy, để phục vụ cho việc cúng bái diệt yêu trừ ma, đặc biệt là khi cúng cô hồn tháng bảy. Ý chỉ người không có sự sống thật sự, không có quyền hành. 5-QUYỀN RƠM : Tục ngữ “Quyền rơm, vạ đá”, quyền hành thì mỏng manh, nhẹ, yếu như cọng rơm; còn tội vạ, trách nhiệm thì nặng như đá tảng. 6-CÁO CẦY : Cáo chồn, chó hoang. Chỉ loại người sống theo bản năng, thấy lợi là chụp giật, tranh giành, cấu xé lẫn nhau. 7-XƯƠNG KHÔ TRONG MẢ : Ý nói những con người sống mà như đã chết, khô mục, rệu rã, không có sức sống. 8-THẰNG HỀ : Kẻ chuyên mua vui cho mọi người trong cung đình thuở xưa. 9-CON RỐI : Người hoặc vật giả, cử động được là do kẻ khác giật dây. 10-NGƯỜI RƠM, BÙ NHÌN : Hình người bằng rơm, đặt ở ruộng rẫy nhằm mục đích xua đuổi chim chóc, không cho phá lúa hoặc hoa màu sắp đến kỳ thu họach. 11-THUẬT SỐ : Thuật bói toán. 12-THẦN NHÃN : Mắt thần. Theo truyền thuyết, trên thiên đình có 2 vị thần, là “Thiên Lý Nhãn”, và “Thuận Phong Nhĩ”. Một người có mắt thần có thể nhìn thấy việc xảy ra cách xa ngàn dặm. Một người có tai thần, có thể đón luồng gió mà nghe được chuyện cách xa ngàn dặm. 13-ĐẠO BINH GIA : Phép cầm quân, thuật dùng binh. 14-QUÁN TRIỆT : Hiểu rõ đến tận cội rễ, ngọn nguồn. 15-ĐỊA LÝ : Hiểu thấu hình thế đất đai, chỗ nào có thể dàn trận, chỗ nào có thể phục binh, đâu là địa lợi, đâu là tử địa, hiểm địa, để phục vụ cho việc dùng binh. 16-THIÊN THỜI : Xem thiên tượng (gió, mây, trăng, sao) mà biết trước được thời tiết 17-NHÂN TÂM : Hiểu được lòng dân theo ai, chống ai. Hiểu được ý dân muốn gì, cần gì ... 18-LƯỢC THAO : Tài năng, mưu trí trong hành quân, đánh trận 19-CƠ SỐ : Các thuật toán, áp dụng vào việc tổ chức quân đội, sao cho các cánh quân phối hợp chính xác được với nhau. 20-LỤC NHÂM : Thuật bói toán dựa trên “Dịch lý” của vua Phục Hy (bói Tiên Thiên) và Chu Văn Vương (bói Hậu Thiên) để lại, có thể đoán biết được cả quá khứ, lẫn vị lai. 21-NỘI TÌNH LỤC QUỐC : Những chuyện thầm kín, bí mật, thâm cung bí sử của các nước. 22-GIẢI PHÂN : Giải thích và phân tích một vấn đề nào đó, giúp cho người khác có thể dễ dàng hiểu được. 23-HỔ HUYỆT : Hang cọp, cũng như “Long đàm” (đầm rồng), là những từ để chỉ các nơi nguy hiểm, dễ đến nhưng khó về, sa vào những nơi ấy khó lòng mà toàn mạng. 24-TIỀN HÔ HẬU ỦNG NGỜI NGỜI DUNG QUANG : Kẻ trước hét dọn đường, người sau la ủng hộ. Sắc mặt ,vũ khí, quần áo của quân sĩ đều sáng ngời. 25-KHÁCH TƯỚNG : Tướng vốn xuất thân từ nước khác, không phải là người bản xứ 26-LONG NHAN : Mặt rồng, tức là “Vua”. 27-TIỂU TÂM NHIỄU SỰ : Kẻ có lòng nhỏ nhen, hay gây ra lắm việc rắc rối, gây khó dễ cho người khác. 28-LOAN XA : Xe trang trí hình chim loan, chim phượng. 29-BIỆN SĨ : Kẻ giỏi tài miệng lưỡi, giỏi tranh luận. 30-MỒM LOA MÉP GIẢI : Như “Mồm năm miệng mười”, nghĩa là nói nhiều, nói lắm, hay đặt bày ra nhiều chuyện. 31-KẾ XẢO : Mưu kế tinh xảo, khéo léo lừa người mắc vào bẫy. 32-CUỒNG ĐỒ : Kẻ vừa ngu ngốc vừa cuồng ngông, làm bậy, nói bừa không cần biết gì đến lẽ phải. 33-NGOẠI CHỦNG : Kẻ thuộc về chủng tộc khác, không phải là người bản xứ. 34-BÁI SƯ : Vái lạy ai đó, để nhận người ấy làm thầy. 35-THIÊN CỔ LƯU DANH : Để lại tiếng tốt đến muôn đời. 36-TUNG HOÀNH : (Vẫy vùng) Ngang dọc 37-TÀI BỒI : Vun đắp cho ai nên người. 38-NGƯỜI TRI ÂM : Xuất xứ từ điển tích “Bá Nha, Tử Kỳ”. Bá Nha giỏi nghề gảy đàn, Chung Tử Kỳ lại có tài nghe tiếng đàn mà hiểu được tâm sự của Bá Nha. -“Tri âm” nghĩa là “nghe tiếng đàn hiểu được tâm sự”. Nghĩa rộng : Người tri âm là người bạn tốt có khả năng hiểu rõ nỗi lòng thầm kín của mình, và cũng sẵn sàng chia sẻ buồn vui với mình. -“Tri kỷ” (từ tương tự) nghĩa là “hiểu mình”. 39-TRÚC TIÊU : Sáo trúc. 40-HỒ CẦM : Đàn tỳ bà. 41-CÔ THÔN : Xóm làng nhỏ bé, cô quạnh, vắng vẻ. 42-SỰ NGHIỆP TÁC THÀNH : Hoàn thành được sự nghiệp. 43-VINH THÊ ẤM TỬ : Làm vẻ vang cho vợ, giúp cho con được “tập ấm” (nối chức của cha khi cha chết). 44-KHUẤT VỜI : Khuất dạng ở mãi tận nơi xa vời vợi. 45-DÂU BỂ, BỂ DÂU : Cũng như “Tang thương” là các từ tắt do câu “Thương hải biến vi tang điền” (Biển xanh hóa thành ruộng dâu) mà ra. Các từ này đều có ý nói “việc đời thay đổi”, mới vừa là biển cả, thoắt đã thành ruộng dâu. |
| | | HanSiNguyen
Tổng số bài gửi : 2855 Registration date : 12/10/2009
| Tiêu đề: Re: THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ Sat 14 May 2016, 16:58 | |
| BÌNH CHÚ đoạn 8PHẠM THƯ SANG TẦNNGUYỄN HỒNG BẢY1-CẢNH TRIỀU ĐÌNH MỤC NÁT:Chỉ bằng một đoạn 24 câu thơ ngắn ngủi (từ câu 727 đến câu 750), HSN đã vạch ra một khung cảnh triều đình nước Tần mục nát: Trên chóp đỉnh, vua chỉ là bù nhìn, hư vị, dẫu có chí lớn, cũng không thể làm gì, chỉ biết “Ôm cằm, bó gối, cúi đầu, khoanh tay”. Tam đầu chế Thái Hậu, Nhương Hầu, Hoa Dương chuyên chính, lộng hành. Dưới thì “Chuột bầy đục khoét của kho”. Ở giữa là một đám quan viên như thế này:Triều đường rặt những cáo cầy Xương khô trong mả múa may cung đình Thằng hề, con rối hiển vinh Người rơm áo mão, bù nhìn cân đai Đui mù ra dáng hiền tài Giả câm giả điếc lộc trời đầy noSáu câu thơ! Lật mặt sáu điển hình quan chức bất tài, vô dụng:
-Xương khô trong mả: Những kẻ kg có tài cán gì, kg có cả sức sống -Thằng hề: Những kẻ chỉ chuyên mua vui, gặp thời nhảy ra làm quan lớn -Con rối: Những kẻ kg thể chủ động làm được việc gì, phải chờ người khác giật dây sai khiến -Người rơm, bù nhìn: Những kẻ chỉ có cái vẻ ngoài đầy đe dọa, thực chất rỗng tuếch -Đui mù: Những kẻ thiển cận, kg nhìn xa, kg trông rộng, có mắt như mù -Giả câm giả điếc: Những kẻ biết phải làm gì, phải nói gì, nhưng lại an phận im lặng chỉ cốt yên thân mình, để vinh hưởng lộc trời, mặc kệ thiên hạ.
Dễ dàng nhận ra trong 6 điển hình ấy, thành phần tích cực nhất chính là cái thành phần “Giả câm giả điếc”. Nhưng nếu thành phần tích cực nhất mà chỉ biết an phận, lo cho riêng mình như thế, thì còn mong gì vận nước đổi thay được nữa
Và điểm lý thú nhất, những cái điển hình mục nát, thối ruỗng ấy, không chỉ đúng ở nước Tần, ở thời hậu kỳ Chiến Quốc ấy, mà có thể nói, chúng đúng cho mọi thời và ở mọi nơi vậy! Ở đâu, có 6 loại hình nhân ấy lộ diện và khuynh đảo, thì thế nước phải suy vong. Ngược lại, mỗi khi thế nước suy vong, thì 6 loại hình nhân ấy lại có cơ hội để làm trùm thiên hạ. Nhìn vào đó có thể suy ra vận mệnh của một quốc gia vậy.2-PHẠM THƯ & TRƯƠNG QUỲNH HOA:-Trong Sử Ký Tư Mã Thiên và Đông Chu Liệt Quốc Diễn Nghĩa, khi Phạm Thư lâm nạn, ông đã có vợ rồi. Cả hai sách này đều chép rõ: Sau khi bị Ngụy Tề hành tội nhục hình, ông nhờ người đưa về nhà cho vợ con chăm sóc. Và kg hề đề cập đến người vợ ấy tên là gì
-Trong phim Đông Chu Liệt Quốc, cuối thế kỷ 20, người vợ của Phạm Thư được hư cấu thành một phụ nữ tên là VÂN NƯƠNG
-Trong TTƯHPT, HSN đã hư cấu hoàn toàn ra một nhân vật TRƯƠNG QUỲNH HOA, đặt để làm em họ Trịnh An Bình, con gái y sư Trương lão, người thầy thuốc đã chữa trị cho Phạm Thư sau cơn đại nạn. Và từ đó hình thành ra cuộc tình, cuộc hôn nhân giữa Trương Quỳnh Hoa với Phạm Thư ở Mai Lâm (Rừng mai này cũng là hư cấu nốt).
Tình cảm của họ hiện diện xuyên suốt và trường kỳ, từ khi mới gặp, mới cưới, đến khi phải xa cách nhau, nhớ thương nhau… Chính nhờ cái tình yêu đôi lứa và sự nhớ nhung thắt lòng này giữa họ, mà mạch thơ (thường là ở cuối các phân đoạn) êm dịu hẳn lại, đậm chất tình người, thiết tha sâu lắng, đẩy lùi cái tính chất tranh đua quyết liệt nơi chính trường xuống hàng thứ yếu. Đây là một thí dụ:Ở Tần vẫn nhớ Mai Lâm (831) Trúc tiêu réo rắt, hồ cầm nỉ non Bao giờ về được cô thôn, Thăm mồ cha mẹ, cho tròn thân danh Bao giờ sự nghiệp tác thành, Vinh thê ấm tử, sử xanh chói ngời Bao giờ đôi bóng chung đôi, Lau khô nước mắt cho người chờ mong Trăng khuya lơ lửng đầu song Quỳnh Hoa chắc hẳn nhớ nhung bên trời Nửa vầng trăng sáng chơi vơi (841) Nửa vầng kia đã khuất vời ngàn dâu Trời làm dâu bể, bể dâu Cạn dòng nước mắt, âu sầu trông trăng Hồn nương mây ấm mấy tầng Giãi lòng ra với chị Hằng không nguôi Trời cao có xuống làm người, May ra biết xót thương đời biệt ly !Những điệp ngữ BAO GIỜ diễn đạt xuất sắc nỗi KHÁT KHAO THIẾT THA! Và hai câu kết đoạn “Trời cao có xuống làm người. May ra biết xót thương đời biệt ly” sẽ khiến không ít người đọc (có cùng hoàn cảnh) phải rưng rưng giọt lệ vậy. H7C |
| | | HanSiNguyen
Tổng số bài gửi : 2855 Registration date : 12/10/2009
| Tiêu đề: Re: THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ Sat 14 May 2016, 17:02 | |
| |
| | | HanSiNguyen
Tổng số bài gửi : 2855 Registration date : 12/10/2009
| Tiêu đề: Re: THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ Sat 14 May 2016, 21:44 | |
| Hồn nương mây ấm mấy tầng Giãi lòng ra với chị Hằng không nguôi Trời cao có xuống làm người, May ra biết xót thương đời biệt ly ! -9-
TẦN CHIÊU TƯƠNG VƯƠNGNói về yếu địa Tây Kỳ Ấp phong vạn hộ thuộc về Tần Doanh Nối đời cho đến Chu Bình (851) Có công, vua thưởng hai thành Kỳ, Phong Dần dà thôn tính Tây Nhung Tần Mục nhân nghĩa võ công hơn đời Nhìn xa, trông rộng, yêu người, Lưu danh Ngũ bá chói ngời Xuân thu Tin dùng Ngũ cổ đại phu Dân giàu nước mạnh, cơ đồ thênh thang Hiếu công sự nghiệp vẻ vang Nghe lời Vệ Ưởng, theo đàng Pháp gia Quân lương vũ khí hằng hà Giáp binh cường tráng, chiến xa chật đường Đời ba mươi mốt xưng vương Vây Tề, đánh Sở, mở mang cõi bờ Huệ Văn vương giỏi quân cơ (861) Thanh gươm yên ngựa, cướp cờ lập công Gồm thâu Ba quận, Thục trung Vua tôi lục quốc hãi hùng thiên oai Con là Tần Vũ nối ngôi Muốn xem cửu đỉnh, dạo chơi Lạc thành Trẻ người hiếu thắng ham danh Cậy tài ỷ mạnh gây thành vạ to Đỉnh rơi dập nát chân vua Vũ vương phút chốc giã từ nhân gian Chiêu Tương năm tuổi đăng đàn (871) Thay anh cai quản giang san nước Tần Tuyên thái hậu, Hoa Dương quân Nhương hầu Ngụy Nhiễm định phần triều cương Trải ba mươi sáu năm trường Tam đầu nhiếp chính, Tần vương bù nhìn Định tâm cải cách lắm phen Trong ngoài cô lập, buông rèm giả ngơ Cung vàng điện bạc hững hờ Rượu ngon thịt béo thẫn thờ, buồn thay Hiền tài như lá thu bay (881) Lấy ai báo quốc dựng xây miếu đường Hình thành cơ nghiệp bá vương Tung hoành phỉ chí, bốn phương cúi đầu Khi thiết yến, lúc khai chầu Bá quan vạn tuế, chư hầu tung hô Chạnh nhìn một lũ ngây ngô Tham danh hám lợi, chực chờ bon chen Tâm tư nặng trĩu ưu phiền Nước non nặng trĩu sầu riêng một mình Vương Kê vào trước sân đình (891) Chi li thuật rõ nội tình Ngụy đô Dâng lên dăm bức dư đồ Nói lời tiến dẫn giúp cho hiền thần -“Người này đáng mặt thần nhân Tài kiêm văn võ, quỉ thần cũng thua Hiền tài bậc nhất bây giờ Pháp binh thông tỏ, thi thư am tường Thật lòng muốn giúp đại vương Xin cho kiến giá, bàn phương yên Tần” Tần vương mải nghĩ xa gần (901) Một phần nghe lọt, chín phần buông trôi Hững hờ, không hỏi một lời Cho làm Tân khách, tạm thời lưu dung, Bao giờ lập được đại công Bấy giờ sẽ liệu sắc phong công hầu !
Vương Kê lặng lẽ lui mau Mặt dài thườn thượt, dạ sầu mênh mang Đường mây tưởng đã thênh thang Xăm xăm rời Ngụy, xênh xang về Tần Ngỡ rằng được gặp thánh quân (911) Phò vua, giúp nước, an dân, cứu đời Giúp người, giúp chẳng đến nơi Vô phương, đành phải liệu bài hoãn binh Trước sau đối đãi chân thành Một lòng cung kính, hết tình tri âm Bàn cờ, cuộc rượu, ca ngâm Trúc tiêu tiêu muộn, hồ cầm giải khuây Hồn nương nơi cánh rừng mai Bâng khuâng mơ tưởng những ngày bên nhau Lững lờ nước chảy về đâu ? (921) Dòng đời vô vọng, biển sầu mông mênh[Còn tiếp] |
| | | HanSiNguyen
Tổng số bài gửi : 2855 Registration date : 12/10/2009
| Tiêu đề: Re: THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ Sun 15 May 2016, 01:18 | |
| GIẢN CHÚ đoạn 9TẦN CHIÊU TƯƠNG VƯƠNGBy NGUYỄN PHÚ1-YẾU ĐỊA : Vùng đất quan trọng về mặt chiến lược 2-TÂY KỲ : Vùng đất phía Tây và Tây Bắc Trung quốc, bao gồm các xứ Lũng Tây, Cam Túc, Tứ Xuyên, Hán Trung, Ba Quận. Vùng đất Tây Kỳ này núi sông vô cùng hiểm trở, nhưng đất đai lại phì nhiêu, dân cư đông đúc mà dũng mãnh. Phía Nam thông với Kinh Châu, Tương Dương, phía Bắc là rợ Khuyển Nhung,Hung Nô, sườn phía Đông của giải đất này được che chở bởi núi non trùng điệp, thông với Trung Nguyên (Tam Tấn : Triệu,Hàn, Ngụy) bằng cửa ải Hàm Cốc, vùng đất Hồ Quan, nhìn ra Tam Xuyên, Đồng Quan, Lạc Dương. Trong lịch sử phân tranh của Trung quốc, có thể nói lực lượng nào khống chế được giải đất Tây Kỳ này đều dễ dàng thành công trong việc thống nhất thiên hạ. Chu Vũ vương(Cơ Phát), Tần Thủy hoàng (Doanh Chính), Hán Cao tổ (Lưu Bang) đều khởi từ Tây Kỳ mà dựng nên nghiệp Đế. Trong thời Tam Quốc (sau Đông Hán), Hán Chiêu Liệt hoàng đế (Lưu Bị) tuy thế lực rất non yếu, nhưng nhờ khống chế được Ba Thục và một phần đất Lũng, cũng đủ để “chia ba thiên hạ” cùng Ngô, Ngụy. 3-TẦN DOANH : Nước Tần vốn được vua Tây Chu phong cho nhà họ Doanh, họ ấy vì thế cũng được gọi là họ Tần Doanh 4-TÂY NHUNG : tức người Khương,Tây Khương, ở giáp giới với Lũng Tây, một tộc người thiểu số thường bị gọi một cách khinh miệt là rợ Khuyển Nhung. Dân ít, nhưng vô cùng dũng mãnh, can đảm. Thường xuyên uy hiếp nhà Tây Chu, sau bị Tần thôn tính dần dần. 5-TẦN MỤC CÔNG : tên là Nhâm Hiếu, vua thứ 13 của nước Tần, trị vì 39 năm (659-621tr.CN) là một trong Xuân thu Ngũ bá. 6-NGŨ CỔ ĐẠI PHU : tức Bá Lý Hề (xem chú thích ở đoạn 5) 7-TẦN HIẾU CÔNG : tên là Cừ Lương, vua thứ 30 của nước Tần trị vì 24 năm (361-338 tr.CN), cũng là vị vua Tần cuối cùng xưng tước “Công”. 8-VỆ ƯỞNG : tên là Công Tôn Ưởng, người nước Vệ (nên được gọi là Vệ Ưởng), sau giúp Tần có công lớn được phong tước ở đất Thương (nên cũng còn được gọi là Thương quân, Thương Ưởng). Vệ Ưởng vốn là một trong số các nhân tài kiệt xuất thời Chiến quốc, làm Thừa tướng nước Tần đời Tần Hiếu công, thực hiện đường lối chính trị của Pháp gia, thi hành Bá đạo (đạo làm bá chủ) giúp Tần trở thành một cường quốc. Cuối đời, bị hành hình “Xa liệt” (Năm chiếc xe phanh thây). 9-PHÁP GIA : Một trường phái triết học, chính trị học thời Xuân thu, do Hàn Phi tử xướng xuất, chủ trương thiết lập cách cai trị chuyên chế ở trong nước, dựa trên những hình phạt nghiêm khắc của luật pháp, để mau chóng làm cho dân giàu nước mạnh, tiến tới đánh đổ các chư hầu (vốn là các chế độ quân chủ phong kiến mà đất đai và quyền lực bị xé vụn bởi các lãnh chúa địa phương), Mục đích của phái Pháp gia là thiết lập một nền quân chủ chuyên chế tập quyền, trong đó quyền lực tập trung về một nhà nước trung ương, thành lập ra tỉnh, thành, quận, huyện; xóa bỏ hoàn toàn các chư hầu. Biện pháp thực hiện của Pháp gia là “Bá đạo” (đạo làm bá chủ : dựa trên sức mạnh, chuyên chế, hình phạt, đánh đổ hẳn cái cũ sai sót, thay bằng cái mới tích cực hơn), đối lập với “Vương đạo”của Nho gia (đạo làm vua : dựa trên nhân nghĩa, thuyết phục, giáo dục, kiên trì sửa sai, chỉnh lý cái xã hội cũ chưa tốt thành cái tốt hơn) Các đại diện xuất sắc của phái Pháp gia gồm có Vệ Ưởng, Lý Tư ... Cả hai đều là Thừa tướng nước Tần, góp công lớn khiến Tần trở nên cường thịnh. Chính Lý Tư sau này đã giúp Tần Thủy hoàng thống nhất Trung quốc, lập nên Đế chế Tần. 10-HẰNG HÀ : (hằng hà sa số) nhiều, rất nhiều (nhiều như số cát ở sông Hằng). 11-GIÁP BINH : quân mặc áo giáp -CHIẾN XA : Xe trận, bằng gỗ được bọc sắt, do trâu hoặc ngựa kéo. Thường chở theo quân cung thủ hoặc quân xung kích tinh nhuệ. Chiến xa là một lực lượng vừa mạnh vừa cơ động, rất quan trọng trong chiến tranh thời cổ đại. 12-TẦN HUỆ VĂN VƯƠNG : tên là Tứ, con Tần Hiếu công. Đây là vị vua thứ 31 nhà Tần, người đầu tiên xưng “Vương”, vua này võ công thao lược đều hơn người, luôn năm gây hấn đánh phá lục quốc. Hai anh em Tần Vũ vương và Tần Chiêu Tương vương đều là con của vua này. 13-BA QUẬN : ở phía Nam đất Thục. Thục trung là tên gọi chung chỉ Thục quận và Hán Trung gộp lại, thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Đất Ba Thục này vô cùng hiểm trở. 14-TẦN VŨ VƯƠNG : Tên là Đãng, con trai Tần Huệ Văn vương, anh ruột Tần Chiêu Tương vương. Vũ vương là một vị vua trẻ, dũng cảm, nhưng hiếu thắng, do “cử đỉnh” tranh hơn thua với bọn thuộc hạ là Nhâm Bỉ, Ô Hoạch, bị tuột tay, đỉnh nặng ngàn cân rơi xuống đè dập nát đôi chân. Em là Chiêu Tương vương lên nối ngôi lúc mới 5 tuổi 15-CỬU ĐỈNH : 9 cái đỉnh đồng (lư đồng) lớn, do nhà Chu sai đúc bằng đồng đen. Cửu đỉnh tượng trưng cho chín châu lớn trong cả nước, nhà Chu sở hữu cửu đỉnh là nắm giữ biểu tượng cai trị cả thiên hạ gồm 9 châu thời ấy. 16-LẠC THÀNH : thành Lạc Dương, kinh đô của nhà Đông Chu. 17-TẦN CHIÊU TƯƠNG VƯƠNG : gọi tắt là Tần Chiêu vương, tên Tắc, em ruột Tần Vũ vương. Lên làm vua lúc 5 tuổi, trải qua 36 năm chỉ là hư vị. Sau khi bãi chức Nhương hầu, trọng dụng Phạm Thư, mới lấy lại được thực quyền. Đời vua này để lại nhiều công nghiệp lớn lao, các chiến công cũng vô cùng hiển hách, tạo tiền đề thuận lợi cho Tần Thủy hoàng (cháu gọi Chiêu Tương vương là ông cố) gồm thâu lục quốc sau này. 18-TUYÊN THÁI HẬU : Vợ vua Huệ Văn vương, mẹ của Vũ vương và Chiêu Tương vương, nhiếp chính suốt 36 năm trường. Quyền bính trong thời kỳ này được Tuyên thái hậu phân bổ cho 4 người là : Nhương hầu, Hoa Dương quân (2 người em), Kinh Dương quân, Cao Lăng quân (2 người con khác của thái hậu, em Chiêu Tương vương). 19-HOA DƯƠNG QUÂN : tên là Thiên Nhung, em cùng cha với Tuyên thái hậu 20-NHƯƠNG HẦU NGỤY NHIỄM : Em cùng mẹ với Tuyên thái hậu, làm thừa tướng nước Tần suốt thời gian Chiêu Tương vương còn nhỏ. Sau bị Phạm Thư lấy mất quyền chức. 21-KIẾN GIÁ : Gặp vua. 22-TÂN KHÁCH : Chức quan dành cho người nước khác đến giúp việc cho Tần. 23-LƯU DUNG : Cho phép ở lại nước Tần, chờ cơ hội lập công giúp nước. 24-ĐƯỜNG MÂY : đường công danh. 25-VÔ PHƯƠNG : hết cách, chẳng còn cách nào khác. 26-HOÃN BINH : Kéo dài thời gian, chờ cơ hội tốt hơn 27-VÔ VỌNG : Hết hy vọng, không có triển vọng gì. |
| | | HanSiNguyen
Tổng số bài gửi : 2855 Registration date : 12/10/2009
| | | | HanSiNguyen
Tổng số bài gửi : 2855 Registration date : 12/10/2009
| Tiêu đề: Re: THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ Mon 16 May 2016, 06:01 | |
| Hồn nương nơi cánh rừng mai Bâng khuâng mơ tưởng những ngày bên nhau Lững lờ nước chảy về đâu ? (921) Dòng đời vô vọng, biển sầu mông mênh -10-
PHẠM THƯ BIỂU Tây Tần từng trải việc binh Tướng hay quân giỏi, tráng đinh can trường Vui câu túy ngọa sa trường Bọc thây da ngựa, bốn phương danh truyền Đông bình Triệu, Bắc phá Yên Vây Tề, hãm Sở, đảo điên Ngụy Hàn Khắp nơi trắng xóa khăn tang Xương phơi chật núi, máu loang ngập đồng Mặc cho tướng sĩ trận vong (931) Miễn sao đại tướng nên công muôn đời Tướng Tần Bạch Khởi thiên tài Hồ Thương, Vương Hạt đồng thời vang danh Người trung dũng, kẻ hùng anh Tiếp tay, chắp cánh, thêm nanh Nhương hầu Lục quốc in dấu vó câu Chiến công hiển hách, khô lâu bạt ngàn Bạch Khởi nhận tước Võ An Tướng quân, tướng quốc uy càng thêm uy Nương nhau kẻ xướng người tùy (941) Nhất hô bá ứng, kể gì Tần vương Cường thần khuynh đảo miếu đường Triều trung lấn át, biên cương lộng hành Tiếng đồn lan khắp kinh thành Nhương hầu chuẩn bị tuyển binh đánh Tề Giáo gươm, cờ xí, ngựa xe Trấn biên nhộn nhịp, kinh kỳ xôn xao Quyết tâm mở rộng đất Đào Chiếm vùng Cương Thọ nhập vào đất Nhương Dựng xây nền móng kỷ cương (951) Gặp thời thoán vị, làm vương nước Tần Giả như nước ngập đến chân Lui về xứ ấy, yên thân chư hầu ! Chị em Tuyên hậu đồng mưu Chiêu vương biết ý, bạc đầu vì lo An Bình, Trương Lộc bấy giờ Suốt năm trông ngóng, đợi chờ mỏi mê Nghe tin Tần sắp đánh Tề Biết rằng cơ hội đã kề một bên Vội vàng viết biểu dâng lên (961) Nhờ quan yết giả trước đền dâng vua :
-“Trộm nghe : Minh chúa thuở xưa Công to thì thưởng, tài sơ chẳng dùng Khó nhọc, bổng lộc trả công Lập nhiều chiến tích, tước phong công hầu Trị dân giỏi, chức quan cao Khiến nên ẩn sĩ đua nhau giúp đời Lời hèn nếu chẳng đơn sai Kíp cho áp dụng, chớ bài ngoại nhân Giả như minh chúa phân vân (971) Thân này ở lại nước Tần mà chi Cấp cho một ngựa một xe Hồ Quan thần sẽ liệu bề giong cương Xưa nay vua chúa tầm thường Xa người trung nghĩa, gần phường tiểu nhân Hiền vương, thánh chúa cao minh Thưởng công phạt tội công bình, uy nghiêm Khách khanh Trương Lộc tài hèn Sức không chịu nổi một phen búa rìu Có đâu liều mạng nói điêu (981) Để mà chuốc lấy những điều lụy thân Chẳng qua chí muốn hưng Tần Gối sương nằm tuyết đã gần một năm Hạn hán trông đợi mưa dầm Ngu dân trông đợi thánh tâm sớm chiều Phải chăng kẻ nịnh thì yêu Lời người trung trực bỏ liều không nghe ? Hay vì yết giả Vương Kê Chức quan hèn mọn khó bề tiến nhân ? Khiến nên bệ hạ khinh thần (991) Chẳng cho gặp mặt, chẳng cần mưu hay ? Những điều sâu sắc ngày nay Dám đâu liều lĩnh vung tay viết bừa ? Trung ngôn nếu hợp ý vua Kế hay bớt chút thì giờ nghe qua Giả như nghịch nhĩ sai ngoa Thân này cam chịu làm ma không đầu Nêu gương hậu thế về sau : Trung thần nghĩa sĩ chớ vào Hàm Dương !”
Tần vương đọc hết tấu chương (1001) Tin thì tin vậy, nghi dường còn nghi Truyền cho yết giả Vương Kê Lắp yên, thắng ngựa, đánh xe đi mời Ly cung chuẩn bị chúc bôi Thử xem thuyết khách vẽ vời ra sao.[Còn tiếp] |
| | | HanSiNguyen
Tổng số bài gửi : 2855 Registration date : 12/10/2009
| Tiêu đề: Re: THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ Wed 18 May 2016, 11:46 | |
| GIẢN CHÚ đoạn 10 PHẠM THƯ BIỂU |
| | | HanSiNguyen
Tổng số bài gửi : 2855 Registration date : 12/10/2009
| Tiêu đề: Re: THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ Wed 18 May 2016, 11:47 | |
| LƯỢC BÌNH đoạn 10 PHẠM THƯ BIỂU |
| | | HanSiNguyen
Tổng số bài gửi : 2855 Registration date : 12/10/2009
| Tiêu đề: Re: THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ Wed 18 May 2016, 11:54 | |
| Truyền cho yết giả Vương Kê Lắp yên, thắng ngựa, đánh xe đi mời Ly cung chuẩn bị chúc bôi Thử xem thuyết khách vẽ vời ra sao-11-
KIẾN GIÁ TẦN VƯƠNGHoạn quan giữ cửa truyền rao -“Ai là Trương Lộc mau vào gặp vua .” Trương Lộc khi ấy giả vờ : -“Thuở nay chỉ biết Tần thờ ba ngôi Ngai vàng bỏ trống lâu rồi (1011) Vua nào nay lại cho vời đến ta ?” Dứt lời, xộc thẳng vào tòa Cận thần, hoạn giả thảy là thất kinh Tấu trình mọi lẽ đinh ninh Tưởng vua nổi trận lôi đình mau mau Nào ngờ trúng chỗ thương đau Trái tim rỉ máu, nghẹn ngào, băn khoăn Truyền cho đuổi hết thị thần Bên thềm cung kính, trước sân cúi đầu Nội cung trân trọng rước vào (1021) Đãi như thượng khách, thỉnh cầu cần vương Quì ngay bên gối họ Trương Lắng tai chăm chút lời vàng hiền nhân Đáp lời :-“Dạ ! Dạ !” ba lần Trước sau chẳng vội tỏ phân can tràng
Vua Tần lệ nhỏ hai hàng : -“Nước nhà bất hạnh, quả vương vô tài Tiên sinh nay đã đến đây Sao không dạy bảo, giãi bày thiệt hơn Phải chăng vì trẫm đức non (1031) Tiên sinh không luận mất còn thấp cao ?” Lộc rằng :-“Chẳng phải thế đâu ! Ba lần vua hỏi, lẽ nào không thưa Chẳng qua đang lúc thẫn thờ Tin nghi chưa rõ, thân sơ chưa tường Tỷ Can, Cơ Tử đời Thương Đều là tôn thất, họ hàng cùng vua Kể thân, thân mấy cho vừa Vua không tin cậy, mưu đồ uổng công Trụ vương tất phải bại vong (1041) Thành Thang cơ nghiệp bỗng dưng tan tành Văn vương thấu lý đạt tình Dẫu sơ nhưng vẫn trọn tin hiền tài Thực thi kế lạ mưu hay Trao quyền Khương Thượng đổi thay đất trời Dựng nên cơ nghiệp ngàn đời Chuyện xưa còn đó chói ngời sử xanh Sơ thân chẳng giúp việc thành Tồn vong chỉ một chữ tin hay ngờ Thần là khách lạ tình sơ (1051) Dầm sương dãi tuyết chực chờ gian truân Kể thân, chẳng có chi thân Kể tin, tin được ba phần hay không ? Nói ra đại kế hưng vong Phạm vào cốt nhục, vương vòng sát thân Nghẹn lời, mà dạ băn khoăn Tin nghi hai lẽ, phân vân ngỡ ngàng” Vua rằng :-“Đá biết tuổi vàng, Tạ hoàng thiên, giúp an bang cứu đời Quả nhân một mực theo lời (1061) Trên thời thái hậu, dưới thời quan khanh Tiên sinh cứ việc tấu trình Sơ thân chớ ngại trọng khinh thói thường Trẫm dù chẳng phải hiền vương Biết phân cao thấp, hiểu tường trước sau Bao nhiêu kế lạ mưu sâu Quả nhân bái gối cúi đầu xin nghe” Lộc rằng :-“Bá nghiệp gần kề Đại thần vụng tính, khó bề nên công E rằng cơ nghiệp tổ tông (1071) Về tay người khác, chỉ trong sớm chiều !”
Mồ hôi tuôn đẫm hoàng bào : -“Tiên sinh nói rõ trước sau trẫm tường” Lộc rằng :-“Mưu sự bá vương Sâu rễ bền gốc, hùng cường tại dân Dần dà thôn tính nước gần Như sâu cuốn chiếu, như tằm ăn dâu Nước xa tìm cách kết giao Ấy là kế lớn, lẽ nào nghịch thiên Nhương hầu, Bạch Khởi đảo điên (1081) Rõ ràng chỉ biết lợi riêng cho mình Người hám lợi, kẻ tham danh, Của kho khánh tận, sinh linh điêu tàn Đó đây vang tiếng khóc than Cô nhi quả phụ khăn tang khắp trời Khô lâu vương vãi nơi nơi Bao năm chinh chiến, đất trời ủ ê Cuối cùng Tần được tiếng chê Hồ Quan cô quạnh trông về Hàm Dương Hào Sơn còn đó núi xương (1091) Co mình Hàm Cốc, bá vương nỗi gì ? Bây giờ lại chực đánh Tề Nhương hầu thắng trận thêm bề vinh hoa Thất cơ, tội đến cả nhà Tặc thần nghịch đảng hẳn là phế vua Miếu đường Tần quốc bấy giờ Người dưng khác họ chực chờ lên ngôi ! Ngày nay đại thể rõ rồi Nếu không tính trước, ngậm ngùi về sau Ngự lâm củng cố cho mau (1101) Kế là hạ lệnh Nhương hầu triệt quân Một bầy gian đảng nịnh thần Bấy giờ khép tội khi quân thải hồi Chỉ e vua chẳng dùng tôi Để cho phản tặc kịp thời ra tay !”
Vua nghe như lửa cháy mày : -“Tiếc rằng không có nhân tài theo ta Nội cung ngoại trấn gần xa Toàn là phe đảng Nhương, Hoa lộng hành” Lộc rằng :-“Thị vệ, Cấm binh (1111) Hãy giao cho Trịnh An Bình chỉ huy Người này ở Ngụy theo về Nên trang nghĩa dũng, giỏi nghề kiếm cung Thân cao vóc lớn chí hùng Tiếng rền như sấm, oai phong hơn người Anh em kết nghĩa lâu rồi Đói no chia sớt, sẻ đôi lạnh lùng Giao cho bảo vệ cấm cung Ngự lâm quân tất một lòng phò vua Bấy giờ liệu gió phất cờ (1121) Bãi quan Ngụy Nhiễm chớ cho đánh Tề”
Vua Tần một dạ tin nghe An Bình nhận chức Chỉ huy Cấm thành Trương Lộc ẩn giữa quân doanh Cơ nào đội nấy giáp binh rỡ ràng Ngày ngày thao luyện chỉnh trang Đợi khi hữu sự sẵn sàng ra tay Thần long giam hãm lâu ngày Thoát nơi giếng cạn, lên mây vẫy vùng Tần vương ở miết cấm cung (1131) Giả mê nữ sắc, tiệc tùng vui say Dừng có mạch, vách có tai Mọi bề cẩn trọng, chẳng ai nghi ngờ.[Còn tiếp] |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ | |
| |
| | | |
Trang 4 trong tổng số 8 trang | Chuyển đến trang : 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |