Bài viết mới | Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Today at 20:17
Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 01:16
KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Yesterday at 16:45
KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22
Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22
NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20
KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08
Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54
Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10
7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10
Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21
Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13
Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07
Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36
Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09
Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46
Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06
Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04
DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19
Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37
Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17
CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05
Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39
Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41
Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
|
| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Tiền Thân Đức Phật phần 15 Thu 06 Jan 2011, 21:34 | |
| Tiền Thân Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni
Soạn giả: Minh-Thiện Trần-Hữu-Danh Với sự khuyến khích và giúp đỡ của hiền nội: Diệu-Xuân Nguyễn-thị Bạch-Mai = Phần 15
2- Hạ 45 tại làng Beluva gần Vesali [1] (năm -545)
Sau khi qua sông Ganga tại Pataliputta, Phật và giáo đoàn đi tới Kotigama. Phật ở lại Kotigama vài ngày để chỉ dạy cho một số đông khất sĩ tại đâ về cách thực hành Tứ Diệu Ðế để chấm dứt đau khổ luân hồi, rồi Phật lại đi đến làng Nadika.
Nơi đây Phật và giáo đoàn nghỉ tại một ngôi nhà xây bằng gạch gọi là Ginjakavasatha. Tại đây, nhân dịp Thượng tọa Ananda hỏi thăm Phật về những vị đệ tử đã mệnh chung tại vùng này, trong số đó có nữ khất sĩ Sundari Nanda, em gái của Phật, các vị khất sĩ Salha, Nadika, nữ cư sĩ Sujata ngày xưa đã dâng bát cháo sữa cho Phật, và các cư sĩ Kakudha, Bhadda, Subhadda, ...
Phật nói những vị vừa kể cùng với khoảng năm mươi vị khác đã từng sinh sống tại đây đều đã chứng được các quả vị từ nhập lưu (sotapanna) đến bất hoàn (anagami), có hai vị khất sĩ đã chứng quả A-la-hán.
Phật dạy người tu hành nào thông hiểu và vững tin nơi Phật, Pháp, Tăng đều có thể nhìn vào Gương Chánh Pháp [2] (Dhammadasa) rồi tự quán xét tâm mình để biết mình có được vào dòng giải thoát chưa, không cần phải hỏi ai khác.
Phật bệnh nặng tại Beluva, gần Vesali [3]
Rời Nadika, Phật và giáo đoàn tới thủ đô phồn thịnh Vesali của xứ Vajji, ngụ tại vườn xoài của bà Ambapali trong làng Amvara. Bà Ambapali thiết lễ cúng dường trai tăng ngày hôm sau.
Trong buổi lễ bà dâng cúng khu vườn xoài của bà cho giáo đoàn khất sĩ dùng làm tinh xá, và bà cũng xin được xuất gia, về sau đắc quả A-la-hán.
Vài ngày sau, Phật rời Vesali đi tới làng Beluvagamaka (hiện nay là Basarli) thuộc ngoại ô thủ đô Vesali. Cơn mưa đầu tiên đổ xuống, kéo dài gần hai ngày.
Phật quyết định an cư năm nay tại làng Beluva này, và khuyên các vị khất sĩ trong đoàn nên nhập hạ bên trong hoặc xung quanh thành Vesali vì làng Beluva không có nơi thuận lợi để giáo đoàn có thể nhập hạ chung. Ðây là mùa an cư thứ 45 sau ngày Phật thành đạo tại Bodh-Gaya, và cũng là mùa an cư cuối cùng của đức Phật.
Giữa mùa an cư năm nay Phật bị bệnh nặng. Thân thể người đau đớn vô cùng. Người nằm yên, không hề rên siết, giữ vững chánh niệm và hơi thở. Mọi người nghĩ rằng Phật sẽ không qua khỏi.
Nhưng không ngờ sau một tuần, Phật vượt qua được cơn đau. Sức khỏe dần dần hồi phục. Vài ngày sau Phật tự đứng dậy được, đi ra khỏi am, đến ngồi trên một tảng đá trước am để phơi nắng.
Phật dạy nương tựa nơi tự tính Tam Bảo [4]
Thượng tọa Ananda đến ngồi bên cạnh Phật, nói: - Bạch Thế Tôn, bốn mươi mấy năm nay con chưa từng thấy Thế Tôn bệnh nặng như lần này. Hôm Thế Tôn nằm im lìm suốt ngày không động đậy, con cảm thấy bủn rủn cả tay chân.
Ðầu óc của con lúc ấy không được sáng suốt, con nghĩ rằng Thế Tôn sẽ không qua khỏi. Nhưng con lại tự nhủ thầm: Ðức Thế Tôn chưa di chúc gì hết cho giáo đoàn khất sĩ thì chắc Thế Tôn chưa nhập niết-bàn đâu. Nhờ nghĩ như vậy mà con an tâm được phần nào.
- Này Ananda, giáo đoàn khất sĩ còn chờ đợi gì ở Như Lai nữa mà thầy bảo là Như Lai phải để lại di chúc? Chánh pháp đã được Như Lai giảng bày cặn kẽ cho mọi người, có điều gì cần cho sự tu tập giải thoát mà Như Lai còn chưa chỉ dạy cho quý vị đâu?
Này Ananda, chỗ nương tựa của giáo đoàn là Chánh Pháp, không phải ở một vị Giáo Chủ.
Các thầy đừng đi tìm một chỗ nương tựa nào khác ngoài Chánh Pháp. Mỗi người phải tự lấy Chánh Pháp làm nơi nương tựa. Phải sống theo Chánh Pháp. Phải biết sống theo tự tâm thanh tịnh của chính mình.
Này Ananda, Phật, Pháp, Tăng đều có sẵn trong mỗi người chúng ta: khả năng giác ngộ là Phật, pháp môn tu học là Pháp, tinh tấn thực hành là Tăng.
Không ai có thể cướp giật Phật, Pháp, Tăng ra khỏi thân tâm quí thầy được. Dù trời đất có nghiêng ngã, tự tính Tam Bảo nơi mỗi người vẫn còn nguyên vẹn.
Ðó là nơi nương tựa an ổn nhất của quí thầy. Vị khất sĩ trở về an trú trong chánh niệm, quán chiếu thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng của tâm ý, đó là vị khất sĩ đang có nơi nương tựa vững chãi nhất.
Một người khác, dù là giáo chủ, thượng thủ hay bổn sư của mình, cũng vẫn không phải là chỗ nương tựa vững chãi hơn tự tính Tam Bảo sẵn có nơi mỗi người.
Này Ananda, những gì cần biết Như Lai đã chỉ dạy đầy đủ. Ngọn đuốc Chánh Pháp Như Lai đã làm sẵn. Các thầy hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi.
Này Ananda, Như Lai không nghĩ rằng có người nào phải lãnh đạo Giáo Ðoàn Khất Sĩ, hoặc Giáo Ðoàn Khất Sĩ phải tùy thuộc nơi người nào.
Tại sao Như Lai phải để lại di chúc về Giáo Ðoàn? Này Ananda, bây giờ Như Lai đã kiệt lực, già yếu và gần đến ngày lìa trần.
Như Lai đã gần tám mươi tuổi rồi, không khác nào một cỗ xe quá cũ kỹ phải cần có những sợi dây để cột lại các bộ phận, giữ cho nó khỏi rời ra.
Thân của Như Lai hiện nay cũng cần có những sợi dây thừng tương tợ [5] Này Ananda, chừng nào Như Lai không còn nghĩ gì đến sự vật xung quanh, mọi cảm thọ đều chấm dứt, tâm hoàn toàn an trụ và bất động, chừng đó thân của Như Lai mới thật là thoải mái. Thượng tọa Sariputta viên tịch tại Nalaka[/size] [6]
Vào cuối mùa an cư thứ 45, sức khỏe của Phật đã được hồi phục. Một buổi sáng, chú tiểu Cunda, thị giả của Thượng tọa Sariputta, đi từ làng Upatissa (Nalaka), quận Nalanda, đến làng Beluva, bước vào am của Thượng tọa Ananda với nét mặt mệt mỏi vì đường xa.
Vừa trông thấy Thượng tọa Ananda, chú khóc nức nở, nước mắt ràng rụa trên đôi má bám đầy bụi đất.
Chú cuối xuống đảnh lễ Thượng tọa Ananda, rồi đứng lên thò tay vào đãy lấy ra hai chiếc cà-sa, một bình bát và một bình đựng tro xương xá lợi của Thượng tọa Sariputta. Chú nức nở khóc, không nói nên lời.
Mà chú cũng chẳng cần nói gì. Vừa thấy chú bước vào, Thượng tọa Ananda đã hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra. Thượng tọa ôm chú sa-di vào lòng, để chú khóc một hồi rồi dắt chú ra ngồi dưới gốc cây trước cửa am. Chú sa-di Cunda đã bớt khóc, chú bắt đầu kể:
Thượng tọa Sariputta về đến làng Upatissa thăm mẹ là bà Rupa-Sari, thuyết pháp cho bà nghe. Sau khi nghe xong bà đắc quả Tu-đà-hoàn.
Thượng tọa đã săn sóc bà cho đến khi bà lâm chung. Sau lễ trà tỳ của bà Sari, sẵn có mặt đầy đủ bà con và dân cư quen biết trong làng, Thượng tọa lại thuyết pháp cho họ nghe.
Mọi người đều chăm chú lắng nghe vì Thượng tọa nói hay lắm. Thượng tọa giảng về cuộc đời là vô thường và dẫy đầy những thống khổ về thân cũng như về tâm, Chánh Pháp là con đường duy nhất có thể đưa con người ra khỏi biển khổ sanh tử để đến niết-bàn an lạc thanh tịnh.
Sau thời pháp, Thượng tọa làm lễ quy y Tam Bảo cho gần mười người. Rồi đêm đó, nhằm đêm trăng tròn tháng Kattika (11 dl) Thượng tọa ngồi nhập định trong tư thế kiết già trong phòng nơi ngài sinh ra.
Ðến sáng sớm hôm sau, chú Cunda mới biết là Thượng tọa Sariputta đã nhập diệt có lẽ vào lúc nửa đêm. Trước đó Thượng tọa có nói là Thượng tọa muốn nhập diệt trước Phật, và dặn Cunda nên đem y bát và xá lợi của Thượng tọa đến trình Phật và xin Phật cho chú đi theo kề cận ngài. Thượng tọa Ananda lau nước mắt, đứng dậy, dắt chú tiểu Cunda đi gặp Phật, đem theo cà-sa, bình bát và bình xá lợi của Thượng tọa Sariputta. Phật đứng lặng yên nhìn cà-sa, bình bát và bình xá lợi của vị đệ nhất đệ tử. Một lúc lâu sau, Phật xoa đầu chú Cunda, rồi bảo Thượng tọa Ananda thu xếp cho chú được đi theo kề cận Phật. Thượng tọa Ananda nói: - Bạch Thế Tôn, khi con nghe tin sư huynh viên tịch, con thấy bủn rủn cả chân tay, và đầu óc con mất hết sáng suốt. Con buồn quá. - Này Ananda, sư huynh của thầy khi nhập diệt có mang theo hết giới, định, huệ và sự giải thoát của thầy đâu?
- Bạch Thế Tôn, không phải như thế. Con nghĩ sư huynh Sariputta lúc còn sanh tiền đã phục vụ Chánh pháp và Thế Tôn rất đắc lực trong mọi lãnh vực, từ việc hoằng pháp đến việc tổ chức an cư kiết hạ và hướng dẫn chúng con mỗi khi ai có điều gì chưa hiểu rõ hoặc chưa biết cách thực tập thế nào cho đúng phép.
Bây giờ cả hai sư huynh Moggallana và Sariputta đều không còn nữa. Giáo đoàn đã bị mất mát lớn. Chúng con cảm thấy trống trải, bơ vơ, thương tiếc một vị sư huynh từng ân cần lo lắng chỉ dạy cho chúng con mỗi khi Thế Tôn vắng mặt.
- Này Ananda, Như Lai đã nhiều lần nhắc nhở thầy là hễ có sanh thì có diệt, có hội ngộ thì có phân ly. Các pháp hữu vi đều như thế, biến đổi không dừng, thành, trụ, hoại, không.
Chúng ta nên xem các pháp hữu vi như giọt sương mai trên đầu ngọn cỏ, như hình ảnh trong bong bóng nước, như tia chớp khi trời mưa, như hoa đốm giữa hư không.
Nhưng nếu chúng ta biết sống với thực thể, thực tánh của vạn vật, chúng ta sẽ thấy vạn vật cùng một thể tánh, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm [7] Này Ananda, hai vị sư huynh của thầy không hề mất.
Tinh thần Moggallana và Sariputta vẫn còn đó, sự nghiệp của Moggallana và Sariputta vẫn còn đó, tư tưởng và lời nói của Moggallana và Sariputta vẫn còn đó, nơi thầy, nơi Như Lai, nơi các vị khất sĩ, nơi chú tiểu Cunda, nơi các tinh xá, nơi các lối đi, nơi cội cây, nơi bãi cỏ, ở khắp mọi nơi. Này Ananda, thầy hãy bình tâm, dừng vọng tưởng, để nhìn thấy bản thể thanh tịnh trường tồn của hai vị sư huynh của thầy.
Này Ananda, Sariputta là giác ngộ, là trí tuệ và tình thương rộng lớn, chứ Sariputta nào phải là mớ tro tàn trong bình đựng xá lợi này đâu. Này Ananda, thầy không nên để tâm mình bị vướng mắc vào các pháp hữu vi.
Thầy nên biết Yasodhara là tình thương, Sudatta là nguyện lớn, Moggallana là hiếu thảo, Mahakassapa là tri túc, Punna Mantaniputta là hoằng pháp, Anuruddha là tinh tấn.
Có bao giờ những tinh thần đó biến mất trên thế gian này đâu. Vua xứ Kosala được tin, sai sứ đến thỉnh y bát và xá lợi của Thượng tọa Sariputta về Sravasti và xây tháp thờ tại Jetavana [8].
Về sau, dân làng và Phật tử cũng có xây một tháp khổng lồ bằng gạch thờ ngài Sariputta tại viện Ðại Học Phật Giáo Nalanda. 3- Phật nhập niết-bàn tại Kusinagar [9] (năm -544)
Phật báo tin sẽ nhập diệt trong ba tháng [10]
Một hôm, sau khi mãn hạ, Phật và Ananda từ Beluva vào thành Vesali khất thực, thọ trai ở một cụm rừng. Phật bảo: - Ananda, chúng ta hãy đến đền Capala để nghỉ trưa.
Trên đường đi, Phật dừng lại nhiều lần để ngắm phong cảnh. Phật nói: - Ananda, Vesali thật là đẹp. Ðền Udena cũng đẹp. Các ngôi đền khác trong vùng như Gotamaka, Sattanbaka và Bahuputta cũng đều là những ngôi đền đẹp.
Ðền Capala mà chúng ta sắp đến cũng xinh lắm. Nhưng Thượng tọa Ananda đang mãi âu sầu, đau đớn về sự vĩnh biệt của Thượng tọa Sariputta, không còn để ý gì đến cảnh vật chung quanh. Ði một lúc, đức Phật lại nói:
- Này Ananda, thầy có biết không? Người nào đã trau giồi và phát triển đầy đủ các đức hạnh, thực hành đầy đủ các nguyện lớn, chứng nghiệm đầy đủ thực tại an lạc thanh tịnh, có đủ các thiện phương tiện, người ấy, nếu muốn, có thể sống đến trăm tuổi hay có thể thêm chút ít.
Này Ananda, Như Lai đã trau giồi và phát triển đầy đủ các đức hạnh, thực hành đầy đủ các nguyện lớn, chứng nghiệm đầy đủ thực tại an lạc thanh tịnh, có đủ các thiện phương tiện. Nếu muốn, Như Lai có thể sống đến trăm tuổi, hay có thể thêm chút ít.
- Bạch Thế Tôn, vâng. Thượng tọa Ananda đang mơ màng nhớ đến những kỷ niệm tốt đẹp với Thượng tọa Sariputta. Thầy không biết rõ đức Phật đã nói gì và thầy đã đáp như thế nào.
Sau này thầy rất ân hận đã bỏ lỡ cơ hội để xin Phật trụ thế thêm vài chục năm nữa. Ðến đền Capala, sau khi sắp đặt chỗ nghỉ cho Phật, Thượng tọa Ananda đi ra ngoài để thiền hành.
Trong khi đang thiền hành, Thượng tọa bỗng nhận thấy đất đai rung động dữ dội làm tâm thần thầy cũng bị chấn động theo.
Thượng tọa vội trở về đền Capala, thấy Phật đang ngồi yên tĩnh trong đền. Thượng tọa Ananda trình bày hiện tượng động đất vừa xảy ra và hỏi lý do. Phật bảo:
- Này Ananda, có tám nguyên nhân làm cho đại địa chấn động: Thứ nhất là vì đất nương trên nước, nước nương trên gió, gió nương vào không gian, nên khi gió thổi làm nước động, nước làm đất động.
Thứ hai là khi một tu sĩ đắc thần thông hay khi một vị trời có thần lực thực hành phép quán địa đại hay phép quán thủy đại.
Thứ ba, thứ tư và thứ năm là khi một vị Bồ-tát nhập thai, sinh ra, hay thành đạo. Thứ sáu là khi Phật chuyển pháp luân.
Thứ bảy là khi Phật quyết định nhập diệt. Thứ tám là khi Phật nhập Ðại-bát Niết-bàn. Này Ananda, Như Lai đã quyết định rồi. Trong ba tháng nữa Như Lai sẽ diệt độ.
Thượng tọa Ananda bỗng thấy tay chân bủn rủn, mắt hoa, đầu choáng váng. Thượng tọa vội quỳ xuống trước Phật và năn nỉ: - Xin đức Thế Tôn đừng diệt độ sớm như thế.
Xin đức Thế Tôn thương xót chúng con. Phật ngồi im lặng. Thầy Ananda lặp lại lời thỉnh cầu tới lần thứ ba. Phật nói: - Ðủ rồi, Ananda, không nên khẩn cầu Như Lai. Thời gian cầu khẩn ấy đã qua.
Này Ananda, nếu thầy có đức tin nơi Như Lai thì thầy nên biết rằng những quyết định của Như Lai là những quyết định hợp thời và hợp cơ duyên.
Như Lai đã nói là Như Lai sẽ diệt độ trong ba tháng nữa. Thầy hãy cho mời tất cả các vị khất sĩ trong vùng quy tụ về giảng đường Kutagara (Trùng Các) ở Mahavana (Ðại Lâm). Bảy ngày nữa Như Lai sẽ thông báo quyết định này cho đại chúng.
Ðến ngày thứ bảy, trên một ngàn năm trăm vị khất sĩ và nữ khất sĩ tụ tập tại giảng đường Kutagara. Ðức Phật được thỉnh vào ngồi trên pháp tòa. Phật đưa mắt nhìn đại chúng rồi lên tiếng:
- Này các vị khất sĩ, Những gì Như Lai đã thực chứng và đã trao truyền lại cho quý vị, quý vị hãy thận trọng giữ gìn, chuyên cần học hỏi, tu tập để chứng nghiệm, và hãy khéo léo truyền đạt lại cho những thế hệ tương lai.
Nếp sống phạm hạnh cần được nối tiếp vì sự an lạc và hạnh phúc của muôn loài. Này các vị khất sĩ, những pháp môn tu mà Như Lai đã truyền đạt lại cho quý vị tuy nhiều, nhưng có thể tóm lược trong 37 phẩm trợ đạo.
Các pháp môn như Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Ðạo, các vị phải chuyên cần học hỏi, tu tập để thực chứng, rồi khéo léo truyền đạt lại cho người khác.
Này các vị, Như Lai đã thường nói các pháp hữu vi đều vô thường, có sanh có diệt, có hợp có tan. Các vị hãy tinh tiến lên để đạt tới giải thoát.
Ba tháng nữa Như Lai sẽ diệt độ. Vậy còn điều gì nghi ngờ hoặc chưa hiểu rõ, các vị hãy tự mình nêu lên hay nhờ người khác nêu lên để Như Lai phương tiện giải thích cho, đừng để quá muộn.
Hơn một ngàn năm trăm vị khất sĩ ngồi im lặng nghe Phật nói. Nghe Phật sắp diệt độ, ai nấy đều đau lòng. Có nhiều vị thút thít khóc.
Có nhiều vị lấy khăn lau nước mắt. Không ai còn lòng dạ nào nêu lên những câu thắc mắc trong lúc này. Bát cháo nấm của người thợ rèn [11] Cunda [12]
Sáng hôm sau, Phật đi vào thủ đô Vesali khất thực. Khất thực xong Phật ghé vào một cụm rừng để thọ trai. Sau đó Phật cùng các vị khất sĩ rời thủ đô Vesali, đi về hướng tây bắc, dọc theo bờ sông Hiranyavati (hiện nay là sông Gandak). Ngoái nhìn lại Vesali, Phật nói:
- Này Ananda, Vesali thật đẹp. Ðây là lần cuối cùng Như Lai nhìn thành phố này; Như Lai sẽ không bao giờ trở lại nơi đây nữa. Rồi Phật nhìn trở lại phía trước và nói: - Bây giờ chúng ta hãy đi đến làng Bhandagama.
Nghe tin Phật sắp nhập niết-bàn và sắp rời Vesali, các vương tử Licchavi và thân hào nhân sĩ theo tiễn đưa Phật rất đông.
Ðã nhiều lần Phật khuyên các vị ấy nên trở lại, nhưng ai nấy đều bịn rịn, không đành lòng. Ðức Phật liền gây ra ảo giác có một con sông lớn chắn ngang giữa Phật và họ, nước đang dâng cao và chảy mạnh khiến những người tiễn đưa buộc lòng phải quay trở về Vesali.
Vào thế kỷ thứ 3, vua Asoka có cho dựng trụ đá kỷ niệm tại địa điểm Deora, trong làng Kesariya hiện nay.
Chiều hôm ấy tới Bhandagama, Phật thuyết pháp cho trên ba trăm vị khất sĩ về giới, định, huệ và giải thoát. Sau vài hôm nghỉ ngơi, Phật rời Bhandagama đi Hatthigama, rồi đến Ambagama và Jambugama. Nơi nào Phật cũng thăm viếng và khuyến khích các vị khất sĩ nên siêng năng tinh tấn tu tập.
Sau đó đức Phật và các vị khất sĩ đến làng Bhoganagara. Tại đây Phật dạy bốn Ðại Giáo Pháp (Mahapadesa), đại ý như sau: - Khi nghe ai nói điều gì là giáo pháp của Phật, dù người đó đạo cao đức trọng và có thẩm quyền, quí vị cũng không nên chấp nhận hay bác bỏ ngay.
Quí vị nên nghe cho kỹ rồi đem so sánh từng chữ, từng lời với Kinh và Luật. Nếu thấy vừa phù hợp với Kinh, vừa phù hợp với Luật thì chắc chắn điều đó là giáo huấn của đức Bổn sư, nên chấp nhận và thực hành theo.
Ðến ngày thứ sáu, Phật và giáo đoàn tới thủ đô Pava (hiện nay là làng Pawanagar) của xứ Malla. Sau khi được nghe Phật thuyết pháp, ông thợ rèn tên Cunda (Thuần Ðà) thỉnh Phật và cả giáo đoàn khoảng ba trăm người đến khu vườn xoài nhà ông để cúng dường trai tăng.
Lúc bấy giờ có mặt các Thượng tọa Anuruddha, Ananda, Upavana. Trong khi người nhà và bạn bè dâng cúng thức ăn vào bát của các vị khất sĩ, ông Cunda cung kính dâng lên Phật bát cháo do chính tay ông nấu với nấm cây chiên-đàn (Sukara-maddava)[13]rất quí giá, dành riêng cho Phật dùng.
Sau khi thọ trai xong, Phật gọi ông Cunda đến bảo:- Này ông Cunda, món cháo nấm chiên đàn này còn lại bao nhiêu ông nên đào đất mà chôn đi, không nên để cho người khác ăn.
Ông Cunda vâng dạ làm theo lời dặn của đức Phật mà không biết tại sao. Sau bữa ngọ trai, theo thông lệ, Phật vẫn thuyết pháp cho mọi người nghe, xong rồi mới trở về khu lâm viên nghỉ ngơi. Tối hôm ấy Phật bị đau bụng dữ dội, bụng quặn đau từng chập, thân mình ướt đẫm mồ hôi, bệnh kiết (dysentery) tái phát.
Nhưng Phật nhẫn nại chịu đựng, điềm tĩnh, không một lời rên siếc. Mặc dầu suốt đêm không ngủ, sáng sớm hôm sau Phật bảo các vị khất sĩ lên đường đi Kusinagar.
Làng Kusinagar cách thủ đô Pava lối 16 km về hướng tây bắc. Trên đoạn đường cuối cùng này, theo kinh sách ghi chép, đức Phật phải ngồi lại nghỉ lối 25 lần vì bệnh và yếu.
Giữa đường, cơn đau bụng lại hoành hành dữ dội. Phật dừng lại, ngồi nghỉ dưới một cội cây, trên một chiếc áo cà-sa xếp làm tư. Phật bảo: - Này Ananda, thầy hãy tìm ít nước cho Như Lai uống đỡ khát.
- Bạch Thế Tôn, nước ở khe suối gần đây đục lắm vì có một đoàn xe bò mấy trăm chiếc vừa mới đi qua. Xin Thế Tôn đợi một lát nữa tới sông Kakuttha.
Nước ở đó trong và ngọt lắm, con sẽ lấy cho Thế Tôn uống, rửa mặt và tay chân cho mát. - Như Lai khát lắm, thầy cứ đi lấy nước ở đây đi. Thượng tọa Ananda vâng lời, đến dòng suối nhỏ gần đó lấy nước, thì lạ quá, nước suối đã trở nên trong vắt.
Uống nước xong, Phật ngồi nghỉ. Các Thượng tọa Anuruddha và Ananda ngồi bên cạnh người. Ba trăm vị khất sĩ cũng ngồi nghỉ ngơi rải rác đó đây, nhiều vị đến ngồi xung quanh Phật.
Lúc ấy có một người bộ hành tên Pukkusa, thuộc bộ tộc Malla, đi từ Kusinagar tới. Ngày xưa ông ta cũng đã từng học với đạo sư Alara Kalama ở gần thủ đô Vesali và đã từng biết tiếng sa-môn Gotama.
Pukkusa bước tới đảnh lễ Phật, hỏi thăm về sức khỏe của Phật và nói: - Thưa tôn giả, sau khi tôn giả rời đạo sư Alara Kalama, có lần ông ấy ngồi thiền định bên vệ đường, có một đoàn xe bò 500 chiếc đi ngang qua làm áo ông ấy lấm đầy bụi bặm mà ông ta vẫn không hay biết gì cả mặc dù ông vẫn tỉnh thức.
- Này đạo hữu, có lần Như Lai đang đi kinh hành trước sân đền Atuma, bỗng có mưa giông và sấm sét làm chết hai người dân cày và bốn con bò gần đó, lúc ấy mặc dù Như Lai vẫn tỉnh thức mà vẫn không nghe không thấy mưa giông sấm sét gì cả [14].
Sau đó nhờ đám đông người thuật chuyện lại mới biết. Ông Pukkusa nghe xong sinh lòng kính phục, dâng cúng hai tấm y mới. Phật nhận một tấm và bảo Pukkusa cúng dường tấm kia cho Thượng tọa Ananda. Pukkusa xin quy y Tam Bảo.
Sau khi nghe lời Phật dạy, ông sung sướng từ tạ lên đường. Khi Thượng tọa Ananda thay y mới cho Phật, thì Thượng tọa ngạc nhiên thấy nước da của Phật chiếu sáng lạ thường.
Thượng tọa hỏi:- Bạch Thế Tôn, sao hôm nay màu da của Thế Tôn trở nên vàng óng ánh, sáng rỡ một cách lạ thường như thế?
- Này Ananda, có hai trường hợp màu da của Như Lai trở nên óng ánh, sáng rỡ lạ thường. Ðó là lúc Như Lai sắp đắc quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác và lúc Như Lai sắp nhập diệt.
Này Ananda, đêm nay Như Lai sẽ diệt độ trong cụm rừng cây sala (song long thọ, ba-la-xoa) tại làng Kusinagar[15] vào lúc canh ba . Bây giờ chúng ta hãy lên đường cho kịp lúc.
Ðến bờ sông Kukuttha, Phật đi xuống sông tắm và uống nước. Tắm xong Phật lên bờ, đi đến một vườn xoài gần đó. Phật bảo Thượng tọa Ananda xếp áo cà-sa trải xuống đất cho người nằm.
Nằm nghỉ một lát, Phật gọi Thượng tọa Ananda đến bảo: - Này Ananda, bữa ăn hồi sáng tại nhà của cư sĩ Cunda là bữa ăn cuối cùng của Như Lai.
Nhưng chuyện sau đây có thể xảy ra. Có người sẽ làm cho ông Cunda ăn năn hối hận vì họ nói rằng "Này Cunda, ông thật là người có tội.
Ông sẽ bị chìm đắm sa đọa vì đức Thế Tôn đã lìa trần sau khi thọ món ăn của ông dâng." Mỗi lần ông Cunda ăn năn hối hận như thế thầy phải giải thích như vầy "Này Cunda, ông thật có nhiều phước báo tốt đẹp.
Ông sẽ hưởng được nhiều lợi lộc vì đức Phật đã thọ thực lần cuối cùng với các món ăn do ông dâng cúng. Này Cunda, bần tăng có nghe chính đức Thế Tôn dạy rằng có hai vật thực cúng dường đem lại phước báo bằng nhau, tạo quả bằng nhau và vô cùng quí báu hơn tất cả.
Hai vật ấy là gì? Ðó là vật thực cúng dường Bồ Tát thọ lần cuối cùng trước khi chứng ngộ đạo quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác và vật thực cúng dường mà đức Phật thọ dụng lần cuối cùng trước khi ngài nhập diệt.
Này ông Cunda, vật thực cuối cùng mà đức Thế Tôn thọ dụng do chính tay ông dâng cúng. Nghiệp tốt này sẽ trổ quả trong sự tái sanh thuận lợi, tuổi thọ cao, gặt hái nhiều may mắn, danh vọng, được hưởng phước báo trong các cõi trời và trong cảnh vua chúa, quyền quí cao sang." Này Ananda, thầy phải khuyên lơn Cunda như thế.
Sau khi nghỉ ngơi một lát, Phật bảo: - Này Ananda, chúng ta hãy lên đường đến rừng cây sala, nơi công viên Upavattana của bộ tộc Malla. Công viên này rất đẹp, nó nằm ở bờ bên kia sông Hiranyavati.
Khi Phật và các vị khất sĩ tới rừng cây sala thì trời đã xế chiều. Phật bảo:- Này Ananda, Như Lai đã mệt mỏi lắm rồi. Thầy hãy sắp xếp chỗ nằm cho Như Lai giữa hai cây sala (cây song long thọ), đầu hướng về phía bắc.
Thượng tọa Ananda tìm một khoảng đất bằng phẳng, sạch sẽ, giữa hai cây sala, rồi thầy lấy nhiều chiếc cà-sa gắp làm đôi, trải xuống đất[16].
Ðức Phật nằm xuống, đầu hướng về phương bắc, mình ngiêng về bên phải, bàn tay phải để ngửa lót dưới mặt, tay trái để xuôi trên hông trái, chân trái nằm dài trên chân phải, hơi thở nhẹ nhàng đều đặn.
Thượng tọa Ananda quỳ bên cạnh Phật, thút thít khóc. Ðức Phật nằm nghỉ mệt một lát rồi mở mắt nói: - Này Ananda, thầy không nên khóc, thầy đừng nghĩ rằng Giáo Huấn Tối Cao không còn thầy giảng dạy, thầy không còn đạo sư.
Không nên, Ananda, thầy không nên suy tư như thế. Giáo Pháp và Giới Luật đã được Như Lai truyền dạy đầy đủ và quảng bá rộng rãi. Khi Như Lai nhập diệt rồi thì Giáo Pháp và Giới Luật ấy sẽ là đạo sư của quý thầy.
Nói tới đây, đức Phật nhìn các vị khất sĩ, nói tiếp:- Vả lại, này các thầy, giáo pháp mà Như Lai giảng dạy từ 45 năm nay chỉ là phương tiện, tùy duyên, khế hợp căn cơ của thính chúng mà giảng nói.
Ðối với chân lý tuyệt đối của chư Phật, Như Lai chưa từng thốt ra một lời. Tại sao vậy? Tại vì chân lý đó không thể nghĩ bàn, không có lời lẽ để diễn tả.
Các thầy nên biết: Pháp pháp bổn vô pháp, Vô-pháp pháp, diệc pháp. Kim phú vô-pháp thời, Pháp pháp hà tằng pháp. [17] Thượng tọa Anuruddha nói:
- Bạch Thế Tôn, chúng con đã hiểu. Như khi dùng ngón tay chỉ mặt trăng thì ngón tay không phải là mặt trăng. Khi dùng Giáo Pháp để chỉ Chân Lý thì Giáo Pháp không phải là Chân Lý.
Thế nào là làm vẻ vang Như Lai [18]
Khi nhìn thấy những cây sala trổ đầy bông [19] mặc dù không phải mùa, các thiên thần tung hoa mạn-đà-la (mandara), hoa mạn-thù-sa (manjusaka) và hương thơm cúng dường, các vị khất sĩ lễ bái xung quanh ngài, đức Phật nói:
- Này các thầy, không phải dâng hoa, lễ bái là tôn trọng, kính cẩn, sùng bái, làm vẻ vang Như Lai đâu. Các thầy hãy noi gương đại đức Attadattha [20] quyết tâm thành đạo trước ngày Như Lai nhập diệt.
Bất luận vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni hay thiện nam, tín nữ nào an trú trong Chánh Pháp, thực hành đúng theo giáo pháp, phẩm hạnh trang nghiêm, đời sống chơn chánh là người tôn trọng, kính cẩn, sùng bái và làm vẻ vang Như Lai một cách cao thượng nhứt.
Như vậy, này Ananda, thầy không nên bận tâm tới việc làm vẻ vang nhục thể của Như Lai. Thầy hãy tận lực tinh tấn để đạt cho được hạnh phúc tối thượng của chính mình.
Này Ananda, vô số chư thiên, long thần, địa thần, trời rồng tám bộ đang tụ tập rất đông đảo nơi đây để thăm viếng và tiển đưa Như Lai.
Có kẻ khóc than đầu tóc rũ rượi, có kẻ đưa hai tay lên trời mà khóc, có kẻ quỳ gối đập hai tay xuống đất mà khóc, có kẻ nằm lăn dưới đất mà khóc, họ than rằng Ðức Như Lai qua đời quá sớm!
Ðức Như Lai nhập diệt quá sớm . Con Mắt của thế gian không còn nữa! Nhưng cũng có kẻ biết tự chủ, bình tỉnh, sáng suốt, nghĩ rằng Tất cả sự vật ở thế gian đều do duyên hợp nên không ai tránh khỏi luật vô thường Rồi đức Phật nói kệ:
Ðừng lo chuyện người khác Mà quên việc của mình. Mau lo tu giải thoát, Làm vẻ vang Như Lai. (Kinh Pháp Cú, bài 166) Thượng tọa Upavana đứng che án chư Thiên [21]
Lúc đó trời vẫn còn nóng, Thượng tọa Upavana đứng trước mặt Phật để quạt cho người. Phật bảo: - Này Upavana, thầy hãy tránh sang một bên, đừng đứng trước mặt Như Lai.
- Bạch Thế Tôn, Thượng tọa Ananda ngạc nhiên nói, Thượng tọa Upavana là chủng tử của Thế Tôn và trước kia đã từng là thị giả săn sóc, hầu cận Thế Tôn lâu ngày, hôm nay Thượng tọa đứng bên cạnh để hầu quạt cho Thế Tôn, không biết có điều chi không phải, xin Thế Tôn chỉ dạy. - Này Ananda, hiện đang có vô số chư Thiên trong khắp mười ngàn thế giới đang tề tựu đông đủ nơi đây để chiêm bái Như Lai. Chung quanh công viên Upavattana này, xa tới 12 dặm, chẳng có một khoảng trống nào mà không có chư Thiên đang đứng.
Này Ananda, một số chư Thiên xầm-xì với nhau rằng "Chúng ta từ xa xôi đến đây để chiêm bái đức Như Lai. Rất hiếm có một đấng toàn giác xuất hiện trong thế gian này.
Hơn nữa, vào lúc canh ba đêm nay, đức Như Lai sẽ nhập vô dư y niết-bàn. Vậy mà ông Upavana kia lại đứng án phía trước, làm chúng ta không thấy được mặt ngài trong những giờ phút cuối cùng".
Này Ananda, chư Thiên họ nói thầm thì với nhau như vậy[22] Lợi ích của sự chiêm bái Bốn Thánh Tích [23]
Thượng tọa Ananda bạch Phật:- Bạch Thế Tôn, theo thông lệ, sau mùa an-cư kiết-hạ chư tăng ni thường đến viếng Phật, nghe pháp. Ðến khi Thế Tôn nhập diệt rồi thì nên làm thế nào?
- Này Ananda, sau khi Như Lai nhập diệt rồi, có những Phật tử xuất gia hoặc tại gia nào có tâm đạo, đến chiêm bái với lòng thành kính và tôn sùng bốn nơi động tâm[24] nơi Như Lai giáng sanh, nơi Như Lai thành đạo, nơi Như Lai thuyết pháp lần đầu, nơi Như Lai nhập niết-bàn.
Ðến tận các nơi ấy tham thiền, đảnh lễ, tụng niệm, cầu nguyện, một lòng hướng về Chánh Pháp, thì các vị ấy sẽ hưởng nhiều phước báo, sau khi mạng chung sẽ được sanh về nhàn cảnh (cõi trời). Phật dạy chư tăng cách đối xử với nữ giới [25]
Thượng tọa Ananda hỏi: - Bạch Thế Tôn, chúng con nên đối xử với nữ giới như thế nào? - Không nên nhìn họ. - Bạch Thế Tôn, nếu phải nhìn họ thì sao? - Không nên nói chuyện với họ. - Bạch Thế Tôn, nếu buộc lòng phải nói chuyện với họ thì sao? - Phải thực hành Chánh niệm (Tứ niệm xứ). Này Ananda, Chánh niệm là thần lực xua đuổi tất cả mọi tà niệm.
Thượng tọa Ananda hỏi tiếp:- Bạch Thế Tôn, lễ an táng của đức Thế Tôn nên tổ chức như thế nào? - Này Ananda, lễ an táng Như Lai nên làm theo nghi thức của một Chuyển Luân Thánh Vương và nên xây tháp thờ ở ngả tư đường.
Nghe đến đây, Thượng tọa Ananda không cầm lòng được nữa, vội bước ra ngoài, đến một gốc cây vắng đứng khóc.
Phật khen tài làm thị giả của Ananda [26]
Một lát sau, không thấy Thượng tọa Ananda bên cạnh, Phật hỏi: - Này Anuruddha, Ananda đâu, sao Như Lai không thấy? Một vị khất sĩ thưa:- Bạch Thế Tôn, con thấy sư huynh Ananda đang đứng khóc sau một cội cây.
Sư huynh nói một mình "Ta chưa thành tựu được đạo nghiệp mà thầy ta đã tịch. Con mắt của thế gian đã nhắm lại. Ta không còn ai để nương tựa. Có ai thương ta bằng thầy ta đâu!" Phật bảo vị khất sĩ đi gọi Thượng tọa Ananda đến, rồi ngài an ủi Thượng tọa: - Này Ananda, đừng buồn khổ nữa. Như Lai đã từng nhắc thầy là vạn pháp vô thường, có sanh thì có diệt.
Làm sao có sanh mà không có diệt cho được? Ananda, mấy mươi năm nay thầy đã hầu cận Như Lai, săn sóc Như Lai với tất cả tấm lòng thương mến của thầy.
Thầy đã khôn khéo và tế nhị giúp đỡ Như Lai trong mọi công việc lớn nhỏ. Như Lai rất cám ơn thầy. Công đức của thầy rất lớn. Nhưng này Ananda, thầy có thể đi xa hơn nữa.
Nếu thầy nương theo Chánh Pháp, cố gắng tinh tấn thêm chút nữa thì thầy sẽ thoát khỏi sanh tử, đạt được giải thoát, vượt lên trên mọi sầu khổ bi ai.
Như Lai tin chắc thầy sẽ làm được điều đó, và đó cũng là điều làm Như Lai vui lòng nhất. Nhìn các vị khất sĩ đang ngồi xung quanh, đức Phật nói: - Này các thầy, làm thị giả cho Như Lai, không ai bằng Ananda. Ngày xưa có những thị giả đánh rơi bát và y của Như Lai xuống đất. Nhưng với Ananda, những chuyện ấy không bao giờ xảy ra. Ananda lo cho Như Lai rất chu đáo từ việc nhỏ đến việc lớn.
Nhất là thầy rất khéo léo thu xếp đúng chỗ và đúng lúc cho Như Lai gặp một khất sĩ, một nữ khất sĩ, một cư sĩ, một vị quốc vương, một vị đại thần, một tu sĩ ngoại đạo, vân vân.
Này các thầy, Ananda có bốn ưu điểm đặc biệt như sau: Thường khi có ai muốn gặp Như Lai thì gặp Ananda trước, vừa gặp mặt Ananda thì họ đã sanh lòng cảm mến; khi Ananda mở lời nói chuyện với họ thì họ càng cảm mến hơn; khi Ananda thuyết giảng một thời pháp ngắn thì họ rất hoan hỷ muốn được nghe thêm; khi Ananda làm thinh thì họ vô cùng thích thú nhìn Ananda im lặng.
Này các thầy, Ananda là một thị giả có đầy đủ phẩm hạnh như các thị giả của 7 đức Phật quá khứ là Vipassin (Tỳ-Bà-Thi), Sikhin (Thi-Khí), Vessabhu (Tỳ-Xá-Phù), Kakucchandha (Câu-Lưu-Tôn), Konagamana (Câu-Na-Hàm), Kassapa (Ca-Diếp)[27], nhờ có 8 đức tính sau đây: 1- Tín căn bền vững: Khi nghe Như Lai giảng dạy, Ananda liền có đức tin vững chắc và ghi nhớ đầy đủ, không sai, không thiếu. 2- Tâm tính chất trực: Tâm tính hiền hòa, chất phát, ngay thẳng, dễ gây cảm tình với tất cả mọi người. 3- Thân không bệnh khổ: Rất ít khi mắc bệnh. 4- Thường siêng tinh tấn: Vững tin theo Chánh Pháp, cứ một đường thẳng tiến, không bao giờ thối chí ngã lòng. 5- Niệm căn đầy đủ: Luôn luôn ghi nhớ Chánh Pháp, không bao giờ quên. 6- Tâm không kiêu mạn: Luôn luôn nhẫn nhịn, hòa nhã với tất cả mọi người. 7- Thành tựu định ý: Tâm ý không bao giờ rời Chánh Pháp. 8- Từ nghe sanh trí: Nghe rồi suy nghĩ, rồi hiểu, trí huệ phát sáng.
Như Lai nghĩ là nếu các bậc giác ngộ trong tương lai mà có được một vị thị giả giỏi thì vị thị giả ấy cũng chỉ giỏi bằng Thượng tọa Ananda là cùng. Thượng tọa Ananda lau nước mắt nói: - Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn đừng nhập niết-bàn ở đây. Kusinagar chỉ là nơi hẻo lánh. Có nhiều nơi xứng đáng hơn để Thế Tôn nhập diệt như Campa, Rajagriha, Sravasti, Saketa, Kosambi hay Benares (Varanasi). Xin đức Thế Tôn chọn một trong những nơi ấy để nhập diệt cho đông đảo quần chúng có cơ duyên nhìn mặt Thế Tôn lần cuối, và cung kính cúng dường xá-lợi. - Này Ananda, Kusinagar là một nơi quan trọng lắm. Tuy hiện nay nó là một làng nhỏ hẻo lánh, nhưng trước kia nó là một thủ đô rất phồn thịnh tên là Kusavati (Câu-xá-bà-đề), có lâu đài nguy nga, có công viên xinh đẹp, dân chúng đông đúc đều an cư lạc nghiệp. Lúc bấy giờ Như Lai là Chuyển-luân-vương Maha-Sudassana (Ðại-Thiện-Kiến)[28] tại đây.
Này Ananda, hiện giờ tại rừng sala này cũng không phải vắng vẻ đâu. Rất đông đảo chư Thiên đang tập họp trổi nhạc, ca hát, tung hoa mạn-đà-la (mandara) và hoa mạn-thù-sa (manjusaka) cúng dường Như Lai kia.
Bây giờ thầy hãy đến gặp các giới chức của bộ tộc Malla, báo cho họ biết rằng đêm nay, vào lúc canh ba (nửa đêm) Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong rừng cây sala của họ.
Sau khi nghe Thượng tọa Ananda báo tin, dân chúng kéo hết gia đình đến chiêm bái Phật. Số người quá đông, Thượng tọa Ananda phải mời từng gia đình vào một lượt.
Được sửa bởi mytutru ngày Mon 07 Feb 2011, 01:48; sửa lần 5. |
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Tiếp Phần 15 Thu 06 Jan 2011, 21:34 | |
| Subhadda, người đệ tử xuất gia cuối cùng của Phật [29]
Những người trong bộ tộc Malla và dân chúng nghe tin Phật sắp nhập diệt tại rừng cây sala trong công viên Upavattana liền vội vã đến nơi, thay phiên nhau đến ra mắt, vấn an và đảnh lễ Phật.
Trong khi đó du sĩ Phạm-chí Subhadda (Tu-Bạt-Ðà-La), đã trên trăm tuổi, đến thương thuyết với Thượng tọa Ananda để xin được tham vấn Phật, nhờ Phật giải một mối nghi rất quan trọng đối với ông. Thượng tọa từ chối bảo là Phật đang yếu lắm, không thể tiếp chuyện được.
Nghe được câu chuyện giữa hai người, Phật bảo:- Ananda, thầy cứ cho du sĩ Subhadda vào đây. Như Lai có thể tiếp ông ấy.
Ông Subhadda mừng rỡ bước vào đảnh lễ, vấn an Phật, rồi nói: - Bạch Thế Tôn, có con đường nào đi xuyên qua không gian không? Một người ngoài Giáo Ðoàn Khất Sĩ có thể được gọi là TăngỂ không? Năm ấm (uẩn) có trường tồn không?
- Không có con đường nào xuyên qua không gian cả; Như Lai không hề di chuyển. Không có TăngỂ ngoài giới luật và giáo pháp của Giáo Ðoàn Khất Sĩ. Năm uẩn không trường tồn; chư Phật không hề thay đổi. [30]
- Bạch Thế Tôn, con thường nghe nói tới các vị lãnh đạo các giáo phái như các đạo sư Purana Kassapa, Makkhali Gosaleiputta, Ajita Kesakambala, Pakudha Kaccana, Sanjaya Belatthiputta và Nigantha Nataputta.
Con muốn hỏi Thế Tôn xem trong những vị đó có ai là người thật sự đạt đạo không? - Này Subhadda, những vị ấy có đạt đạo hay không là việc của họ.
Ông hãy lắng nghe, Như Lai sẽ chỉ cho ông con đường tu học để tự ông có thể đạt đạo. Rồi Phật giảng cho ông về Bát Chánh Ðạo:
Thế nào là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Rồi Phật kết luận: - Này Subhadda, ở đâu, trong đoàn thể nào có sự thực hành Bát Chánh Ðạo là ở đó có những người đạt đạo quả từ Tu-đà-hoàn đến A-la-hán.
Này Subhadda, chính nhờ thực hành đúng mức Bát Chánh Ðạo mà Như Lai đã thành đạo quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác cách nay 45 năm.
Chính nhờ thực hành Bát Chánh Ðạo mà trong Giáo đoàn khất sĩ đã có rất đông người đạt thánh quả từ Tu-đà-hoàn đến A-la-hán.
Này Subhadda, ông hãy cố thực tập pháp môn này đi rồi chính ông sẽ trở nên người đạt đạo, không cần phải đặt câu hỏi người này hay người kia có phải là người đã thật sự đạt đạo hay không. Rồi đức Phật nói bài kệ như sau: "Hỡi này Subhadda! "Lúc vừa được hai mươi chín tuổi xuân, "Ta rời bỏ gia đình, xa lìa thế tục, "Ðể đi tìm lợi ích tối cao. "Từ đó đến nay, đã năm mươi mốt năm qua, "Ta hằng cố gắng giữ mình theo Chánh Ðạo. "Ngoài Chánh Ðạo, chẳng tìm đâu ra quả vị thánh nhân.
- Lành thay! Lành thay! Bạch đức Thế Tôn, tựa hồ như có người sửa lại ngay ngắn một vật bị nghiêng ngã, hay khám phá ra một vật bị dấu kín, hay chỉ đường cho kẻ lạc lối, hay đốt lên ngọn đèn trong đêm tối cho ai có mắt có thể trông thấy.
Giáo lý mà đức Thế Tôn truyền dạy cũng như thế. Kính xin Thế Tôn hoan hỷ cho con được làm lễ xuất gia sa-di và tỳ-kheo trước mặt ngài.
- Này Subhadda, người sống trong một hệ thống giáo lý khác muốn xuất gia sa-di và tỳ-kheo phải trải qua một thời kỳ học tập bốn tháng, và sống biệt trú trong bốn tháng ấy.
Sau đó, khi được chấp thuận, giới tử có thể thọ lễ xuất gia và được nâng lên hàng tỳ-kheo. Tuy nhiên, hôm nay, Như Lai đặc biệt cho phép làm một ngoại lệ.
Rồi đức Phật dạy Thượng tọa Ananda làm lễ xuất gia sa-di và tỳ-kheo cho du sĩ Subhadda. Sau khi thọ đại giới không bao lâu, đại đức Subhadda sống cô độc một mình nơi vắng vẻ, xa thành thị, nhiệt thành và tinh tấn tu tập, về sau đắc quả A-la-hán.
Lời nói cuối cùng của Phật
Sau lễ xuất gia của Subhadda, các vị khất sĩ hỏi Phật về vài điểm nhỏ trong giới luật như cách đối xử giữa các khất sĩ mới với các khất sĩ có nhiều tuổi hạ.
Trong dịp này đức Phật có cho phép Giáo Hội Tăng Già, nếu cần, có thể hủy bỏ hay sửa đổi vài giới luật không quan trọng[31]. Cuối cùng đức Phật nhìn các vị khất sỉ và nói:
- Này các vị khất sĩ, nếu các thầy còn bất luận một phân vân thắc mắc nào về Phật, Pháp, Tăng, giáo pháp hay cách hành trì thì hãy nêu lên câu hỏi để về sau khỏi ăn năn hối tiếc vì nghĩ rằng "Lúc ấy ở trước mặt đức Thế Tôn mà ta không hỏi".
Lúc bấy giờ có khoảng 500 vị khất sĩ quy tụ xung quanh Phật. Tất cả đều giữ im lặng. Ðức Phật hỏi đến lần thứ ba. Các vị khất sĩ vẫn giữ im lặng. Thượng tọa Ananda lên tiếng: - Bạch Thế Tôn, quả thật kỳ diệu! Con rất tin tưởng nơi Thế Tôn, nơi giáo pháp và giáo đoàn khất sĩ, vì Thế Tôn đã giảng dạy giáo pháp thật sáng tỏ và chỉ dẫn cách hành trì thật đầy đủ, cho nên hôm nay không có vị đệ tử nào còn thắc mắc hay hoài nghi gì cả. Quả thật tuyệt vời. - Này Ananda, thầy nói điều ấy là do đức tin của thầy.
Nhưng Như Lai biết rằng trong 500 vị khất sĩ có mặt hôm nay không ai còn hoài nghi hay thắc mắc về Giáo pháp, về Giáo hội, về Con đường tu tập hay về Phương pháp hành trì, vì tất cả, này Ananda, người chậm trễ nhất cũng đã nhập lưu, không còn phải rơi trở xuống nữa, chắc chắn sẽ chứng ngộ.
Ðức Phật im lặng đưa mắt nhìn đại chúng, rồi ngài nói tiếp: - Này các vị khất sĩ, hãy nghe Như Lai nói đây: Vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt. Các thầy hãy tinh tiến lên để đạt tới giải thoát. Nói xong, Phật nhắm mắt. Ðó là lời di huấn cuối cùng của Ðức Thế Tôn.Ðức Phật viên tịch
Ðức Thế Tôn nhập sơ thiền. Xuất sơ thiền, ngài nhập nhị thiền. Xuất nhị thiền, ngài nhập tam thiền. Xuất tam thiền, ngài nhập tứ thiền. Xuất tứ thiền, ngài nhập không vô biên xứ. Xuất không vô biên xứ, ngài nhập thức vô biên xứ.
Xuất thức vô biên xứ, ngài nhập vô sở hữu xứ. Xuất vô sở hữu xứ, ngài nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất phi tưởng phi phi tưởng xứ, ngài nhập diệt thọ tưởng định.
Lúc đó Thượng tọa Ananda chưa có thiên nhãn, hỏi Thượng tọa Anuruddha: - Bạch Thượng tọa, có phải Ðức Thế Tôn đã nhập diệt rồi không? - Chưa đâu, này đạo hữu Ananda, Ðức Thế Tôn chưa diệt độ, Ngài mới nhập diệt thọ tưởng định. Ðức Thế Tôn xuất diệt thọ tưởng định, ngài nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Xuất phi tưởng phi phi tưởng xứ, ngài nhập vô sở hữu xứ. Xuất vô sở hữu xứ, ngài nhập thức vô biên xứ. Xuất thức vô biên xứ, ngài nhập không vô biên xứ.
Xuất không vô biên xứ, ngài nhập tứ thiền. Xuất tứ thiền, ngài nhập tam thiền. Xuất tam thiền, ngài nhập nhị thiền. Xuất nhị thiền, ngài nhập sơ thiền. Rồi Ðức Thế Tôn tiếp tục xuất sơ thiền, nhập nhị thiền.
Xuất nhị thiền, nhập tam thiền. Xuất tam thiền, nhập tứ thiền. Cuối cùng Ðức Thế Tôn xuất tứ thiền và nhập diệt liền sau đó, vào Ðại-Bát-Niết-Bàn[32] (Mahaparinibbana). Bỗng nhiên đại địa rúng động, sấm sét vang rền. Hoa sala rụng xuống như mưa.
Mọi người tự nhiên thấy tâm thần chấn động. Ai cũng biết là Ðức Thế Tôn đã nhập niết-bàn. Lúc bấy giờ là nửa đêm trăng tròn tháng vesak năm 544 trước tây lịch, nhằm ngày rằm tháng hai âm lịch năm Đinh Tỵ. Phật đã diệt độ.
Một số các vị khất sĩ quỳ gối đưa hai tay lên trời đập mạnh xuống đất, có vị nằm lăn ra đất, có vị lấy hai tay ôm mặt khóc thương thảm thiết. Họ rên rỉ: - Phật đã nhập niết-bàn! Ðức Thế Tôn đã diệt độ! Con mắt của thế gian không còn nữa! Con biết nương tựa vào đâu!?
Trong khi những vị khất sĩ này lăn lộn khóc than như thế thì một số các vị khất sĩ khác ngồi im lặng, theo dõi hơi thở, quán chiếu về những điều Phật dạy.
Thượng tọa Anuruddha lên tiếng:- Này các huynh đệ, các huynh đệ đừng khóc thương thảm não như thế! Ðức Thế Tôn đã dạy có sanh thì có diệt, có thành thì có hoại, có hợp thì có tan.
Nếu các huynh đệ hiểu và vâng theo lời đức Thế Tôn thì xin các huynh đệ hãy giữ im lặng, trở về chỗ ngồi của mình, theo dõi hơi thở, giữ gìn chánh niệm, tôn trọng giờ phút thiêng liêng này để tiễn đưa đấng Từ Phụ của chúng ta về cảnh niết-bàn an lạc thanh tịnh.
Mọi người im lặng trở về chỗ ngồi theo lời khuyên của Thượng tọa Anuruddha. Thượng tọa hướng dẫn đại chúng đọc lên những đoạn kinh kệ mà đa số đã thuộc lòng, những đoạn nói về vô thường, khổ, không, vô ngã và giải thoát. Không khí trở lại trang nghiêm như cũ.
Những cây đuốc đã được những người trong bộ tộc Malla thắp lên tự hồi nào, bập bùng tỏa chiếu ánh sáng vàng lấp lánh dưới bóng trăng xuyên qua cành lá, tạo ra một khung cảnh thiêng liêng mầu nhiệm.
Tiếng tụng kinh trầm hùng vang dội trong đêm thanh tĩnh đưa mọi người vào cảnh sắc không huyền diệu của tâm tư và vạn vật.
Sau thời tụng kinh, Thượng tọa Anuruddha bắt đầu nói pháp thoại ca ngợi công hạnh của Ðức Phật, một bậc Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.
Thượng tọa Anuruddha kết luận: Ðức Thế Tôn cũng là một con người như chúng ta, nhưng nhờ phát đại nguyện cứu khổ chúng sanh, rồi dũng mãnh tinh tấn tu Bát Chánh Ðạo, thực tập thiền quán mà trở thành bậc Ðại Giác Ngộ,
có đầy đủ trí huệ rộng lớn, đại hùng, đại lực, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, có đầy đủ phương tiện thiện xảo chỉ dạy và hướng dẫn chúng sanh hết mê được ngộ, thoát khổ được vui, biết phương pháp tu tập để tự giải thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi, vào cảnh niết-bàn an lạc thanh tịnh.
Này các huynh đệ, để đền đáp ơn Ngài, chúng ta hãy nương theo lời giáo huấn của Ngài và noi theo gương sáng của Ngài mà tinh tấn tu tập Bát Chánh Ðạo, cố đạt cho kỳ được mục tiêu giải thoát.
Sau khi Thượng tọa Anuruddha dứt lời, Thượng tọa Ananda lên tiếng nhắc lại những kỷ niệm êm đẹp giữa Phật và giáo đoàn khất sĩ, và những lời giáo huấn quan trọng của đức Thế Tôn.
Suốt đêm, hai Thượng tọa thay phiên nhau nói pháp thoại và hướng dẫn đại chúng tụng niệm cho tới sáng. Năm trăm vị khất sĩ và ba trăm cư sĩ ngồi im lặng lắng nghe.
Lễ trà tỳ tại Kusinagar [33] Trời vừa sáng, Thượng tọa Anuruddha bảo Thượng tọa Ananda: - Này sư huynh Ananda, sư huynh hãy vào thành phố báo cho nhà hữu trách biết đạo sư của chúng ta đã diệt độ, để họ làm những thủ tục cần thiết.
Những vị chức sắc của bộ tộc Malla được tin Phật đã nhập diệt liền họp nhau lại bàn thảo về nghi thức tổ chức lễ trà tỳ cho đức Phật.
Dân chúng được tin, nhiều người đấm ngực than khóc, tiếc rằng không được nhìn mặt và đảnh lễ Phật trước khi ngài nhập diệt.
Họ kéo nhau đến rừng sala, mang theo hương, hoa, nhạc cụ, vải vóc. Ðến nơi họ quỳ lạy và rải hương hoa lên kim thân đức Phật để cúng dường.
Các vị hữu trách trong bộ tộc Malla điều động dân chúng dựng lên những mái lều vải ngũ sắc, tổ chức trình diễn vũ nhạc và cung cấp thức ăn, nước uống cho các vị khất sĩ và dân chúng tham dự. Rừng sala trở nên nhộn nhịp như một ngày hội.
Thỉnh thoảng, Thượng tọa Anuruddha hướng dẫn đại chúng đọc tụng những đoạn kinh Pháp Cú (Dhamma-Pada), nhắc nhở những lời Phật dạy.
Trong suốt sáu ngày đêm, dân chúng làng Kusinagar và dân từ thủ đô Pava của xứ Malla đến, liên tục cúng dường Phật bằng hương, hoa, vũ, nhạc. Những cánh hoa thơm tươi mát đủ loại phủ khắp cả thân thể và xung quanh nơi Phật nằm.
Ðến ngày thứ bảy, tám vị tộc trưởng của bộ tộc Malla tắm gội sạch sẻ bằng nước hương thơm, mặc lễ phục và bắt đầu rước kim thân đức Phật vào thành phố. Tất cả các vị khất sĩ, kế đến dân chúng đều đi theo đám rước, đưa kim thân đức Phật đến cửa bắc vào thành.
Ðám rước đi vào trung tâm thành phố, rồi lại đi ra khỏi thành bằng cửa đông, và sau cùng dừng lại trước sân đền Makuta-bandhana (hiện nay là tháp Rambhar Stupa), ngôi đền chính của bộ tộc Malla. Kim thân đức Phật được đặt tại đây.
Các vị chức sắc trong thành phố ra lệnh làm lễ trà tỳ kim thân đức Phật theo nghi thức dành cho một vị Chuyển Luân Thánh Vương (Ðại Ðế).
Kim thân đức Phật được vấn bằng vải trắng mới, rồi đến một lớp bông đâu-la-miên (bông của cây tula, dùng để lấy sợi), rồi đến một lớp vải trắng mới, cứ như thế cho đến nhiều lớp vải và bông.
Sau cùng được đặt trong một áo quan bằng sắt, đổ đầy dầu thơm, đậy nắp kín, rồi áo quan này lại được đặt trong một áo quan bằng sắt lớn hơn.
Kim quan được đưa lên một hỏa đàn vĩ đại chất toàn bằng các loại gỗ thơm. Ðến giờ hỏa thiêu, bốn vị tộc trưởng bộ tộc Malla cầm bốn cây đuốc tiến đến hỏa đàn để châm lửa, nhưng châm mãi mà hỏa đàn không bắt lửa.
Bỗng có một người đi ngựa hối hả chạy tới báo tin Thượng tọa Maha-Kassapa cùng với năm trăm vị khất sĩ sắp đến nơi. Phái đoàn hiện đang ở giữa chặng đường từ Pava đến Kusinagar.
Nghe nói thế, Thượng tọa Anuruddha liền đề nghị xin hoãn giờ hành lễ để chờ Thượng tọa Maha-Kassapa và đoàn khất sĩ.
Thượng tọa Maha-Kassapa đã khởi hành từ Rajagriha để đi hoằng pháp miền tây bắc. Tới Vesali, Thượng tọa được tin Phật tuyên bố sẽ nhập niết-bàn trong ba tháng và hiện người đang đi về thủ đô Pava của xứ Malla.
Thượng tọa liền lên đường đi tìm Phật. Tới đâu cũng có các vị khất sĩ xin đi theo. Khi Thượng tọa tới Bhandagama, số khất sĩ xin theo đã lên tới 500 vị.
Tới Pava, Thượng tọa được biết Phật đã quyết định nhập niết-bàn ở Kusinagar. Rời Pava, Thượng tọa gặp một khách bộ hành đi ngược chiều, túi áo có cài hoa sala mặc dù không phải mùa. Người này cho biết Phật đã nhập diệt tại rừng sala ở Kusinagar từ bảy hôm trước.
Ðược tin Phật nhập diệt, một số các vị khất sĩ khóc than thảm não. Khất sĩ Subhadda [34], tuy đã lớn tuổi nhưng xuất gia chưa được hai năm, thấy vậy lên tiếng:
- Thôi đi, này các đạo hữu, có gì mà phải buồn khổ ta thán thảm não như thế? Từ nay chúng ta sẽ được tự do, không còn bị vị đại sa-môn rầy bảo nên làm thế này hay không nên làm thế này.
Chúng ta sẽ có thể làm theo ý thích của mình, không còn phải nghe lập đi lập lại những điều phải làm trái ý chúng ta.
Thượng tọa Maha-Kassapa khuyên các vị khất sĩ nên thực hành pháp an-ban-thủ-ý (quán niệm hơi thở, anapanasati) để giữ tâm thanh tịnh, rồi ngài vội vã lên đường, hướng dẫn đoàn khất sĩ đi Kusinagar.
Nhân gặp một người đi ngựa cùng hướng, Thượng tọa Maha-Kassapa nhờ người này phi nhanh tới trước báo tin cho Thượng tọa Ananda biết là Thượng tọa và 500 khất sĩ sẽ cố gắng đến trước giờ ngọ để dự lễ trà tỳ của Phật.
Mặt trời vừa đứng bóng thì Thượng tọa Maha-Kassapa và đoàn khất sĩ cũng vừa tới đền Makuta-bandhana. Ðến nơi, Thượng tọa Maha-Kassapa trật vai phải áo sanghati (tăng già lê) xuống, chắp tay cung kính, im lặng bước từng bước một, đi nhiễu quanh hỏa đàn ba vòng.
Rồi Thượng tọa dừng lại trước kim quan, phía dưới chân Phật, chắp tay đảnh lễ ba lạy [35]. Năm trăm vị khất sĩ đi theo cũng đồng thời lạy xuống. Thượng tọa lạy xong ba lạy vừa đứng lên thì hỏa đàn tự nhiên bốc cháy. Tất cả các vị khất sĩ đều quỳ xuống, chắp tay hướng về hỏa đàn. Hàng ngàn người có mặt đều làm như thế. Thượng tọa Anuruddha lại hướng dẫn mọi người đọc những đoạn kinh về vô thường, khổ, không, vô ngã và giải thoát. Giọng đọc kinh trầm hùng vang dội cả một vùng. Sau khi lửa đã cháy tàn, nước thơm được tưới lên giàn hỏa.
Kim quan được thỉnh xuống, mở ra. Xá lợi của đức Thế Tôn được các vị tộc trưởng Malla thâu lượm và an trí trong một chậu vàng đặt trên bàn thờ trung ương trong đền.
Xá lợi Phật có nhiều màu lóng lánh như xa-cừ, gồm có 7 miếng lớn thuộc xương trán, xương vai, răng nhọn, và nhiều xương nhỏ bằng hột đậu xanh, hột gạo, hoặc hột cải.
Các vị khất sĩ và quân đội Malla thay phiên nhau canh giữ và bảo vệ xá lợi Phật thật nghiêm mật trong vòng bảy ngày, trong khi đại diện chính quyền, sứ thần các nước, nhân sĩ và đủ mọi tầng lớp dân chúng tiếp tục lễ bái, cúng dường tràng hoa, nước hoa và ca vũ nhạc.
Mỗi ngày ba lần, các vị khất sĩ họp nhau lễ bái và đọc tụng những đoạn kinh quan trọng. Hiện nay có tháp Rambhar kỷ niệm nơi trà-tỳ kim thân đức Phật.
Phân chia xá lợi Phật ra làm 8 phần [36]
Tin đức Phật diệt độ ở Kusinagar được loan đi rất nhanh. Có bảy xứ lân cận đã cử sứ thần với binh tướng yểm trợ, đến Kusinagar chiêm bái xá lợi Phật và xin thỉnh một phần xá lợi về nước mình để xây bảo tháp thờ phụng cúng dường.
Bảy xứ đó là Magadha (thủ đô Rajagriha, vua Ajatasattu), Vajji (thủ đô Vesali, tổng thống Cedaga[37] Licchavi), Sakya [38] (thủ đô Mungali, vua Uttarasena), Koliya (thủ đô Ramagama), Buliya (thủ đô Allakappa), một vị Bà-la-môn ở xứ Vethadipa, Malla (thủ đô Pava). Nhưng dân chúng Malla và chính quyền ở Kusinagar không chịu phân chia xá lợi Phật, viện lý rằng Phật đã nhập diệt tại Kusinagar thì nên xây tháp thờ toàn thể xá lợi Phật tại đây.
Sau một cuộc tranh chấp gây cấn hầu như sắp xảy ra chiến tranh, vị đại thần Dona (Hương Tánh), dòng Bà-la-môn, đại diện xứ Malla đứng ra dàn xếp, ôn tồn dùng lời Phật dạy, khuyên các vị sứ thần nên thương lượng với nhau trong sự ôn hòa.
Cuối cùng tất cả đều đồng ý để cho vị Bà-la-môn Dona phân chia xá lợi (sarira) Phật ra làm 8 phần bằng nhau [39]
Xứ Magadha xây tháp thờ xá lợi Phật ở Rajagriha, xứ Vajji xây tháp ở Vesali, xứ Sakya xây tháp ở Mungali, xứ Koliya xây tháp ở Ramagama, xứ Buliya xây tháp ở Allakappa [40]
vị Bà-la-môn xây tháp thờ ở Vethadipa, xứ Malla nhận hai phần xá lợi, xây một tháp ở thủ đô Pava và một tháp khác tại Kusinagar.
Riêng vị Bà-la-môn Dona xin thỉnh cái chậu vàng dùng để chia xá lợi, đem về khu vườn nhà mình xây tháp thờ. Sứ giả xứ Moriya đến trể, xin thỉnh phần tro còn lại về xây tháp thờ tại thủ-đô Pipphalivana. Khi đoàn sứ thần các nước đã lãnh phần xá lợi của mình ra về, một ngàn vị khất sĩ cũng tuần tự giải tán và trở về trú sở của mình để hành đạo. Các Thượng tọa Maha-Kassapa, Anuruddha và Ananda cũng rước y bát của Phật về tinh xá Venuvana.
Sau đó ít lâu, Thượng tọa Maha-Kassapa triệu tập 500 vị khất sĩ A-la-hán họp tại động Saptaparna (động Thất Diệp, còn gọi là động Tất-bát-la) ở Rajagriha để ôn tụng và ghi nhớ tất cả những lời Phật dạy thành 3 tạng Kinh, Luật và Luận, còn được chư tăng gìn giữ cẩn thận đến ngày nay.
Ðức Phật-tổ Thích-Ca Mâu-Ni đã nhập niết-bàn, nhưng Tam Tạng Pháp Bảo vẫn còn đó, hiện nay các thánh tăng vẫn có mặt ở khắp năm châu. Không tìm kiếm, học hỏi và tu tập giáo pháp giác ngộ và giải thoát thì thật là phí cả một đời người.
Kiếp người khó được! Làm người rất dễ tu hơn các loài khác . Chúng sanh vô minh, nghiệp chướng nặng nề, khó gặp Phật pháp, có thấy trước mắt cũng không hiểu được nên sanh lòng chê bai, phỉ báng.
Than ôi! Biết bao giờ con rùa mù ở đại dương mới ngoi đầu lên mặt nước đúng vào chỗ có bộng cây khô đang trôi? Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu, Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu. Con nay được biết, xin tu học, Theo gót Như Lai chẳng ngại lâu.
[1] Xem Digha-nikaya 16: Maha-Parinibbana-sutta; Trường A-hàm 2: kinh Du Hành. [2] Nhìn vào Gương Chánh Pháp là nhìn vào gương sáng của đức Phật,nương theo giáo lý của đức Phật, noi theo phẩm hạnh của chư thánh Tăng để tự biết mình tu tới đâu. [3] Xem Digha Nikaya 16: Maha-Parinibbana-sutta; Trường A-Hàm 2: kinh Du Hành. [4] Xem The Buddha and the Gospel of Buddhism, trang 66-67. [5] Xem kinh Vedhamissakena. [6] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 140-141. [7] Nhà bác học Lavoisier của Pháp vào thế kỷ 18 đã xác nhận: Dans l’univers, rien ne se perd, rien ne se crée, tout se transforme (Trong vũ trụ, không có gì mất đi, không có gì sinh ra, tất cả đều biến đổi). [8] Tháp thờ y bát và xá lợi của ngài Sariputta là tháp số 5 theo đồ hình Jetavana hiện nay. [9] Xem Digha-nikaya 16: Maha-Parinibbana-sutta; Trường A-Hàm 2: kinh Du Hành; Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng Kinh 5; Samyutta-nikaya 47, 56; Tạp A-Hàm 638. [10] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 146-148. [11] Có tài liệu cho rằng ông Cunda là thợ bạc. [12] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 149; Buddha and The Gospel of Buddhism, trang 68. [13] Theo kinh Du-Hành, Trường A-Hàm 2, thì là cháo nấu với nấm cây chiên đàn (giống như nấm Mộc-nhĩ ở Trung-Hoa). Theo kinh Ðại-Bát Niết-Bàn tiếng Pali thì là cháo nấu với thịt heo rừng. Theo quyển Buddha and the Gospel of Buddhism, trang 68, thì có thể là loại trufflesỂ, nấm đen mộc dưới mặt đất mà loài heo rừng rất ưa thích. Chữ sukara-maddava có thể hiểu là thịt heo rừng hay thức ăn của heo rừng. Nếu đúng là thịt heo rừng thì nên dùng chữ sukara-mamsa (The Life of Buddha as ..., trang 149). [14] Xem The Life of The Buddha của A.Foucher, trang 232-233; Buddha and the Gospel of Buddhism, trang 69; The Life of Buddha as Legend and History, trang 150. ] [15] Kusinagar hiện nay là làng Kasia, thuộc quận Gorakhpur. [16] Viện Khảo Cổ xác nhận tháp kỷ niệm Ðại Bát Niết Bàn hiện nay được xây đúng vào chỗ Phật nằm khi xưa. Tháp Ðại Bát Niết Bàn là tháp có nóc hình cầu, bên cạnh đền kỷ niệm có tượng Phật nằm. [17] Có nghĩa là: Các pháp vốn không pháp, "Không pháp" cũng là pháp, Nay truyền cái "không pháp", "Không pháp" nào có pháp. [18] Xem Buddha and The Gospel of Buddhism, trang 71; Buddhist Legends, quyển II, trang 366. [19] Chư Thiên dâng hoa cúng dường. [20] Ðại đức Attadattha, sau khi nghe Phật tuyên bố sẽ nhập diệt trong ba tháng, thay vì sầu khổ và theo sát bên cạnh Phật, thầy quyết tâm cố gắng tu tập để đắc quả A-la-hán trước khi Phật nhập niết-bàn. [21] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 151. [22] Trích kinh Maha-Parinibbana (Ðại Bát Niết-bàn). [23] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 151.
[24] Bốn động tâm là bốn thánh tích thường làm cho người Phật tử khi đến chiêm bái phải bùi-ngùi xúc động, nhớ đến công ơn sâu dày của đức Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni, và phát tâm dõng mãnh tu tập giáo pháp của ngài.
[25] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 151-152; Ðức Phật và Phật Pháp, trang 142. [26] Xem A-Nan và A-Nan Cụ Bát Pháp trong Từ Ðiển Phật Học Huệ-Quang. [27] Theo kinh Ðại Bát Niết-Bàn, phẩm Kiều-Trần-Như: A-Thúc-Ca là thị giả của Phật Tỳ-Bà-Thi, Sai-Ma-Ca-La là thị giả của Phật Thi-Khí, Ưu-Ba-Phiến-Ðà là thị giả của Phật Tỳ-Xá-Phù, Bạt-Ðề là thị giả của Phật Câu-Lưu-Tôn, Tô-Ðàn là thị giả của Phật Câu-Na-Hàm, Diệp-Ðà-Mật-Ða là thị giả của Phật Ca-Diếp.
[28] Xem Digha-nikaya 17: Maha-Sudassana-sutta. [29] Xem Buddha and The Gospel of Buddhism, trang 73-74; Ðức Phật và Phật Pháp, trang 229-232; Buddhìst Legends, quyển III, trang 139. [30]Xem kinh Pháp Cú, bài 254, 255.
[31] Nguyên văn: Akamkamano, Ananda, sangho mamaccayena khuddanukhuddakani sikkhapadani samuhantu Có nghĩa là Sau khi Như Lai nhập diệt, này Ananda, chúng Tăng có thể, nếu muốn, hủy bỏ những giới nhỏ không quan trọng [32] Ðại-bát-niết-bàn là niết-bàn rốt ráo của chư Phật.
[33] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 154-156; The Buddha and The Gospel of Buddhism, trang 76-78. [34] Không nên lầm ông Subhadda này với ông Subhadda là vị đệ tử xuất gia cuối cùng của Phật.
[35] Theo kinh Ðại Bát Niết-Bàn, phẩm Trà Tỳ, sau khi ngài Maha-Kassapa đảnh lễ, đức Phật duỗi hai bàn chân ra khỏi kim quan để an ủi ngài; ngài vuốt ve hai bàn chân Phật, lòng rất bi thảm. Sau đó hai bàn chân lại rút vào trong kim quan và hỏa đàn bốc cháy.
[36] Theo kinh Ðại Bát Niết-Bàn, phẩm Cúng Dường Xá Lợi, thì xá lợi răng nanh bên phải hàm trên của Phật được trao cho Thiên-Ðế-Thích trời Ðao-Lợi theo di chúc của Phật; xá lợi cặp răng nanh bên trái của Phật bị quỷ La-Sát Thiệp-Tập lấy trộm; phần xá lợi còn lại được chia ra làm 8 phần cho bảy xứ và làng Kusinagar.
[37] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 138. [38] Theo ngài Huyền-Trang thì vua dòng Sakya lúc bấy giờ là Uttarasena, đóng đô ở Mungali vùng Udyana, cực tây bắc Ấn-độ.
Chính Uttarasena đến Kusinagar thỉnh xá lợi Phật về xây tháp thờ ở thủ đô Mungali. Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 140; Digha nikaya 16; Jataka IV 144.
[39] Xem Trường A-Hàm 4: kinh Du Hành; kinh Ðại Bát Niết-Bàn, phẩm Cúng Dường Xá Lợi. [40] Theo Buddhist Legends, quyển I, trang 247, nói về vua Udena (Udayana) thì Allakappa, Vethadipaka và Kosambi là 3 xứ giáp ranh nhau, gần Benares. |
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Phần 16 Sun 06 Feb 2011, 23:09 | |
| Tiền Thân Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni (Theo bản hiệu-chính ngày 21/05/2005) Soạn giả: Minh-Thiện Trần-Hữu-Danh Với sự khuyến khích và giúp đỡ của hiền nội: Diệu-Xuân Nguyễn-thị Bạch-Mai Phần 16PHỤ ÐÍNH 1- Kiết tập kinh điển:Kiết tập kinh điển lần thứ nhất tại Rajagriha (năm -544)
Chưa đầy một tháng sau ngày Phật nhập niết-bàn, vào năm thứ 8 triều vua Ajatasattu, Thượng tọa Maha-Kassapa quyết định triệu tập đại hội các vị khất sĩ về thủ đô Rajagriha (Vương Xá) để ôn tụng và kiết tập tất cả những Kinh (sutta, sutra) và Luật (vinaya) của Phật đã dạy. Ðại hội gồm có 500 vị khất sĩ có thật tu và thật chứng (quả vị A-la-hán) được lựa chọn trong Giáo Ðoàn Khất Sĩ. Ðại hội sẽ khai mạc vào đầu mùa an cư tới, mùa an cư thứ 46, năm 544 trước tây lịch, và sẽ kéo dài trong sáu tháng tại động Saptaparna (động Thất Diệp) trên núi Vaibhara. Ðộng này còn được gọi là Pippali-guha (Tất-bát-la quật) vì nơi đây có cây Pippala (Tất-bát-la) và có nhân duyên lớn với ngài Ðại Ca-Diếp (tên thật là Pippalayana). Ðại hội được vua Ajatasattu đích thân đứng ra bảo trợ.
Thượng tọa Maha-Kassapa thường được các vị khất sĩ trong giáo đoàn tôn trọng như vị đại đệ tử thứ ba của Phật, sau hai Thượng tọa Sariputta và Moggallana đã qua đời.
Thượng tọa nổi tiếng là một tu sĩ hạnh "đầu-đà", thích sống đơn giản, đạm bạc, thiểu dục tri túc. Thượng tọa đã được Phật tin tưởng và thương mến không khác gì các Thượng tọa Sariputta và Moggallana.
Hơn hai mươi năm về trước, áo cà-sa sanghati của Thượng tọa là một chiếc áo bách nạp, được kết lại bằng những mảnh vải vụn. Có lần Thượng tọa đã xếp tư chiếc áo ấy lại và trải ra trong rừng mời Phật ngồi. Phật khen chiếc áo của Thượng tọa ngồi rất êm. Thượng tọa liền ngỏ ý cúng dường Phật chiếc áo bách nạp ấy. Phật mỉm cười nhận lời và tặng lại Thượng tọa chiếc áo sanghati của chính người.
Trong đại chúng ai cũng biết chuyện này. Thượng tọa cũng chính là người đã mỉm cười khi Phật đưa cành hoa sen lên mà không nói gì ở núi Griddhakuta (Linh-Thứu), và được Phật tuyên bố truyền trao cho Thượng tọa "Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết-Bàn Diệu Tâm, Thật Tướng Vô Tướng, Vi Diệu Pháp Môn ", trước đại chúng.
Ai cũng nghĩ rằng sự có mặt của Thượng tọa Ananda trong đại hội kiết tập kinh điển rất cần thiết. Nhưng trước đại hội ba ngày, Thượng tọa Ananda bị Thượng tọa Maha-Kassapa quở nặng và cho biết là Thượng tọa Ananda sẽ không được dự đại hội vì lý do thầy chưa đắc quả A-la-hán. Thượng tọa Ananda buồn chảy nước mắt, thầy tìm chỗ thanh vắng tĩnh tu luôn trong ba ngày đêm. Ngay trong đêm cuối cùng trước ngày khai mạc đại hội, Thượng tọa Ananda ngồi thiền định đến ba giờ sáng, vừa ngả lưng xuống để nghỉ ngơi, lưng chưa chạm đất thì thầy hoát nhiên đại ngộ, đắc quả A-la-hán. Sáng hôm đó, vừa thấy mặt Thượng tọa Ananda, Thượng tọa Maha-Kassapa rất vui mừng biết ngay chuyện gì đã xảy ra, liền mời Thượng tọa vào tham dự đại hội.
Trong đại hội, Thượng tọa Upali, vốn nổi tiếng về luật học, được mời lên ôn tụng giới luật. Thầy đọc đi đọc lại đến 80 lần để tất cả mọi người đều thuộc lòng. Nhờ những câu hỏi của Thượng tọa Maha-Kassapa và của các vị khác mà Thượng tọa Upali nhắc lại được hết những nhân duyên do đó các giới luật được thiết lập.
Tất cả những tài liệu về giới luật được kiết tập lại thành một kho tàng luật học gọi là Tạng Luật (Vinaya Pitaka). Thượng tọa Ananda, vốn nổi tiếng về nghe Phật thuyết pháp nhiều và nhớ dai, được đại hội mời lên trùng tuyên tất cả những bài pháp thoại của Phật gọi là kinh.
Nhờ những câu hỏi của Thượng tọa Maha-Kassapa và của nhiều vị khất sĩ khác mà Thượng tọa Ananda có dịp nói ra hết những chi tiết về thời gian, nơi chốn và cơ duyên đã đưa tới mỗi pháp thoại của Phật.
Cuối cùng Thượng tọa Ananda xin sám hối trước đại chúng về những lỗi lầm của ngài như sau[1]
1-Trước khi nhập diệt đức Phật có nói với Ananda cho phép Giáo Hội hủy bỏ hay sửa đổi các giới luật không quan trọng; nhưng Ananda quên hỏi những giới luật nào là không quan trọng; do đó Ðại hội quyết định giữ nguyên các giới luật.
2- Ananda, có một lần trong lúc vá y cũ cho Phật, đã sơ ý đạp lên cái y này. 3- Khi Phật nhập diệt, Ananda đã sơ ý để các tỳ-kheo-ni vào trước lễ Phật, khóc lóc chảy nước mắt lên thân Phật.
4- Trong lúc tắm rửa kim thân đức Phật, Ananda quên không bảo kéo màn che kín, để nhiều người nhìn thấy. 5- Không kịp thời thỉnh Phật trụ thế lâu dài hơn.
6-Ðã khẩn cầu Phật cho nữ giới xuất gia mặc dù Ananda không cảm thấy hối tiếc về việc này. Tất cả những tài liệu về giáo pháp được kiết tập lại thành một kho tàng giáo pháp gọi là Tạng Kinh (Sutta Pitaka).
Tiếp theo, Thượng tọa Maha-Kassapa được mời nói lại những bài giảng của Phật về Vi-diệu-pháp (Abhidhamma). Tất cả những tài liệu về giáo lý cao siêu được kiết tập lại thành Tạng Luận (Abhidhamma Pitaka)[2]
Kể từ đây, tuy chưa được viết ra thành văn tự, giáo lý của đức Phật đã được kiết tập lần đầu tiên thành Tam Tạng Kinh Ðiển (Tri-pitaka) gồm có Tạng Kinh (Sutta-pitaka), Tạng Luật (Vinaya-pitaka) và Tạng Luận (Abhidhamma-pitaka), được đọc đi đọc lại nhiều lần bằng tiếng Pali-Magadha cho mọi người trong phiên họp đều ghi nhớ.
|
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Phần 16 tiếp theo Sun 06 Feb 2011, 23:28 | |
| Tiếp phần 16
Kiết tập kinh điển lần thứ nhì tại Vesali (năm -444)
Một trăm năm sau khi Phật nhập niết-bàn, vào thời vua Kalasoka ở xứ Magadha, 700 vị A-la-hán tham dự đại hội do Thượng tọa Yasa (Da-xá) triệu tập tại Vesali để cứu xét đề-nghị sửa đổi 10 điều luật của nhóm tỳ-kheo Vajjiputta [3] (Bạt-kỳ-tử, Bạt-xà-tử).
Nguyên nhân vì khi Thượng tọa Yasa, con của Kakandaka, đến dự lễ Bố-tát (Uposatha) tại Vesali, nhận thấy nhiều cư sĩ dâng cúng tiền bạc cho các khất sĩ; Thượng tọa Yasa phản đối việc này.
Mười điều luật mới của nhóm Vajjiputta là: 1- Giác diêm tịnh: Cho phép ướp muối vào thức ăn để hôm khác sử dụng. 2- Nhị chỉ tịnh: Trong khoảng thời gian từ lúc mặt trời đứng bóng đến khi xê dịch xuống thêm hai ngón tay, vẫn được phép ăn. 3- Tha tụ lạc tịnh: Sau khi thọ thực ở một tụ lạc, được phép sang một tụ lạc khác thọ thực thêm. 4- Trụ xứ tịnh: Tỳ-kheo cùng ở một giáo-khu không cần phải cùng bố-tát ở một nơi. 5- Tùy ý tịnh: Khi họp chúng tăng ni bàn luận xử quyết, tuy số tăng ni tham dự không đủ, nhưng nếu dự đoán số người vắng mặt đồng ý, vẫn được làm phép yết-ma[4]. 6- Sở tập tịnh: Tùy thuận theo lệ trước. 7- Sanh hòa hợp tịnh: Sau khi ăn no, vẫn được phép uống loại sữa bò chưa khuấy, trừ lớp váng trên mặt. 8- Ẩm xà-lâu-ngức tịnh: Ðược phép uống nước dừa chưa lên men (xà-lâu-ngức), hoặc vừa lên men phân nửa (rượu non). 9- Vô duyên tọa cụ tịnh: May tọa cụ được phép khỏi viền, và lớn nhỏ tùy ý. 10- Kim ngân tịnh: Ðược phép nhận tiền bạc. Do sự bất đồng ý kiến về đề-nghị sửa-đổi trên, nên từ đây Tăng-già được chia làm hai bộ phái: Thượng-tọa-bộ (Sthavira), bảo-thủ, gồm các vị tỳ-kheo cao niên, thành lập Nam-tông, còn gọi là Phật-giáo Nguyên-thủy (Theravada), do Thượng tọa Yasa (Da-xá) đại diện.
Thượng tọa Yasa cho 10 điều trên là "Thập Sự Phi Pháp", đều không hợp với quy chế của Phật. Thượng-tọa-bộ chủ trương giữ nguyên vẹn các giới luật và cách hành trì như lúc Phật còn tại thế. Ðại-chúng-bộ (Mahasangika), cấp-tiến, gồm các vị tỳ-kheo trẻ, thành lập Bắc-tông, còn gọi là Ðại-thừa Phật-giáo (Mahayana), do nhóm tỳ-kheo Vajjiputta ở Vesali đại diện. Ðại-chúng-bộ, căn cứ vào lời dạy của đức Phật cho phép sửa đổi những giới luật không quan trọng, chủ trương tùy thuận theo hoàn cảnh xã-hội mới và phong tục địa phương.
Kiết tập kinh điển lần thứ ba tại Pataliputta (năm -244) Tại Patalliputta hiện nay là Patna, 300 năm sau khi Phật nhập niết-bàn, có 1000 vị A-la hán tham dự dưới sự chủ tọa của ngài Moggaliputta-Tissa (Mục-Kiền-Liên-Tử Ðế-Tu), do vua Asoka (A-Dục) triệu-tập.
Mục đích cuộc hội họp kỳ này là để củng cố Tam Tạng Pháp Bảo theo Thượng-tọa-bộ, loại trừ các phần tử xấu xa trong tăng hội, phái những vị có khả năng sang các nước láng giềng truyền bá chánh pháp.
Sau kỳ kiết tập nầy, con trai của vua Asoka là Thượng tọa Mahinda mang giáo pháp đến truyền bá tại Sri-Lanka (Tích-Lan). Tại đây Thượng tọa Mahinda lại tổ chức hội họp và tuyên đọc lại bản kiết tập lần thứ ba tại Patalliputta. Qua năm sau, Ni sư Sanghamitta, con gái vua Asoka, mang một nhánh chiết từ một cành phía nam của cây Ðại-Bồ-Ðề nơi Phật thành đạo, đến trồng tại Anuradhapura, thủ đô xứ Sri-Lanka vào triều vua Devanampiya Tissa, hiện nay vẫn còn tươi tốt.
Ðồng thời Ni sư Sanghamitta cũng là người đầu tiên thành lập ni-bộ tại xứ này. Kiết tập kinh điển lần thứ tư, của Nam tông tại Aluvihara (năm -200)
Tại Aluvihara [5], Sri-Lanka (Tích-Lan), dưới trào vua Vatta-Gamani-Abhaya, trong ngôi chùa Maha-Vihara do Thượng tọa Mahinda, con vua Asoka, cất trong đá vào thế kỷ thứ 3 trước tây lịch, với sự có mặt của 500 vị Thượng-tọa Tích-Lan.
Hội nghị quyết định viết Tam Tạng Pháp Bảo bằng tiếng Pali trên lá bối (lá thốt-nốt, lá buôn) và có thêm phần chú thích bằng tiếng Tích-Lan (Sihala).
Trong quyển Buddhaghasuppatti, nói về tiểu sử của ngài Buddhaghosa (Phật Âm), có ghi rằng nếu chất lại thành đống Tam Tạng Kinh chép trên lá bối sẽ to hơn sáu thớt voi. Kể về lượng thì ba tạng kinh Phật này bằng mười một lần quyển thánh kinh của Thiên Chúa Giáo.
Ðến năm +450, ngài Buddhaghosa (Phật Âm) lại tổ chức thêm một kỳ kiết tập kinh điển với mục đích canh cải lại vài chỗ bất đồng giữa kinh điển Pali-Magadha và kinh điển Pali-Sri-Lanka.Kiết tập kinh điển lần thứ tư, của Bắc tông tại Kudalavana (năm -200)
Tại thủ đô Kudalavana xứ Kasmira[6](Cachemire, Kế-tân), do vua Kaniska (Ca-Nị-Sắc) triệu tập để ghi chép Tam Tạng Pháp Bảo bằng tiếng Sanscrit, tiếng gốc của Bà-la-môn giáo, có thêm phần chú thích và luận giải.
Kỳ kiết tập kinh điển này được đặt dưới quyền chủ tọa của Tổ Asvaghosa[7](Mã Minh), vị Tổ thứ 12.
Tam tạng kinh điển Bắc Tông đầu tiên, viết bằng tiếng Sanscrit, gồm có tạng Kinh Upadesa (Luận Ưu-ba-đề-xá, Khế kinh luận nghị) gồm 100.000 bài tụng, kế đến tạng Luật Vinaya Vibhasa (Luận Tỳ-nại-da Tỳ-bà-xa) gồm 100.000 bài tụng, sau cùng là tạng Luận Abhidharma Vibhasa (Luận A-tỳ-đạt-ma Tỳ-bà-sa) gồm 100.000 bài tụng.
Tất cả ba tạng có 9.600.000 chữ. Vua Kaniska cho khắc tất cả lên những bảng bằng đồng cán mỏng, rồi cất trong rương đá và xây tháp để thờ. Kể từ đây giáo lý Bắc tông bắc đầu được các vị Tổ sư tuyên dương ở Ấn-độ, rồi lần hồi truyền đến Tây-tạng và Trung-hoa.
Các kinh luận Ðại thừa càng ngày càng dồi dào và được truyền bá sâu rộng trong đại chúng. Viện Ðại học Phật giáo Nalanda từ thế kỷ thứ hai trước tây lịch đến cuối thế kỷ thứ tám sau tây lịch nổi tiếng là nơi phổ biến giáo lý Ðại thừa. Vào thế kỷ thứ bảy, chính ngài Huyền-Trang đã đến nơi đây học với ngài Viện trưởng Silabhadra (Giới-Hiền), sau đó ngài Silabhadra mời ngài Huyền-Trang ở lại giảng dạy suốt 2 năm trước khi trở về Trung quốc.
Trong thời gian này, vua Kumara (Cưu-Ma-La) có tổ chức một đại hội nghị luận về Giáo lý Ðại thừa và mời ngài Huyền-Trang thuyết trình đề tài Chân Duy-Thức Luận.
Ngài Huyền-Trang đã thuyết phục được trên 7.000 tăng sĩ có mặt tại đại hội và làm cho Giáo lý Ðại thừa càng thêm rực rỡ. Năm 645, ngài Huyền-Trang về đến Trung quốc với 657 bộ kinh Ðại thừa bằng tiếng Sanscrit (Phạn). Suốt 19 năm còn lại, ngài Huyền-Trang đã dịch được 75 bộ, gồm 1.335 quyển kinh, luật, luận của Ðại thừa. Kể từ đây Trung-hoa thành lập bộ Ðại Tạng Kinh của Ðại thừa Phật giáo và cứ tu bổ lần hồi cho đến ngày nay. Ngoài bộ Ðại Tạng Kinh của Trung-hoa còn có bộ Ðại Tạng Kinh của Tây-tạng và bộ Ðại Tạng Kinh của Nhật-bản.
Nhưng bộ Ðại Tạng Kinh của Trung-hoa được xem là đầy đủ nhất về Tam Tạng Kinh Ðiển của Ðại thừa Phật giáo. Trong khi đó ở Ấn-độ, vào thế kỷ 11 và 12, Viện Ðại Học Nalanda cũng như hầu hết các cơ sở và kinh sách Phật giáo đều bị Hồi giáo tiêu hủy.Kiết tập kinh điển Nam tông tại Mandalay, Miến-Ðiện (năm 1871)
Do vua Mindon (Mẫn-Ðông) triệu tập 2400 vị Cao Tăng Miến-Ðiện, lấy tạng Luật làm chính, đối chiếu chỗ đồng dị trong nguyên văn thánh điển để hiệu đính, cùng nhau hợp tụng ròng rã suốt 5 tháng mới hoàn thành.
Nhà vua cho khắc trọn bộ Tam Tạng Pali mới này trên 729 bia đá cẩm thạch màu đen vân trắng, dựng trong chùa tháp Kuthadaw, dưới chân núi Mandalay, phía ngoài có 45 ngôi tháp Phật vây quanh. Hiện nay vẫn còn. Kiết tập kinh điển Nam tông tại Rangoon, Miến-Ðiện (năm 1954) Vào ngày lễ Phật Ðản 17/05/1954, với sự giúp đỡ của chính phủ, cùng một lúc với Ðại-hội kỳ 3 của Tổng Hội Phật Giáo Thế Giới tại Rangoon, Phật Giáo Miến Ðiện đã tổ chức cuộc kiết tập kinh điển lần thứ sáu này với mục đích gây tình đoàn kết giữa Phật giáo đồ, chấn hưng Phật Giáo Thượng-Tọa-Bộ, ăn mừng nước Miến Ðiện vừa được độc lập. Ðịa điểm kiết tập là trên sườn núi Nghệ-Cố, thuộc ngoại ô phía bắc thủ đô Rangoon.
Lần kiết tập này y cứ trên 729 phiến đá cẩm thạch của lần kiết tập thứ 5, đồng thời đối chiếu với tất cả các bảng gỗ bằng tiếng Pali của "Pali Thánh Ðiển Hiệp Hội" ở các nước Tích Lan, Thái Lan, Cam Bốt, Luân Ðôn và Miến Ðiện.
Trong kỳ kiết tập này các vị Tỳ-kheo ở các nước thuộc Phật Giáo Bắc Tông cũng được mời tham dự. Ròng rã 2 năm, đến lễ Phật Ðản năm 1956 (Phật lịch 2500) mới hoàn thành. Toàn bộ được ấn hành trên giấy. |
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Tiếp Phần 16 Sun 06 Feb 2011, 23:47 | |
| 2- Tam Tạng Kinh Ðiển (Tripitaka) 8 Tam Tạng Kinh Ðiển Phật Giáo gồm có Tạng Luật (Vinaya Pitaka), Tạng Kinh (Sutta Pitaka) và Tạng Luận (Abhidhamma Pitaka).Tạng Luật (Vinaya Pitaka) Tạng Luật được xem là cái neo vững chắc để bảo tồn con thuyền Giáo Hội Tăng Già trong những cơn phong ba bão táp của lịch sử.
Phần lớn tạng luật đề cập đến giới luật và nghi lễ trong đời sống xuất gia của các vị tỳ kheo và tỳ kheo ni. Ngót 9 năm sau khi thành đạo, đức Phật ít khi chính thức ban hành giới luật nhất định ngoại trừ Bát Kính Pháp được chế ra để đón nhận nữ giới vào Giáo Hội Tăng Già. Từ khi có sự tranh chấp giữa hai nhóm kinh sư và luật sư ở Kosambi về sau, mỗi khi có trường hợp trục trặc xảy ra, đức Phật mới họp các đại đệ tử để đặt ra những điều răn thích hợp áp dụng chung cho cả giáo đoàn. Tạng Luật (Vinaya pitaka) nêu rõ đầy đủ lý do tại sao và trong trường hợp nào một giới luật (sila) được đặt ra, và mô tả rành mạch các nghi thức hành lễ sám hối[9], lễ tụng giới (Uposatha) của chư tăng.
Trong đó có ghi chép lịch trình phát triển đạo giáo từ thuở ban khai, sơ lược đời sống và chức nhiệm của đức Phật, và những chi tiết về ba lần kiết tập kinh điển đầu tiên. Ðây là những tài liệu hữu ích về lịch sử thời thượng cổ ở Ấn, về các cổ tục, kiến thức, óc thẩm mỹ thời bấy giờ.
Người đọc tạng Luật không khỏi ngạc nhiên, thán phục tánh cách dân chủ trong phương pháp thành lập và tổ chức Giáo Hội Tăng Già, việc sử dụng tài sản, đạo đức cao thượng của chư tăng và khả năng xuất chúng của đức Phật trong việc điều hành Giáo hội. Tạng Luật Pali cúa Nam tông gồm 5 quyển: 1- Parajika (Ba-la-di, giới nặng). Gồm 4 giới Dâm, Ðạo, Sát, Vọng. Tỳ kheo nào vi phạm các giới này không còn tư cách Tỳ kheo nữa và bị đuổi khỏi giáo đoàn.2- Pacittiya (Ba-dật-đề, giới nhẹ). Gồm có hai phần Xả Ðọa và Ðơn Ðọa. Tỳ kheo vi phạm Xả Ðọa vừa phải sám hối vừa bị phạt. Tỳ kheo vi phạm Ðơn Ðọa chỉ phải sám hối thôi.3- Mahavagga (Ðại Phẩm luật) nói về các lễ xuất gia, sám hối, nhập hạ, cúng dường ... trong một nhóm lớn tăng ni. Gồm 10 phần: 1. Lễ xuất gia. 2. Lễ Bố-tát (Uposatha). 3. Nhập hạ (vassa). 4. Lễ mãn hạ (pavarana). 5. Y phục và đồ dùng hằng ngày. 6. Thuốc men và thực phẩm. 7. Lễ phát y phục (kathina). 8. Loại vải may áo, chỉ tịnh (ngủ), đau ốm. 9. Cách phân xử trong Giáo Ðoàn. 10. Cách phân xử trong trường hợp có chia rẻ trầm trọng trong Giáo Ðoàn.4- Cullavagga (Tiểu Phẩm luật) nói về bổn phận và trách nhiệm của tăng ni, thưởng phạt, sống hòa hợp, xây cất chùa tháp ... trong một nhóm nhỏ tăng ni. Gồm 12 phần: 1 và 2. Cách dàn xếp các xích mích trong chúng. 3. Cách cho tái nhập Giáo Ðoàn. 4. Cách giải quyết các thắc mắc trong chúng. 5. Linh tinh về tắm rửa, ăn mặc, giặt dịa, ... 6. Nơi ăn ở, đồ dùng. 7. Sự chia rẻ. 8. Cách đối xử giữa các tỳ kheo, và bổn phận thầy trò. 9. Ai không được dự lễ Bố-tát. 10. Lễ xuất gia và cách giảng dạy cho tỳ-kheo-ni. 11. Lịch sử kiết tập kinh điển lần thứ nhất tại Rajagaha. 12. Lich sử kiết tập kinh điển lần thứ hai tại Vesali.5- Parivara (Bảng tóm lược các điều mục của giới luật). Hai quyển đầu (1 và 2) họp thành bộ Vibhanga (Giới bổn). Gồm 218 giới cho tăng và 311 giới cho ni. Bộ này còn được gọi là Patimokkha (Giới bổn) được tuyên đọc trong lễ Bố-Tát (Uposatha) mỗi nửa tháng. Hai quyển kế (3 và 4) họp thành bộ Khandaka (Quảng luật). Tạng Luật của Bắc tông: Ðến năm -200, Phật Giáo Bắc Tông mới cho ra đời tạng Luật Vinaya Vibhasa (Tỳ-nại-da Tỳ-bà-xa) bằng tiếng Sanscrit, tại thủ đô Kudalavana của xứ Kasmira (Kế-tân). Bộ Luật này gồm 100.000 bài tụng do Tổ thứ 12 Asvaghosa (Mã Minh) chủ trương biên soạn dưới sự bảo trợ của vua Kaniska Ðệ Nhất (Ca-Nị-Sắc-Ca I). Vào năm 413, ở Trung-Hoa, Ðại sư Huệ-Quang thuộc bộ phái Ðàm-Vô-Ðức có cho ra đời bộ Luật Tứ Phần gồm 250 giới cho tỳ-kheo và 348 giới cho tỳ-kheo-ni, chia ra làm 8 loại như sau:1- Ba-la-di: tỳ-kheo có 4 giới, tỳ-kheo-ni có 8 giới.2- Tăng tàn (Tăng-già bà-thi-sa): tỳ-kheo 13, tỳ-kheo-ni 17.3- Bất định: tỳ-kheo 2.4- Xả-đọa (Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề): tỳ-kheo 30, tỳ-kheo-ni 30.5- Ðơn đọa (Ba-dật-đề): tỳ-kheo 90, tỳ-kheo-ni 178.6- Hối quá (Ba-la-đề-đề-xá-ni): tỳ-kheo 4, tỳ-kheo-ni 8.7- Chúng học: tỳ-kheo 100, tỳ-kheo-ni 100.8- Diệt tránh: tỳ-kheo 7, tỳ-kheo-ni 7. Ngoài ra còn có các bộ: Luật Thập Tụng do Ðại sư Kumarajiva (Cưu Ma La Thập) dịch năm 405, Luật Ma-Ha Tăng-Kỳ (Mahasangika) dịch năm 418, Luật Ngũ Phần dịch năm 423, Thiện Kiến Luật Tỳ-bà-sa dịch năm 711. Nhưng bộ Luật Tứ Phần dịch năm 413 vẫn được xem là bộ luật chánh về giới cụ túc dành cho tăng ni.
Tạng Luật Bắc tông cũng có thể chia làm ba phần: Giới bổn (Vinaya-vibhanga), Tỳ-nại-da Bản sự (Vinaya-vastu) và Tỳ-nại-da Tạp sự (Vinayakshudraka).Kinh Phạm-Võng Bồ-Tát Tâm-Ðịa Giới Phẩm[10] được xem là bộ Luật đặc biệt nhất của Ðại Thừa, vì nó bao gồm cả Ba Tụ Giới là: 1- Nhiếp luật nghi giới: đoạn trừ tất cả pháp ác đã sanh, ngăn chận tất cả pháp ác chưa sanh. 2- Nhiếp thiện pháp giới: làm nẩy nở tất cả pháp thiện chưa sanh, làm tăng trưởng tất cả pháp thiện đã sanh. 3- Nhiếp chúng sanh giới: hóa độ tất cả chúng sanh mà không thấy có người độ và chúng sanh được độ. Kinh này nêu ra 10 giới nặng và 48 giới nhẹ của người phát tâm tu hạnh Bồ-tát. Hàng xuất gia cũng như hàng tại gia đều có thể thọ 58 giới Bồ-tát này. Tạng Kinh (Sutta Pitaka) Tạng Kinh gồm những bài Pháp của đức Phật khuyên dạy tăng ni về các phương pháp tu tập để đi đến giác ngộ và giải thoát, và khuyên dạy cư sĩ về cách xây dựng hạnh phúc trong gia đình và ngoài xã hội. Một vài bài giảng của các vị đại đệ tử như các ngài Sariputta, Moggallana, Ananda cũng được ghép vào tạng Kinh và cũng được tôn trọng như chính lời đức Phật, vì đã được đức Phật chấp nhận. Mỗi kinh là một bài Pháp do đức Phật giảng trong một trường hợp và hoàn cảnh đặc biệt, cho một thính chúng có căn cơ và trình độ nào đó. Cho nên có nhiều kinh đề cập đến một đề tài mà đã được đức Phật trình bày và giải thích khác nhau. Người học Phật phải biết nhận định đúng đắn lời Phật dạy trong mỗi trường hợp riêng biệt, để rồi từ những trường hợp riêng biệt đó đúc kết lại và suy ra giáo lý sâu rộng của ngài. Tạng Kinh Pali của Nam tông[11]: Dưới đây là 5 bộ của tạng Kinh Pali vào thời Ðại sư Buddhaghosa (Phật Âm), thế kỷ thứ năm sau tây lịch. 1/- Digha Nikaya (Trường Bộ), ghi chép những bài Pháp dài, thường có hình thức đối thoại. Gồm 34 kinh (sutta) chia thành 3 tập (wagga): I- SILAKKHANDHA-WAGGA: Nói về đạo-đức và giới-luật. Có 13 kinh (sutta). 1- Brahmajala-sutta: (Kinh Phạm Võng) Ðức Phật nói về 62 kiến chấp của ngoại đạo về ngã và thế-giới. 2- Samannaphala-sutta: (Kinh Sa-Môn Quả) Ðức Phật giảng cho vua Ajatasattu về các lợi ích mà người xuất gia có thể đạt được từ việc nhỏ như tránh kỳ thị đến việc lớn như quả vị A-la-hán. 3- Ambattha-sutta: Ðức Phật nói với Ambattha về dòng dõi nhiều đời của đức Phật, trong đó có một phần về huyền thoại vua Okkaka, vị tổ 6 đời của Phật. 4- Sonadanta-sutta: Ðối thoại giữa Phật và vị Bà-la-môn Sonadanta về phẩm hạnh của một vị Bà-la-môn chân chính. 5- Kutadanta-sutta: Ðối thoại giữa Phật và vị Bà-la-môn Kutadanta về việc sát hại thú vật để cúng tế. 6- Mahali-sutta: Ðức Phật nói với Mahali về các cõi trời và kết luận rằng việc tu tập để đạt đến Chánh Kiến là cao thượng hơn cả. 7- Jaliya-sutta: Phật nói câu hỏi Ðời sống và thân thể có phải là một hay không?. không thích hợp với người xuất gia tu tập. 8- Kassapa-sihanada-sutta: Ðức Phật nói với tu sĩ khổ hạnh Kassapa là việc thực tập khổ hạnh không thể đưa đến giác ngộ và giải thoát. 9- Potthapada-sutta: Ðức Phật từ chối trả lời những câu hỏi của Potthapada về linh hồn (ngã) vì sự bàn luận về vấn đề đó không đưa đến giác ngộ và Niết-bàn. 10- Subha-sutta: Bài Pháp của thượng toạ Ananda nói với vị sa-di Subha sau khi Phật nhập Niết-bàn. 11- Kevaddha-sutta: Ðức Phật không cho phép đệ tử biểu diễn thần thông; đức Phật chỉ cho phép thực hiện thần thông thuyết Pháp. Câu chuyện một khất sĩ lên các cõi trời hỏi đạo, các vị trời không đáp được bảo nên trở về thế gian hỏi Phật. 12- Lohicca-sutta: Ðức Phật nói với vị Bà-la-môn Lohicca về bổn phận của một đạo sư đối với đệ tử. 13- Tevijja-sutta: Ðức Phật nói học 3 bộ kinh Veda để được sanh về cõi trời Phạm-Thiên là một điều vô ích, vì vẫn còn sanh tử luân hồi. II- MAHA-VAGGA: 14- Mahapadana-sutta: Ðức Phật nói về sự giống nhau giữa 6 vị Phật trước và chính Ngài, từ hình thức đản sanh, đến dòng dõi, gia đình, thọ mạng, cây Bồ-đề, các đại đệ tử, số Pháp hội, thị giả, cha, mẹ, và thị trấn. Trong bài Pháp thứ nhì, đức Phật nói về đức Phật Vipassin (Tỳ-Bà-Thy) từ lúc rời cõi trời Tusita (Ðâu-suất) đến lúc chuyển Pháp Luân. 15- Mahanidana-sutta: Ðức Phật giảng về 12 Nhân Duyên và tính vô ngã. 16- Maha-Parinibbana-sutta: Nói về những ngày cuối cùng của đức Phật, Phật nhập Niết-bàn, phân chia xá lợi. 17- Maha-Sudassana-sutta: Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phật kể cho Ananda nghe chuyện tiền thân của ngài là vua Sudassana tại Kusinagar trước kia. 18- Janavasabha-sutta: Ðể tiếp tục câu chuyện về các đệ tử Phật đã nhập diệt tại Nadika có ai đã thành đạo, đức Phật thuật lại câu chuyện mà vị trời yakkha Janavasabha đã nói với ngài. 19- Maha-Govinda-sutta: Vị nhạc sĩ trời tên Pancasikha hiện đến trước Phật, nói rằng ông ta đã từng nghe vị Phạm-Thiên Sanamkumara nói về sự tích ông Mahagovinda. Ông hỏi Phật có biết chuyện này không? Phật đáp chính ngài là Mahagovinda trong một kiếp trước. 20- Maha-Samaya-sutta: Ðức Phật nói về Ðại Hội các vị trời cõi Tịnh Ðộ đến viếng ngài, và ngài kể tên các vị trời ấy trong một bài thơ dài 151 câu. 21- Sakkapanha-sutta: Vua trời Ðao-lợi là Sakka viếng Phật và nêu lên 10 câu hỏi. Qua lời giải đáp của Phật, ông ta hiểu rằng cái gì có sanh đều sẽ hoại diệt. 22- Maha-Satipatthana-sutta: (Kinh Tứ Niệm Xứ) Ðức Phật dạy bốn phép quán: Thân bất tịnh, Thọ là khổ, Tâm vô thường, Pháp vô ngã. Bốn phép quán này giúp người tu giữ vững Chánh Niệm. Có phần luận bàn về Tứ Ðế. 23- Payasi-sutta: Thượng tọa Kumarakassapa độ cho ngoại đạo Payasi xuất gia, bỏ chấp đoạn diệt, không nhân quả tội phước. Sau khi Payasi qua đời, Thượng tọa Gavampati nhân lúc viếng cõi trời, biết được Payasi đã đắc đạo và hiện trạng ra sao. III- PATIKA-VAGGA: 24- Patika-sutta: Nói về một đệ tử Phật bỏ theo ngoại đạo vì Phật không chịu biểu hiện thần thông và không nói về khởi thủy của muôn vật. Trong kinh này đức Phật đã làm cả hai việc đó.25- Udumbarika-sihanada-sutta: Ðối thoại giữa Phật và tu sĩ khổ hạnh Nigrodha trong vườn thượng uyển của hoàng hậu Udumbarika về hai lối tu khổ hạnh. 26- Cakkavatti-sihanada-sutta: Huyền thoại về vị Chuyển Luân Thánh Vương biết hối cải đạo đức suy đồi của mình, và lời tiên tri của Phật về Phật Di-Lặc ra đời. 27- Agganna-sutta: Nói về giai cấp xã hội, từ nguồn gốc sự vật đến nguồn gốc các giai cấp xã hội và ý nghĩa thật sự của chúng. 28- Sampasadaniya-sutta: Sariputta nói với Phật về lòng tôn kính của mình đối với đức hạnh và giáo lý của Phật. Phật bảo nên thường nói lại chuyện này để làm tăng trưởng đức tin nơi các đệ tử. 29- Pasadika-sutta: Ðược tin cái chết của vị giáo chủ đạo Jaina là Nataputta, đức Phật giảng về vị đạo sư hoàn hảo và vị đạo sư không hoàn hảo, và hiểm họa chia rẻ trong giáo đoàn nếu các khất sĩ chưa nắm vững Chánh Pháp. 30- Lakkhana-sutta: Nói về 32 tướng tốt của bậc Ðại Nhân qua 20 bài kệ, mỗi bài đều khởi đầu bằng Thánh nhân đã nói như vầy. (Here it is said). 31- Singalovada-sutta: (Kinh Thiện Sinh) Ðức Phật gặp cư sĩ Singala (Thiện Sinh) đang đứng trước nhà lễ 6 hướng vào sáng sớm theo lời cha dạy mà không hiều ý nghĩa việc làm này. Phật dạy lễ 6 hướng như thế là để luôn luôn ghi nhớ cách đối xử phải đạo với cha mẹ, thầy tổ, vợ con, bạn bè, bề trên, kẻ dưới. 32- Atanatiya-sutta: Tứ Ðại Thiên Vương đến viếng Phật và tặng ngài một bài thần chú để trừ tà ma quỷ quái. Ðức Phật đọc lại bài thần chú đó cho các đệ tử nghe. 33- Sangiti-sutta: Ðức Phật khai mạc một giảng đường mới tại Pava; nhưng vì mệt, ngài giao cho thượng tọa Sariputta nói chuyện với các vị khất sĩ. Thượng tọa Sariputta trình bày trước đại chúng một danh sách giới luật cho từng người, kế đến một danh sách giới luật cho từng nhóm hai người, lần đến danh sách giới luật cho từng nhóm mười người. 34- Dasuttara-sutta: Tại Pava, dưới sự chứng minh của đức Phật, thượng tọa Sariputta trình bày thêm trước đại chúng 10 giới phụ cho từng người, 10 giới phụ cho từng nhóm hai người, và lần đến 10 giới phụ cho từng nhóm 10 người. 2/- Majjhima Nikaya (Trung Bộ), ghi chép những bài Pháp dài bậc trung, thường có hình thức đối thoại. Gồm 152 kinh (sutta) chia thành 15 tập (vagga) xếp theo đề tài và tùy theo loại kinh nói cho cư sĩ, khất sĩ, tu sĩ khổ hạnh, vua chúa, ... I- MULAPARIYAYA-VAGGA: 1- Mulapariyaya-sutta: Kiến thức về nguồn gốc của tất cả mọi sự vật từ các yếu tố sơ đẳng cho đến Niết-bàn. 2- Sabbasava-sutta: Bảy cách để trừ nghiệp lực hữu lậu (asava). 3- Dhammadayada-sutta: Khất sĩ phải là người thừa kế Giáo Pháp, chứ không phải là người thừa hưởng tham vọng vật chất của mình. 4- Bhayabherava-sutta: Trước khi thành đạo, đức Phật phải vượt qua những ghê sợ và khủng khiếp trong rừng rậm như thế nào. 5- Anangana-sutta: Ðối thoại giữa Sariputta và Moggallana về nghiệp lực hữu lậu (asava). 6- Akankheyya-sutta: Nói về những điều mà một khất sĩ nên mong ước. 7- Vathupama-sutta: Tâm tạo nghiệp cũng giống như một cái áo nhơ bẩn. 8- Sallekha-sutta: Nói về cách trừ tà kiến. 9- Sammaditthi-sutta: Sariputta nói với các vị khất sĩ về Chánh Kiến. 10- Satipatthana-sutta: Kinh Tứ Niệm Xứ. Giống kinh Digha số 22 nhưng không có phần luận bàn về Tứ Ðế. II- SIHANADA-VAGGA: 11, 12- Sihanada-sutta (Culla- và Maha-): (Kinh Sư Tử Hống) Hai kinh này nói về giá trị của 37 phẩm trợ đạo trong Giáo pháp. Trong kinh Maha-Sihanada đức Phật mô tả các thức ăn của người tu khổ hạnh. Chính đức Phật cũng có thực hành pháp môn này trước khi thành đạo. 13- Maha-Dukkhakkhandha-sutta: Ðức Phật giải đáp câu hỏi về tham ái và cảm thọ mà các du sĩ đã hỏi các vị khất sĩ. 14- Culla- Dukkhakkhandha-sutta: Ðức Phật đàm luận với các tu sĩ Jaina về câu hỏi trên. Các tu sĩ Jaina cho rằng đau khổ có thể bị tiêu diệt bằng lối tu khổ hạnh. 15- Anumana-sutta: Thượng tọa Moggallana quở các vị khất sĩ và tự kiểm thảo. 16- Cetokhila-sutta: Nói về 5 điều cố chấp và 5 điều ràng buộc của tâm. 17- Vanapattha-sutta: Nói về đời sống cô đơn trong rừng vắng. 18- Madhupindika-sutta: Ðức Phật tóm lượt Giáo pháp của ngài, và Kaccana giải thích rộng ra. 19- Dvedhavitakka-sutta: Ðức Phật quán niệm về tham dục , v.v..., trước khi thành đạo. 20- Vitakkasanthana-sutta: Phương pháp quán tưởng để trừ nghi hối. III- TẬP THỨ BA: 21- Kakacupama-sutta: Ví sân hận như cây cưa. Một vị khất sĩ dù bị cưa hết tay chân cũng không nên có lòng sân hận, nếu còn sân hận thì chưa phải là đệ tử Phật. 22- Alagaddupama-sutta: Xuất gia tu học mà không hiểu rõ Chánh Pháp cũng như bắt rắn đằng đuôi. 23- Vammika-sutta: Một vị trời nói với thượng tọa Kumara Kassapa một câu chuyện biểu tượng bằng hình ảnh một ổ kiến lửa lớn bốc khói ban đêm, cháy đỏ ban ngày, một vị Bà-la-môn bảo một vị khất sĩ hãy thò tay vào đó để tìm đồ vật. Ðức Phật giải thích rằng ổ kiến lửa lớn là thân người, và vị Bà-la-môn chính là đức Phật. 24- Rathavinita-sutta: Vào lúc mãn hạ, Phật hỏi các đệ tử ai là người trì giới tinh tấn nhất? Các vị khất sĩ đáp là Punna. Sariputta đến gặp Punna và hỏi tại sao ông xuất gia. Punna bát bỏ tất cả những lý do của Sariputta đưa ra, và nói chỉ vì ông muốn được Niết-bàn. Nhưng cuối cùng ông nhìn nhận rằng nếu không có những lý do kia thì chắc ông cũng không thể được Niết-bàn. 25- Nivapa-sutta: Ma vương (Mara) được ví như một người thợ săn đặt mồi để bắt nai. 26- Ariyapariyesana-sutta: Nói về chuyện Phật xuất gia, học đạo với hai vị thầy là Alara-Kalama và Uddaka-Ramaputta, và thành đạo dưới cội Bồ-đề. 27- Culla-Hatthipadopama-sutta: Sự tu tập của đệ tử Phật được ví như chân một con voi. Ðệ tử Phật cần hiểu rõ Tứ Ðế như voi cần có bốn chân để đứng vững. 28- Maha- Hatthipadopama-sutta: Bài Pháp của thượng tọa Sariputta ví Tứ Diệu Ðế như bốn chân của một con voi. 29- Maha-Saropama-sutta: Ðức Phật nói về hiểm họa của lợi danh trong khi hành đạo, vào lúc Devadatta thành lập giáo đoàn riêng tại Gayasisa. 30-Culla- Saropama-sutta: Phật nói thế nào là đạt đến thực chất của Giáo Pháp. IV- MAHAYAMAKA-VAGGA: 31- Culla-Gosinga-sutta: Phật nói chuyện với 3 vị khất sĩ khi 3 vị này nói với Phật chỗ đạt đạo của mình. 32- Maha-Gosinga-sutta: 6 vị khất sĩ thảo luận với nhau về cái gì làm cho rừng đẹp. 33- Maha-Gopalaka-sutta: (Kinh Phóng Ngưu) Ðức Phật nói về 11 phẩm hạnh của một khất sĩ, tương ứng với 11 phẩm hạnh của một người chăn trâu giỏi. 34- Culla-Gopalaka-sutta: Nói về sự khôn khéo của người biết cách dắt trâu vượt qua sông. 35- Culla-Saccaka-sutta: Thảo luận trước công chúng giữa Phật và đạo sĩ Jaina tên Saccaka về Năm Uẩn (khandha) là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. 36- Maha-Saccaka-sutta: Ðức Phật nói về cách quán thân và tâm mà ngài đã thật hành lúc xuất gia, tu khổ hạnh, và thành đạo. 37- Culla-Tanhasankhaya-sutta: Vua trời Ðao-lợi là Sakka đến viếng Phật và nêu một câu hỏi, được Phật trả lời. Moggallana đi theo vị này về cõi trời để xem ông ta có thật sự hiểu lời giải đáp của Phật không. 38- Maha-Tanhasankhaya-sutta: Phật bác bỏ ý nghĩ của một khất sĩ cho rằng tâm thức là chủ thể đi tái sanh. 39, 40- Assapura-sutta (Maha- và Culla-): Ðức Phật nói về bổn phận của một tu sĩ, tại thành phố Assapura. V- CULLAYAMAKA-VAGGA: 41- Saleyyaka-sutta: Ðức Phật nói với các vị Bà-la-môn ở Saleyya, lý do vì sao có người lên thiên đàng có người xuống địa ngục. 42- Veranjaka-sutta: Ðức Phật lập lại bài pháp trên cho các cư sĩ tại Veranja nghe. 43, 44- Vedalla-sutta (Maha- và Culla-): Trong kinh đầu, thượng tọa Sariputta bàn luận với thượng tọa Mahakotthika về 12 Nhân Duyên. Trong kinh thứ nhì, sư cô Dhammadinna nói với nam cư sĩ Visakha cùng một đề tài. 45, 46- Dhammasamadana-sutta (Culla- và Maha-): Nói về sự chín mùi của thú vui ngũ dục và sự đau khổ trong tương lai. 47- Vimamsaka-sutta: Nói về phương pháp mà một tu sĩ nên dùng để tìm hiểu một vấn đề. 48- Kosambiya-sutta: Ðức Phật nói với các vị khất sĩ tại Kosambi đang tranh cãi nhau dữ dội. 49- Brahmanimantanika-sutta: Ðức Phật nói với các vị khất sĩ chuyện ngài lên cõi trời Phạm-Thiên (Brahma) độ ông Baka bỏ chấp thường. 50- Maratajjaniya-sutta: Chuyện Ma vương chung vào bao tử của thượng tọa Moggallana. Moggallana bảo Ma vương hãy đi ra, và kể lại cho hắn nghe trước kia Moggallana cũng là Ma vương tên Dusi và Ma vương hiện nay lúc đó là cháu ông. VI- GAHAPATI-VAGGA: 51- Kandaraka-sutta: Ðức Phật nói chuyện với Pessa và Kandaraka về 4 hạng người. 52- Atthakanagara-sutta: Thượng tọa Ananda nói với một cư sĩ tại Atthaka về những con đường đưa đến Niết-bàn. 53- Sekha-sutta: Ðức Phật khai mạc một giảng đường mới tại Kapilavastu, nhưng vì mệt nên ngài bảo Ananda ra nói chuyện với những người dòng Sakya. Ananda nói về sự tu tập của các đệ tử Phật. 54- Potaliya-sutta: Ðức Phật giải thích cho Potali biết rõ làm thế nào lìa bỏ lối sống phàm tục của thế gian. 55- Jivaka-sutta: Jivaka hỏi Phật có phải chính ngài đã cho phép các vị khất sĩ giết thú vật để ăn thịt không? Ðức Phật đưa ra nhiều thí dụ chứng minh điều đó không đúng, và ngài xác nhận trong vài trường hợp đặc biệt các vị khất sĩ có thể ăn ngũ tịnh nhục.. 56- Upali-sutta: Cư sĩ Upali ở Balaka được giáo chủ đạo Jaina là Nataputta gởi đến tranh luận với Phật về tội do tâm và thân tạo cái nào nặng hơn. Rốt cuộc Upali được Phật độ. 57- Kukkuravatika-sutta: Ðức Phật thảo luận về nghiệp với 2 tu sĩ khổ hạnh, một vị thực hành lối sống như chó, một vị thực hành lối sống như bò. 58- Abhayarajakumara-sutta: Hoàng tử Abhaya được giáo chủ đạo Jaina là Nataputta gởi đến hỏi Phật xem có bao giờ ngài nói lời gì làm buồn lòng người nghe không. Nếu Phật đáp có thì ngài chẳng khác gì phàm phu; nếu Phật đáp không thì ngài nói dối vì chính ngài đã nói Devadatta sẽ bị đọa điạ ngục vô gián. 59- Bahuvedaniya-sutta: Ðức Phật phân loại các cảm thọ và nói cảm thọ nào cao hơn hết. 60- Apannaka-sutta: Ðức Phật dùng Chánh Pháp đã kích tư tưởng ngoại đạo. VII- BHIKKHU-VAGGA: 61- Ambalatthika-Rahulovada-sutta: Ðức Phật dạy Rahula giữ giới không nói dối, tại lâm viên Ambalatthika. 62- Maha-Rahulovada-sutta: Ðức Phật dạy Rahula pháp quán niệm hơi thở và pháp quán tứ đại (đất, nước, gió, lửa). 63- Culla-Malunkya-sutta: Ðức Phật nói với khất sĩ Malunkya về những câu hỏi không đáng được trả lời. 64- Maha-Malunkya-sutta: Ðức Phật nói với khất sĩ Malunkya về 5 điều ràng buộc thấp nhất. 65- Bhaddali-sutta: Bhaddali sám hối với Phật lỗi lầm của mình và được Phật chỉ dạy. 66- Latukikopama-sutta: Nói cách giữ giới về thời gian thọ thực và xuất gia, so sánh với con chim cúc. 67- Catuma-sutta: Ðức Phật không hài lòng về một nhóm khất sĩ ồn ào tại Catuma, nhưng ngài chỉ thản nhiên thuyết pháp về bốn hiểm họa. 68- Nalakapana-sutta: Ðức Phật hỏi Anuruddha và 6 đệ tử khác về lý do xuất gia và về vài điểm trong Giáo Pháp. 69- Gulissani-sutta: Giới luật mà những tu sĩ sống trong rừng như Gulissani phải tôn trọng. 70- Kitagiri-sutta: Nói về thọ thực sái giờ, và về tư cách mà cả bảy hạng khất sĩ đều phải theo. VIII- PARIBBAJAKA-VAGGA: 71- Tevijja-Vacchagotta-sutta: Ðức Phật đến viếng tu sĩ khổ hạnh Vacchagotta và nói rằng ngài được gọi là tevijja vì ngài biết hết tiền kiếp của mình, có thiên nhãn, và biết cách tận diệt nghiệp lực sinh tử luân hồi (Tam Minh). 72- Aggi-Vacchagotta-sutta: Nói về những câu hỏi không đáng được trả lời, như trong kinh số 63. 73- Maha-Vacchagotta-sutta: Ðức Phật giải thích cho tu sĩ khổ hạnh Vacchagotta về cách tu tập và sự thành đạo của các đệ tử. 74- Dighanakha-sutta: Ðức Phật bác bỏ lý luận của tu sĩ khổ hạnh Dighanakha, và giải thích về thực tánh của thân và ba cảm thọ (sướng, khổ, trung tính). Ðại đức Sariputta nhân dịp này đắc quả A-la-hán. 75- Magandiya-sutta: Ðức Phật nói với ông bà Magandiya về sự lià bỏ tham dục, bất mãn, tham vọng, và sự thành đạo của ngài. 76- Sandaka-sutta: Thượng tọa Ananda nói với tu sĩ khổ hạnh Sandaka về những quan niệm sai lầm về giáo lý. 77- Maha-Sakuludayi-sutta: Nói về 5 lý do vì sao đức Phật được tôn vinh. 78- Samanamandika-sutta: Nói về 4 hay 10 phẩm hạnh làm cho con người trở nên hoàn toàn đức hạnh. 79- Culla-Sakuludayi-sutta: Một câu chuyện về giáo chủ đạo Jaina là Nataputta, và con đường chánh đạo đưa đến một thế giới hoàn toàn hạnh phúc. 80- Vekhanassa-sutta: Kinh này lập lại một phần của kinh số 79, và nói về 5 giác quan (ngũ căn). IX- RAJA-VAGGA: 81- Ghatikara-sutta: Ðức Phật nói với Ananda về kiếp trước của ông là Jotipala và bạn ông là Ghatikara. 82- Ratthapala-sutta: Câu chuyện về khất sĩ Ratthapala. Cha mẹ ông phản đối việc ông xuất gia, và tìm cách kéo ông trở về đời sống cư sĩ. 83- Makhadeva-sutta: Chuyện tiền thân đức Phật là vua Makhadeva, truyền ngôi đến đời vua Nimi. 84- Madhura-sutta: Thượng tọa Kaccana thuyết pháp cho vua Madhura ở xứ Avanti về ý nghĩa thật sự của giai cấp. 85- Bodhirajakumara-sutta: Ðức Phật viếng hoàng tử Bodhi, và nói với ông về chuyện ngài xuất gia, tinh tấn tu tập và thành đạo. Như trong kinh số 26 và 36. 86- Angulimala-sutta: Chuyện đức Phật độ tên sát nhân Angulimala. 87- Piyajatika-sutta: Ðức Phật an ủi một người đàn ông mất con rằng có thương thì có khổ.. Vua Pasenadi và hoàng hậu Mallika bất đồng ý kiến với nhau về lời khuyên này. 88- Bahitika-sutta: Ananda trả lời một câu hỏi của vua Pasenadi về sự tu tập; vua tặng ông một áo khoát ngoài (bahitika). 89- Dhammacetiya-sutta: Vua Pasenadi viếng Phật; Phật giảng cho vua nghe về sự cao thượng của đời sống xuất gia. 90- Kannakatthala-sutta: Câu chuyện giữa đức Phật và vua Pasenadi về kiến thức sâu rộng (omniscience) của Phật, về giai cấp xã hội, và về việc các vị trời còn phải trở lại đời sống thế gian không?
Được sửa bởi mytutru ngày Mon 07 Feb 2011, 00:10; sửa lần 1. |
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Xong Phần 16 Sun 06 Feb 2011, 23:48 | |
| X- BRAHMANA-VAGGA: 91- Brahmayu-sutta: Nói về 32 tướng tốt của Phật, và chuyện vị Bà-la-môn Brahmayu xuất gia. 92- Sela-sutta: Tu sĩ khổ hạnh Keniya thỉnh Phật và các vị khất sĩ đến nhà dự lễ cúng dường. Vị Bà-la-môn Sela nhìn thấy 32 tướng tốt của Phật liền xin xuất gia. 93- Assalayana-sutta: Vị Bà-la-môn trẻ tên Assalayana tranh luận rất lâu với Phật về giai cấp xã hội. 94- Ghotamukha-sutta: Sau khi Phật Nhập Niết-bàn, thượng tọa Udena thuyết pháp về người cao thượng nhất và giáo đoàn gương mẫu. Cư sĩ Ghotamukha xây cất một giảng đường mới cho Giáo đoàn. 95- Canki-sutta: Nói về giáo pháp của Bà-la-môn. 96- Esukari-sutta: Nói về vai trò của từng giai cấp trong xã hội. 97- Dhananjani-sutta: Thượng tọa Sariputta nói với vị Bà-la-môn Dhananjani rằng bổn phận đối với gia đình không phải là lý do để làm chuyện quấy. 98- Vasettha-sutta: Nói về một tu sĩ Bà-la-môn chân chính, do dòng dõi 7 đời hay do hành động và đức hạnh của chính mình. 99- Subha-sutta: Nói về mọi người đều có thể làm được nhiều việc thiện, dù là cư sĩ hay tu sĩ. 100- Sangarava-sutta: Ðức Phật nói với một tín nữ Bà-la-môn về đời sống tu sĩ theo nhiều trường phái khác nhau; kèm theo sự xuất gia và tinh tấn tu hành của đức Phật; như trong kinh số 26 và 36. XI- DEVADAHA-VAGGA: 101- Devadaha-sutta: Ðức Phật thảo luận với các đạo sĩ Nigantha về quan niệm của họ cho rằng muốn diệt trừ đau khổ thì phải diệt trừ nghiệp.
Ðức Phật dẫn chứng rằng các khất sĩ đạt đến vô sanh không phải nhờ thực hành khổ hạnh hay nhờ lià bỏ các thú vui, mà chính nhờ thực tập đúng theo Chánh Pháp. 102- Pancattaya-sutta: Nói về 5 quan niệm về ngã, mà đức Phật tóm lượt lại còn 3. Ðức Phật nói rằng ngài đã vượt qua các quan niệm ấy, và giáo lý giải thoát của ngài không tùy thuộc vào quan niệm nào về ngã cả. 103- Kinti-sutta: Nói về các quy luật, có thể do Phật ban hành, về cách đối xử với các khất sĩ tranh cãi nhau về ý nghĩa và văn tự trong Giáo Pháp, và các khất sĩ vi phạm giới luật.
104- Samagama-sutta: (Lục hòa) Ðược tin giáo chủ đạo Jaina là Nataputta qua đời (như trong Kinh Digha số 29), đức Phật nêu ra 7 nguyên nhân tranh cãi, 7 cách xử lý các cuộc tranh cãi, và 6 nguyên tắc sống hòa hợp trong Giáo Ðoàn.
105- Sunakkhatta-sutta: Nói về 5 hạng người ở thế gian, và cách rút mũi tên tham vọng ra. 106- Ananjasappaya-sutta: Nói về nhiều phương pháp thiền quán, về bất động và thành đạo, về sự giải thoát. 107- Ganaka-Moggallana-sutta: Ðức Phật dạy Moggallana cách dạy đệ tử. 108- Gopaka-Moggallana-sutta: Sau khi Phật nhập diệt, thượng tọa Ananda giải thích vì sao Phật khác hơn tất cả các đệ tử của ngài.
Thượng tọa nói với vị đại thần Vassakara rắng đức Phật không có chỉ định ai kế vị Phật cả, Phật bảo các khất sỉ phải lấy Giáo Pháp làm Thầy.
109- Maha-Punnama-sutta: Nhơn một đêm trăng rằm, đức Phật trả lời những câu hỏi của một khất sĩ về 5 uẩn (khandha).
110- Culla-Punnama-sutta: Nhơn một đêm trăng rằm, đức Phật bảo một người ngu không thể biết ai ngu ai khôn, nhưng một người khôn thì biết cả hai. XII- ANUPADA-VAGGA: 111- Anupada-sutta: Ðức Phật khen ngợi thượng tọa Sariputta. 112- Chabbisodana-sutta: Nói về những nghi vấn đối với một khất sĩ tuyên bố rằng mình đã hoàn toàn giác ngộ. 113- Sappurisa-sutta: Nói về phẩm hạnh của một khất sĩ. 114- Sevitabba-asevitabba-sutta: Ðức Phật nói cách thực hành đúng hay sai bổn phận và giáo lý của một khất sĩ. Sariputta giải thích rộng ra. 115- Bahudhatuka-sutta: Danh sách những điều bàn luận giữa Phật và Ananda. 116- Isigili-sutta: Ðức Phật giải thích tên của ngọn đồi Isigili ở Rajagriha, và kể tên các vị Bích Chi Phật trước kia ở đây. 117- Maha-Cattarisaka-sutta: Trình bày Bát Chánh Ðạo và nói thêm về chánh kiến và giải thoát. 118- Anapanasati-sutta: (Kinh An Ban Thủ Ý) Nói về phương pháp và sự lợi ích của việc thực hành Quán Niệm Hơi Thở vào ra. 119- Kayagatasati-sutta: Nói về phương pháp và sự lợi ích của việc thực hành Quán Niệm Về Thân. 120- Samkharuppatti-sutta: Nói về sự tái sanh của một người tùy theo nguyện lực của người đó. XIII- SUNNATA-VAGGA: 121- Culla-Sunnata-sutta: (Kinh Tiểu Không) Nói về cách Quán Không. 122- Maha-Sunnata-sutta: (Kinh Ðại Không) Nói cách thực hành Tâm Không. 123- Accariyabbhutadhamma-sutta: Ðức Phật nói về những điều thánh thiện và huyền diệu trong đời vị Bồ-tát Vessantara (Hộ Minh), từ lúc rời cung trời Ðâu-suất (Tusita) đến lúc đản sanh. 124- Bakkula-sutta: Thượng tọa Bakkula kể lại cho bạn ông là Acela-Kassapa về cuộc đời 80 năm của ông. Nghe xong Acela-Kassapa xin xuất gia. 125- Dantabhumi-sutta: Ðức Phật nói cách điều phục voi để chỉ đại đức Aciravata cách dạy hoàng tử Jayasena. 126- Bhumija-sutta: Hoàng tử Jayasena hỏi đại đức Bhumija một câu. Ðại đức đáp xong, đến hỏi Phật xem câu trả lời của mình có đúng không. 127- Anuruddha-sutta: Anuruddha nhận lời đến thọ trai tại nhà cư sĩ Pancakanga, và giải thích cho ông về hai hình thức giải thoát. 128- Upakkilesa-sutta: Ðức Phật tìm cách hòa giải cuộc tranh cãi giữa hai nhóm khất sĩ tại Kosambi. Cuối cùng đức Phật bỏ đi. Ðến công viên Ðông Trúc tại thành phố Karagama, đức Phật giảng cho Anuruddha, Kimbila và Nandiya về Lục Hòa. 129- Balapandita-sutta: Nói về thiện nghiệp, ác nghiệp, và nhân quả tội phước. 130- Devaduta-sutta: Ðức Phật dùng thiên nhãn thấy được nghiệp lực của mỗi người, do đó ngài biết rõ ai sẽ được sanh về các cõi trời, ai sẽ bị đọa điạ ngục. XIV- VIBHANGA-VAGGA: 131- Bhaddekaratta-sutta: (Kinh Nhất Dạ Hiền) Ðừng tìm về quá khứ, Ðừng tưởng tới tương lai, Quá khứ đã không còn, Tương lai thì chưa tới,.... 132- Ananda-bhaddekaratta-sutta: Ananda bình luận bài kệ trên. 133- Mahakaccana-bhaddekaratta-sutta: Mahakaccana bình luận dài về bài kệ trên tại tinh xá Tapoda ở Rajagriha. 134- Lomasakangiya-bhaddekaratta-sutta: Ðức Phật giải thích bài kệ trên cho ông Lomasakangiya tại tinh xá Nigrodha ở Kapilavastu. 135- Culla-kammavibhanga-sutta: Ðức Phật giải thích về thân, khẩu, ý nghiệp và hậu quả của chúng. 136- Maha-kammavibhanga-sutta: Một tu sĩ khổ hạnh vu cáo Phật nói nghiệp không có lợi ích gì. Ðức Phật trình bày quan điểm của mình về nghiệp. 137- Salayatanavibhanga-sutta: Ðức Phật giải thích về 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). 138- Uddesavibhanga-sutta: Ðức Phật tuyên bố một câu về thức; thượng tọa Mahakaccana giải thích chi tiết. 139- Aranavibhanga-sutta: Nói về Trung Ðạo như là con đường hòa giải giữa hai cực đoan là sống buông thả hoặc tu khổ hạnh (ép xác). 140- Dhatuvibhanga-sutta: Câu chuyện về khất sĩ Pukkusati, một đệ tử chưa bao giờ gặp Phật, chỉ biết ngài qua các bài pháp thoại. 141- Saccavibhanga-sutta: Ðức Phật trình bày Bốn Thánh Ðế, theo sau có lời giải thích mà người ta cho rằng của Sariputta. 142- Dakkhinavibhanga-sutta: Hoàng hậu Mahapajapati cúng dường Phật hai áo cà-sa; đức Phật giải thích về những hạng người đáng nhận cúng dường và những hạng người cúng dường. XV- SALAYATANA-VAGGA: 143- Anathapindikovada-sutta: Chuyện ông Anathapindika được thượng tọa Sariputta hộ niệm lúc sấp qua đời. Sau khi chết, ông được sanh về cung trời Ðâu-suất (Tusita), và trờ về thế gian viếng Phật. 144- Channovada-sutta: Chuyện thượng tọa Channa (Xa-nặc) bệnh nặng, được thượng tọa Sariputta khuyên dạy, nhưng cuối cùng ông tự sát. 145- Punnovada-sutta: Ðức Phật dạy thượng tọa Punna về lạc thọ và khổ thọ. 146- Nandakovada-sutta: Hoàng hậu Mahapajapati và 500 nữ khất sĩ thỉnh Phật ban huấn từ. Phật bảo đại đức Nandaka làm việc này. Ðại đức giảng về Vô Thường. 147- Culla-Rahulovada-sutta: Ðức Phật dắt Rahula vào rừng, giảng cho nghe về Vô Thường. Có hằng ngàn vị trời đến nghe pháp. 148- Chachakka-sutta: Nói về 6 căn. 149- Maha-Salayatanika-sutta: Chánh kiến về 6 căn. 150- Nagaravindeyya-sutta: Ðức Phật nói với dân chúng làng Nagaravinda về hàng tu sĩ khổ hạnh và Bà-la-môn nào đáng được tôn vinh. 151- Pindapataparisuddhi-sutta: Ðức Phật nói với thượng tọa Sariputta về những điều mà các đệ tử luôn luôn phải thực hành suốt thời gian tu tập. 152- Indriyabhavana-sutta: Ðức Phật bác bỏ phương pháp tập luyện 6 căn của vị Bà-la-môn Parasariya, và trình bày phương pháp của Phật. 3/- Samyutta Nikaya[12] (Tạp Bộ), ghi chép những bài Pháp giải thích từng điểm trong Phật pháp, sắp xếp theo từng đề mục. Gồm 5 tập (vagga), 56 nhóm (samyutta), 7.762 kinh (sutta): I- SAGATHA-VAGGA: Có 11 samyutta, phân chia theo Trời, vua xứ Kosala, Ma vương, v.v... Gồm các kinh có từ một đến nhiều bài kệ, toàn bằng văn vần. II- NIDANA-VAGGA: Có 10 samyutta, khởi đầu bằng các kinh nói về 12 Nhân Duyên. III- KHANDHA-VAGGA: Có 13 samyutta,khởi đầu bằng các kinh nói về 5 Uẩn. IV- SALAYATANA-VAGGA: Có 10 samyutta, khởi đầu bằng các kinh nói về 6 Căn. V- MAHA-VAGGA: Có 12 samyutta, khởi đầu bằng các kinh nói về Bát Chánh Ðạo. 4/- Anguttara Nikaya[13] (Tăng Chi Bộ), gồm 11 nipata (nhóm), 171 phẩm (vagga), 2.203 kinh (sutta). Nipata thứ nhất nói về nhận thức thật đơn giản của con người đối với một sắc, một thanh, một hương, một vị, một xúc, một pháp. Nipata thứ hai nói về nhận thức của con người đối với hai sắc, hai thanh, hai hương, hai vị, hai xúc, hai pháp. Lần đến nipata thứ 11 nói về 11 đức tính của một em bé chăn trâu giỏi, tương ứng với 11 đức tính mà một vị khất sĩ giỏi cần có. 5/- Khuddaka Nikaya [14] (Tiểu Bộ), ghi chép những bài kệ vắn tắt, gồm 15 tập, chia làm 3 nhóm, mỗi nhóm 5 tập như sau: 1/ Khuddaka Patha, Những Bài Kinh Ngắn: 1- Saranattaya: (Kinh Quy Y Tam Bảo) Lập lại 3 lần lời nguyện quy y Tam Bảo. 2- Dasasikkhapada: 10 giới của Sa-di; cư sĩ giữ 5 giới đầu. 3-Dvattimsakara: Danh sách 32 thành phần của cơ thể con người. 4- Kumarapanha: Giáo lý gồm 10 câu hỏi dành cho người mới vào đạo. 5- Mangala-sutta: Bài kệ trả lời một câu hỏi về gia tài nào cao nhất (mangala). 6- Ratana-sutta: (Kinh Tam Bảo) Một bài kệ nói về người quy y Tam Bảo và giữ gìn 5 giới gây được cảm tình nồng hậu đối với các vị thần thánh. 7- Tirokudda-sutta: Một bài kệ nói về việc cúng kiến thân nhân qua đời. 8- Nidhikanda-sutta: Một bài kệ nói về sự gìn giữ kho báu thật sự. 9- Metta-sutta (Maitri sutra): (Kinh Từ Bi) Một bài kệ nói về tình thương cao cả. ... Như một bà mẹ đang đem thân mạng mình che chở cho đứa con duy nhất, chúng ta hãy đem lòng từ bi mà đối xử với tất cả mọi loài.... 2/ Dhammapada, Kinh Pháp Cú, gồm 423 bài kệ (gatha) của đức Phật, chia ra theo đề tài thành 26 tập (vagga). 3/ Udana, Kinh Tự Thuyết, gồm 80 udana chia ra thành 8 tập (vagga), là những lời tuyên bố long trọng của đức Phật trong những trường hợp đặc biệt. Phần lớn bằng văn vần, có kèm theo phần văn xuôi kể lại Phật nói trong trường hợp nào. 4/ Itivuttaka, Kinh Bổn Sự, gồm 112 bài kinh ngắn chia thành 4 nipata, mỗi kinh bắt đầu bằng "iti vuccati" có nghĩa là thánh nhân đã nói.
5/ Sutta-Nipata, Những Bài Kinh Sưu Tập, quan trọng về phần huyền thoại và cấu trúc phức tạp. Các kinh đều bằng văn vần, có phần mở đầu bằng văn xuôi. Gồm 5 tập (vagga):
1- Uraga-vagga: có 12 kinh. Kinh thứ 3 là Khaggavisana-sutta (Kinh Ðộc Giác Ngưu), thường lập lại câu Hãy để cho vị khất sĩ đi lang thang một mình như con độc giác ngưu.. 2- Culla-vagga: có 14 kinh. 3- Maha-vagga: có 12 kinh. Trong đó có 3 kinh quan trọng: a) Kinh Pabbajja-sutta nói về cuộc gặp gỡ giữa Phật và vua Bimbisara trước khi Phật thành đạo; b) Kinh Padhana-sutta nói về sự tinh tấn của đức Phật và sự mê hoặc của Ma vương; c) Kinh Nalaka-sutta có lời mở đầu (vatthu-gatha) nói về đạo sĩ Asita xem tướng cho thái tử sơ sanh Siddhattha. 4- Atthaka-vagga (sanscrit: Artha-varga): có 16 kinh, trong đó có 4 kinh chỉ có 8 câu thơ. Bốn kinh đó là Guhatthaka-sutta, Dutthatthaka-sutta, Suddhatthaka-sutta và Paramatthaka-sutta.
5- Parayana-vagga: gồm 16 câu hỏi với lời giải đáp của đức Phật bằng văn vần. Lời mở đầu (vatthu-gatha) nói về chuyện nhà hiền triết tên Bavari đến viếng Phật, và các đệ tử của ông ta nêu câu hỏi. 6/ Vimana-vatthu, Câu Chuyện Những Cảnh Trời, gồm 85 bài thơ chia thành 7 tập (vagga). Những người được sanh về các cõi trời kể lại do thiện nghiệp nào được sanh về cõi trời đó. 7/ Peta Vatthu, Câu Chuyện Cảnh Giới Ngạ Quỷ, gồm 51 bài thơ chia thành 4 tập (vagga). Những người bị đọa làm ngạ quỷ kể lại do đã gây ác nghiệp nào, bị sanh vào cõi đau khổ ra sao. 8/ Theragatha, Trưởng Lão Kệ, gồm 264 bài kệ của các vị Thượng Tọa. 9/ Therigatha, Trưởng Lão Ni Kệ, gồm 100 bài kệ của các Ni Sư. 10/ Jataka, Kinh Bổn Sanh, còn gọi là Túc Sanh Truyện, gồm 547 câu chuyện tiền thân của đức Phật. Về sau có thêm phần Nidana-katha nói về cuộc đời đức Phật từ lúc đản sanh đến khi thành lập tinh xá Jetavana. 11/ Niddesa, Những Bài Bình Giảng, gồm 2 phần (Maha-Niddesa bình giảng về Atthaka-vagga; Culla-Niddesa bình giảng về Parayana-vagga) và Khaggavisana-sutta. Về sau Niddesa lại được Sariputta bình giảng trong kinh Saddhammapajjotika. 12/ Patisambhida, Kiến Thức Phân Giải. Phân giải về các quan niệm, kiến thức, sai lầm, cách thở trong lúc thiền, v.v... Phần lớn theo hình thức vấn đáp như trong tạng Luận (Abhidhamma). 13/ Apadana (sanscrit: Avadana), Kinh Thí-Dụ, kể lại chuyện đời trước của các vị A-la-hán, đệ tử, vân vân, bằng văn vần. 14/ Buddhavamsa, Tiểu Sử Ðức Phật. Ðức Phật trả lời một câu hỏi của Sariputta về lời phát nguyện thành Phật đầu tiên, và lời tiên tri của 24 vị Phật trước về ngài, và cuối cùng chuyện gì đã xảy ra cho ngài. 15/ Cariya Pitaka, Phẩm Hạnh Của Thánh Nhân, gồm 35 câu chuyện bằng văn vần trích từ tập Jataka, và được sắp xếp theo thứ tự 10 ba-la-mật (bố thí, trì giới, ...) mà đức Phật đã đạt được. Nhưng chỉ có 7 ba-la-mật được kể ra, thiếu 3. Tạng Kinh của Bắc tông được phân loại như sau: A- Phân chia theo thời gian thuyết pháp của đức Phật, bằng bài kệ "Ngũ thời thuyết pháp" của Thiên-Thai tông như sau: "Hoa-Nghiêm tối sơ tam thất nhựt. (21 ngày) "A-Hàm thập nhị, Phương-Ðẳng bát. (12 năm + 8 năm) "Nhị thập nhị niên Bát-Nhã đàm. (22 năm) "Pháp-Hoa, Niết-Bàn, cộng bát niên. (8 năm)[15] Nghĩa là có 5 giai đoạn thuyết pháp của Phật như sau: 1. Hoa-Nghiêm (Avatamsaka): sau khi thành đạo, đức Phật thuyết kinh Hoa-Nghiêm liên tiếp trong 21 ngày, ngay tại Bồ-đề đạo-tràng, nói về hoa tạng thế giới. 2. A-Hàm (Agama): thấy kinh Hoa-Nghiêm quá thâm sâu khó hiểu đối với chúng sanh, Phật liền thuyết kinh A-Hàm trong 12 năm, bắt đầu bằng kinh "Chuyển Pháp Luân" tại Lộc-Uyển, nói về Tứ Diệu Ðế và Vô Ngã Tướng; sau đó nói về 12 Nhân Duyên. Kinh A-Hàm gồm 4 bộ: Dirghagama (Trường A-hàm), Madhyamagama (Trung A-hàm), Samyuktagama (Tạp A-hàm) và Ekottarikagama (Tăng-nhất A-hàm). - Kinh Trường A-hàm gồm 4 phần, 22 tập, 30 kinh. Phần thứ nhất nói về đức Phật, phần thứ hai nói về giáo lý và các pháp tu, phần thứ ba nói về những lời vấn nạn của ngoại đạo, phần thứ tư nói về sinh, thành, hoại, diệt của thế giới. Trong đó có: kinh Sơ Ðại Bản Duyên, kinh Ðại Bát-Niết-Bàn (kinh Du Hành), kinh Nhân Bản Dục Sanh, kinh Thiện Sanh, kinh Tín Phật Công Ðức, kinh Phạm Võng (Phạm Ðộng), kinh Sa-môn quả, kinh Thế Ký. Kinh Trường A-hàm của Trung-Hoa có 30 bài kinh, trong đó có 26 bài được học giả Anesaki xác nhận giống các kinh trong Trường Bộ (Digha-Nikaya). - Kinh Trung A-hàm gồm 60 tập, 222 kinh, đại ý nói về Tứ Diệu Ðế, 12 Nhân Duyên, thí dụ, ngôn hạnh của Phật và các đệ tử. Trong đó có: kinh Thiện Pháp, kinh Thủy Dụ, kinh Lậu Tận, kinh Phân Biệt Thánh Ðế, kinh Hải Bát Ðức (Chiêm Ba), kinh Luân Vương Thất Bảo, kinh Tứ Châu, kinh Tần-bà-ta-la Vương Nghinh Phật, kinh Thiên Sứ, kinh A-na-luật Bát Niệm, kinh Ly Thùy Miên, kinh Thị Pháp Phi Pháp, kinh Ðại Nhân, kinh Khổ Ấm, kinh Ðạt Phạm Hạnh, kinh Cù-đàm-di Ký Quả, kinh Hành Dục, kinh Hàng Ma, kinh Tu-đạt-đa, kinh Anh Vũ (Nghiệp Báo Sai Biệt), Bát Nhã Tâm Kinh, kinh Trì Trai, kinh Ái Sinh, kinh Tà Kiến, kinh Tiễn Dụ, - Kinh Tăng Nhất A-hàm gồm 51 tập, gom góp các kinh về pháp số từ 1 pháp đến 11 pháp, nên gọi là Tăng Nhất. Trong đó có: kinh A-la-hán, kinh Tứ Nhân Xuất Hiện Thế Gian, kinh Ba-tư-nặc Vương Thái Hậu Băng Trần Thổ Ðộn Thân, kinh Cấp Cô Trưởng Giả Nữ Ðắc Ðộ Nhân Duyên, kinh Thí Thực Hoạch Ngũ Phước Báo, kinh Ương-quật-ma, kinh Lực Sĩ Di Sơn, kinh Vị Tằng Hữu Pháp, kinh Xá-lợi-phất Ma-ha Mục-liên Du Tứ Cù, kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự, kinh Phóng Ngưu, kinh Ngọc Da Nữ, kinh Ðại-ái-đạo Bát-niết-bàn, kinh Phật Mẫu Bát-nê-hoàn, kinh Xá-Vệ Quốc Vương Thập Mộng. - Kinh Tạp A-hàm gồm 50 tập, gom góp những kinh ngắn lẫn lộn với nhau. Trong đó có: kinh số 3 Tam Pháp Ấn, kinh số 10 Ngũ Ấm, kinh số 15 Chuyển Pháp Luân, kinh số 28 Bát Chánh Ðạo, kinh số 38 Ương-quật-ma, kinh số 41 Nguyệt Dụ, kinh số 45 Giải Hạ, kinh số 46 Ba-tư-nặc Vương Thái Hậu Băng Trần Thổ Ðộn Thân, kinh số 47 Phóng Ngưu.
3. Phương-Ðẳng (Vaipulya): Phật thuyết kinh Phương-Ðẳng (còn gọi là Phương-Quảng), như các kinh Ðại Bảo Tích, Lăng-Nghiêm, Kim-Cang... trong 8 năm, nói về tánh bình đẳng của các pháp.
4. Bát-Nhã (Prajna): Phật thuyết kinh Bát-Nhã trong 22 năm, nói về tánh không của các pháp. 5. Pháp-Hoa (Saddharma-pundarika), Niết-Bàn (Parinirvana): Sau cùng Phật thuyết kinh Pháp-Hoa và Niết-Bàn trong 8 năm, nói về Phật tánh của tất cả chúng sanh, cảnh giới Niết-bàn, đính chánh ý nghĩa những đoạn kinh thường bị hiểu sai, và nói về lúc Phật sắp nhập Niết-bàn. B- Phân loại theo thể văn trong kinh, bằng bài kệ "Thập nhị bộ kinh" (Dvadasanga-buddha-vacana) sau đây: "Trường-Hàng, Trùng-Tụng, kiêm Cô-Khởi, "Nhân-Duyên, Thí-Dụ, cập Tự-Thuyết, "Bổn-Sự, Bổn-Sanh, Vị-Tằng-Hữu, "Phương-Quảng, Luận-Nghị, cập Ký-Việc. Nghĩa là theo văn thể thì có 12 bộ (loại) kinh như sau: 1. Trường Hàng (Sutra): thuộc loại văn xuôi, gồm các Khế kinh. 2. Trùng Tụng (Geya):thuộc loại văn vần, kệ tụng tóm lược phần văn xuôi cho dễ nhớ. 3. Cô Khởi Kệ (Gatha): thuộc loại văn vần, kệ ghi trực tiếp lời Phật dạy, không phải để tóm lược phần văn xuôi ở trước. 4. Nhân Duyên (Nidana): nêu lên duyên khởi các kinh hay các điều luật của Phật. 5. Thí Dụ (Avadana): Phật kể lại chuyện đời trước của các đệ tử, thánh nhân ... để làm thí dụ. 6. Tự Thuyết (Udana): tự ý Phật nói kinh trong những trường hợp đặc biệt, không vì có người thưa hỏi. 7. Bổn Sự (Itivuttaka): Phật kể lại những hạnh nguyện, việc làm của Phật trong các đời trước. 8. Bổn Sanh (Jataka): Còn gọi là Túc Sanh Truyện. Phật tự thuật các đời trước của mình để làm gương. 9. Vị-Tằng-Hữu (Abbhuta-dharma): kinh ghi lại những việc thần bí, hy hữu, không thể nghĩ bàn về đức Phật. 10. Phương Quảng (Vaipulya): kinh giảng nói giáo nghĩa rộng lớn sâu xa. 11. Luận Nghị (Upadesa): thảo luận, lý luận, vấn đáp để làm sáng tỏ ý nghĩa một vấn đề. 12. Ký Việc hay Thọ Ký (Vyakarana): nói trước những việc sẽ xảy ra về sau để làm tăng đức tin nơi các đệ tử. Tạng Kinh đầy đủ nhất của Bắc tông hiện nay là bộ "Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng Kinh" của Trung-Hoa. Tạng Luận (Abhidhamma Pitaka) Tạng Luận hay Vi Diệu Pháp là tinh hoa của Phật Giáo. Tạng Kinh chứa đựng những lời dạy thông thường (vohara desana), còn tạng Luận gồm các giáo lý cùng tột (paramattha desana) của đạo Phật, nhằm biện luận, phân tích, xếp loại các hiện tượng về tâm lý, vũ trụ và siêu hình trong đạo Phật cho người tu học dễ hiểu ý nghĩa thâm sâu của giáo lý.
Ðối với một vài học giả, Vi Diệu Pháp không phải do đức Phật giảng mà do các đại sư uyên bác khởi thảo về sau, khoảng đầu thời kỳ tượng pháp (Khoảng 500 năm sau khi Phật nhập niết-bàn).
Tuy nhiên, ai cũng phải nhìn nhận rằng chính đức Phật đã dạy phần chánh yếu của tạng này. Những đoạn gọi là Matika hay Nòng Cốt Nguyên Thủy của giáo lý cao thượng này như thiện pháp (kusala dhamma), bất thiện pháp (akusala dhamma) và bất định pháp (abyakata dhamma) trong 6 tập của tạng Luận, trừ tập Kathavatthu, đều do đức Phật dạy.
Ngài Sariputta được danh dự lãnh trọng trách giải thích sâu vào chi tiết, và ngài Mahakassapa trùng tuyên lại trong kỳ kiết tập kinh điển lần thứ nhất.
Dù tác giả là ai, chắc chắn Tạng Luận cũng là công trình sáng tạo của một bộ óc kỳ tài, chỉ có thể so sánh với một vị Phật. Tập Patthana Pakarana, vừa phức tạp vừa tế nhị, diễn tả mối tương quan nhân quả với đầy đủ chi tiết. Vi Diệu Pháp phân tích và trình bày đầy đủ chi tiết về sắc, thọ, tưởng, hành, thức để giúp chúng ta hiểu rõ con người, và hướng dẫn chúng ta đến sự thành đạt mục tiêu tối hậu của sự tu tập là giác ngộ và giải thoát. Hầu hết các học giả Phật Giáo đều xác nhận rằng muốn thông hiểu giáo lý của đức Phật phải có kiến thức về Tạng Luận, vì đó là chìa khóa mở cửa vào tri kiến Phật. Tạng Luận Pali của Nam tông gồm có 7 bộ: 1. Dhamma-sanghani, liệt kê các pháp (dhamma, sự vật) hợp thành vũ trụ. 2. Vibhanga, xác định và phân loại các pháp (dhamma). 3. Dhatu-katha, liệt kê và nói về tương quan giữa các yếu tố trong vũ trụ. 4. Puggala-pannatti, phân tích và mô tả về những cá tính con người. 5. Katha-vatthu, của Moggalliputta Tissa, nêu lên những điểm tranh luận, và bác bỏ các lập luận ngoại đạo. 6. Yamaka, nói về những "cặp đôi". Phân tích tâm lý cho thấy tính cách đối đãi trong tư tưởng con người. 7. Patthana, nói về nhân quả tương quan giữa các hiện tượng. Tạng Luận Sanscrit của Bắc tông đầu tiên do trường phái Sarvastivadin (Nhất Thiết Hữu Bộ) cũng gồm có 7 bộ: 1. Jnanaprasthana của Katyayanaputra (Kaccanaputta): Phát Trí Luận. 2. Prakaranapada của Vasumitra: Phẩm Loại Túc Luận. 3. Vijnanakaya của Devasarman: Thức Thân Túc Luận. 4. Dharmaskandha của Sariputta: Pháp Uẩn Túc Luận. 5. Prajnaptisastra của Moggallana:Bát-nhã Ðăng Luận. 6. Dhatukaya của Purana (hay của Vasumitra): Giới Thân Túc Luận. 7. Sangitiparyaya của Mahakausthila (Mahakotthila): Tập Dị Môn Túc Luận. Vào năm -200, dưới triều vua Kaniska, tại xứ Kasmira, Tổ thứ 12 là Asvaghosa soạn ra bộ Mahavibhasa (Ðại Tỳ-bà-sa), còn gọi là Abhidharma mahavibhasa-sastra (A-tỳ-đạt-ma đại tỳ-bà-sa luận) gồm 100.000 bài kệ đúc kết cả 7 bộ luận của phái Sarvastivadin (Nhất Thiết Hữu Bộ). Hiện nay, trong Ðại Tạng Kinh Trung-hoa có 158 bộ luận, trong Ðại Tạng Kinh Tây-tạng có 817 bộ luận.
[1] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 166. [2] Theo The Life of Buddha as Legend and History, trang 167, thì trong kỳ kiết tập kinh điển đầu tiên không có đề cập đến tạng Luận (Abhidhamma) riêng biệt. [3] Bạt-kỳ-tử (Vajjiputta) là nhóm tỳ kheo trẻ ở xứ Bạt-kỳ (Vajji). [4] Yết-ma: Các Phật sự có liên quan đến giới luật như thọ giới, sám hối, kiết giới ... [5] Aluvihara là một ấp nhỏ của Tích-Lan, cách Kandy độ 30 km. [6] Xứ Kasmira (Cachemire) hiện nay là vùng biên giới giữa 3 xứ Ấn-độ, Pakistan và Trung-Hoa. [7] Theo Từ-Ðiển Phật-Học Huệ-Quang thì kỳ kiết tập này do Tổ Vasumitra và Parsva chủ tọa, nhưng xét về thời gian thì không đúng. [8] Xem Ðức Phật Và Phật Pháp của Hòa thượng Narada, trang 239-247; The Life of Buddha as Legend and History của Edward J Thomas, trang 257-277. [9] Sám hối: Sám (ksama) là nhẫn nhịn, mong được tha tội; Hối (apatti-pratidesana) là tự nói ra đầy đủ tội trạng của mình để không tái phạm nữa. [10] Kinh này là phẩm số 10 của kinh Phạm-Võng (Bramajala sutra) mà đức Phật đã thuyết ngay sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, trước khi ngài thuyết kinh Hoa-Nghiêm. Không nên lầm với kinh Phạm-Ðộng hay kinh Phạm-Võng Lục Thập Nhị Kiến trong Trường A-hàm 14 hay Digha-nikaya 1. [11] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 257-275. [12] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 271. [13] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 272. [14] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 272-275. [15] Theo bài kệ này thì đức Phật đã thuyết pháp trong 50 năm. Cũng có thuyết cho rằng Phật xuất gia năm 19 tuổi và thành đạo năm 25 tuổi. Nhưng theo soạn giả, các thuyết đó không đúng. Căn cứ vào bài kệ "Ngũ thời thuyết pháp", ta nên nghĩ rằng giữa 2 thời có thể có một khoảng thời gian chuyển tiếp, trong đó 2 thời chồng lên nhau. Hội Phật Giáo Thế Giới đã xác nhận Phật thành đạo năm 35 tuổi và nhập diệt năm 80 tuổi; như vậy Phật chỉ thuyết pháp trong 45 năm. |
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Tiền Thân Đức Phật Thích-Ca - Phần 16 Sun 27 Feb 2011, 18:54 | |
| Tiền Thân Đức Phật Thích-Ca Mâu (Theo bản hiệu-chính ngày 21/05/2005) Soạn giả: Minh-Thiện Trần-Hữu-Danh Với sự khuyến khích và giúp đỡ của hiền nội: Diệu-Xuân Nguyễn-thị Bạch-Mai ---o0o--- Phần 16
PHỤ ÐÍNH
1- Kiết tập kinh điển:
Kiết tập kinh điển lần thứ nhất tại Rajagriha (năm -544)
Chưa đầy một tháng sau ngày Phật nhập niết-bàn, vào năm thứ 8 triều vua Ajatasattu, Thượng tọa Maha-Kassapa quyết định triệu tập đại hội các vị khất sĩ về thủ đô Rajagriha (Vương Xá) để ôn tụng và kiết tập tất cả những Kinh (sutta, sutra) và Luật (vinaya) của Phật đã dạy.
Ðại hội gồm có 500 vị khất sĩ có thật tu và thật chứng (quả vị A-la-hán) được lựa chọn trong Giáo Ðoàn Khất Sĩ. Ðại hội sẽ khai mạc vào đầu mùa an cư tới, mùa an cư thứ 46, năm 544 trước tây lịch, và sẽ kéo dài trong sáu tháng tại động Saptaparna (động Thất Diệp) trên núi Vaibhara. Ðộng này còn được gọi là Pippali-guha (Tất-bát-la quật) vì nơi đây có cây Pippala (Tất-bát-la) và có nhân duyên lớn với ngài Ðại Ca-Diếp (tên thật là Pippalayana). Ðại hội được vua Ajatasattu đích thân đứng ra bảo trợ. Thượng tọa Maha-Kassapa thường được các vị khất sĩ trong giáo đoàn tôn trọng như vị đại đệ tử thứ ba của Phật, sau hai Thượng tọa Sariputta và Moggallana đã qua đời.
Thượng tọa nổi tiếng là một tu sĩ hạnh "đầu-đà", thích sống đơn giản, đạm bạc, thiểu dục tri túc. Thượng tọa đã được Phật tin tưởng và thương mến không khác gì các Thượng tọa Sariputta và Moggallana.
Hơn hai mươi năm về trước, áo cà-sa sanghati của Thượng tọa là một chiếc áo bách nạp, được kết lại bằng những mảnh vải vụn.
Có lần Thượng tọa đã xếp tư chiếc áo ấy lại và trải ra trong rừng mời Phật ngồi. Phật khen chiếc áo của Thượng tọa ngồi rất êm.
Thượng tọa liền ngỏ ý cúng dường Phật chiếc áo bách nạp ấy. Phật mỉm cười nhận lời và tặng lại Thượng tọa chiếc áo sanghati của chính người. Trong đại chúng ai cũng biết chuyện này. Thượng tọa cũng chính là người đã mỉm cười khi Phật đưa cành hoa sen lên mà không nói gì ở núi Griddhakuta (Linh-Thứu), và được Phật tuyên bố truyền trao cho Thượng tọa "Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết-Bàn Diệu Tâm, Thật Tướng Vô Tướng, Vi Diệu Pháp Môn ", trước đại chúng. Ai cũng nghĩ rằng sự có mặt của Thượng tọa Ananda trong đại hội kiết tập kinh điển rất cần thiết.
Nhưng trước đại hội ba ngày, Thượng tọa Ananda bị Thượng tọa Maha-Kassapa quở nặng và cho biết là Thượng tọa Ananda sẽ không được dự đại hội vì lý do thầy chưa đắc quả A-la-hán.
Thượng tọa Ananda buồn chảy nước mắt, thầy tìm chỗ thanh vắng tĩnh tu luôn trong ba ngày đêm.
Ngay trong đêm cuối cùng trước ngày khai mạc đại hội, Thượng tọa Ananda ngồi thiền định đến ba giờ sáng, vừa ngả lưng xuống để nghỉ ngơi, lưng chưa chạm đất thì thầy hoát nhiên đại ngộ, đắc quả A-la-hán. Sáng hôm đó, vừa thấy mặt Thượng tọa Ananda, Thượng tọa Maha-Kassapa rất vui mừng biết ngay chuyện gì đã xảy ra, liền mời Thượng tọa vào tham dự đại hội.
Trong đại hội, Thượng tọa Upali, vốn nổi tiếng về luật học, được mời lên ôn tụng giới luật. Thầy đọc đi đọc lại đến 80 lần để tất cả mọi người đều thuộc lòng. Nhờ những câu hỏi của Thượng tọa Maha-Kassapa và của các vị khác mà Thượng tọa Upali nhắc lại được hết những nhân duyên do đó các giới luật được thiết lập.
Tất cả những tài liệu về giới luật được kiết tập lại thành một kho tàng luật học gọi là Tạng Luật (Vinaya Pitaka). Thượng tọa Ananda, vốn nổi tiếng về nghe Phật thuyết pháp nhiều và nhớ dai, được đại hội mời lên trùng tuyên tất cả những bài pháp thoại của Phật gọi là kinh.
Nhờ những câu hỏi của Thượng tọa Maha-Kassapa và của nhiều vị khất sĩ khác mà Thượng tọa Ananda có dịp nói ra hết những chi tiết về thời gian, nơi chốn và cơ duyên đã đưa tới mỗi pháp thoại của Phật. Cuối cùng Thượng tọa Ananda xin sám hối trước đại chúng về những lỗi lầm của ngài như sau[1]: 1- Trước khi nhập diệt đức Phật có nói với Ananda cho phép Giáo Hội hủy bỏ hay sửa đổi các giới luật không quan trọng; nhưng Ananda quên hỏi những giới luật nào là không quan trọng; do đó Ðại hội quyết định giữ nguyên các giới luật. 2- Ananda, có một lần trong lúc vá y cũ cho Phật, đã sơ ý đạp lên cái y này. 3- Khi Phật nhập diệt, Ananda đã sơ ý để các tỳ-kheo-ni vào trước lễ Phật, khóc lóc chảy nước mắt lên thân Phật. 4- Trong lúc tắm rửa kim thân đức Phật, Ananda quên không bảo kéo màn che kín, để nhiều người nhìn thấy. 5- Không kịp thời thỉnh Phật trụ thế lâu dài hơn. 6- Ðã khẩn cầu Phật cho nữ giới xuất gia mặc dù Ananda không cảm thấy hối tiếc về việc này. Tất cả những tài liệu về giáo pháp được kiết tập lại thành một kho tàng giáo pháp gọi là Tạng Kinh (Sutta Pitaka).
Tiếp theo, Thượng tọa Maha-Kassapa được mời nói lại những bài giảng của Phật về Vi-diệu-pháp (Abhidhamma). Tất cả những tài liệu về giáo lý cao siêu được kiết tập lại thành Tạng Luận[2].
(Abhidhamma Pitaka) Kể từ đây, tuy chưa được viết ra thành văn tự, giáo lý của đức Phật đã được kiết tập lần đầu tiên thành Tam Tạng Kinh Ðiển (Tri-pitaka) gồm có Tạng Kinh (Sutta-pitaka), Tạng Luật (Vinaya-pitaka) và Tạng Luận (Abhidhamma-pitaka), được đọc đi đọc lại nhiều lần bằng tiếng Pali-Magadha cho mọi người trong phiên họp đều ghi nhớ.
Còn tiếp
|
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Tiền Thân Đức Phật 16 tiếp Sun 27 Feb 2011, 19:15 | |
| Kiết tập kinh điển lần thứ nhì tại Vesali (năm -444)
Một trăm năm sau khi Phật nhập niết-bàn, vào thời vua Kalasoka ở xứ Magadha, 700 vị A-la-hán tham dự đại hội do Thượng tọa Yasa (Da-xá) triệu tập tại Vesali để cứu xét đề-nghị sửa đổi 10 điều luật của nhóm tỳ-kheo Vajjiputta[3] (Bạt-kỳ-tử, Bạt-xà-tử).
Nguyên nhân vì khi Thượng tọa Yasa, con của Kakandaka, đến dự lễ Bố-tát (Uposatha) tại Vesali, nhận thấy nhiều cư sĩ dâng cúng tiền bạc cho các khất sĩ; Thượng tọa Yasa phản đối việc này. Mười điều luật mới của nhóm Vajjiputta là: 1- Giác diêm tịnh: Cho phép ướp muối vào thức ăn để hôm khác sử dụng. 2- Nhị chỉ tịnh: Trong khoảng thời gian từ lúc mặt trời đứng bóng đến khi xê dịch xuống thêm hai ngón tay, vẫn được phép ăn. 3- Tha tụ lạc tịnh: Sau khi thọ thực ở một tụ lạc, được phép sang một tụ lạc khác thọ thực thêm. 4- Trụ xứ tịnh: Tỳ-kheo cùng ở một giáo-khu không cần phải cùng bố-tát ở một nơi. 5- Tùy ý tịnh: Khi họp chúng tăng ni bàn luận xử quyết, tuy số tăng ni tham dự không đủ, nhưng nếu dự đoán số người vắng mặt đồng ý, vẫn được làm phép yết-ma[4]. 6- Sở tập tịnh: Tùy thuận theo lệ trước. 7- Sanh hòa hợp tịnh: Sau khi ăn no, vẫn được phép uống loại sữa bò chưa khuấy, trừ lớp váng trên mặt. 8- Ẩm xà-lâu-ngức tịnh: Ðược phép uống nước dừa chưa lên men (xà-lâu-ngức), hoặc vừa lên men phân nửa (rượu non). 9- Vô duyên tọa cụ tịnh: May tọa cụ được phép khỏi viền, và lớn nhỏ tùy ý. 10- Kim ngân tịnh: Ðược phép nhận tiền bạc. Do sự bất đồng ý kiến về đề-nghị sửa-đổi trên, nên từ đây Tăng-già được chia làm hai bộ phái: Thượng-tọa-bộ (Sthavira), bảo-thủ, gồm các vị tỳ-kheo cao niên, thành lập Nam-tông, còn gọi là Phật-giáo Nguyên-thủy (Theravada), do Thượng tọa Yasa (Da-xá) đại diện. Thượng tọa Yasa cho 10 điều trên là "Thập Sự Phi Pháp", đều không hợp với quy chế của Phật. Thượng-tọa-bộ chủ trương giữ nguyên vẹn các giới luật và cách hành trì như lúc Phật còn tại thế. Ðại-chúng-bộ (Mahasangika), cấp-tiến, gồm các vị tỳ-kheo trẻ, thành lập Bắc-tông, còn gọi là Ðại-thừa Phật-giáo (Mahayana), do nhóm tỳ-kheo Vajjiputta ở Vesali đại diện. Ðại-chúng-bộ, căn cứ vào lời dạy của đức Phật cho phép sửa đổi những giới luật không quan trọng, chủ trương tùy thuận theo hoàn cảnh xã-hội mới và phong tục địa phương.
Kiết tập kinh điển lần thứ ba tại Pataliputta (năm -244) Tại Patalliputta hiện nay là Patna, 300 năm sau khi Phật nhập niết-bàn, có 1000 vị A-la hán tham dự dưới sự chủ tọa của ngài Moggaliputta-Tissa (Mục-Kiền-Liên-Tử Ðế-Tu), do vua Asoka (A-Dục) triệu-tập. Mục đích cuộc hội họp kỳ này là để củng cố Tam Tạng Pháp Bảo theo Thượng-tọa-bộ, loại trừ các phần tử xấu xa trong tăng hội, phái những vị có khả năng sang các nước láng giềng truyền bá chánh pháp.
Sau kỳ kiết tập nầy, con trai của vua Asoka là Thượng tọa Mahinda mang giáo pháp đến truyền bá tại Sri-Lanka (Tích-Lan). Tại đây Thượng tọa Mahinda lại tổ chức hội họp và tuyên đọc lại bản kiết tập lần thứ ba tại Patalliputta.
Qua năm sau, Ni sư Sanghamitta, con gái vua Asoka, mang một nhánh chiết từ một cành phía nam của cây Ðại-Bồ-Ðề nơi Phật thành đạo, đến trồng tại Anuradhapura, thủ đô xứ Sri-Lanka vào triều vua Devanampiya Tissa, hiện nay vẫn còn tươi tốt.
Ðồng thời Ni sư Sanghamitta cũng là người đầu tiên thành lập ni-bộ tại xứ này.Kiết tập kinh điển lần thứ tư, của Nam tông tại Aluvihara (năm -200) Tại Aluvihara[5], Sri-Lanka (Tích-Lan), dưới trào vua Vatta-Gamani-Abhaya, trong ngôi chùa Maha-Vihara do Thượng tọa Mahinda, con vua Asoka, cất trong đá vào thế kỷ thứ 3 trước tây lịch, với sự có mặt của 500 vị Thượng-tọa Tích-Lan. Hội nghị quyết định viết Tam Tạng Pháp Bảo bằng tiếng Pali trên lá bối (lá thốt-nốt, lá buôn) và có thêm phần chú thích bằng tiếng Tích-Lan (Sihala).
Trong quyển Buddhaghasuppatti, nói về tiểu sử của ngài Buddhaghosa (Phật Âm), có ghi rằng nếu chất lại thành đống Tam Tạng Kinh chép trên lá bối sẽ to hơn sáu thớt voi. Kể về lượng thì ba tạng kinh Phật này bằng mười một lần quyển thánh kinh của Thiên Chúa Giáo. Ðến năm +450, ngài Buddhaghosa (Phật Âm) lại tổ chức thêm một kỳ kiết tập kinh điển với mục đích canh cải lại vài chỗ bất đồng giữa kinh điển Pali-Magadha và kinh điển Pali-Sri-Lanka.Kiết tập kinh điển lần thứ tư, của Bắc tông tại Kudalavana (năm -200)
Tại thủ đô Kudalavana xứ Kasmira[6] (Cachemire, Kế-tân), do vua Kaniska (Ca-Nị-Sắc) triệu tập để ghi chép Tam Tạng Pháp Bảo bằng tiếng Sanscrit, tiếng gốc của Bà-la-môn giáo, có thêm phần chú thích và luận giải. Kỳ kiết tập kinh điển này được đặt dưới quyền chủ tọa của Tổ Asvaghosa[7] (Mã Minh), vị Tổ thứ 12.
Tam tạng kinh điển Bắc Tông đầu tiên, viết bằng tiếng Sanscrit, gồm có tạng Kinh Upadesa (Luận Ưu-ba-đề-xá, Khế kinh luận nghị) gồm 100.000 bài tụng, kế đến tạng Luật Vinaya Vibhasa
(Luận Tỳ-nại-da Tỳ-bà-xa) gồm 100.000 bài tụng, sau cùng là tạng Luận Abhidharma Vibhasa(Luận A-tỳ-đạt-ma Tỳ-bà-sa) gồm 100.000 bài tụng. Tất cả ba tạng có 9.600.000 chữ. Vua Kaniska cho khắc tất cả lên những bảng bằng đồng cán mỏng, rồi cất trong rương đá và xây tháp để thờ.
Kể từ đây giáo lý Bắc tông bắc đầu được các vị Tổ sư tuyên dương ở Ấn-độ, rồi lần hồi truyền đến Tây-tạng và Trung-hoa. Các kinh luận Ðại thừa càng ngày càng dồi dào và được truyền bá sâu rộng trong đại chúng. Viện Ðại học Phật giáo Nalanda từ thế kỷ thứ hai trước tây lịch đến cuối thế kỷ thứ tám sau tây lịch nổi tiếng là nơi phổ biến giáo lý Ðại thừa. Vào thế kỷ thứ bảy, chính ngài Huyền-Trang đã đến nơi đây học với ngài Viện trưởng Silabhadra (Giới-Hiền), sau đó ngài Silabhadra mời ngài Huyền-Trang ở lại giảng dạy suốt 2 năm trước khi trở về Trung quốc.
Trong thời gian này, vua Kumara (Cưu-Ma-La) có tổ chức một đại hội nghị luận về Giáo lý Ðại thừa và mời ngài Huyền-Trang thuyết trình đề tài Chân Duy-Thức Luận.
Ngài Huyền-Trang đã thuyết phục được trên 7.000 tăng sĩ có mặt tại đại hội và làm cho Giáo lý Ðại thừa càng thêm rực rỡ. Năm 645, ngài Huyền-Trang về đến Trung quốc với 657 bộ kinh Ðại thừa bằng tiếng Sanscrit (Phạn).
Suốt 19 năm còn lại, ngài Huyền-Trang đã dịch được 75 bộ, gồm 1.335 quyển kinh, luật, luận của Ðại thừa. Kể từ đây Trung-hoa thành lập bộ Ðại Tạng Kinh của Ðại thừa Phật giáo và cứ tu bổ lần hồi cho đến ngày nay. Ngoài bộ Ðại Tạng Kinh của Trung-hoa còn có bộ Ðại Tạng Kinh của Tây-tạng và bộ Ðại Tạng Kinh của Nhật-bản. Nhưng bộ Ðại Tạng Kinh của Trung-hoa được xem là đầy đủ nhất về Tam Tạng Kinh Ðiển của Ðại thừa Phật giáo. Trong khi đó ở Ấn-độ, vào thế kỷ 11 và 12, Viện Ðại Học Nalanda cũng như hầu hết các cơ sở và kinh sách Phật giáo đều bị Hồi giáo tiêu hủy. Còn tiếp
|
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Tiền Thân Đức Phật 16 tiếp Sun 27 Feb 2011, 19:26 | |
| Kiết tập kinh điển Nam tông tại Mandalay, Miến-Ðiện (năm 1871)
Do vua Mindon (Mẫn-Ðông) triệu tập 2400 vị Cao Tăng Miến-Ðiện, lấy tạng Luật làm chính, đối chiếu chỗ đồng dị trong nguyên văn thánh điển để hiệu đính, cùng nhau hợp tụng ròng rã suốt 5 tháng mới hoàn thành.
Nhà vua cho khắc trọn bộ Tam Tạng Pali mới này trên 729 bia đá cẩm thạch màu đen vân trắng, dựng trong chùa tháp Kuthadaw, dưới chân núi Mandalay, phía ngoài có 45 ngôi tháp Phật vây quanh. Hiện nay vẫn còn.Kiết tập kinh điển Nam tông tại Rangoon, Miến-Ðiện (năm 1954)
Vào ngày lễ Phật Ðản 17/05/1954, với sự giúp đỡ của chính phủ, cùng một lúc với Ðại-hội kỳ 3 của Tổng Hội Phật Giáo Thế Giới tại Rangoon, Phật Giáo Miến Ðiện đã tổ chức cuộc kiết tập kinh điển lần thứ sáu này với mục đích gây tình đoàn kết giữa Phật giáo đồ, chấn hưng Phật Giáo Thượng-Tọa-Bộ, ăn mừng nước Miến Ðiện vừa được độc lập. Ðịa điểm kiết tập là trên sườn núi Nghệ-Cố, thuộc ngoại ô phía bắc thủ đô Rangoon.
Lần kiết tập này y cứ trên 729 phiến đá cẩm thạch của lần kiết tập thứ 5, đồng thời đối chiếu với tất cả các bảng gỗ bằng tiếng Pali của "Pali Thánh Ðiển Hiệp Hội" ở các nước Tích Lan, Thái Lan, Cam Bốt, Luân Ðôn và Miến Ðiện. Trong kỳ kiết tập này các vị Tỳ-kheo ở các nước thuộc Phật Giáo Bắc Tông cũng được mời tham dự. Ròng rã 2 năm, đến lễ Phật Ðản năm 1956 (Phật lịch 2500) mới hoàn thành. Toàn bộ được ấn hành trên giấy.2- Tam Tạng Kinh Ðiển (Tripitaka) [8]
Tam Tạng Kinh Ðiển Phật Giáo gồm có Tạng Luật (Vinaya Pitaka), Tạng Kinh (Sutta Pitaka) và Tạng Luận (Abhidhamma Pitaka).Tạng Luật (Vinaya Pitaka) Tạng Luật được xem là cái neo vững chắc để bảo tồn con thuyền Giáo Hội Tăng Già trong những cơn phong ba bão táp của lịch sử. Phần lớn tạng luật đề cập đến giới luật và nghi lễ trong đời sống xuất gia của các vị tỳ kheo và tỳ kheo ni.
Ngót 9 năm sau khi thành đạo, đức Phật ít khi chính thức ban hành giới luật nhất định ngoại trừ Bát Kính Pháp được chế ra để đón nhận nữ giới vào Giáo Hội Tăng Già.
Từ khi có sự tranh chấp giữa hai nhóm kinh sư và luật sư ở Kosambi về sau, mỗi khi có trường hợp trục trặc xảy ra, đức Phật mới họp các đại đệ tử để đặt ra những điều răn thích hợp áp dụng chung cho cả giáo đoàn.
Tạng Luật (Vinaya pitaka) nêu rõ đầy đủ lý do tại sao và trong trường hợp nào một giới luật (sila) được đặt ra, và mô tả rành mạch các nghi thức hành lễ sám hối [9] , lễ tụng giới (Uposatha) của chư tăng.
Trong đó có ghi chép lịch trình phát triển đạo giáo từ thuở ban khai, sơ lược đời sống và chức nhiệm của đức Phật, và những chi tiết về ba lần kiết tập kinh điển đầu tiên. Ðây là những tài liệu hữu ích về lịch sử thời thượng cổ ở Ấn, về các cổ tục, kiến thức, óc thẩm mỹ thời bấy giờ.
Người đọc tạng Luật không khỏi ngạc nhiên, thán phục tánh cách dân chủ trong phương pháp thành lập và tổ chức Giáo Hội Tăng Già, việc sử dụng tài sản, đạo đức cao thượng của chư tăng và khả năng xuất chúng của đức Phật trong việc điều hành Giáo hội. Tạng Luật Pali cúa Nam tông gồm 5 quyển: 1- Parajika (Ba-la-di, giới nặng). Gồm 4 giới Dâm, Ðạo, Sát, Vọng. Tỳ kheo nào vi phạm các giới này không còn tư cách Tỳ kheo nữa và bị đuổi khỏi giáo đoàn. 2- Pacittiya (Ba-dật-đề, giới nhẹ). Gồm có hai phần Xả Ðọa và Ðơn Ðọa. Tỳ kheo vi phạm Xả Ðọa vừa phải sám hối vừa bị phạt. Tỳ kheo vi phạm Ðơn Ðọa chỉ phải sám hối thôi. 3- Mahavagga (Ðại Phẩm luật) nói về các lễ xuất gia, sám hối, nhập hạ, cúng dường ... trong một nhóm lớn tăng ni. Gồm 10 phần: 1. Lễ xuất gia. 2. Lễ Bố-tát (Uposatha). 3. Nhập hạ (vassa). 4. Lễ mãn hạ (pavarana). 5. Y phục và đồ dùng hằng ngày. 6. Thuốc men và thực phẩm. 7. Lễ phát y phục (kathina). 8. Loại vải may áo, chỉ tịnh (ngủ), đau ốm. 9. Cách phân xử trong Giáo Ðoàn. 10. Cách phân xử trong trường hợp có chia rẻ trầm trọng trong Giáo Ðoàn. 4- Cullavagga (Tiểu Phẩm luật) nói về bổn phận và trách nhiệm của tăng ni, thưởng phạt, sống hòa hợp, xây cất chùa tháp ... trong một nhóm nhỏ tăng ni. Gồm 12 phần: 1 và 2. Cách dàn xếp các xích mích trong chúng. 3. Cách cho tái nhập Giáo Ðoàn. 4. Cách giải quyết các thắc mắc trong chúng. 5. Linh tinh về tắm rửa, ăn mặc, giặt dịa, ... 6. Nơi ăn ở, đồ dùng. 7. Sự chia rẻ. 8. Cách đối xử giữa các tỳ kheo, và bổn phận thầy trò. 9. Ai không được dự lễ Bố-tát. 10. Lễ xuất gia và cách giảng dạy cho tỳ-kheo-ni. 11. Lịch sử kiết tập kinh điển lần thứ nhất tại Rajagaha. 12. Lich sử kiết tập kinh điển lần thứ hai tại Vesali. 5- Parivara (Bảng tóm lược các điều mục của giới luật). Hai quyển đầu (1 và 2) họp thành bộ Vibhanga (Giới bổn). Gồm 218 giới cho tăng và 311 giới cho ni. Bộ này còn được gọi là Patimokkha (Giới bổn) được tuyên đọc trong lễ Bố-Tát (Uposatha) mỗi nửa tháng. Hai quyển kế (3 và 4) họp thành bộ Khandaka (Quảng luật). Tạng Luật của Bắc tông: Ðến năm -200, Phật Giáo Bắc Tông mới cho ra đời tạng Luật Vinaya Vibhasa (Tỳ-nại-da Tỳ-bà-xa) bằng tiếng Sanscrit, tại thủ đô Kudalavana của xứ Kasmira (Kế-tân). Bộ Luật này gồm 100.000 bài tụng do Tổ thứ 12 Asvaghosa (Mã Minh) chủ trương biên soạn dưới sự bảo trợ của vua Kaniska Ðệ Nhất (Ca-Nị-Sắc-Ca I). Vào năm 413, ở Trung-Hoa, Ðại sư Huệ-Quang thuộc bộ phái Ðàm-Vô-Ðức có cho ra đời bộ Luật Tứ Phần gồm 250 giới cho tỳ-kheo và 348 giới cho tỳ-kheo-ni, chia ra làm 8 loại như sau: 1- Ba-la-di: tỳ-kheo có 4 giới, tỳ-kheo-ni có 8 giới. 2- Tăng tàn (Tăng-già bà-thi-sa): tỳ-kheo 13, tỳ-kheo-ni 17. 3- Bất định: tỳ-kheo 2. 4- Xả-đọa (Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề): tỳ-kheo 30, tỳ-kheo-ni 30. 5- Ðơn đọa (Ba-dật-đề): tỳ-kheo 90, tỳ-kheo-ni 178. 6- Hối quá (Ba-la-đề-đề-xá-ni): tỳ-kheo 4, tỳ-kheo-ni 8. 7- Chúng học: tỳ-kheo 100, tỳ-kheo-ni 100. 8- Diệt tránh: tỳ-kheo 7, tỳ-kheo-ni 7. Ngoài ra còn có các bộ: Luật Thập Tụng do Ðại sư Kumarajiva (Cưu Ma La Thập) dịch năm 405, Luật Ma-Ha Tăng-Kỳ (Mahasangika) dịch năm 418, Luật Ngũ Phần dịch năm 423, Thiện Kiến Luật Tỳ-bà-sa dịch năm 711. Nhưng bộ Luật Tứ Phần dịch năm 413 vẫn được xem là bộ luật chánh về giới cụ túc dành cho tăng ni. Tạng Luật Bắc tông cũng có thể chia làm ba phần: Giới bổn (Vinaya-vibhanga), Tỳ-nại-da Bản sự (Vinaya-vastu) và Tỳ-nại-da Tạp sự (Vinayakshudraka). Kinh Phạm-Võng Bồ-Tát Tâm-Ðịa Giới Phẩm[10] được xem là bộ Luật đặc biệt nhất của Ðại Thừa, vì nó bao gồm cả Ba Tụ Giới là: 1- Nhiếp luật nghi giới: đoạn trừ tất cả pháp ác đã sanh, ngăn chận tất cả pháp ác chưa sanh. 2- Nhiếp thiện pháp giới: làm nẩy nở tất cả pháp thiện chưa sanh, làm tăng trưởng tất cả pháp thiện đã sanh. 3- Nhiếp chúng sanh giới: hóa độ tất cả chúng sanh mà không thấy có người độ và chúng sanh được độ.
Kinh này nêu ra 10 giới nặng và 48 giới nhẹ của người phát tâm tu hạnh Bồ-tát. Hàng xuất gia cũng như hàng tại gia đều có thể thọ 58 giới Bồ-tát này.
Còn Tiếp |
| | | mytutru
Tổng số bài gửi : 11370 Registration date : 08/08/2009
| Tiêu đề: Tiền Thân Đức Phật 16 tiếp Sun 27 Feb 2011, 19:33 | |
| Tạng Kinh (Sutta Pitaka)
Tạng Kinh gồm những bài Pháp của đức Phật khuyên dạy tăng ni về các phương pháp tu tập để đi đến giác ngộ và giải thoát, và khuyên dạy cư sĩ về cách xây dựng hạnh phúc trong gia đình và ngoài xã hội. Một vài bài giảng của các vị đại đệ tử như các ngài Sariputta, Moggallana, Ananda cũng được ghép vào tạng Kinh và cũng được tôn trọng như chính lời đức Phật, vì đã được đức Phật chấp nhận.
Mỗi kinh là một bài Pháp do đức Phật giảng trong một trường hợp và hoàn cảnh đặc biệt, cho một thính chúng có căn cơ và trình độ nào đó. Cho nên có nhiều kinh đề cập đến một đề tài mà đã được đức Phật trình bày và giải thích khác nhau.
Người học Phật phải biết nhận định đúng đắn lời Phật dạy trong mỗi trường hợp riêng biệt, để rồi từ những trường hợp riêng biệt đó đúc kết lại và suy ra giáo lý sâu rộng của ngài.
Tạng Kinh Pali của Nam tông[11]: Dưới đây là 5 bộ của tạng Kinh Pali vào thời Ðại sư Buddhaghosa (Phật Âm), thế kỷ thứ năm sau tây lịch. 1/- Digha Nikaya (Trường Bộ), ghi chép những bài Pháp dài, thường có hình thức đối thoại. Gồm 34 kinh (sutta) chia thành 3 tập (wagga):
I- SILAKKHANDHA-WAGGA: Nói về đạo-đức và giới-luật. Có 13 kinh (sutta). 1- Brahmajala-sutta: (Kinh Phạm Võng) Ðức Phật nói về 62 kiến chấp của ngoại đạo về ngã và thế-giới. 2- Samannaphala-sutta: (Kinh Sa-Môn Quả) Ðức Phật giảng cho vua Ajatasattu về các lợi ích mà người xuất gia có thể đạt được từ việc nhỏ như tránh kỳ thị đến việc lớn như quả vị A-la-hán. 3- Ambattha-sutta: Ðức Phật nói với Ambattha về dòng dõi nhiều đời của đức Phật, trong đó có một phần về huyền thoại vua Okkaka, vị tổ 6 đời của Phật. 4- Sonadanta-sutta: Ðối thoại giữa Phật và vị Bà-la-môn Sonadanta về phẩm hạnh của một vị Bà-la-môn chân chính. 5- Kutadanta-sutta: Ðối thoại giữa Phật và vị Bà-la-môn Kutadanta về việc sát hại thú vật để cúng tế. 6- Mahali-sutta: Ðức Phật nói với Mahali về các cõi trời và kết luận rằng việc tu tập để đạt đến Chánh Kiến là cao thượng hơn cả. 7- Jaliya-sutta: Phật nói câu hỏi Ðời sống và thân thể có phải là một hay không?. không thích hợp với người xuất gia tu tập. 8- Kassapa-sihanada-sutta: Ðức Phật nói với tu sĩ khổ hạnh Kassapa là việc thực tập khổ hạnh không thể đưa đến giác ngộ và giải thoát. 9- Potthapada-sutta: Ðức Phật từ chối trả lời những câu hỏi của Potthapada về linh hồn (ngã) vì sự bàn luận về vấn đề đó không đưa đến giác ngộ và Niết-bàn. 10- Subha-sutta: Bài Pháp của thượng toạ Ananda nói với vị sa-di Subha sau khi Phật nhập Niết-bàn. 11- Kevaddha-sutta: Ðức Phật không cho phép đệ tử biểu diễn thần thông; đức Phật chỉ cho phép thực hiện thần thông thuyết Pháp. Câu chuyện một khất sĩ lên các cõi trời hỏi đạo, các vị trời không đáp được bảo nên trở về thế gian hỏi Phật. 12- Lohicca-sutta: Ðức Phật nói với vị Bà-la-môn Lohicca về bổn phận của một đạo sư đối với đệ tử.
13- Tevijja-sutta: Ðức Phật nói học 3 bộ kinh Veda để được sanh về cõi trời Phạm-Thiên là một điều vô ích, vì vẫn còn sanh tử luân hồi.
II- MAHA-VAGGA: 14- Mahapadana-sutta: Ðức Phật nói về sự giống nhau giữa 6 vị Phật trước và chính Ngài, từ hình thức đản sanh, đến dòng dõi, gia đình, thọ mạng, cây Bồ-đề, các đại đệ tử, số Pháp hội, thị giả, cha, mẹ, và thị trấn. Trong bài Pháp thứ nhì, đức Phật nói về đức Phật Vipassin (Tỳ-Bà-Thy) từ lúc rời cõi trời Tusita (Ðâu-suất) đến lúc chuyển Pháp Luân. 15- Mahanidana-sutta: Ðức Phật giảng về 12 Nhân Duyên và tính vô ngã. 16- Maha-Parinibbana-sutta: Nói về những ngày cuối cùng của đức Phật, Phật nhập Niết-bàn, phân chia xá lợi. 17- Maha-Sudassana-sutta: Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phật kể cho Ananda nghe chuyện tiền thân của ngài là vua Sudassana tại Kusinagar trước kia. 18- Janavasabha-sutta: Ðể tiếp tục câu chuyện về các đệ tử Phật đã nhập diệt tại Nadika có ai đã thành đạo, đức Phật thuật lại câu chuyện mà vị trời yakkha Janavasabha đã nói với ngài. 19- Maha-Govinda-sutta: Vị nhạc sĩ trời tên Pancasikha hiện đến trước Phật, nói rằng ông ta đã từng nghe vị Phạm-Thiên Sanamkumara nói về sự tích ông Mahagovinda. Ông hỏi Phật có biết chuyện này không? Phật đáp chính ngài là Mahagovinda trong một kiếp trước. 20- Maha-Samaya-sutta: Ðức Phật nói về Ðại Hội các vị trời cõi Tịnh Ðộ đến viếng ngài, và ngài kể tên các vị trời ấy trong một bài thơ dài 151 câu. 21- Sakkapanha-sutta: Vua trời Ðao-lợi là Sakka viếng Phật và nêu lên 10 câu hỏi. Qua lời giải đáp của Phật, ông ta hiểu rằng cái gì có sanh đều sẽ hoại diệt. 22- Maha-Satipatthana-sutta: (Kinh Tứ Niệm Xứ) Ðức Phật dạy bốn phép quán: Thân bất tịnh, Thọ là khổ, Tâm vô thường, Pháp vô ngã. Bốn phép quán này giúp người tu giữ vững Chánh Niệm. Có phần luận bàn về Tứ Ðế. 23- Payasi-sutta: Thượng tọa Kumarakassapa độ cho ngoại đạo Payasi xuất gia, bỏ chấp đoạn diệt, không nhân quả tội phước. Sau khi Payasi qua đời, Thượng tọa Gavampati nhân lúc viếng cõi trời, biết được Payasi đã đắc đạo và hiện trạng ra sao.
III- PATIKA-VAGGA: 24- Patika-sutta: Nói về một đệ tử Phật bỏ theo ngoại đạo vì Phật không chịu biểu hiện thần thông và không nói về khởi thủy của muôn vật. Trong kinh này đức Phật đã làm cả hai việc đó. 25- Udumbarika-sihanada-sutta: Ðối thoại giữa Phật và tu sĩ khổ hạnh Nigrodha trong vườn thượng uyển của hoàng hậu Udumbarika về hai lối tu khổ hạnh. 26- Cakkavatti-sihanada-sutta: Huyền thoại về vị Chuyển Luân Thánh Vương biết hối cải đạo đức suy đồi của mình, và lời tiên tri của Phật về Phật Di-Lặc ra đời. 27- Agganna-sutta: Nói về giai cấp xã hội, từ nguồn gốc sự vật đến nguồn gốc các giai cấp xã hội và ý nghĩa thật sự của chúng. 28- Sampasadaniya-sutta: Sariputta nói với Phật về lòng tôn kính của mình đối với đức hạnh và giáo lý của Phật. Phật bảo nên thường nói lại chuyện này để làm tăng trưởng đức tin nơi các đệ tử. 29- Pasadika-sutta: Ðược tin cái chết của vị giáo chủ đạo Jaina là Nataputta, đức Phật giảng về vị đạo sư hoàn hảo và vị đạo sư không hoàn hảo, và hiểm họa chia rẻ trong giáo đoàn nếu các khất sĩ chưa nắm vững Chánh Pháp. 30- Lakkhana-sutta: Nói về 32 tướng tốt của bậc Ðại Nhân qua 20 bài kệ, mỗi bài đều khởi đầu bằng Thánh nhân đã nói như vầy. (Here it is said). 31- Singalovada-sutta: (Kinh Thiện Sinh) Ðức Phật gặp cư sĩ Singala (Thiện Sinh) đang đứng trước nhà lễ 6 hướng vào sáng sớm theo lời cha dạy mà không hiều ý nghĩa việc làm này. Phật dạy lễ 6 hướng như thế là để luôn luôn ghi nhớ cách đối xử phải đạo với cha mẹ, thầy tổ, vợ con, bạn bè, bề trên, kẻ dưới. 32- Atanatiya-sutta: Tứ Ðại Thiên Vương đến viếng Phật và tặng ngài một bài thần chú để trừ tà ma quỷ quái. Ðức Phật đọc lại bài thần chú đó cho các đệ tử nghe. 33- Sangiti-sutta: Ðức Phật khai mạc một giảng đường mới tại Pava; nhưng vì mệt, ngài giao cho thượng tọa Sariputta nói chuyện với các vị khất sĩ. Thượng tọa Sariputta trình bày trước đại chúng một danh sách giới luật cho từng người, kế đến một danh sách giới luật cho từng nhóm hai người, lần đến danh sách giới luật cho từng nhóm mười người. 34- Dasuttara-sutta: Tại Pava, dưới sự chứng minh của đức Phật, thượng tọa Sariputta trình bày thêm trước đại chúng 10 giới phụ cho từng người, 10 giới phụ cho từng nhóm hai người, và lần đến 10 giới phụ cho từng nhóm 10 người.
2/- Majjhima Nikaya (Trung Bộ), ghi chép những bài Pháp dài bậc trung, thường có hình thức đối thoại. Gồm 152 kinh (sutta) chia thành 15 tập (vagga) xếp theo đề tài và tùy theo loại kinh nói cho cư sĩ, khất sĩ, tu sĩ khổ hạnh, vua chúa, ...
I- MULAPARIYAYA-VAGGA: 1- Mulapariyaya-sutta: Kiến thức về nguồn gốc của tất cả mọi sự vật từ các yếu tố sơ đẳng cho đến Niết-bàn. 2- Sabbasava-sutta: Bảy cách để trừ nghiệp lực hữu lậu (asava). 3- Dhammadayada-sutta: Khất sĩ phải là người thừa kế Giáo Pháp, chứ không phải là người thừa hưởng tham vọng vật chất của mình. 4- Bhayabherava-sutta: Trước khi thành đạo, đức Phật phải vượt qua những ghê sợ và khủng khiếp trong rừng rậm như thế nào. 5- Anangana-sutta: Ðối thoại giữa Sariputta và Moggallana về nghiệp lực hữu lậu (asava). 6- Akankheyya-sutta: Nói về những điều mà một khất sĩ nên mong ước. 7- Vathupama-sutta: Tâm tạo nghiệp cũng giống như một cái áo nhơ bẩn. 8- Sallekha-sutta: Nói về cách trừ tà kiến. 9- Sammaditthi-sutta: Sariputta nói với các vị khất sĩ về Chánh Kiến. 10- Satipatthana-sutta: Kinh Tứ Niệm Xứ. Giống kinh Digha số 22 nhưng không có phần luận bàn về Tứ Ðế.
II- SIHANADA-VAGGA: 11, 12- Sihanada-sutta (Culla- và Maha-): (Kinh Sư Tử Hống) Hai kinh này nói về giá trị của 37 phẩm trợ đạo trong Giáo pháp. Trong kinh Maha-Sihanada đức Phật mô tả các thức ăn của người tu khổ hạnh. Chính đức Phật cũng có thực hành pháp môn này trước khi thành đạo. 13- Maha-Dukkhakkhandha-sutta: Ðức Phật giải đáp câu hỏi về tham ái và cảm thọ mà các du sĩ đã hỏi các vị khất sĩ. 14- Culla- Dukkhakkhandha-sutta: Ðức Phật đàm luận với các tu sĩ Jaina về câu hỏi trên. Các tu sĩ Jaina cho rằng đau khổ có thể bị tiêu diệt bằng lối tu khổ hạnh. 15- Anumana-sutta: Thượng tọa Moggallana quở các vị khất sĩ và tự kiểm thảo. 16- Cetokhila-sutta: Nói về 5 điều cố chấp và 5 điều ràng buộc của tâm. 17- Vanapattha-sutta: Nói về đời sống cô đơn trong rừng vắng. 18- Madhupindika-sutta: Ðức Phật tóm lượt Giáo pháp của ngài, và Kaccana giải thích rộng ra. 19- Dvedhavitakka-sutta: Ðức Phật quán niệm về tham dục , v.v..., trước khi thành đạo. 20- Vitakkasanthana-sutta: Phương pháp quán tưởng để trừ nghi hối.
III- TẬP THỨ BA: 21- Kakacupama-sutta: Ví sân hận như cây cưa. Một vị khất sĩ dù bị cưa hết tay chân cũng không nên có lòng sân hận, nếu còn sân hận thì chưa phải là đệ tử Phật. 22- Alagaddupama-sutta: Xuất gia tu học mà không hiểu rõ Chánh Pháp cũng như bắt rắn đằng đuôi. 23- Vammika-sutta: Một vị trời nói với thượng tọa Kumara Kassapa một câu chuyện biểu tượng bằng hình ảnh một ổ kiến lửa lớn bốc khói ban đêm, cháy đỏ ban ngày, một vị Bà-la-môn bảo một vị khất sĩ hãy thò tay vào đó để tìm đồ vật. Ðức Phật giải thích rằng ổ kiến lửa lớn là thân người, và vị Bà-la-môn chính là đức Phật. 24- Rathavinita-sutta: Vào lúc mãn hạ, Phật hỏi các đệ tử ai là người trì giới tinh tấn nhất? Các vị khất sĩ đáp là Punna. Sariputta đến gặp Punna và hỏi tại sao ông xuất gia. Punna bát bỏ tất cả những lý do của Sariputta đưa ra, và nói chỉ vì ông muốn được Niết-bàn. Nhưng cuối cùng ông nhìn nhận rằng nếu không có những lý do kia thì chắc ông cũng không thể được Niết-bàn. 25- Nivapa-sutta: Ma vương (Mara) được ví như một người thợ săn đặt mồi để bắt nai. 26- Ariyapariyesana-sutta: Nói về chuyện Phật xuất gia, học đạo với hai vị thầy là Alara-Kalama và Uddaka-Ramaputta, và thành đạo dưới cội Bồ-đề. 27- Culla-Hatthipadopama-sutta: Sự tu tập của đệ tử Phật được ví như chân một con voi. Ðệ tử Phật cần hiểu rõ Tứ Ðế như voi cần có bốn chân để đứng vững. 28- Maha- Hatthipadopama-sutta: Bài Pháp của thượng tọa Sariputta ví Tứ Diệu Ðế như bốn chân của một con voi. 29- Maha-Saropama-sutta: Ðức Phật nói về hiểm họa của lợi danh trong khi hành đạo, vào lúc Devadatta thành lập giáo đoàn riêng tại Gayasisa. 30-Culla- Saropama-sutta: Phật nói thế nào là đạt đến thực chất của Giáo Pháp.
IV- MAHAYAMAKA-VAGGA: 31- Culla-Gosinga-sutta: Phật nói chuyện với 3 vị khất sĩ khi 3 vị này nói với Phật chỗ đạt đạo của mình. 32- Maha-Gosinga-sutta: 6 vị khất sĩ thảo luận với nhau về cái gì làm cho rừng đẹp. 33- Maha-Gopalaka-sutta: (Kinh Phóng Ngưu) Ðức Phật nói về 11 phẩm hạnh của một khất sĩ, tương ứng với 11 phẩm hạnh của một người chăn trâu giỏi. 34- Culla-Gopalaka-sutta: Nói về sự khôn khéo của người biết cách dắt trâu vượt qua sông. 35- Culla-Saccaka-sutta: Thảo luận trước công chúng giữa Phật và đạo sĩ Jaina tên Saccaka về Năm Uẩn (khandha) là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. 36- Maha-Saccaka-sutta: Ðức Phật nói về cách quán thân và tâm mà ngài đã thật hành lúc xuất gia, tu khổ hạnh, và thành đạo. 37- Culla-Tanhasankhaya-sutta: Vua trời Ðao-lợi là Sakka đến viếng Phật và nêu một câu hỏi, được Phật trả lời. Moggallana đi theo vị này về cõi trời để xem ông ta có thật sự hiểu lời giải đáp của Phật không. 38- Maha-Tanhasankhaya-sutta: Phật bác bỏ ý nghĩ của một khất sĩ cho rằng tâm thức là chủ thể đi tái sanh. 39, 40- Assapura-sutta (Maha- và Culla-): Ðức Phật nói về bổn phận của một tu sĩ, tại thành phố Assapura.
V- CULLAYAMAKA-VAGGA: 41- Saleyyaka-sutta: Ðức Phật nói với các vị Bà-la-môn ở Saleyya, lý do vì sao có người lên thiên đàng có người xuống địa ngục. 42- Veranjaka-sutta: Ðức Phật lập lại bài pháp trên cho các cư sĩ tại Veranja nghe. 43, 44- Vedalla-sutta (Maha- và Culla-): Trong kinh đầu, thượng tọa Sariputta bàn luận với thượng tọa Mahakotthika về 12 Nhân Duyên. Trong kinh thứ nhì, sư cô Dhammadinna nói với nam cư sĩ Visakha cùng một đề tài. 45, 46- Dhammasamadana-sutta (Culla- và Maha-): Nói về sự chín mùi của thú vui ngũ dục và sự đau khổ trong tương lai. 47- Vimamsaka-sutta: Nói về phương pháp mà một tu sĩ nên dùng để tìm hiểu một vấn đề. 48- Kosambiya-sutta: Ðức Phật nói với các vị khất sĩ tại Kosambi đang tranh cãi nhau dữ dội. 49- Brahmanimantanika-sutta: Ðức Phật nói với các vị khất sĩ chuyện ngài lên cõi trời Phạm-Thiên (Brahma) độ ông Baka bỏ chấp thường. 50- Maratajjaniya-sutta: Chuyện Ma vương chung vào bao tử của thượng tọa Moggallana. Moggallana bảo Ma vương hãy đi ra, và kể lại cho hắn nghe trước kia Moggallana cũng là Ma vương tên Dusi và Ma vương hiện nay lúc đó là cháu ông.
VI- GAHAPATI-VAGGA: 51- Kandaraka-sutta: Ðức Phật nói chuyện với Pessa và Kandaraka về 4 hạng người. 52- Atthakanagara-sutta: Thượng tọa Ananda nói với một cư sĩ tại Atthaka về những con đường đưa đến Niết-bàn. 53- Sekha-sutta: Ðức Phật khai mạc một giảng đường mới tại Kapilavastu, nhưng vì mệt nên ngài bảo Ananda ra nói chuyện với những người dòng Sakya. Ananda nói về sự tu tập của các đệ tử Phật. 54- Potaliya-sutta: Ðức Phật giải thích cho Potali biết rõ làm thế nào lìa bỏ lối sống phàm tục của thế gian. 55- Jivaka-sutta: Jivaka hỏi Phật có phải chính ngài đã cho phép các vị khất sĩ giết thú vật để ăn thịt không? Ðức Phật đưa ra nhiều thí dụ chứng minh điều đó không đúng, và ngài xác nhận trong vài trường hợp đặc biệt các vị khất sĩ có thể ăn ngũ tịnh nhục.. 56- Upali-sutta: Cư sĩ Upali ở Balaka được giáo chủ đạo Jaina là Nataputta gởi đến tranh luận với Phật về tội do tâm và thân tạo cái nào nặng hơn. Rốt cuộc Upali được Phật độ. 57- Kukkuravatika-sutta: Ðức Phật thảo luận về nghiệp với 2 tu sĩ khổ hạnh, một vị thực hành lối sống như chó, một vị thực hành lối sống như bò. 58- Abhayarajakumara-sutta: Hoàng tử Abhaya được giáo chủ đạo Jaina là Nataputta gởi đến hỏi Phật xem có bao giờ ngài nói lời gì làm buồn lòng người nghe không. Nếu Phật đáp có thì ngài chẳng khác gì phàm phu; nếu Phật đáp không thì ngài nói dối vì chính ngài đã nói Devadatta sẽ bị đọa điạ ngục vô gián. 59- Bahuvedaniya-sutta: Ðức Phật phân loại các cảm thọ và nói cảm thọ nào cao hơn hết. 60- Apannaka-sutta: Ðức Phật dùng Chánh Pháp đã kích tư tưởng ngoại đạo.
VII- BHIKKHU-VAGGA: 61- Ambalatthika-Rahulovada-sutta: Ðức Phật dạy Rahula giữ giới không nói dối, tại lâm viên Ambalatthika. 62- Maha-Rahulovada-sutta: Ðức Phật dạy Rahula pháp quán niệm hơi thở và pháp quán tứ đại (đất, nước, gió, lửa). 63- Culla-Malunkya-sutta: Ðức Phật nói với khất sĩ Malunkya về những câu hỏi không đáng được trả lời. 64- Maha-Malunkya-sutta: Ðức Phật nói với khất sĩ Malunkya về 5 điều ràng buộc thấp nhất. 65- Bhaddali-sutta: Bhaddali sám hối với Phật lỗi lầm của mình và được Phật chỉ dạy. 66- Latukikopama-sutta: Nói cách giữ giới về thời gian thọ thực và xuất gia, so sánh với con chim cúc. 67- Catuma-sutta: Ðức Phật không hài lòng về một nhóm khất sĩ ồn ào tại Catuma, nhưng ngài chỉ thản nhiên thuyết pháp về bốn hiểm họa. 68- Nalakapana-sutta: Ðức Phật hỏi Anuruddha và 6 đệ tử khác về lý do xuất gia và về vài điểm trong Giáo Pháp. 69- Gulissani-sutta: Giới luật mà những tu sĩ sống trong rừng như Gulissani phải tôn trọng. 70- Kitagiri-sutta: Nói về thọ thực sái giờ, và về tư cách mà cả bảy hạng khất sĩ đều phải theo.
VIII- PARIBBAJAKA-VAGGA: 71- Tevijja-Vacchagotta-sutta: Ðức Phật đến viếng tu sĩ khổ hạnh Vacchagotta và nói rằng ngài được gọi là tevijja vì ngài biết hết tiền kiếp của mình, có thiên nhãn, và biết cách tận diệt nghiệp lực sinh tử luân hồi (Tam Minh). 72- Aggi-Vacchagotta-sutta: Nói về những câu hỏi không đáng được trả lời, như trong kinh số 63. 73- Maha-Vacchagotta-sutta: Ðức Phật giải thích cho tu sĩ khổ hạnh Vacchagotta về cách tu tập và sự thành đạo của các đệ tử. 74- Dighanakha-sutta: Ðức Phật bác bỏ lý luận của tu sĩ khổ hạnh Dighanakha, và giải thích về thực tánh của thân và ba cảm thọ (sướng, khổ, trung tính). Ðại đức Sariputta nhân dịp này đắc quả A-la-hán. 75- Magandiya-sutta: Ðức Phật nói với ông bà Magandiya về sự lià bỏ tham dục, bất mãn, tham vọng, và sự thành đạo của ngài. 76- Sandaka-sutta: Thượng tọa Ananda nói với tu sĩ khổ hạnh Sandaka về những quan niệm sai lầm về giáo lý. 77- Maha-Sakuludayi-sutta: Nói về 5 lý do vì sao đức Phật được tôn vinh. 78- Samanamandika-sutta: Nói về 4 hay 10 phẩm hạnh làm cho con người trở nên hoàn toàn đức hạnh. 79- Culla-Sakuludayi-sutta: Một câu chuyện về giáo chủ đạo Jaina là Nataputta, và con đường chánh đạo đưa đến một thế giới hoàn toàn hạnh phúc. 80- Vekhanassa-sutta: Kinh này lập lại một phần của kinh số 79, và nói về 5 giác quan (ngũ căn).
IX- RAJA-VAGGA: 81- Ghatikara-sutta: Ðức Phật nói với Ananda về kiếp trước của ông là Jotipala và bạn ông là Ghatikara. 82- Ratthapala-sutta: Câu chuyện về khất sĩ Ratthapala. Cha mẹ ông phản đối việc ông xuất gia, và tìm cách kéo ông trở về đời sống cư sĩ. 83- Makhadeva-sutta: Chuyện tiền thân đức Phật là vua Makhadeva, truyền ngôi đến đời vua Nimi. 84- Madhura-sutta: Thượng tọa Kaccana thuyết pháp cho vua Madhura ở xứ Avanti về ý nghĩa thật sự của giai cấp. 85- Bodhirajakumara-sutta: Ðức Phật viếng hoàng tử Bodhi, và nói với ông về chuyện ngài xuất gia, tinh tấn tu tập và thành đạo. Như trong kinh số 26 và 36. 86- Angulimala-sutta: Chuyện đức Phật độ tên sát nhân Angulimala. 87- Piyajatika-sutta: Ðức Phật an ủi một người đàn ông mất con rằng có thương thì có khổ.. Vua Pasenadi và hoàng hậu Mallika bất đồng ý kiến với nhau về lời khuyên này. 88- Bahitika-sutta: Ananda trả lời một câu hỏi của vua Pasenadi về sự tu tập; vua tặng ông một áo khoát ngoài (bahitika). 89- Dhammacetiya-sutta: Vua Pasenadi viếng Phật; Phật giảng cho vua nghe về sự cao thượng của đời sống xuất gia. 90- Kannakatthala-sutta: Câu chuyện giữa đức Phật và vua Pasenadi về kiến thức sâu rộng (omniscience) của Phật, về giai cấp xã hội, và về việc các vị trời còn phải trở lại đời sống thế gian không? X- BRAHMANA-VAGGA: 91- Brahmayu-sutta: Nói về 32 tướng tốt của Phật, và chuyện vị Bà-la-môn Brahmayu xuất gia. 92- Sela-sutta: Tu sĩ khổ hạnh Keniya thỉnh Phật và các vị khất sĩ đến nhà dự lễ cúng dường. Vị Bà-la-môn Sela nhìn thấy 32 tướng tốt của Phật liền xin xuất gia. 93- Assalayana-sutta: Vị Bà-la-môn trẻ tên Assalayana tranh luận rất lâu với Phật về giai cấp xã hội. 94- Ghotamukha-sutta: Sau khi Phật Nhập Niết-bàn, thượng tọa Udena thuyết pháp về người cao thượng nhất và giáo đoàn gương mẫu. Cư sĩ Ghotamukha xây cất một giảng đường mới cho Giáo đoàn. 95- Canki-sutta: Nói về giáo pháp của Bà-la-môn. 96- Esukari-sutta: Nói về vai trò của từng giai cấp trong xã hội. 97- Dhananjani-sutta: Thượng tọa Sariputta nói với vị Bà-la-môn Dhananjani rằng bổn phận đối với gia đình không phải là lý do để làm chuyện quấy. 98- Vasettha-sutta: Nói về một tu sĩ Bà-la-môn chân chính, do dòng dõi 7 đời hay do hành động và đức hạnh của chính mình. 99- Subha-sutta: Nói về mọi người đều có thể làm được nhiều việc thiện, dù là cư sĩ hay tu sĩ. 100- Sangarava-sutta: Ðức Phật nói với một tín nữ Bà-la-môn về đời sống tu sĩ theo nhiều trường phái khác nhau; kèm theo sự xuất gia và tinh tấn tu hành của đức Phật; như trong kinh số 26 và 36.
XI- DEVADAHA-VAGGA: 101- Devadaha-sutta: Ðức Phật thảo luận với các đạo sĩ Nigantha về quan niệm của họ cho rằng muốn diệt trừ đau khổ thì phải diệt trừ nghiệp. Ðức Phật dẫn chứng rằng các khất sĩ đạt đến vô sanh không phải nhờ thực hành khổ hạnh hay nhờ lià bỏ các thú vui, mà chính nhờ thực tập đúng theo Chánh Pháp. 102- Pancattaya-sutta: Nói về 5 quan niệm về ngã, mà đức Phật tóm lượt lại còn 3. Ðức Phật nói rằng ngài đã vượt qua các quan niệm ấy, và giáo lý giải thoát của ngài không tùy thuộc vào quan niệm nào về ngã cả. 103- Kinti-sutta: Nói về các quy luật, có thể do Phật ban hành, về cách đối xử với các khất sĩ tranh cãi nhau về ý nghĩa và văn tự trong Giáo Pháp, và các khất sĩ vi phạm giới luật. 104- Samagama-sutta: (Lục hòa) Ðược tin giáo chủ đạo Jaina là Nataputta qua đời (như trong Kinh Digha số 29), đức Phật nêu ra 7 nguyên nhân tranh cãi, 7 cách xử lý các cuộc tranh cãi, và 6 nguyên tắc sống hòa hợp trong Giáo Ðoàn. 105- Sunakkhatta-sutta: Nói về 5 hạng người ở thế gian, và cách rút mũi tên tham vọng ra. 106- Ananjasappaya-sutta: Nói về nhiều phương pháp thiền quán, về bất động và thành đạo, về sự giải thoát. 107- Ganaka-Moggallana-sutta: Ðức Phật dạy Moggallana cách dạy đệ tử. 108- Gopaka-Moggallana-sutta: Sau khi Phật nhập diệt, thượng tọa Ananda giải thích vì sao Phật khác hơn tất cả các đệ tử của ngài. Thượng tọa nói với vị đại thần Vassakara rắng đức Phật không có chỉ định ai kế vị Phật cả, Phật bảo các khất sỉ phải lấy Giáo Pháp làm Thầy. 109- Maha-Punnama-sutta: Nhơn một đêm trăng rằm, đức Phật trả lời những câu hỏi của một khất sĩ về 5 uẩn (khandha). 110- Culla-Punnama-sutta: Nhơn một đêm trăng rằm, đức Phật bảo một người ngu không thể biết ai ngu ai khôn, nhưng một người khôn thì biết cả hai.
XII- ANUPADA-VAGGA: 111- Anupada-sutta: Ðức Phật khen ngợi thượng tọa Sariputta. 112- Chabbisodana-sutta: Nói về những nghi vấn đối với một khất sĩ tuyên bố rằng mình đã hoàn toàn giác ngộ. 113- Sappurisa-sutta: Nói về phẩm hạnh của một khất sĩ. 114- Sevitabba-asevitabba-sutta: Ðức Phật nói cách thực hành đúng hay sai bổn phận và giáo lý của một khất sĩ. Sariputta giải thích rộng ra. 115- Bahudhatuka-sutta: Danh sách những điều bàn luận giữa Phật và Ananda. 116- Isigili-sutta: Ðức Phật giải thích tên của ngọn đồi Isigili ở Rajagriha, và kể tên các vị Bích Chi Phật trước kia ở đây. 117- Maha-Cattarisaka-sutta: Trình bày Bát Chánh Ðạo và nói thêm về chánh kiến và giải thoát. 118- Anapanasati-sutta: (Kinh An Ban Thủ Ý) Nói về phương pháp và sự lợi ích của việc thực hành Quán Niệm Hơi Thở vào ra. 119- Kayagatasati-sutta: Nói về phương pháp và sự lợi ích của việc thực hành Quán Niệm Về Thân. 120- Samkharuppatti-sutta: Nói về sự tái sanh của một người tùy theo nguyện lực của người đó.
XIII- SUNNATA-VAGGA: 121- Culla-Sunnata-sutta: (Kinh Tiểu Không) Nói về cách Quán Không. 122- Maha-Sunnata-sutta: (Kinh Ðại Không) Nói cách thực hành Tâm Không. 123- Accariyabbhutadhamma-sutta: Ðức Phật nói về những điều thánh thiện và huyền diệu trong đời vị Bồ-tát Vessantara (Hộ Minh), từ lúc rời cung trời Ðâu-suất (Tusita) đến lúc đản sanh. 124- Bakkula-sutta: Thượng tọa Bakkula kể lại cho bạn ông là Acela-Kassapa về cuộc đời 80 năm của ông. Nghe xong Acela-Kassapa xin xuất gia. 125- Dantabhumi-sutta: Ðức Phật nói cách điều phục voi để chỉ đại đức Aciravata cách dạy hoàng tử Jayasena. 126- Bhumija-sutta: Hoàng tử Jayasena hỏi đại đức Bhumija một câu. Ðại đức đáp xong, đến hỏi Phật xem câu trả lời của mình có đúng không. 127- Anuruddha-sutta: Anuruddha nhận lời đến thọ trai tại nhà cư sĩ Pancakanga, và giải thích cho ông về hai hình thức giải thoát. 128- Upakkilesa-sutta: Ðức Phật tìm cách hòa giải cuộc tranh cãi giữa hai nhóm khất sĩ tại Kosambi. Cuối cùng đức Phật bỏ đi. Ðến công viên Ðông Trúc tại thành phố Karagama, đức Phật giảng cho Anuruddha, Kimbila và Nandiya về Lục Hòa. 129- Balapandita-sutta: Nói về thiện nghiệp, ác nghiệp, và nhân quả tội phước. 130- Devaduta-sutta: Ðức Phật dùng thiên nhãn thấy được nghiệp lực của mỗi người, do đó ngài biết rõ ai sẽ được sanh về các cõi trời, ai sẽ bị đọa điạ ngục.
XIV- VIBHANGA-VAGGA: 131- Bhaddekaratta-sutta: (Kinh Nhất Dạ Hiền) Ðừng tìm về quá khứ, Ðừng tưởng tới tương lai, Quá khứ đã không còn, Tương lai thì chưa tới,.... 132- Ananda-bhaddekaratta-sutta: Ananda bình luận bài kệ trên. 133- Mahakaccana-bhaddekaratta-sutta: Mahakaccana bình luận dài về bài kệ trên tại tinh xá Tapoda ở Rajagriha. 134- Lomasakangiya-bhaddekaratta-sutta: Ðức Phật giải thích bài kệ trên cho ông Lomasakangiya tại tinh xá Nigrodha ở Kapilavastu. 135- Culla-kammavibhanga-sutta: Ðức Phật giải thích về thân, khẩu, ý nghiệp và hậu quả của chúng. 136- Maha-kammavibhanga-sutta: Một tu sĩ khổ hạnh vu cáo Phật nói nghiệp không có lợi ích gì. Ðức Phật trình bày quan điểm của mình về nghiệp. 137- Salayatanavibhanga-sutta: Ðức Phật giải thích về 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). 138- Uddesavibhanga-sutta: Ðức Phật tuyên bố một câu về thức; thượng tọa Mahakaccana giải thích chi tiết. 139- Aranavibhanga-sutta: Nói về Trung Ðạo như là con đường hòa giải giữa hai cực đoan là sống buông thả hoặc tu khổ hạnh (ép xác). 140- Dhatuvibhanga-sutta: Câu chuyện về khất sĩ Pukkusati, một đệ tử chưa bao giờ gặp Phật, chỉ biết ngài qua các bài pháp thoại. 141- Saccavibhanga-sutta: Ðức Phật trình bày Bốn Thánh Ðế, theo sau có lời giải thích mà người ta cho rằng của Sariputta. 142- Dakkhinavibhanga-sutta: Hoàng hậu Mahapajapati cúng dường Phật hai áo cà-sa; đức Phật giải thích về những hạng người đáng nhận cúng dường và những hạng người cúng dường.
XV- SALAYATANA-VAGGA: 143- Anathapindikovada-sutta: Chuyện ông Anathapindika được thượng tọa Sariputta hộ niệm lúc sấp qua đời. Sau khi chết, ông được sanh về cung trời Ðâu-suất (Tusita), và trờ về thế gian viếng Phật. 144- Channovada-sutta: Chuyện thượng tọa Channa (Xa-nặc) bệnh nặng, được thượng tọa Sariputta khuyên dạy, nhưng cuối cùng ông tự sát. 145- Punnovada-sutta: Ðức Phật dạy thượng tọa Punna về lạc thọ và khổ thọ. 146- Nandakovada-sutta: Hoàng hậu Mahapajapati và 500 nữ khất sĩ thỉnh Phật ban huấn từ. Phật bảo đại đức Nandaka làm việc này. Ðại đức giảng về Vô Thường. 147- Culla-Rahulovada-sutta: Ðức Phật dắt Rahula vào rừng, giảng cho nghe về Vô Thường. Có hằng ngàn vị trời đến nghe pháp. 148- Chachakka-sutta: Nói về 6 căn. 149- Maha-Salayatanika-sutta: Chánh kiến về 6 căn. 150- Nagaravindeyya-sutta: Ðức Phật nói với dân chúng làng Nagaravinda về hàng tu sĩ khổ hạnh và Bà-la-môn nào đáng được tôn vinh. 151- Pindapataparisuddhi-sutta: Ðức Phật nói với thượng tọa Sariputta về những điều mà các đệ tử luôn luôn phải thực hành suốt thời gian tu tập. 152- Indriyabhavana-sutta: Ðức Phật bác bỏ phương pháp tập luyện 6 căn của vị Bà-la-môn Parasariya, và trình bày phương pháp của Phật. 3/- Samyutta Nikaya[12] (Tạp Bộ), ghi chép những bài Pháp giải thích từng điểm trong Phật pháp, sắp xếp theo từng đề mục. Gồm 5 tập (vagga), 56 nhóm (samyutta), 7.762 kinh (sutta): I- SAGATHA-VAGGA: Có 11 samyutta, phân chia theo Trời, vua xứ Kosala, Ma vương, v.v... Gồm các kinh có từ một đến nhiều bài kệ, toàn bằng văn vần. II- NIDANA-VAGGA: Có 10 samyutta, khởi đầu bằng các kinh nói về 12 Nhân Duyên. III- KHANDHA-VAGGA: Có 13 samyutta,khởi đầu bằng các kinh nói về 5 Uẩn. IV- SALAYATANA-VAGGA: Có 10 samyutta, khởi đầu bằng các kinh nói về 6 Căn. V- MAHA-VAGGA: Có 12 samyutta, khởi đầu bằng các kinh nói về Bát Chánh Ðạo. 4/- Anguttara Nikaya[13] (Tăng Chi Bộ), gồm 11 nipata (nhóm), 171 phẩm (vagga), 2.203 kinh (sutta). Nipata thứ nhất nói về nhận thức thật đơn giản của con người đối với một sắc, một thanh, một hương, một vị, một xúc, một pháp. Nipata thứ hai nói về nhận thức của con người đối với hai sắc, hai thanh, hai hương, hai vị, hai xúc, hai pháp. Lần đến nipata thứ 11 nói về 11 đức tính của một em bé chăn trâu giỏi, tương ứng với 11 đức tính mà một vị khất sĩ giỏi cần có. 5/- Khuddaka Nikaya[14] (Tiểu Bộ), ghi chép những bài kệ vắn tắt, gồm 15 tập, chia làm 3 nhóm, mỗi nhóm 5 tập như sau: 1/ Khuddaka Patha, Những Bài Kinh Ngắn: 1- Saranattaya: (Kinh Quy Y Tam Bảo) Lập lại 3 lần lời nguyện quy y Tam Bảo. 2- Dasasikkhapada: 10 giới của Sa-di; cư sĩ giữ 5 giới đầu. 3-Dvattimsakara: Danh sách 32 thành phần của cơ thể con người. 4- Kumarapanha: Giáo lý gồm 10 câu hỏi dành cho người mới vào đạo. 5- Mangala-sutta: Bài kệ trả lời một câu hỏi về gia tài nào cao nhất (mangala). 6- Ratana-sutta: (Kinh Tam Bảo) Một bài kệ nói về người quy y Tam Bảo và giữ gìn 5 giới gây được cảm tình nồng hậu đối với các vị thần thánh. 7- Tirokudda-sutta: Một bài kệ nói về việc cúng kiến thân nhân qua đời. 8- Nidhikanda-sutta: Một bài kệ nói về sự gìn giữ kho báu thật sự. 9- Metta-sutta (Maitri sutra): (Kinh Từ Bi) Một bài kệ nói về tình thương cao cả. ... Như một bà mẹ đang đem thân mạng mình che chở cho đứa con duy nhất, chúng ta hãy đem lòng từ bi mà đối xử với tất cả mọi loài.... 2/ Dhammapada, Kinh Pháp Cú, gồm 423 bài kệ (gatha) của đức Phật, chia ra theo đề tài thành 26 tập (vagga). 3/ Udana, Kinh Tự Thuyết, gồm 80 udana chia ra thành 8 tập (vagga), là những lời tuyên bố long trọng của đức Phật trong những trường hợp đặc biệt. Phần lớn bằng văn vần, có kèm theo phần văn xuôi kể lại Phật nói trong trường hợp nào. 4/ Itivuttaka, Kinh Bổn Sự, gồm 112 bài kinh ngắn chia thành 4 nipata, mỗi kinh bắt đầu bằng "iti vuccati" có nghĩa là thánh nhân đã nói. 5/ Sutta-Nipata, Những Bài Kinh Sưu Tập, quan trọng về phần huyền thoại và cấu trúc phức tạp. Các kinh đều bằng văn vần, có phần mở đầu bằng văn xuôi. Gồm 5 tập (vagga): 1- Uraga-vagga: có 12 kinh. Kinh thứ 3 là Khaggavisana-sutta (Kinh Ðộc Giác Ngưu), thường lập lại câu Hãy để cho vị khất sĩ đi lang thang một mình như con độc giác ngưu.. 2- Culla-vagga: có 14 kinh. 3- Maha-vagga: có 12 kinh. Trong đó có 3 kinh quan trọng: a) Kinh Pabbajja-sutta nói về cuộc gặp gỡ giữa Phật và vua Bimbisara trước khi Phật thành đạo; b) Kinh Padhana-sutta nói về sự tinh tấn của đức Phật và sự mê hoặc của Ma vương; c) Kinh Nalaka-sutta có lời mở đầu (vatthu-gatha) nói về đạo sĩ Asita xem tướng cho thái tử sơ sanh Siddhattha. 4- Atthaka-vagga (sanscrit: Artha-varga): có 16 kinh, trong đó có 4 kinh chỉ có 8 câu thơ. Bốn kinh đó là Guhatthaka-sutta, Dutthatthaka-sutta, Suddhatthaka-sutta và Paramatthaka-sutta.
5- Parayana-vagga: gồm 16 câu hỏi với lời giải đáp của đức Phật bằng văn vần. Lời mở đầu (vatthu-gatha) nói về chuyện nhà hiền triết tên Bavari đến viếng Phật, và các đệ tử của ông ta nêu câu hỏi. 6/ Vimana-vatthu, Câu Chuyện Những Cảnh Trời, gồm 85 bài thơ chia thành 7 tập (vagga). Những người được sanh về các cõi trời kể lại do thiện nghiệp nào được sanh về cõi trời đó. 7/ Peta Vatthu, Câu Chuyện Cảnh Giới Ngạ Quỷ, gồm 51 bài thơ chia thành 4 tập (vagga). Những người bị đọa làm ngạ quỷ kể lại do đã gây ác nghiệp nào, bị sanh vào cõi đau khổ ra sao. 8/ Theragatha, Trưởng Lão Kệ, gồm 264 bài kệ của các vị Thượng Tọa. 9/ Therigatha, Trưởng Lão Ni Kệ, gồm 100 bài kệ của các Ni Sư. 10/ Jataka, Kinh Bổn Sanh, còn gọi là Túc Sanh Truyện, gồm 547 câu chuyện tiền thân của đức Phật. Về sau có thêm phần Nidana-katha nói về cuộc đời đức Phật từ lúc đản sanh đến khi thành lập tinh xá Jetavana. 11/ Niddesa, Những Bài Bình Giảng, gồm 2 phần (Maha-Niddesa bình giảng về Atthaka-vagga; Culla-Niddesa bình giảng về Parayana-vagga) và Khaggavisana-sutta. Về sau Niddesa lại được Sariputta bình giảng trong kinh Saddhammapajjotika. 12/ Patisambhida, Kiến Thức Phân Giải. Phân giải về các quan niệm, kiến thức, sai lầm, cách thở trong lúc thiền, v.v... Phần lớn theo hình thức vấn đáp như trong tạng Luận (Abhidhamma). 13/ Apadana (sanscrit: Avadana), Kinh Thí-Dụ, kể lại chuyện đời trước của các vị A-la-hán, đệ tử, vân vân, bằng văn vần. 14/ Buddhavamsa, Tiểu Sử Ðức Phật. Ðức Phật trả lời một câu hỏi của Sariputta về lời phát nguyện thành Phật đầu tiên, và lời tiên tri của 24 vị Phật trước về ngài, và cuối cùng chuyện gì đã xảy ra cho ngài. 15/ Cariya Pitaka, Phẩm Hạnh Của Thánh Nhân, gồm 35 câu chuyện bằng văn vần trích từ tập Jataka, và được sắp xếp theo thứ tự 10 ba-la-mật (bố thí, trì giới, ...) mà đức Phật đã đạt được. Nhưng chỉ có 7 ba-la-mật được kể ra, thiếu 3. Tạng Kinh của Bắc tông được phân loại như sau: A- Phân chia theo thời gian thuyết pháp của đức Phật, bằng bài kệ "Ngũ thời thuyết pháp" của Thiên-Thai tông như sau: "Hoa-Nghiêm tối sơ tam thất nhựt. (21 ngày) "A-Hàm thập nhị, Phương-Ðẳng bát. (12 năm + 8 năm) "Nhị thập nhị niên Bát-Nhã đàm. (22 năm) "Pháp-Hoa, Niết-Bàn, cộng bát niên. (8 năm)[15] Nghĩa là có 5 giai đoạn thuyết pháp của Phật như sau: 1. Hoa-Nghiêm (Avatamsaka): sau khi thành đạo, đức Phật thuyết kinh Hoa-Nghiêm liên tiếp trong 21 ngày, ngay tại Bồ-đề đạo-tràng, nói về hoa tạng thế giới. 2. A-Hàm (Agama): thấy kinh Hoa-Nghiêm quá thâm sâu khó hiểu đối với chúng sanh, Phật liền thuyết kinh A-Hàm trong 12 năm, bắt đầu bằng kinh "Chuyển Pháp Luân" tại Lộc-Uyển, nói về Tứ Diệu Ðế và Vô Ngã Tướng; sau đó nói về 12 Nhân Duyên. Kinh A-Hàm gồm 4 bộ: Dirghagama (Trường A-hàm), Madhyamagama (Trung A-hàm), Samyuktagama (Tạp A-hàm) và Ekottarikagama (Tăng-nhất A-hàm). - Kinh Trường A-hàm gồm 4 phần, 22 tập, 30 kinh. Phần thứ nhất nói về đức Phật, phần thứ hai nói về giáo lý và các pháp tu, phần thứ ba nói về những lời vấn nạn của ngoại đạo, phần thứ tư nói về sinh, thành, hoại, diệt của thế giới. Trong đó có: kinh Sơ Ðại Bản Duyên, kinh Ðại Bát-Niết-Bàn (kinh Du Hành), kinh Nhân Bản Dục Sanh, kinh Thiện Sanh, kinh Tín Phật Công Ðức, kinh Phạm Võng (Phạm Ðộng), kinh Sa-môn quả, kinh Thế Ký. Kinh Trường A-hàm của Trung-Hoa có 30 bài kinh, trong đó có 26 bài được học giả Anesaki xác nhận giống các kinh trong Trường Bộ (Digha-Nikaya). - Kinh Trung A-hàm gồm 60 tập, 222 kinh, đại ý nói về Tứ Diệu Ðế, 12 Nhân Duyên, thí dụ, ngôn hạnh của Phật và các đệ tử. Trong đó có: kinh Thiện Pháp, kinh Thủy Dụ, kinh Lậu Tận, kinh Phân Biệt Thánh Ðế, kinh Hải Bát Ðức (Chiêm Ba), kinh Luân Vương Thất Bảo, kinh Tứ Châu, kinh Tần-bà-ta-la Vương Nghinh Phật, kinh Thiên Sứ, kinh A-na-luật Bát Niệm, kinh Ly Thùy Miên, kinh Thị Pháp Phi Pháp, kinh Ðại Nhân, kinh Khổ Ấm, kinh Ðạt Phạm Hạnh, kinh Cù-đàm-di Ký Quả, kinh Hành Dục, kinh Hàng Ma, kinh Tu-đạt-đa, kinh Anh Vũ (Nghiệp Báo Sai Biệt), Bát Nhã Tâm Kinh, kinh Trì Trai, kinh Ái Sinh, kinh Tà Kiến, kinh Tiễn Dụ, - Kinh Tăng Nhất A-hàm gồm 51 tập, gom góp các kinh về pháp số từ 1 pháp đến 11 pháp, nên gọi là Tăng Nhất. Trong đó có: kinh A-la-hán, kinh Tứ Nhân Xuất Hiện Thế Gian, kinh Ba-tư-nặc Vương Thái Hậu Băng Trần Thổ Ðộn Thân, kinh Cấp Cô Trưởng Giả Nữ Ðắc Ðộ Nhân Duyên, kinh Thí Thực Hoạch Ngũ Phước Báo |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Chuyện Cổ Tích PG | |
| |
| | | |
Similar topics | |
|
Trang 11 trong tổng số 12 trang | Chuyển đến trang : 1, 2, 3 ... , 10, 11, 12 | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |