Bài viết mới | Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Today at 20:17
Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 01:16
KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Yesterday at 16:45
KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22
Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22
NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20
KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08
Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54
Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10
7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10
Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21
Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13
Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07
Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36
Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09
Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46
Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06
Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04
DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19
Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37
Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17
CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05
Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39
Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41
Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
|
| Tác giả | Thông điệp |
---|
Tinh Hoa
Tổng số bài gửi : 1060 Registration date : 19/01/2020
| Tiêu đề: Truyện ngắn Việt Nam Tue 06 Oct 2020, 12:09 | |
| Bùa yêu (tác giả: Thùy Dương)
Ngày trẻ bà ngoại là cô gái đẹp nhưng đường tình duyên chẳng hề may mắn. Hai đời chồng, bà có hai cô con gái và ở vậy từ năm 29 tuổi. Khi đã già, bà lại nuôi cháu cho con gái. Bà thường kể đủ thứ chuyện khi dỗ tôi và em gái ngủ. Lớn lên trong tôi chỉ còn rõ nhất câu chuyện về cô Thảo đẹp nhất làng, yêu người trai nghèo không lấy được đã nhảy sông tự vẫn. Đêm tối trời, cô thường hiện lên hết khóc rồi lại hát, kết các loại bùa yêu thả chúng bay khắp nơi... Mùa thu. Trời xanh nao lòng và nắng vàng cũng ngơ ngẩn. Tôi chạy chân trần đuổi bắt những con chuồn chuồn ớt. Đâm sầm vào bụi cúc tần, tôi bắt gặp màu vàng nồng nàn của những búi tơ hồng vấn vương. Những chiếc lá vàng lơi lả mà chú tiểu trong chùa vun lại, đủ tôi chơi nửa ngày không chán. Trong không trung, thỉnh thoảng có sợi tơ trắng mỏng mảnh nhẹ nhàng bay ngang, lúc căng dài lúc co tròn lại. Bùa yêu. Tôi hét lên và chạy đuổi theo, khó khăn lắm mới bắt được chúng. Đám bạn trong làng ngơ ngác nhìn tôi.
Một bà lão móm mém đi qua nhổ bãi quết trầu, day day đôi mắt mờ đỏ lắc đầu:
- Trông như cô Thảo ngày xưa ấy. Rõ khổ!
Mẹ đón tôi ra Hà Nội. Sau mấy năm đi Tây cùng chồng, trông mẹ đẹp ra và chẳng hề thay đổi. Chỉ có điều mẹ luôn luôn trong trạng thái nôn nóng bồn chồn:
- Bố mày ở lại bên đó và chạy theo con... Cái đồ gái Tây thô bỉ. Rồi mẹ đến phải sang nữa thôi.
Tôi tròn mắt nhìn mẹ, một nữ trí thức xinh đẹp, quần áo lúc nào cũng hợp mốt, duyên dáng, lại có thể thốt ra những lời đó sao. Mà tôi đã nói bao lần rồi mẹ chẳng chịu nghe cho. Tôi không thể gọi ông ta - chồng của mẹ - bằng bố. Ai thì cũng chỉ có một người bố duy nhất, dù người đó đã bỏ hai đứa con gái 7 tuổi và hơn 2 tuổi ra đi. Căm giận bố, mẹ đã cấm cửa ông, gửi phắt chúng tôi về với bà ngoại và cũng đi tít mít. Bây giờ mới về được vài tháng thì đã thế. Chẳng nhìn tôi, mẹ cứ lẩm bẩm như một mụ hàng xén đang tính toán với gánh hàng của mình:
- Năm nay con đã vào đại học, rồi mẹ sẽ chuẩn bị cơ sở để con tự lập được và lo cho cả em. Mẹ phải sang cột lão ta lại.
Ừ thì mẹ đi. Chị em tôi dường như không quen rồi đến phải quen và đã quen với những ngày tháng dằng dẵng xa mẹ. Tôi cũng đã quen tháng tháng ra bưu điện lĩnh mấy cân hàng rồi mang đến nhà người quen bán đi, trang trải mọi thứ cho ba bà cháu, trả tiền học thêm cho hai chị em. Chỉ khổ thân mẹ sao cứ bồn chồn bứt rứt không yên thế? Có phải do yêu mà mẹ cứ long đong mãi sao? Tiếc rằng mẹ chẳng có bùa yêu. Không giữ được tình yêu với bố, mẹ lao đi tìm và tìm bằng được những người nào giống, hoặc hao hao giống bố. Ông bố dượng hiện thời của chúng tôi là một ví dụ không phải đầu tiên nhưng cũng chưa hẳn cuối cùng. Mẹ yêu ông ta, than thở, trách giận ông ta lẫn với lần hờn ghen, giận dữ đối với bố. Bao nhiêu năm rồi chúng tôi chưa gặp mặt bố, chỉ nhận những món quà do ông gửi qua bưu điện. Nhưng mẹ lại biết rõ từng đường đi nước bước của ông, những mối tình và trắc trở mà ông gặp. Mẹ kể lại những điều ấy với bà, với chị em tôi giọng hả hê đắc thắng xen lẫn sự ghen tuông không giấu giếm. Thật là kỳ lạ.
- Con gái lớn rồi phải biết giữ thân con ạ. Tốt nhất là đừng có xiêu lòng trước những lời tán tỉnh của bọn con trai. Bao giờ lấy chồng con sẽ chọn người đàn ông nào yêu con nhất. Đàn bà mà yêu nhiều rồi sẽ khổ.
- Như mẹ phải không?
Tôi thầm hỏi trong lòng và ôm lấy mẹ, cảm thấy hơi ấm nồng nàn từ đôi bầu vú mẹ phả vào ngực và cảm nhận được cả những cái run rẩy từ đôi vai để trần của mẹ. Năm thứ hai đại học thì tôi yêu. Anh ấy đẹp, và dường như hứa hẹn lấp lánh một tài năng nào đó. Tôi đến nhà anh và reo lên khi thấy bó hoa cắm ngoài phòng khách. Những bông hoa trắng xanh khiêm nhường thường mọc chốn đồng quê có cái tên hết sức bình dị thật thà. Nhưng với tôi chúng mang một cái tên đặc biệt khác: hoa sương. Bởi những bông hoa chẳng khác nào những chiếc mạng nhện mắc đầy sương. Anh cười kéo tay tôi:
- Hoa sương ư? Em hay thật! Mốt thời thượng đấy mà. Người ta chở từ quê ra thành phố đủ các loại hoa cỏ dại khờ.
Trong phòng của anh duy nhất chỉ có một bông hoa hồng trắng ngậm sương.
- Đây mới chính là anh, em biết không, và là cả em nữa.
Chúng tôi hôn nhau bên bông hồng. Hương hoa quyện trong hương vị của nụ hôn đầu tiên, ngọt ngào, man mác, chẳng thể nào quên. Bốn tháng, sau những lần hò hẹn, những nụ hôn dài mê mải đắm say, tôi bỗng nhận được một lá thư ngắn ngủi và đầy sự có lý của anh.
- Chúng ta phải chia tay. Đừng hỏi anh vì sao em yêu ạ, cũng như anh không hỏi vì sao những loài hoa dại đã có tên mà em vẫn cứ đặt những cái tên ngộ nghĩnh dễ thương khác cho nó. Chúng ta đã có những giờ phút có thể gọi là hạnh phúc, dễ chịu bên nhau. Em đã đem niềm vui cho anh và anh với em cũng vậy. Thế là hòa và vì điều ấy, xin em đừng tìm gặp hay căn vặn gì anh. Chúc em may mắn và hạnh phúc.
Câu cuối cùng như cười giễu tôi. Hạnh phúc ư? Có thể hạnh phúc được không khi phải chia tay với mối tình đầu của mình, với chàng trai đầu tiên mà mình yêu? Tôi bỗng nhớ lại câu nói của anh ta hôm nào: những loài hoa cỏ dại khờ mang từ quê ra. Có lẽ tôi lúc ấy cũng là một mốt kiểu thời thượng của anh ta. Tôi phá lên cười, xé tan lá thư và ném nó vào gió. Những mảnh giấy trắng như những cánh bướm bay tan tác lung tung. Nước mắt tôi tràn ra chảy ướt cằm. Chiều thu. Tôi lang thang trong dãy phố nhỏ, ẩm thấp và u ám. Những chiếc lá vàng thả chầm chậm, quấn lấy bước chân. Tôi thèm được trở lại ngày xưa, chân trần chạy khắp nơi, chẳng hề biết trên đời lại có nỗi buồn trĩu nặng lòng và dư vị ngọt ngào lẫn cay đắng của mối tình đầu vương vấn mãi. Bỗng một gương mặt nhăn nhúm ló ra từ ô cửa sổ:
- Mời cô vào trong này. Cô vào đi.
Như một cái máy, tôi bước vào ngôi nhà cổ có đến hàng trăm năm, tường đã tróc lớp vữa trát, lộ ra cả màu gạch hồng hồng. Ông già lôi ở đâu đó ra chiếc thước dây đã xỉn màu, chẳng nói chẳng rằng loay hoay đo đo tính tính.
- Cô là người của mùa thu. Tôi sẽ may cho cô bộ váy áo kết bằng nắng và tơ trời mùa thu. Tôi đã để dành và chờ đợi từ 60 mùa thu trước. Tuần sau, vào buổi chiều này, cô nhớ đến lấy. Nhớ chưa.
Tôi vâng dạ, chào ông ra về. Cũng chẳng thấy ngạc nhiên, dù chưa hề có ý định may sắm gì trước đó. Đôi chân cứ tự đưa tôi đến khu phố cổ. Chẳng dám gõ cửa, tôi e dè đứng trước căn nhà khép kín. Bỗng có cô gái đẩy cửa bước ra:
- Trao cho cô gái đến đây, bác tôi dặn đi dặn lại như thế. Tiền nong à? Không nghe bác nói gì hết. Tôi không dám nhận đâu. Bác tôi già rồi, sống một mình và kỹ tính lắm. Được nếu có ai về quê, tôi sẽ hỏi giúp chị.
Tôi giũ bọc giấy. Một bộ váy áo vàng nồng nàn điểm những sợi trắng mỏng manh. Tôi khoác chúng lên người. Trong gương, một cô gái mắt mở lớn sáng lóng lánh, một màu vàng say như sắc mật. Làn da mịn như ngà ửng sáng. Cô gái nhoẻn miệng cười, những đốm trắng cũng nhấp nháy cười theo. Tôi khép cửa bước ra đường. Ánh nắng thu nhảy nhót theo bước chân. Bao người đi đường nhìn tôi, có nhiều người đi xa còn ngoái đầu nhìn lại. Tôi, bộ váy áo màu vàng cùng với nắng thu cuốn nhau đi nhẹ êm, không ồn ã. Anh ta đứng trước mặt tôi, cái người tôi đã yêu với mối tình đầu ấy, và chết sững nhìn. Tôi dường như thấy nhẹ nhõm trong lòng.
- Em đi đây vậy? Dạo này em sao rồi?
- Em ư, bình thường thôi mà.
Anh ta nắm lấy tay tôi thì thào:
- Trời ơi, sao màu mắt em lại vàng óng lên thế. Trước đây sao anh chẳng nhận thấy và chẳng hề biết nó đẹp đến vậy. Chúng mình đi cùng nhau được không?
- Không đâu, em đang bận.
- Bận gì nào, anh sẽ cùng làm với em.
- Em còn bận thương nhớ mùa thu, có làm với em được không?
Tôi phá lên cười giòn giã vô tư khi nhìn lại gương mặt tẽn tò ngớ ngẩn của anh ta. Sao ngày xưa tôi lại thấy gương mặt ấy hứa hẹn điều gì như tài năng nhỉ? Thời gian trôi qua rồi. Lúc tôi yêu và chờ đợi, anh ta chẳng đến. Giờ đây tôi không còn là cô bé ấy nữa và anh đã thành người xa lạ... Bà ngoại bê lên một bát canh rau tập tàng hái trong vườn nhà, mấy ngọn dền cơm, nắm lá ớt, khoai lang, rau muống, rau đay và mấy nụ mướp. Trên mâm chỉ độc có một bát tép rang khế và chiếc nồi gang còn vương tàn rơm, thơm hôi hổi mùi cơm mới. Tôi sà vào xới cơm. Canh bà nấu ngon hơn tất cả những thứ trên đời tôi đã từng ăn. Bà vừa quạt cho tôi vừa mắng yêu:
- Cha mẹ nhà chị, rõ là lớn quá rồi. Cơm gạo nuôi quả không phí. Thế có đám nào chưa, nói bà nghe xem.
- Sắp rồi bà ạ. Ít lâu nữa cháu dẫn về để bà xem mặt.
Bà quay đi thở dài:
- Con gái trông thế kia khéo lại cao số cũng nên. Mà con mẹ thì dễ đến ba năm rồi chẳng quay về nhà lấy một chốc.
Tôi ôm ngang lưng bà, cái lưng mảnh khảnh đã còng còng:
- Cháu lớn rồi, sắp đi làm đến nơi. Cháu sẽ lo được cho bà và cái Nhu mà.
Mắt bà rân rấn:
- Phần bà đâu có lo. Lo là lo cho mày kia kìa, con ạ.
Cái Nhu chở tôi ra ga. Nó láu táu:
- Chị có nhớ chuyện ngày xưa bà kể không. Cô gái đẹp đêm đêm hiện lên bờ sông thả bùa yêu ấy. Cái anh trai làng không lấy được cô đã bỏ đi biệt xứ, giờ mới trở về đây. Eo ơi giờ ông ấy đã ngoài 70 tuổi rồi, chẳng vợ con gì cả.
Tôi giật thót cả tim. Vậy ra ông ấy ư. Nhưng có khi không phải. Trên đời này thiếu gì chuyện trùng hợp. Sắp tới lúc tàu chạy, cái Nhu mới bảo:
- Em sẽ thi cao đẳng sư phạm chị ạ. Vừa học gần nhà, ra trường có thể xin dạy ngay tại thị xã.
Tôi không tin vào tai mình nữa:
- Sao em lại thế. Sức em đủ để vào đại học kia mà. Trên ấy lại có chị có em. Mẹ cũng đã nhờ người tìm mua cho chúng mình một căn hộ nhỏ.
Nó kiên quyết lắc đầu:
- Em thích nghề giáo viên, lại muốn ở gần bà. Em đã quyết định rồi. Tối nay em sẽ viết thư cho mẹ.
Tàu chạy, nhìn bóng em gái bé nhỏ lọt thỏm giữa sân ga, nước mắt tôi trào ra:
- Nhu ơi nghĩ lại đi em. Chúng mình sẽ được ở bên nhau.
Thư Nhu viết ngay tối hôm tôi lên trường:
- Chị đừng lo gì cho em. Em không giống mẹ và không giống chị. Mẹ luôn luôn theo đuổi cái mà mẹ đã đánh mất. Chị luôn đi tìm những điều chị khao khát, dù có thể chính chị cũng chẳng hiểu nó là cái gì. Còn em đơn giản hơn nhiều. Em bằng lòng với những cái mà mình có. Em sợ những cuộc phiêu lưu, sợ đánh mất mình và hạnh phúc của mình.
Thư tôi gửi về tới tấp. Những suy nghĩ trăn trở và cả những dự định về tương lai của hai chị em mà tôi vẽ ra đầy hào hứng đã không được nó chia sẻ. Bình tĩnh và cương quyết, nó làm theo ý mình. Mẹ tôi bay về một tháng cũng chẳng thay đổi được gì. Bởi ngoài quyết định của nó, bà ngoại là người ủng hộ mạnh mẽ không kém. Mẹ và tôi đành bó tay.
Tôi gặp anh trong một dạ tiệc. Anh có sức hút đặc biệt đối với tôi. Tôi cảm nhận rõ một giòng điện xuyên suốt từ anh sang tôi. Bất cứ anh ở góc nào, đang làm gì, dù chẳng hề nhìn thì tôi cũng biết rõ. Lại có cảm giác rằng anh sẽ làm được một điều gì đó to lớn hoặc phi thường lắm. Tôi chẳng hề hỏi mình xem anh có đẹp trai hay không, như những lần tôi vẫn nhận xét một cách hờ hững những người đến với mình. Trong tôi lúc này chỉ duy nhất có một điều đang được nhắc đi nhắc lại hàng trăm lần, hàng ngàn lần. Anh ấy đấy! Nhưng tôi biết giấu cảm xúc của mình, hay chính tôi tưởng thế. Trong trang phục đen, dường như tôi kiêu kỳ và bí ẩn. Chỉ một lần duy nhất đứng đối diện nhau, tôi đã chiếu vào mắt anh. Tôi thả cho cảm xúc của tôi được tự do. Ngay sau cái nhìn đó, tôi quay đi, rời bàn tiệc. Đêm. Tôi ngủ ngon lành. Sáng ra trở dậy tôi bỗng xôn xao về một điều gì. Mùa thu đã trở về sao! Tôi lục tủ quần áo và bắt gặp màu vàng rực rỡ của bộ váy áo ngày nào.
- Ôi mùa thu...
Tôi giật mình ngẩng lên khi nghe ai đó gọi. Là anh. Anh nhìn vào mắt tôi. Tôi cũng nhìn lại. Trong mắt tôi là những đốm lửa vàng nóng sáng đang nhảy nhót lung linh. Dường như chúng tôi đã gặp, đã yêu và đã tin nhau từ lâu lắm rồi, ở một nơi nào đó, từ một kiếp trước nào đó cho đến tận bây giờ vẫn bên nhau. Tôi nhảy bổ về nhà chỉ để kể cho em gái nghe những cảm xúc kỳ lạ của mình. Nó chăm chú nghe và mỉm cười đầy vẻ bà cụ non:
- Niềm khao khát và tình yêu của chị đã gặp nhau, hòa làm một. Chị có nghe bà bảo không: gái ham tài, trai ham sắc. Điều đó bà nói về chị đấy.
Tôi vội vàng quay trở về Hà Nội. Anh đã đợi tôi ở sân ga từ lúc nào. Tôi ngả đầu vào tấm lưng rắn rỏi, hít hít cái hương vị dễ chịu tỏa ra từ anh và lòng dâng lên một cảm giác lạ lùng. Chỉ muốn nhắm mắt ngủ trên lưng anh, yên ổn, hạnh phúc. Tôi ngạc nhiên rồi sửng sốt khi bắt gặp cô gái lạ chờ trước cửa phòng ở của mình.
- Tôi đã lấy hết can đảm để có thể gặp chị. Anh ấy là của tôi từ rất lâu rồi, từ ngày tôi còn là một cô bé thích chơi trò hoàng tử công chúa. Ngày ấy chúng tôi đã có chung một đứa con là cậu búp bê tóc xoăn miệng rộng. Anh ấy bảo không thể để thằng bé không cha như anh. Lớn lên anh hứa sẽ lấy tôi làm vợ, suốt đời. Mọi việc gần như thành sự thật thì chị xuất hiện. Chị có thể gặp được người như anh ấy hay tốt đẹp hơn cả anh ấy. Chị thừa sức để làm điều đó. Nhưng tôi thì chẳng bao giờ. Tôi chỉ có mỗi anh ấy thôi, chị hiểu không?
Cố giấu vẻ tuyệt vọng trong đáy mắt, cô gái cúi mặt và lặng lẽ bỏ đi. Tôi không thốt được lời nào để bảo vệ mình, bảo vệ tình yêu của mình. Bàn chân tôi chạm nền đá hoa cứ run rẩy không vững. Ở bên anh, suốt đời tôi sẽ chẳng cảm thấy yên ổn và hạnh phúc nữa mỗi khi nhớ đến ánh mắt tuyệt vọng của cô ta. Nhu đã ra dáng một thiếu phụ lắm rồi. Cái bụng tròn tròn nhu nhú, hai tay ve vẩy khoan thai mỗi bước đi. Chị em tôi dắt nhau đi chợ. Nó thèm ăn đủ các thứ linh tinh. Tôi dốc tiền ra mua cho nó hàng lô hàng lốc các thứ quà, ăn đến mấy ngày chả hết. Nó bắt tôi ngồi rồi tự mình thu vén dọn dẹp căn nhà nhỏ sạch sẽ tinh tươm đến phát sợ rồi chốc chốc lại ngong ngóng ra cửa. Tôi phát nhẹ vào vai:
- Sáng nay chồng em đã nói là trưa không về, sao còn mong gì nữa.
Nó cười ngượng nghịu:
- Em biết vậy mà vẫn cứ mong.
Bà đón chúng tôi từ ngõ, nghe tôi kể tội nó bà móm mém cười:
- Thì nó bao giờ chẳng thế. Chồng bận công tác đưa sang đây với bà mà cứ ngóng ra ngóng vào. Mà chị mày lớn đầu còn dại, chẳng hiểu gì sất. Khi con Nhu đòi học cao đẳng bà biết ngay. Nó với thằng Huy quý yêu nhau từ thời còn lê la nghịch đất. Sáng nào thằng ấy chẳng sang rủ con Nhu đi học. Chả là con bé này sợ ngỗng đuổi mà.
Bà lại nấu canh rau tập tàng, ép chúng tôi mỗi đứa ăn thêm lưng bát cơm rồi gạt đũa chép miệng:
- Mẹ mày thì có lẽ bà chết mới về. Chị em ruột thịt phải thương xót đùm túm nhau con ạ. Mà con bảo đưa người yêu về cho bà xem mặt đâu? Chúng mày tổ chức đi, bà còn khỏe, bà lên bế cháu cho.
Bà vừa nói chuyện vừa gà gật ngủ. Bà đã già quá rồi còn gì. Tôi cảm thấy trên vai mình thêm một gánh nặng phải mang. Cái Nhu kéo tôi vào buồng, vạch khoe cái bụng tròn thu lu nổi rõ một đường sọc nâu nâu. Gương mặt nó nghiêng nghiêng như lắng nghe mầm sống cựa quậy trong mình và tràn trề hạnh phúc. Bỗng dưng tôi liên tưởng em gái tôi với cô gái xa lạ hôm nào. Thả lá thư vào nhà anh, tôi thấy trống trải và bơ vơ lạ lùng. Giờ này chắc anh vẫn mỏi chân chờ tôi ở chỗ hẹn. Anh trở về nhà đi. Rồi bùa yêu sẽ hết, anh sẽ chẳng thể nhớ gì về em. Và anh sẽ trở về với cô gái ấy, người đã gắn bó với anh từ những ngày thơ ấu. Tôi cùng bộ váy mùa thu nhiệm mầu cứ đi lang thang trong phố. Vừa đi vừa nức nở, tôi cồn cào mong sẽ có một người nào đó, như anh, nhận ra tôi và khẽ gọi:
- Ơi mùa thu! |
| | | Tinh Hoa
Tổng số bài gửi : 1060 Registration date : 19/01/2020
| Tiêu đề: Re: Truyện ngắn Việt Nam Tue 06 Oct 2020, 12:40 | |
| Những người đàn bà bên sông (tác giả: Thùy Dương)
Làng ở bên con sông Đáy. Ngày mẹ gửi về làng, tôi thường theo bọn trẻ chăn trâu tha thẩn dọc triền đê. Gió thổi lồng lộng, nước sông sẫm xanh vỗ ì oạp. Mặt sông rộng hút, nhìn bờ bên kia xa tít. Tôi đã từng suýt chết đuối khi theo chúng bạn lặn ngụp ven bờ sông mùa nước cạn để mò hến. Rêu quấn chân khiến tôi uống no bụng nước mới ngoi lên được. Dì tôi nghe mách đã lôi tôi xềnh xệch từ bờ sông về, vừa đi vừa riết róng:
- Ai bắt ai khiến như thế mà thấy thuyền đua lái cũng đua hả. Có làm sao thì bà với dì ăn nói với bố mẹ cháu thế nào đây. Thật tội nợ, cháu ơi là cháu...
Dì bắt tôi đứng im trong góc nhà tối om om rồi quày quả xuống bếp thổi cơm. Nhớ mẹ, tủi thân và sợ tối, tôi khóc thầm. Có tiếng bà đầu ngõ:
- Con Thư đâu ra bà cho mấy con muỗm mà nướng. Muỗm béo lắm!
Tôi thổn thức rồi òa khóc. Bà chạy vội vào quờ tay ôm choàng lấy tôi. Mùi mồ hôi, mùi rập rạp nồng nồng của những lượm lúa quẩn quanh bên bà khiến tôi vơi đi những nỗi buồn ban nãy. Tôi lon ton chạy ra hè bê ngọn đèn dầu hỏa đặt lên bàn. Từng lớp quần vê lên phía đầu gối của bà thả dần, hiện ra những con muỗm xanh béo múp. Những con muỗm nướng trong đám tàn rơm chảy mỡ và thơm nức mũi. Tôi nhai ráu từng con, nghe mùi thơm béo ngậy của thịt muỗm ngấm tận cuống lưỡi. Dì vò tóc tôi:
- Con gái lớn rồi phải biết nghe lời. Tóc cháu khét nắng, mặt mũi rám nâu chẳng khác gì con nhà nông. Lại nữa, sông sâu và rộng chẳng may thì khốn. Thích ra sông chơi, tối chờ dì dẫn ra.
Bà đặt đôi đũa xuống mâm gỗ, quay mặt ra sân, đôi mắt lá răm ánh lên vẻ tinh quái trẻ trung hiếm có:
- Thế mà có đêm từ bờ bên kia tao đã bơi gần qua con sông ấy...
Tôi vẫn lúng búng miếng cơm:
- Sao lại bơi đêm? Lúc ấy bà bằng cháu à?
Bà ầm ừ trong miệng, mãi mới nói:
- Lúc ấy bà ngoài hai mươi.
Tôi nhìn bà, cố hình dung. Chắc bà đẹp lắm. Tôi chợt nhận ra dì là hình ảnh của bà mấy chục năm về trước.
- Sao mẹ cháu không giống bà mà cũng chẳng giống dì hả bà?
Bà gạt mấy sợi tóc lòa xòa bên má, vội vã ngắt lời:
- Mẹ cháu giống ông. Thôi ăn cơm đi kẻo nguội hết.
Tôi kể chuyện bà bơi qua sông cho lũ bạn mà trong đó quá nửa là bác, là cô, là dì của tôi. Cái Lệ hơn tôi hai tuổi mà tôi phải gọi bằng cô, ra điều hiểu biết:
- Bà mày không chỉ bơi qua sông một lần mà nhiều lần. Là vì trốn nhà chồng về thăm mẹ mày đấy. Thế mày không biết gì à? Mẹ mày con một ông còn dì mày con một ông khác. Vì thế đâu có giống nhau.
Tôi tức quá đỏ căng cả mặt.
- Nếu mày không tin thì về hỏi bà trẻ tao, nào...
Tôi vùng chạy, vừa chạy vừa khóc tức tưởi. Không phải thế, nhất định chẳng phải thế. Dì tôi hốt hoảng kéo tôi lại, nhìn ngang nhìn dọc:
- Nói dì nghe, đứa nào làm gì cháu?
Tôi vẫn không sao nín nổi. Lôi tôi ra giếng lấy nước rửa mặt, dì săm soi khắp cẳng chân cẳng tay:
- Có làm sao đâu, thế đứa nào bắt nạt nói mau.
- Chúng nó bảo...
Tôi vừa hức hức vừa kể lại. Dì ôm tôi vào lòng vỗ vỗ vào lưng, giọng dì ngàn ngạt:
- Chúng nó nói láo. Để mai dì cho mỗi đứa một trận. Cháu đừng mách bà nhé, kẻo bà lại mắng thêm cho.
Mẹ thường bảo:
- Mẹ thương bà và dì lắm. Các con phải thương bà và coi dì như mẹ.
Tôi cãi:
- Thì nhà cũng chỉ có con với cái Thủy mà mẹ lúc nào cũng yêu cái Thủy, đi đâu cũng cho nó đi.
Mẹ không mắng tôi tị nhau với em, chỉ buồn buồn:
- Các con có bố, ông bà nội, các cô các chú, chứ mẹ và dì chỉ có mỗi bà và hai chị em thôi.
Lúc mẹ nói câu ấy tôi thấy mắt mẹ ngân ngấn ướt. Lớn chút nữa, cứ chiều thứ bảy tôi lại đạp xe gần 10 cây số từ thị xã về quê. Tôi kéo túm tre gai rấp ngõ đi thẳng vào sân, luồn tay lên mái tranh lấy ra chiếc chìa khóa nhỏ xíu mở hai cánh cửa phên vào nhà. Nền nhà bằng đất nện đen bóng, mát lạnh và sạch boong. Tài sản quý giá nhất của bà là chiếc thùng đựng thóc bằng gỗ kê ở gian giữa có nắp khóa. Nửa mặt kia của thùng thóc được dùng làm bàn thờ. Trên đó có bức ảnh chú bộ đội cười thật tươi. Đó là ông ngoại. Hai gian bên kê hai chiếc giường gỗ dưới rải đầy khoai tây đang lên mầm. Buồng phía tay trái tối om om, có mấy chiếc sào treo quần áo và những chiếc quang treo lủng liểng thường đựng tép rang khế hoặc cá kho lá thèn đen. Tôi nằm duỗi dài trên giường. Chỉ chốc lát đã nghe tiếng chân bà lật đật từ đầu ngõ:
- Thư đã về ư cháu. Bà còn phải làm rốn đám cỏ khoai.
Tôi chui vào bếp nấu cơm cùng bà. Khói rơm cay cả mắt. Bà vừa thoăn thoắt thái rau vừa chỉ:
- Cời gio bếp cho thoáng, lấy đũa cả sơ nồi cơm đi.
Bà ủ nồi cơm giữa đám gio hồng rực nhưng ngả sang đen sì rất nhanh và giục:
- Ra sông giục dì về ăn cơm. Dạo này dì mày cứ la cà. Ngoài hai mươi tuổi rồi mà cứ ỳ thân xác ra. Bao đám đánh tiếng không chịu lấy. Khéo rồi lại chết già.
Sợ phải nghe những lời than vãn của bà mà quanh đi quẩn lại cũng chỉ có thế mấy năm nay, tôi chạy ù ra ngõ. Cái Lệ từ đâu suýt xô vào tôi. Nó kéo tôi đi băng băng:
- Mày vừa về hả, đi tìm dì mày phải không? Ngoài sông vui lắm, dạo này có đoàn địa chất về khoan dầu.
Trăng rải vàng trên sông, làng xóm bờ bên kia đen sẫm. Bờ đê lố nhố những người. Tiếng cô nào đó cười như nắc nẻ lan cả mặt sông. Tiếng một chàng trai trầm ấm. Tự nhiên tôi buồn. Có điều gì đó len đến trong lòng, thổn thức, vu vơ. Tôi kéo tay Lệ ngồi xuống. Cỏ mát như ánh trăng. Lệ ngạc nhiên thì thào:
- Không ra chỗ dì mày sao?
Tôi chỉ lắc đầu. Có cảm giác như thân thể tôi được tắm đẫm ánh trăng và trở nên nhẹ, trong. Còn tâm hồn như có hai chiếc cánh đã chấp chới bay vút lên trên cao kia. Thốt nhiên tôi bỗng nhớ đến cậu bạn cùng lớp vẫn nhìn tôi rất lạ lùng và trong lòng chùng xuống. Bên tôi Lệ nhấm nhấm cọng cỏ, bâng quơ:
- Đêm trăng sông như rộng ra.
Từ sâu thẳm trong ký ức có điều gì đó vụt đến. Thế mà ngày xưa bà bơi qua sông này. Bà chỉ bơi một lần thôi, còn những lần sau ông chèo thuyền đưa bà đi. Và trong tôi, câu chuyện qua lời bà, lời những người xung quanh đã chắp lại nguyên vẹn... Kẻ kéo tay, người xổ tóc, ai đó luồn ngang hông xỏ bộ xà tích bạc, còn Thi vẫn ngồi chết trân, lòng y như luống cải non bị những bàn chân trần xéo nát. Văng vẳng đâu đây tiếng đứa con gái hai tuổi thổn thức tìm mẹ. Thi nuốt khan những cơn quặn từ ruột lên chẹn ngang cổ. Bà thím dâu nhanh tay đưa cho Thi chiếc khăn mặt ướt, vỗ về:
- Cố mà chịu con à rồi năm bữa nửa tháng về thăm một lần. Mẹ con người ta cũng là chỗ tử tế.
Thi lập bập ấp chiếc khăn ướt lên mặt hồi lâu. Đêm nay con bé sẽ ngủ với ai? Nó có tật đái dầm, ai biết chừng mà thức con dậy? Nghĩ thế Thi lại muốn chạy ra ngoài, quỳ sụp xuống lạy cha. Biết rằng ông làm dữ chẳng qua cũng vì thương con mà sợ miệng tiếng họ hàng, làng xóm. Bà dì ghẻ bước vụt vào bẻo lẻo:
- Nào các cô, xong hết cả chưa. Nhà trai đã xin rước dâu rồi.
Thi níu lấy tay dì khẩn khoản:
- Con cậy nhờ dì trông nom cháu giúp.
Dì giằng dỗi: "Cô không phải nói nhiều." rồi quay mặt đi lén chùi nước mắt. Thi cắn răng lảo đảo đứng dậy. Bước ra đến cổng có cái gì kéo níu khiến Thi quay ngoắt lại. Bên hàng rào, giữa bụi dứa dại, ai đang tâm đặt con bé con đang khóc không thành tiếng. Giằng tay cô bạn đi bên cạnh Thi định vụt chạy trở lại. Bà dì từ trong bếp xô ra, ôm chặt con bé vào lòng. Và chính giây phút ấy Thi bắt gặp ánh mắt thảng thốt của cha. Cô chỉ biết cúi đầu nhẫn nhục... Thi ngồi thu lu tận góc giường nhớ con đến quay quắt. Đã khuya lắm rồi, gian ngoài bà già chắc đã ngủ. Có tiếng đằng hắng rồi người được gọi là chồng Thi bước vào. Anh ta không nhìn cô nói nhỏ:
- Ngả lưng nghỉ một chốc đi. Chắc cũng mệt lắm.
Thi bỗng đổ xoài xuống giường, tóc xõa trán:
- Tôi cắn rơm cắn cỏ lạy anh. Cho tôi về bên nhà một nhoáng rồi lại trở sang.
Trước gương mặt ngơ ngác của người con trai, Thi lách tấm cửa liếp vụt chạy. Bằng trực giác Thi cứ hướng ra bờ sông. Có tiếng chó nhà ai sủa phía sau, rồi kế bên và phía trước... như một sợi dây âm thanh kéo suốt làng. Có tiếng người và ánh đuốc bập bùng đâu đây, mặc kệ, Thi cứ vùn vụt lao. Nỗi nhớ thương, nỗi mong chờ gặp con khiến cô không còn để ý và sợ hãi điều gì. Cuộn áo váy đội đầu, Thi rùng mình dấn thân xuống giòng sông đen sẫm và lạnh lẽo. May mắn vớ được thân cây chuối ai bỏ sát bờ đê, Thi quặc một tay vào nó và đập chân bơi. Giòng sông về đêm như rộng đến vô tận. Thi lật ngửa thả người trôi lờ đờ, chân tay chỉ khẽ quẫy nhè nhẹ. Sóng ve vuốt dọc thân cô, nước bây giờ như ấm áp hơn và đầy bao bọc. Phía trên cao xa tít thấp thoáng một vài ánh sao lẻ loi đơn chiếc. Mọi sự dường như lùi ra xa. Nếu có thể cứ bồng bềnh giữa sóng nước này. Như một ngày nào đó cô đã ở bên anh, khao khát đến muốn khóc. Có con cá nào đó đớp nhẹ ngang hông khiến cô giật bắn người sực tỉnh. Thực tại ùa trở lại.
Cô lại hối hả bơi. Cùng với những con sóng tấp xô lại cô là cả một khoảng thời gian khủng khiếp. Đêm chia tay đứt ruột giữa hai người, anh ra đi mong làm giàu để quay về cưới cô, sự sợ hãi xen lẫn vui mừng khi giọt máu của anh để lại lớn lên trong lòng. Ông chú cầm chiếc áo tơi vứt ra giữa nhà, chỉ tay vào mặt cô:
- Mày làm bại hoại gia phong cái nhà này. Sao mày không cuốn xéo đi theo cái thằng khố dây cho khuất mắt.
Ánh mắt người cha đau đớn chết lặng và nỗi hoảng hốt cùng cực của người dì ghẻ. Vẫn còn nguyên sự ngốt ngát ê chề mỗi khi bước ra khỏi nhà phải chùm hụp chiếc áo tơi lá kia. Con cô ra đời và lớn lên giữa ê chề nhục nhã của cô, chẳng được bình thường như những đứa trẻ khác. Bù vào đó nó có mẹ trọn vẹn đủ đầy hơn với nỗi trông đợi và hy vọng đầy lên mỗi ngày... Cô thở như dốc sức, ôm thân chuối bằng cả hai tay và tỳ cả mặt mình lên đó. Bây giờ hy vọng đã tan tành, anh chẳng mảy may tin tức và mẹ con cô bị xé ra khỏi nhau. Giữa giòng sông này, cô chẳng còn nuối tiếc, chỉ thương... Thi ơi... ơi! Cô choàng người vì tiếng gọi khắc khoải đuổi trên mặt sóng từ phía sau. Xa xa bên kia, dưới ánh trăng hạ tuần yếu ớt, bóng một con đò và một người đang cuống quýt chèo. Chẳng hiểu vì sao cô lại im lặng và cố sức bơi. Tiếng người con trai hổn hển hối thúc:
- Cô lên đi kẻo chuột rút bây giờ. Tôi sẽ chở cô sang bờ bên kia mà.
Cô chụp vội cái váy lên đầu kéo xuống, khoác áo cánh ra ngoài chiếc yếm ướt rồi bươn bải leo lên đê, vẫn nghe tiếng dặn dò:
- Tôi cắm sào đợi cô ở đây.
Bà dì lách cách mở khóa nhà ngang, soi chiếc đèn dầu ngang mặt cô rồi khe khẽ:
- Sao con lại về? Có chuyện gì ư?
Cô chẳng kịp nói gì, sà bên chiếc phản gỗ. Con bé đang ngủ say, môi chóp chép rồi thổn thức, thổn thức. Cô vén cánh tay mũm mĩm của con và rên lên khi thấy vết gai dứa cào. Dì lậm bậm:
- Chú của cô đấy, người đâu mà ác. Cái việc gả bán này cũng do ông ta bày đặt ra cả.
Cô ấp mặt vào bàn tay xinh xinh của con, mút mút những ngón tay nhỏ xíu:
- Dì đừng nói với ai kể cả với thầy chuyện con về. Dì ngủ với cháu đi, tối mai con quay lại.
Hôm sau chưa tối anh đã dặn:
- Hôm nay đi sớm hơn để cô về nhà được lâu. Tôi nói với u là đưa cô đi cắt thuốc.
Đêm sau nữa anh đi cùng cô vào tận sân, ngồi ngủ gật bên đống rạ chờ cô hú hí với con. Tờ mờ sáng hai người mới khẽ nhích cửa luồn vào buồng. Có tiếng bà mẹ ho khan và khẽ thở dài. Cô tái mặt quay nhìn anh. Anh lắc đầu trấn an cô rồi thì thào:
- Vào giường mà chợp mắt, tôi xuống bếp đun cám.
Tối bà mẹ lôi ra một lô những manh áo rách từ đời thủa nào:
- Mắt tôi kém nhờ chị tối nay khâu vá dùm.
Cô cắm mặt bên ngọn đèn dầu lù mù. Chắc bà ấy đoán ra rồi tìm cách ngăn cản đây. Bà ấy cũng có con sao nỡ... Những giọt nước mắt rải lên mụn vá cô đang khâu dở. Một bàn tay to ấm đặt lên vai cô:
- Cứ ngủ một lát rồi thật khuya tôi đưa cô đi.
Cô choàng mở mắt và trống ngực đập thình thình. Sáng bảnh ra rồi. Mấy đêm nay gần như thức trắng, lúc đặt mình chỉ định chợp mắt một lúc, nào ngờ. Nỗi ân hận, nỗi thương con trào lên. Bên cô người con trai cũng choàng dậy, dụi mắt ngơ ngác rồi cau có nhìn trời. Lúc sà vào bếp nhón củ khoai luộc, anh nhìn cô như ánh mắt của người có lỗi:
- Thôi thế này, sáng nay cô thưa với u về thăm nhà rồi qua chợ phiên bên ấy. Cũng phải mua thêm một vài thứ.
Trong giây lát, một ý tưởng vụt đến. Cô nhanh nhảu bê rổ khoai bốc hơi nghi ngút lên nhà trên. Anh chờ một lát rồi mới lên sau và chêm vào câu chuyện giữa hai người đàn bà:
- Nhà con tính thế là phải u ạ. Có hơn sào ruộng con vừa làm vừa chơi cũng xong. Để nhà con đi vài chuyến xem sao biết đâu lại có đồng ra đồng vào.
Con bé rúc vào lòng mẹ, bàn tay nhỏ xíu lùa vào mấy lần áo mân mê đầu ti. Cô thấy ý định của mình được củng cố thêm nhiều. Người làng ai nấy đều bơ bải đáp lại lời chào hỏi của cô. Nhiều người còn dừng hẳn lại hỏi dăm ba câu chuyện, có chị ghé sát tai cô rúc rích:
- Thế nào chồng lại thả cho đi chợ một mình ư?
Trong cô bỗng vu vơ ý nghĩ mình là gái có chồng và vừa tò mò ngượng ngùng vừa thấy thinh thích. Xế chiều cô mới quang gánh ra về. Ngoài mấy thức tiêu dùng lặt vặt, cô còn bỏ tiền riêng mua hai mảnh vải, một may cho bà mẹ và một may cho chồng. Anh đón cô từ bến, nỗi vui mừng hiện rõ trên mặt khi thấy cô từ con đò tròng trành bước ra. Cô ngoái nhìn giòng sông xoải rộng, trút hơi thở dài và quay sang anh. Lần đầu tiên cô nhìn rõ mặt chồng và nhớ lại lời ai đó nói sáng nay, anh thật khá trai. Đêm ấy, đêm đầu tiên của cuộc đời làm vợ, cô thấy thật sự mãn nguyện và hạnh phúc... Bà thường rầu rĩ mỗi khi thấy dì ngắm vuốt trước gương:
- Bằng tuổi ấy tôi đã có thêm cô rồi, đâu còn õng à õng ẹo thế kia. Lấy ai thì lấy đi cho tôi nhờ.
Đoàn địa chất không tìm thấy mỏ dầu đã lần lượt rút quân. Bến sông vắng hẳn những tiếng cười. Dì cũng ít cười hơn trước. Buổi trưa. Nắng ong ong. Tôi trườn qua chân bà ra vườn. Bên bờ ao dì xõa mái tóc mới gội, một tay cầm mảnh gương nhỏ xíu, tay kia cầm nhúm lá duối cọ răng. Hàm răng dì trắng và đều tăm tắp. Chỉ khẽ nhích môi, hàm răng đã chực cười và đồng tiền nhỏ xíu cạnh má lõm xuống. Ông thợ ảnh nào đó đã chớp được một giây phút như thế với những sợi tóc mai chải thành một dấu hỏi trước trán vừa tinh nghịch lại có gì đó đầy suy tư. Dì đã tặng một tấm ảnh ấy cho một người con trai trong đội địa chất.
- Chạy ù vào buồng, mở cái hòm gỗ lấy cho dì cái gói nylon ra đây.
Chẳng ngoái lại sau, dì sai ngay tôi khi tôi vừa chợt đến. Tôi lần sờ trong bóng tối mờ mờ. Lật cái nắp hòm đựng tư trang riêng của dì. Mùi băng phiến xông ra thơm hắc. Cái bọc nặng trĩu trong tay. Dì rải những bức ảnh lên mặt chõng mặc cho tôi ngắm thoải mái và ôm khư khư trong lòng đống sổ tay, những bì thư và lần giở từng trang. Tôi hé mắt nhìn sang và thấy trên nét mặt dì thay đổi từng phút, đôi mày tỉa mỏng đen như vệt chì lúc chau chau, lúc nhướn cong rồi tất cả bỗng chốc như giãn ra mơ màng dìu dịu... Bóng cái Lệ thấp thoáng ngoài sân, tôi bỏ mặc dì với những hồi tưởng chợt vui chợt buồn. Nó nheo mắt nhìn về phía dì, giọng đầy vẻ bà cụ non:
- Bà Thảo nhà này rồi còn khổ.
Hạ giọng đến mức gần như thì thào, nó giải thích:
- Ở làng khối anh trông cũng sạch nước cản lại nhà ngói cây mít, mê dì mày như điếu đổ. Phải người khác chắc đã mừng quớ lên. Đằng này dì mày cứ nghĩ những đẩu những đâu xa vời vợi. Người như thế có bao giờ sung sướng.
Tôi bỗng nhớ lần về trước, vừa ăn cơm tối xong, bà dặn dì trông nhà rồi kéo tay tôi sang chơi hàng xóm. Thế mà ngồi chưa yên chỗ bà lại nhấp nha nhấp nhổm muốn về. Đứng bên bụi duối đầu ngõ bà ghé sát tai tôi:
- Cháu đi thật nhẹ ra phía chái nhà, lắng nghe xem dì mày trả lời người ta ra sao rồi ra nói với bà. Mau đi.
Tôi ghé mắt qua khe cửa sổ, thấy một người trai khỏe mạnh có gương mặt hiền hiền gần như quỳ bên dì năn nỉ:
- Thảo đồng ý đi. Tôi thề sẽ chăm sóc không để cho Thảo khổ. Trông lên thì chẳng bằng ai nhưng trông xuống cái làng này thì không ai bằng mình. Về nhà tôi, Thảo không sợ khổ, Thảo chỉ việc đẻ rồi nuôi con.
Trong vầng sáng của ánh đèn dầu, tôi nhìn thấy rõ ràng dì chợt giật bắn người sau câu nói trên và khẽ nhích ra xa.
- Thảo đồng ý nhé, ngày mai tôi bảo thầy u tôi sang nói chuyện.
- Đừng, anh chưa hiểu, tôi rất quý anh nhưng không thể. Tôi không hề yêu anh, anh biết đấy.
- Thì rồi biết đâu Thảo sẽ yêu. Còn tôi thì không nói Thảo cũng biết. Tôi... Tôi chỉ mong muốn có được Thảo làm vợ.
Dì đứng vụt dậy, mặt vẫn quay vào vách:
- Không. Tôi không thể lấy ai mà tôi không yêu. Anh về đi.
Tôi rón rén trở ra. Bà thở dài không nói, quay lưng đi một mạch ra phía bờ sông. Tôi đi theo bà, cũng chẳng dám líu lo như mọi ngày. Gió mang theo hơi sông mát lạnh. Thốt nhiên bà cứ nhẩn nha nói, hết chuyện nọ sang chuyện kia:
- Lúc bà có mang dì mày thì ông đi bộ đội. Ông dặn con trai đặt tên là Thành, còn con gái tên Thảo. Là con gái chỉ mong nó giống hệt mình. Thế mà đúng thật, dì mày giống bà, cả tính tình ngày trẻ. Chỉ thương ông ấy hi sinh mà không biết mặt con. Đến khi bà cụ mất, mồ yên mả đẹp, bà mới xin phép họ hàng đưa dì về bên này. Qua sông bà cứ khóc ròng, khấn ông: "Ông thương tôi thì phù hộ cho cả ba mẹ con." Giá dì mày là con trai thì đỡ khổ. Cái người dì hẹn hò bà chẳng biết thế nào. Cứ như mẹ cháu lại hóa may, yên ổn đàng hoàng. Bố mày đâu có tìm hiểu gì nhiều đâu cơ chứ. Được cái bố cháu là người tốt, lại dễ tính. Đàn bà mà không chịu yên phận thì khổ lắm cháu ơi.
Tôi chợt thấm lạnh và run run trong lòng. Tôi quàng tay ôm chặt lưng bà và cả hai bà cháu dìu nhau về. Trước khi vào cổng bà mới dặn khẽ:
- Đừng nói với dì là bà cháu mình nghe chuyện nhé.
Cái Lệ phát vào vai tôi:
- Tao nói thế mà mày cũng giận hay sao? Ấy là tao nghe người làng bảo vậy.
- Bảo sao?
- Thì bảo dì mày cứ kén cá chọn canh, rồi đến lúc trai làng cũng hết thì chỉ có nước ế.
Tôi giật phắt cánh tay cái Lệ trên vai xuống và chỉ muốn nổi xung lên với nó, với tất cả mọi người ở cái làng này. Tại sao họ không để cho bà tôi và dì tôi được yên kia chứ. Mà có xa lạ gì cho cam, toàn là họ hàng làng nước cả đấy. Cái Lệ sán lại bên tôi:
- Thì nói thế chứ ai chẳng mong dì mày lấy chồng. Này có ra đồng với tao không, đòng đòng ngọt lừ.
Từ nhỏ về làng, theo bọn trẻ ra đồng, tôi đã mê đòng đòng. Chẽ nhánh lúa, rút lên cái đòng đòng tròn thây lẩy. Tước lượt vỏ mỏng như lụa, bông lúa non đổ ra, ngọt mát và có vị không sao tả nổi, của nắng, của sương hay là của gió. Nhìn cái Lệ ăn ngon lành, một nhành lúa trắng như sương còn ngậm bên mép, tôi bỗng thấy ơn ớn bởi một sự liên tưởng. Không nói câu gì, tôi bỏ nó chạy một mình. Giữa đồng có một chiếc ao rộng, nước im lìm và trong vắt. Một mình giữa đồng không, trưa nắng, vẫn nguyên cái cảm giác hồi hộp như thuở nào, tôi nhìn sâu xuống đáy nước. Muốn tìm lại bầu trời vợi xa bí ẩn cùng những điều tưởng tượng nhiều khi sợ đến rùng mình. Không còn gì khác ngoài sự chóng mặt và ngộp thở. Cảm nhận rõ ràng nhất dội lên trong tim là khoảng cách vô tận giữa tôi với bầu trời thẳm sâu sẫm màu bất động phía dưới. Tôi chợt thấy mình lẻ loi đơn độc và yếu ớt làm sao. Lệ tò mò nhìn tôi:
- Sao bỗng dưng mày buồn thế?
- Không hiểu. Tự nhiên chỉ thấy buồn muốn khóc.
Nó lại càng không hiểu:
-Tự nhiên lại buồn được à? Lạ nhỉ. Tao thì chỉ buồn khi có một cái cớ gì đó. Ví như buồn vì không thể may được cái áo đẹp như mày đang mặc. Nếu có nó, tao sẽ vui hàng tháng trời chưa hết.
Tôi không khỏi cảm thấy tức cười trước cái điều nó thổ lộ. Thảo nào nó luôn mắng tôi là đứa cả thèm chóng chán. Tôi không bỏ lỡ dịp để trêu:
- Con gái ở quê hay lấy chồng sớm, thế có buồn không?
Lệ chợt thừ người nghĩ ngợi:
- Tao chỉ mong kiếm được một anh trai làng khỏe mạnh biết thêm một nghề phụ, nghề mộc chẳng hạn. Rồi xin nhà chồng ra ở riêng như các chị ấy bây giờ. Tao nghĩ xin được miếng đất xóm Tre là tốt nhất, gần sông lại mát, nuôi cá cá lớn, nuôi lợn lợn ngoan. Hôm nọ vào chơi nhà chị Tình, tao cứ thầm ao ước sau này được như thế. Nhà cao rộng rãi, gió sông cứ thốc vào lồng lộng. Bếp và chuồng lợn xây một dãy dài, bể nước mưa ăn quanh năm. Chị ấy là sướng nhất làng đấy.
Tôi trố mắt ngạc nhiên. Là con bé Lệ mọi ngày mà tôi chẳng chịu gọi bằng cô đấy sao? Rồi tôi giật mình nhìn lại. Tôi chẳng còn là trẻ con ít lâu nay, hay chính xác hơn bắt đầu từ hôm nay còn gì. Dì tôi lấy chồng. Không phải cái người trong đoàn địa chất mà là một anh chở thuyền vôi. Bao người ngăn: "Mười hai bến nước là mười hai bến tình, ghé đâu chẳng là nhà..." rồi: "Chỉ sợ cũng bạc như vôi..." mà dì không nghe. Chả hiểu dì mê chú ấy ở điểm gì, vẻ phong trần dạn dày sương gió hay gương mặt nâu rám rắn rỏi rất đàn ông? Không biết. Chỉ thấy dì thoắt nói thoắt cười và cái hạnh phúc cứ lồ lộ ra không giấu giếm. Bà và mẹ không vui nhưng dì đã 28 tuổi và điều an ủi là dì chẳng phải sang tỉnh bên xa tít làm dâu mà được ở nhà với bà. Hơn năm sau dì sinh thằng cu. Hai năm sau nữa thì cứ cuối tháng dì dắt thằng bé xuống tận bến sông cuối xã đợi chồng. Năm thứ ba thì chẳng thấy chú ấy qua lại lần nào. Mẹ tôi và ông cậu họ tìm về tận quê nội của đứa con dì. Tôi đã lớn và hiểu ra chút ít. Mẹ và cậu về bàn cả với tôi:
- Vợ nó ở nhà cũng đẻ được thằng cu đầy tuổi. Họ bảo nó rất ít khi về nhà. Sợ rằng tre lại ấm bụi nảy măng nơi nào rồi.
Dì lao vào làm hùng hục như trâu, chẳng còn đâu cái cô gái thích la cà đàn đúm ngày nào. Dì trồng màu cấy lúa, nuôi lợn thả cá. Rảnh ra ngày nào là chạy chợ. Có người làng độc mồm bảo dì đen tình đỏ bạc. Rồi dì phá căn nhà thấp lè tè ngày trước, xây lên căn nhà ba gian mái bằng rộng rinh rang. Bà và mẹ mừng ra mặt. Cả làng xúm vào khen và ghen tị với dì. Chỉ có tôi là buồn. Tôi thích căn nhà cũ, tối tối ẩm ẩm với nền đất nện mát lạnh chân. Tôi nhớ bờ tường đất sau nhà có hàng dứa và những cây dương xỉ ngày xưa vẫn vặt chơi đồ hàng. Cả nhà đều cười tôi ngớ ngẩn duy chỉ có dì không nói, nhìn tôi với ánh mắt là lạ đầy chia sẻ. Mẹ tôi nhắn về ngay dì ốm. Tôi nhảy tàu chiều ở Hà Nội, xuống ga gần làng, thuê xe ôm bổ về. Dì ngồi góc giường, cánh tay trái quấn băng treo lên cổ. Bà nghe tiếng tôi, bật lên tức tưởi:
- Cháu về mà xem dì bị người ta đánh thành tật đây này. Mẹ góa con côi ai cũng bắt nạt được.
Rồi bà đứng đầu hè nói rõ to:
- Cháu bà làm ngành tòa án nó về đây rồi. Nó sẽ kiện các người ra tòa, cho các người đi mà hầu kiện.
Thì ra dì đi xin bèo tấm cho cá ăn. Mải quá vớt lẫn cả sang nửa ao của nhà kế bên. Lời qua tiếng lại, anh chồng bị vợ xúc xiểm cầm đòn gánh phang dì.
- Thế ai mới được chứ?
Tôi sốt ruột hỏi, trong đầu tưởng tượng ra ngay phiên tòa, bắt cái kẻ kia đứng trước vành móng ngựa. Bà tôi lại được dịp đứng giữa sân la làng:
- Còn ai vào đây nữa. Cái quân trở mặt, thất đức, cứ tưởng tử tế hiền lành. Ai ngờ...
Cô Lệ nói thầm vào tai tôi:
- Thì nhà anh...
Tôi đớ người. Cái người ngày xưa đã quỳ bên dì van vỉ đó sao: "Tôi không bao giờ để Thảo khổ, Thảo nhận lời tôi nhé, tôi chỉ yêu mỗi Thảo thôi..." Cậu họ tôi chạy ra sân kéo tay bà:
- Bà không phải phí lời. Ngày mai tôi và cháu nó sẽ lên xã, lên huyện, lên tỉnh kiện cho chúng phải đi tù mới hả.
Tôi chợt giận sôi người:
- Sao mà họ ác thế?
Cô Lệ kéo tay:
- Anh ta cũng không phải là người ác, chỉ có cái cục, lại vớ con vợ lắm điều, cay nghiệt. Họ bắt chước chị Thảo nuôi cá nhưng vụ rồi chết gần hết, đâu được như nhà mình. Họ cũng ghen tức...
Chợt nhớ ra tôi hỏi cô Lệ:
- Thế cô có thả cá không?
- Không. Nhà anh ấy đông em, có cái ao giờ cũng đổ đất để chia. Đất ở quê bây giờ đắt lắm.
Tôi chợt nhận ra chiếc áo năm nào tôi cho giờ đây Lệ vẫn mặc, dù nó đã xơ hết vải chỉ còn mỏng tanh lõi nylon và ngắn cũn cỡn. Tôi phải cố nén tiếng thở dài và kín đáo quay sang phía khác. Sớm tinh mơ tôi trở dậy, ra sân tập thể dục rồi rúc vào bếp ôm lưng bà cù nách. Bà chẳng bao giờ có máu buồn, chỉ mắng yêu:
- Cha bố cô, có phúc thì tôi được ăn cỗ rồi chứ còn đâu làm nũng bà thế này. Sơm sớm tìm hiểu mà lấy chồng đi cháu ạ. Chứ như dì mày đấy...
Tôi sợ cái điệp khúc muôn thủa ấy liền lần thắt lưng bà lấy chùm chìa khóa:
- Để cháu ra mở cổng rồi đánh thức thằng Bi dậy đi học.
Giật thót người, tôi lùi lại dụi mắt. Người đàn ông có gương mặt đần đần cam chịu nhìn tôi khẩn khoản:
- Xin cô để tôi vào nói chuyện với bà. Tôi biết tội tôi rồi. Cô và bà cho tôi xin, thuốc men thế nào tôi chịu tất.
Chẳng còn lòng thù hận, chỉ có chút khinh bỉ, thương hại, tôi tránh sang bên cho ông ta đi vào. Đứng bên bờ ao thoảng nghe trong nhà tiếng rì rầm năn nỉ, tiếng bà tôi chao chát. Ông ta cúi đầu đi ra, lẩm bẩm câu gì đó như chào. Tôi vào nhà, bà vồ lấy tôi:
- Đấy cháu xem, dì mày không đi kiện thì cũng băm bổ vào mặt nhà nó chứ. Rồi nó cũng không xong với bà đâu.
Dì ngoảnh đầu ra nói mỗi câu: "Thôi tha cho người ta làm phúc u ạ." và quay mặt vào vách im lìm. Bà tôi đứng sững, hai tay nâng vạt áo chấm chấm khóe mắt, thở dài đi xuống bếp. Chiều muộn, dì rủ ra sông cho mát. Ngồi bệt trên đê thả duỗi chân khoan khoái, tôi mơ màng nhìn những cánh chim chao lượn trên mặt sông, cánh đong đưa chút nắng cuối cùng của ngày. Ánh mắt dì nhìn hút theo con thuyền máy như vội vã chạy đuổi theo bóng mặt trời đang lặn. Dì chợt cất tiếng:
- Quần áo cũ hôm nào cháu dồn lại gửi về dì mang cho cái Lệ.
- Cháu ngại...
- Ôi dào người nhà quê không khách khí như ở tỉnh các cô. Cốt là cách cho hơn của cho. Vợ chồng nó chật vật lắm. Thằng chồng lại sa vào rượu chè cờ bạc. Trưa nọ dì có việc vào nhà nó, hai đứa bé một lên năm, một lên ba ngồi ăn cơm trong xó bếp. Chỏng chơ giữa mâm có mỗi bát ngọn lang luộc và chút mắm. Âu một bữa thế ở quê cũng là thường. Nhưng trưa sau, rồi trưa sau nữa sang vẫn thấy y như thế. Mà hai đứa bé chúng nó ăn mới ngoan làm sao.
Thế mà ngày xưa Lệ mơ ngôi nhà rộng cùng vườn cây ao cá và tưởng tượng mình đảm đang tháo vát vun vén cho cái cơ ngơi ấy. Tôi chợt thốt ra lời:
- Đàn bà kiểu gì cũng khổ.
- Thế còn chuyện riêng của cháu?
Dì chờ đợi chăm chú. Tôi gắng cười thật giòn cho câu chuyện đừng trở nên nghiêm chỉnh:
- Những kẻ yêu cháu thì cháu không yêu. Còn những người cháu yêu thì họ lại chẳng yêu.
Dì lắc đầu, cánh tay khỏe khoắn còn lại vẹt những sợi tóc mai cong cong thành vô số dấu hỏi trước trán giắt vào hai vành tai:
- Dì cũng chẳng biết khuyên cháu thế nào. Như bà cũng khổ, như dì cũng chẳng sung sướng gì hơn...
Hình như những người đàn bà có tóc mai quăn đều vất vả. Tôi bỗng nhớ ra cái điều ai đó đã nói. Và tôi cũng lờ mờ nhận ra điều này. Nhiều buổi chiều dì vẫn ra bờ sông ngồi, trong lòng vẫn nhen nhóm hy vọng có ngày chiếc thuyền xưa ghé lại. Đã xâm xẩm tối. Làng xóm bên sông chìm trong hiu hiu buồn. Tôi nghĩ ngày mai mình phải trở dậy lúc năm giờ sáng để kịp chuyến tàu đầu tiên về Hà Nội. |
| | | Tinh Hoa
Tổng số bài gửi : 1060 Registration date : 19/01/2020
| Tiêu đề: Re: Truyện ngắn Việt Nam Tue 06 Oct 2020, 14:44 | |
| Người đợi vầng trăng (tác giả: Thái Đào)
Tôi nằm trên xe kéo, và con bò kéo chiếc xe đi. Người tôi lên cơn sốt, nóng hầm hập. Ông già đã đắp cho tôi tấm chăn, ba manh chiếu, thế nhưng người tôi vẫn thấy lạnh. Lạnh từ xương sống lạnh ra. Cơn sốt kéo đến đã dài ngày làm tôi suy kiệt. Cổ tôi đắng như chàm và tai ù đi. Chiếc xe vẫn chậm rãi lăn bánh. Con bò vẫn chậm rãi từng bước một kéo chiếc xe đi. Tôi mở mắt nhìn lên trời. Mây xám xịt. Ông già ngậm điếu thuốc lá đi theo xe. Đường ra phố huyện còn những mười cây số. Em Hảo đi sau lưng ông già cũng ngậm tăm không nói một lời. Chỉ phố huyện mới có nhà thương. Không hiểu ông già trong túi còn đủ tiền để trang trải viện phí và thuốc men cho tôi không. Nước mắt tôi chảy ra. Ông có mắc tôi món nợ ân nghĩa nào mà ông phải trả cho tôi. Tôi với ông nào có bà con máu mủ chi, cớ sao ông tốt với tôi đến thế. Ông vớt mẹ tôi trong buổi đắm đò rồi lo ma chay tống táng. Ông vớt tôi lên từ giòng sông trong cái đêm tôi chán đời nhảy ùm xuống đó. Ông cưu mang, bao bọc tôi suốt những ngày tôi hoạn nạn, lao đao.
Tôi đau dài ngày, tôi chết đi sống lại nhiều lần mà ông vẫn chưa tống cổ tôi ra khỏi nhà ông, chưa phủi sạch lòng tốt của ông đối với tôi. Ông già vẫn lầm lì không nói. Tôi đã sụp lạy ông mấy lần, cảm ơn ân nghĩa của ông. Tôi mở mắt, nhìn trời. Khốn nạn những gã thầy thuốc làm tiền bệnh nhân. Chúng ngốn của tôi không biết bao nhiêu tiền mà không chữa khỏi bệnh cho tôi. Đầu tiên chúng bảo tôi cảm hàn vì nhảy xuống giòng sông trong cái đêm lạnh rét đó. Sau chúng bảo tôi suy nhược thần kinh. Và sau nữa chúng bảo tôi có triệu chứng tâm thần. Chắc tôi hội đủ những chứng bệnh chúng nói. Phải chở tôi lên bệnh viện huyện thôi. Em Hảo ngồi khóc với tôi. Nước mắt em chảy ròng ròng. Em yêu thương tôi. Em muốn gá nghĩa vợ chồng với tôi. Trời đất ơi! Tôi với em mà làm vợ chồng thì khổ cho em suốt một đời. Em phải nuôi báo cô tôi một đời. Thằng Hải râu, trùm du côn ở bãi chợ đã cười vào mặt tôi:
- Mày là một thằng con trai không có cu, hiểu chưa. Hèn như cứt. Thế mà cũng bày đặt thương yêu. Lại yêu con gái ông chủ xưởng cưa, hoa khôi làng này. Hẹn mày ba ngày phải cút khỏi làng.
Tôi trả lời hắn bằng cách... ba ngày sau không cút khỏi làng, còn đâm hắn một dao. Hắn võ nghệ cao cường tránh khỏi đường dao ác hiểm và đánh gục tôi xuống bãi chợ, mặt dúi vào bãi phân chó. Từ đó tôi nổi danh là thằng hèn và thù hắn suốt đời. Thằng Hải râu không si mê con gái ông chủ xưởng cưa nhưng là tay đầu nậu, anh chị của làng này. Hắn bảo kê cho một gã kỹ sư trẻ mà tôi chắc mười phần mười là cái bằng kỹ sư đồ dởm kia được mua ở chợ trời chữ nghĩa. Thằng kỹ sư đã theo đuổi để chiếm đoạt bông hoa của làng. Bù lại thằng kỹ sư phải cung phụng cho Hải râu tiền bạc, rượu chè, xe cub để hắn phởn phơ. Bọn chúng còn tiếp tay nhau trong những dịch vụ làm ăn khác. Tôi tức đến vỡ mật, giở đủ trò đối phó mà chẳng làm nên trò trống gì. Vì tôi thế cô, lại nghèo kiết xác. Thế là mối tình đầu của tôi để cho gió thoảng mây bay. Tôi đã khóc nấc như một thằng bé lên ba. Em Hảo đã lau nước mắt cho tôi, dỗ dành tôi suốt thời gian đó. Em khen tôi xinh trai, là đứa nổi trội nhất vùng này.
Trời phật ơi, có phải như vậy không? Thế sao em Phượng nỡ bỏ tôi cho đành. Em tránh tôi như tránh một thằng hủi. Học xong cấp ba trường huyện tôi chia tay em Phượng. Em học tiếp trường sư phạm để ra làm cô giáo. Còn tôi trở về quê nổi trôi đời mình trên mảnh ruộng sâu, vung vãi tuổi trẻ trên những luống cày với con trâu đi trước. Không cam đành với mình, tôi lang thang như thằng du thử du thực. Đó là thời kỳ đen tối nhất của tôi. Tôi vừa mất tuổi học trò hoa bướm, vừa chia tay với mối tình đầu đẹp như những trang thơ, thì một đại họa đổ xuống đầu tôi. Mẹ tôi bị tai nạn trên một chuyến đò xuôi. Nước bạc màu, xác mẹ ba ngày sau mới vớt được. Tôi trở nên cuồng điên mất trí, hoảng loạn tâm thần. Tôi không có cha. Lý lịch trích ngang của tôi mất bố. Mẹ sinh ra tôi, còn bố cuốn dù đi đâu không thấy. Người đàn bà đẻ tôi ra ở vậy nuôi tôi, chắt chiu cho tôi cơm áo, đắp đổi cho tôi sự sống và cuộc đời. Bây giờ bà cũng xuôi tay rũ bỏ trần gian, bỏ tôi bơ vơ lạc lõng. Tôi trở nên con thú ngậm trái độc cũng vì lẽ đó.
Em Hảo khóc rất nhiều đêm. Em ghen với mối tình đầu của tôi. Nhưng làm sao tôi có thể quên cho được. Tôi đâm đầu nhảy xuống sông khi nhà Phượng giăng hoa kết đèn làm đám cưới. Tên kỹ sư trẻ đã chiến thắng, cướp được hoa khôi làng này. Tôi mài một con dao sắc lẹm nhưng ông già lấy đi. Ông lắc đầu bảo đó là đồ trẻ nít. Không ai đòi lại tình yêu bằng gươm dao. Tôi xấu hổ gục đầu, thấy mình vẫn chưa khôn lớn được. Và tôi thiếp đi cùng cơn đau cùng cực. Cơn bệnh trở nên dữ dội từ ấy. Chiếc xe vẫn chậm rãi lăn bánh. Tôi mơ thấy giòng trăng trôi lềnh bềnh trên con sông quê tôi. Ôi em Phượng đẹp làm sao. Em trần truồng khỏa mình trong con nước. Đó là đêm trăng nhiều năm trước, trong khuya khoắt tôi đi câu găm về bắt gặp em một mình tắm trăng tắm nước. Tôi ngồi chết lịm trong bụi sim già theo dõi em đến cùng. Từ đó hình ảnh em cứ bám riết đầu óc tôi. Tôi mang nó vào lớp học. Tôi mang nó đi dưới những rặng tre già. Tôi mang nó trên con đường gồ ghề chạy từ quê lên ngôi trường phố huyện.
Người tôi bứt rứt đau đớn. Hồn tôi khắc khoải kiếm tìm. Tôi thường lần ra bến trăng ngồi đợi trăng lên. Rồi tôi đổ ra si mê em. Rồi tôi đổ ra anh hùng hảo hớn suốt thời cấp ba để chiếm được tình yêu của em. Tôi lội sông lội nước, dầm mưa dãi nắng, cuốc bộ hết mọi khoảng đường dài để làm đẹp lòng em, thực hiện những điều em nhờ vả. Em đã để tôi hôn lên má, hôn lên tóc, hôn lên môi... Ôi! Đời tôi không thể nào quên được những nụ hôn đầu run rẩy đó. Cơn sốt vẫn hầm hập kéo đến. Người tôi run lên trên chiếc xe bò. Tôi đã mất Phượng. Con gái đẹp không có trái tim chung thủy. Người ta nói thế có đúng không? Tôi nghiến răng kèn kẹt. Mài dao đi thanh toán nợ tình là trò trẻ nít, thế thì tôi phải làm gì? Ôi bến trăng! Hằng đêm tôi ngồi đợi trăng lên mà không có em, Phượng ơi! Tôi đã lang thang đầu thôn cuối bãi, vất vưởng như đứa mất hồn. Tôi như loài đom đóm chập chờn bay lại vườn xưa mà có ai chờ ai đợi đâu. Chiếc xe bò vẫn chầm chậm lăn bánh và tôi vẫn triền miên mộng mị với cơn sốt lên cao.
Ba tháng chạy chữa thuốc thang ở nhà thương huyện tôi trở nên béo tốt, lành mạnh. Ông già đã bán sợi dây chuyền vàng năm chỉ để lo cho tôi. Thế là tôi sống được nhờ vào tất cả gia tài của ông già. Từ đây ông già không còn chi để hộ thân, hộ thổ. Em Hảo có đi lấy chồng cũng không chút của hồi môn. Thêm lần nữa tôi quỳ lạy ông già, nhưng ông lắc đầu xua tay. Thêm lần nữa tôi ái ngại cầm tay em Hảo cám ơn công dày cứu mạng, nhưng em cũng lắc đầu ngồi khóc. Tôi biết đời tôi đã mắc một món nợ lớn lao mà dẫu có trả bằng sinh mạng cũng không tròn được. Tôi âm thầm khấn nguyện trời đất cho tôi bình yên tỉnh trí, nguôi đi những cơn đau xé gan đứt ruột. Tôi không dám ra khỏi nhà. Thằng Hải râu với vết đòn hằn còn đó. Mối tình em Phượng với cơn đau nhức nhối vẫn còn đây. Tôi cắn răng nuốt nỗi uất nghẹn xuống đáy lòng. Ông già dạy tôi võ nghệ. Ông công, ông thủ, bàn tay chém vào khoảng không trước mặt dũng mãnh như chém vào kẻ thù. Ông tung chân đá vun vút, tưởng như sống lại thời trai trẻ trong khí phách hào hùng.
- Mày chết rồi. Tao cứu mày sống lại. Vậy mày là của tao. Tao dạy mày phải vâng lời. Học đi. Học cho kỹ. Kẻ có tiền bạc dùng sức mạnh tiền bạc. Còn mày với tao, muốn sống tử tế, ngoài trái tim và cái đầu phải có sức mạnh cơ bắp.
Thời kỳ này em Hảo vẫn chợ mai chợ hôm, buôn thúng bán mẹt. Em bán tuổi xanh theo từng mẹt hàng trong những buổi chợ buồn thiu. Ánh mắt em cất giấu nỗi buồn. Tình yêu em cất trong cõi lòng thầm kín. Nhan sắc em không nở rộ trong mùa con gái, nên em khép nép cõi lòng, đắng cay cam chịu thiệt thòi trước bạn bè trang lứa. Ông già thường trầm ngâm nhìn Hảo. Ông hút thuốc liên hồi. Ông nhả ra từng ngụm khói trắng và say mê nhìn khói thuốc bay.
- Ngày xưa, giòng sông này tao cũng bị những vết cắt đến buốt tim. Chúng mày không biết đâu. Tao bỏ làng ra đi cũng vì si mê một người con gái. Mả mẹ nó! Trò đời lộn ngược, trời đất xoay chuyển thế nào mà tao lại gặp chúng mày.
Rồi ông cười rộ lên không thèm nói nữa. Tôi học những ngón võ tuyệt độc đó trong mấy tháng trời. Tung cước. Phạt ngang. Đá dọc. Xòe tay chém tới. Đêm nào tôi cũng mình đẫm mồ hôi, đánh vun vút với gió trời và trăng lạnh. Lòng tôi có mối hận với người đời. Đời tôi cũng chịu ơn sinh tử với người đời. Nên tôi phải khổ luyện mình sắt đá, cứng chai. Tôi phải ngửng cao đầu đi tới. Cúi đầu thua cuộc là hèn lắm. Bõ bèn chi cũng một đời người được sinh ra. Phải bước qua cái khốn cùng tã rách. Phải sống hồng hào da thịt, oai vệ bước đi. Mãi cho đến một buổi chiều khi mặt trời chưa tắt hẳn, ráng chiều còn ối đỏ cả trần gian. Ông già bày ra giữa sân mâm rượu, gọi tôi ngồi đối ấm.
- Mày là đứa con của tao. Ngay hôm nay mày phải gọi tao bằng bố. Còn Hảo là em gái mày. Từ lâu trong lòng nó thương thầm mày nhưng hôm nay dứt khoát chúng mày là anh em. Chỉ có tình ruột thịt, không được có tình trai gái. Phải sống cho có đạo lý, luân thường. Chúng mày nghe rõ chưa. Hãy thắp hương khấn nguyện đất trời chứng giám, lũ chúng mày là con của tao, là anh em ruột thịt của nhau.
Tôi trố mắt nhìn ông già. Còn em Hảo vẫn thầm lặng lau nước mắt như tự thuở nào... Bằng sinh lực của mấy chục năm dồn lại, làng tôi bỗng chốc thay da đổi thịt. Một phố làng sang trọng mọc lên ở ngã tư xóm Đồng. Ngã tư này là trung tâm điểm của tám xã vùng lúa. Mạch giao thương ở đây rất lớn. Ông chủ xưởng cưa Vạn Phúc đã xây ngang xây dọc một dãy nhà dài. Cửa hàng vật liệu xây dựng. Cửa hàng vật tư nông nghiệp. Đại lý thu mua gạo. Cửa hàng đồ mộc gia dụng và mỹ nghệ. Hóa ra chỉ sau mấy năm cơ chế thị trường, nhu cầu ăn ở sang trọng đã thấm dần vào máu huyết người dân làng tôi. Ngày đêm tiếng nhạc bập bùng. Hàng hóa tràn ngập phố làng, phố chợ. Lại xuất hiện những em xinh đẹp, tóc cắt ngắn như con trai, ưỡn ẹo tập hát những bản tình ca với giọng gào thét. Quán karaoke. Nhà hàng đồng nội. Quán cầy tơ. Quán bia ôm với những cô nàng khêu gợi. Rượu bia và khuôn mặt đỏ gay của những gã đàn ông, nhởn nhơ và phát triển cùng phố làng, phố chợ.
Với tấm bằng kỹ sư, cậu rể quý của ông chủ xưởng cưa bao thầu cơ man công trình xây dựng, thậm chí cả đường xá, cầu máng. Hắn chạy suốt ngày trên xe hơi đời mới. Em Phượng tốt nghiệp sư phạm, thành bà chủ ngồi quản lý rất nhiều cơ ngơi buôn bán. Chỉ mấy năm mà em đẫy đà ra, cái dáng ngày xưa mất tăm vào cổ sử. Rồi chia huyện. Huyện mới chọn ngã tư xóm Đồng làm trung tâm huyện lỵ. Đất đai thành của báu. Kẻ giàu có nhất phố huyện bây giờ là ông chủ Vạn Phúc. Cặp vợ chồng hạnh phúc nhất huyện bây giờ là gã kỹ sư và em Phượng. Còn kẻ ngậm đắng nhất trần gian bây giờ là tôi. Bố con nhà Vạn Phúc phát đạt làm tôi tức nghẹn. Họ bị phá sản, bần cùng chắc chắn lòng tôi sẽ hả hê. Tôi phải nhập cuộc chơi cho tới bờ tới bến. Tôi là thằng tã rách, có gì mà sợ. Đầu tiên, tôi đánh gục thằng Hải râu ở bãi chợ. Ngày xưa hắn tay không mà đánh gục được tôi với con dao nhọn. Hôm nay sự thể khác rồi. Hắn lạy tôi như tế sao. Thì ra hắn cũng sợ chết. Hắn thề sẽ tránh xa tôi. Mặc kệ tôi trong ân oán nợ tình xưa cũ. Tôi cười khan.
Ngón đòn chơi khăm là những cú điện thoại. Tôi báo kiểm lâm tỉnh về những chuyến gỗ lậu nhà Vạn Phúc bí mật chở về cất giấu. Tiếp đến tôi chặn tất cả xe hàng về đong lúa gạo ở nhà đại lý Vạn Phúc. Phải làm luật thật nặng mới cho vào bốc dỡ. Xe nào không nghe, bể kính vỡ lốp. Tài xế bước xuống xe lập tức có năm ba thằng say rượu lễ phép đến xin tiền. Hải râu hết thiêng, bọn đàn em hắn đã theo phò tôi. Rừng nào cọp nấy. Tôi mài giũa móng vuốt để làm cọp. Thế là ông Vạn Phúc phải ra mặt điều đình với tôi. Với vẻ sành đời làm nên sự nghiệp từ tay trắng, ông chủ Vạn Phúc hiểu được cái giá của những thằng liều dám chơi dám chịu, chơi hết mình, chơi tận số. Ông cười thân ái, vỗ vai tôi như người trong nhà:
- Cậu giỏi lắm. Tôi nể mặt cậu. Đúng là tay anh chị. Nhưng quấy phá nhau hai bên đều bất lợi. Hợp tác làm ăn đi. Tôi giao việc cho cậu, trả tiền cho cậu. Công việc của tôi nhiều lắm, cần những người như cậu.
Tôi mỉm cười bắt tay ông. Bất tất ông có ý đồ gì, tôi sẵn sàng nhận tiền của ông, hợp tác với ông. Con đường của tôi còn dài. Phải thấu hiểu đạo lý của lẽ sinh tồn. Năm tháng dần trôi. Con dao tôi mài trong tim chực đâm gục cha con nhà Vạn Phúc chưa kịp sắc thì gã kỹ sư bị tòa gọi. Công trình thi công gian dối, cầu máng sụp đổ, nhân công tử nạn. Nguy cơ ở tù đang đến với gã. Em Phượng xanh tái mặt mày ngược xuôi chạy chọt lo toan sự cố. Ông Vạn Phúc già đi trông thấy. Vận may không chiếu cố ông nữa. Dính dáng một vụ phá rừng khai thác gỗ lậu, ông tiêu tán gần sạt gia tài. Ông thu nhỏ các đầu mối làm ăn lại. Chiều chiều ông ngồi đăm chiêu nhìn về phía giòng sông. Người ta đồn rằng thời trẻ ông xông xáo đến đâu được đấy. Chuyện tình ái của ông cũng thế. Ông là người trăng gió có lắm đàn bà. Tôi ghê tởm ông và tiếp tục moi tiền của ông. Cho đến một buổi chiều. Khi tôi từ một tỉnh xa về, bàn thờ mẹ tôi đèn nến sáng trưng. Ông già bố nuôi tôi đang thành kính dâng hoa. Có điều gì vừa xảy ra mà em Hảo đứng khóc.
Ông già gọi tôi ngồi xuống. Một chuyện xưa đem kể lại. Thì ra, cái ngày xa xưa đó, người đàn bà làm ông già bỏ làng ra đi chính là mẹ tôi. Ông yêu bà si mê nhưng trái tim bà lại đem cho một người khác, xinh trai hơn, linh lợi hơn. Oái oăm là sau mười năm phiêu bạt đất trời kiếm ăn, ông trở về làng mới hay người đàn bà ông yêu quý cũng có một số phận không tốt đẹp gì. Mẹ tôi bị lường gạt tình yêu. Gã đàn ông phóng đãng kia chẳng thèm hay biết gì đến mẹ tôi. Mẹ âm thầm đau khổ với cái bào thai trong bụng là tôi. Tôi được sinh ra, nuôi lớn nhờ một tay mẹ trên những chuyến đò dọc buôn ngược buôn xuôi. Mấy lần ông già xin tác hợp với mẹ tôi mà bà không đồng ý. Ông chạy đuổi theo bà, còn bà cay đắng nghĩ đến người xưa. Chuyện kể buồn quá, tôi ngồi nghe ông già mà rưng rưng nước mắt. Đến khi hương trên bàn thờ đã tàn, chai rượu ông uống đã cạn, ông già đứng dậy hướng về em Hảo với giọng kê nồng mùi rượu:
- Nó là em gái mày... một cha khác mẹ với mày.
Cái tin bất ngờ đó làm tôi xiêu đổ. Miệng tôi cứng đi, chưa kịp nói năng gì ông già đã buồn bã tiếp lời:
- Cái gã đàn ông trai lơ đó cái gì nó cũng được. Nó là con người linh lợi, đĩ thõa miệng lưỡi. Nó toàn gặp điều may mắn. Cái gì tao cũng thua nó. Nhưng nó không có trái tim. Nó lừa gạt người ta mang bầu rồi bỏ. Mẹ con Hảo cũng thế, lên thành thị, cùng đường định đem con đi cho, gặp tao người cùng làng, bà kể hết sự tình. Tao thương tình lại đơn độc, nhận đứa con về nuôi hơn hai chục năm nay cho có bầu bạn.
Rồi ông già chậm rãi từng bước một xoay về phía tôi. Cặp mắt ông đỏ rực:
- Và cả mày nữa. Tao cứu sống mày, cưu mang mày, đùm bọc. Tao không phải là thằng rồ thằng dại. Ở đời, có ai đi nhặt nhạnh những đứa con rơi rớt của kẻ tình địch xưa mà nuôi nấng như con đẻ?
Ôi ông trời! Sao lại có chuyện trớ trêu đến thế. Ông già bỗng bật khóc. Cái tiếng khóc khàn khàn giữa buổi chiều lạnh giá làm buốt cả đất trời. Tôi gục mặt xuống và em Hảo không chịu đựng được nữa òa khóc to lên.
- Bây giờ thì chúng mày hãy lên bệnh viện đi. Hãy dùng chính máu của chúng mày để truyền cho lão. Lão bị tai nạn đúng một giờ trước đây. Người ta đang còn cấp cứu cho lão, đang cần máu truyền cho lão. Tao cầu nguyện đất trời cho lão sống. Lão phải sống để nhìn tao đã thắng lão. Tao thắng lão bằng con đường nhân nghĩa, không phải như lão xưa kia đã dùng những trò mèo đểu giả mà chiến thắng người ta. Cái chiến thắng đó kinh tởm lắm, phải bị quả báo... Chúng mày đi đi.
Không chịu đựng nổi nữa, tôi hét to vào tai ông già:
- Nhưng lão ta là ai? Bố thật của chúng tôi là ai?
Ông già gục xuống, giọng rên rỉ:
- Lão già Vạn Phúc là bố của chúng mày.
Như một quả bom vụt nổ, cả tôi, cả em Hảo bật tung lên... |
| | | Tinh Hoa
Tổng số bài gửi : 1060 Registration date : 19/01/2020
| Tiêu đề: Re: Truyện ngắn Việt Nam Tue 06 Oct 2020, 18:05 | |
| Nghĩa địa xóm Chùa (tác giả: Đoàn Lê) Dù sống dù chết, có láng giềng tử tế là điều đại phúc. Do vậy tôi vẫn mừng thầm. Số mình sống không may mắn, khi chết lại khác. Từ ngày ra nhập tịch nghĩa địa xóm Chùa tôi được sống trong cảnh chan hòa tình người, tối lửa tắt trăng có nhau vui vẻ. Tôi nằm ở mẩu đất đầu cùng nghĩa địa. Hàng xóm phía tay phải tôi là lão Hớn, về đây đúng hôm rằm trung thu, sau tôi hai tháng. Phía trái, cụ Bạch mù. Phía trên đầu tôi anh trung sĩ Tạo, thuộc diện dân cư lớp trước, sắp kỳ giỗ thứ hai. Chúng tôi sống rất hòa thuận, phải đạo. Tôi vẫn có ý chờ xem người hàng xóm thứ tư, người nằm hàng dưới chân tôi sẽ ra sao. Hãi nhất lọt vào khu vực này một ông thích triết lý vặt. Loại ấy đáng sợ hơn loại sinh thời nghiện món karaoke. Thì hôm qua đám phu đào huyệt xóm Chùa đã hì hục đào một cái huyệt vượt hẳn quy cách thông thường, ngay dưới chân mộ tôi, cho vị hàng xóm thứ tư đấy. Tôi giỏng tai nghe lỏm tin tức sốt dẻo về hắn. Nhưng bực quá, những người phu đào huyệt cũng không biết mấy tí. - Lão này nghe đâu họ hàng mụ hai Đá. Mụ ấy đứng ra thu xếp xin cho lão được chôn ở đây. - Đã nộp các khoản cho hội bảo thọ và ban quản lý nghĩa trang chưa? - Không rõ. - Các ông làm ăn như... Phải bảo gia đình họ dành khoản tiền thuốc nước đưa riêng tổ đào huyệt chứ. Mẹ khỉ, thôi, sâu đủ rồi. - Ông ơi, hôm qua anh con giai nhà này đã có lời với tôi, nhờ đào sâu rộng hơn bình thường một chút vì quan tài bằng kính. Anh ta hứa ngày mai đưa đám về sẽ có khoản thù lao riêng. - Sao bây giờ ông mới nói? Làm ăn kiểu gì vậy? Cứ thế họ cãi nhau tới tận lúc đào xong huyệt, ra về. Từng ấy cứ liệu chỉ đủ cho tôi hình dung nét cơ bản vị hàng xóm mới. Ông này do có họ với bà hai Đá xóm Chùa nên được về nằm đây, thuộc diện dân ngụ cư giống tôi, không phải dân bản địa. Điểm đặc biệt, quan trọng, chắc ông ta chức tước to lắm mới được nằm quan tài kính. Thứ ấy đâu phải dành cho các phó thường dân. Chuyện cái quan tài kính chẳng mấy chốc loang ra khắp khu nghĩa địa, thành một tin thời sự giật gân. Chức tước đến mức được dùng quan tài kính sẽ có tiêu chuẩn nằm Mai Dịch, sao lại về đây? Nếu do nguyện vọng gửi gắm nắm xương tàn nơi quê cha đất tổ, chính quyền địa phương tất phải đón rước linh đình, tổ đào huyệt phải được huấn thị chu đáo, có đâu chờ khoản thuốc nước đến nỗi cãi nhau? Vậy ông ta là ai? Tất thảy họ hàng quen biết mụ hai Đá dưới này đều được dò hỏi, nhưng ai cũng mù tịt. Bởi thế người ta càng háo hức. Người đoán già, kẻ đoán non, rồi đi đến nhất trí. Ông ma mới thuộc diện không bình thường. Gần tầm trưa nay dân cư khu nghĩa địa chúng tôi xôn xao choáng váng khi nhà đám về. Cứ ngỡ to lắm, rầm rĩ lắm, ai dè chúng tôi chưng hửng thấy chỉ có một ô tô đưa linh cữu, chỉ một người con trai duy nhất thỉnh thoảng thảm thiết khóc rống lên bố ơi ới bố ơi, cùng vài tiếng chân bà con họ hàng đưa đám. Một kiểu đám ma lặng lẽ của dân nghèo thành thị, không kèn, không trống, không điếu văn. Ngược lại có rất nhiều tiếng xì xào xuýt xoa của đám trẻ chăn trâu kéo nhau xem đám tang. - Úi giời, quan tài bằng kính thật chúng bây ạ. Nhìn rõ cả xác nữa kìa. - Thiếu tướng đấy. Gớm, lắm huân chương nhỉ? - Ông này diện oách ghê, có cả gậy chống bịt bạc. Chừng non một giờ sau đám tang kết thúc. Tôi theo dõi tiếng chân họ ra ô tô. Cái ô tô chuyển bánh về hướng thành phố. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Giờ chỉ còn việc đợi đêm xuống sẽ rõ. Thời gian hôm nay bỗng trở nên dài dặc không sao chịu nổi. Chúng tôi đếm từng giây, lắng nghe hơi nóng ban ngày xem lúc nào hạ xuống. Ai cũng mường tượng mặt trời đỏ ối đang rơi gượng nhẹ vào đồi cây phía trước. Rì rầm mơ hồ dưới lòng đất là tiếng kháo chuyện của mấy mụ đàn bà. Dù là người hay ma họ cũng không bớt được tính hóng hớt. Sự việc đêm nay với họ chắc vui hơn hội. Khi tiếng cú rúc lướt êm trên mặt cỏ nhuốm sương chiều, trời chưa kịp tối hẳn, cả khu nghĩa địa đã rình rịch. Không ai còn nhịn được. Tiếng gõ vách áo quan gọi nhau nổi lên ào ào. Con ma ngỗ nghịch nào đằng cuối nghĩa địa hứng chí cất tiếng hú u u kéo dài bất tận trong lòng đất. Nửa giờ nữa mới được phép lên khỏi mồ, sao đã cuồng cả vậy? Cũng không nên trách chúng tôi. Nếu không có những sự cố như đêm nay cuộc sống ngoài nghĩa địa sẽ buồn tẻ lắm. Quanh đi quẩn lại chỉ mấy vụ kiện tụng truyền kiếp, mấy con ma hiếu sự khư khư ôm mối hận cũ rích thở than, vài cặp vợ chồng kiên quyết ly hôn, bới móc nhau những chuyện từ đời tám hoánh. May sao thi thoảng lại có một đầu ma mới về đây để cuộc sống thêm rôm rả. Thường thường ma mới sẽ bị làm tình làm tội vài đêm đầu. Người ta lục vấn lý lịch nếu hắn thuộc diện ngụ cư, người ta hỏi thăm tin tức con cháu chòm xóm nếu là dân bản địa. Ma mới còn phải ra mắt thổ thần, thổ địa. Họ đã cách mạng hóa dưới cái tên: ông quản trị hành chính khu nghĩa địa, ông cán bộ tổ chức, ông cán bộ hộ khẩu. Số của nả mang theo ma mới phải biếu xén các chức sắc, khao đãi lân bang hàng xóm. Sau vài đêm ma mới trắng tay, được xét chính thức diện dân cư nghĩa địa. Ma cũ bắt nạt ma mới có nghĩa là thế. Khi cú rúc lần thứ hai, không người nào nằm rốn được nữa. Tiếng lao xao nổi dần lên mặt đất. Bên nhà lão Hớn, lão Bạch mù, anh chàng Tạo đều đã có tiếng mở cửa cành cạch. - Dậy thôi ông giáo ơi. Đến giờ rồi. Lão Hớn gọi tôi ngay bên trên nóc, có ý cho cả lão ma mới nghe tiếng. - Vâng, tôi lên ngay đây. Tuy vậy tôi vẫn nán chờ thêm ít phút. Nếu người ta thuộc hàng quan chức cao cấp nhà nước, hãy để các ông chức sắc đón tiếp, gặp gỡ. Anh tiếp xúc trước họ, họ lại cho anh muốn vượt mặt, sinh lôi thôi. - Ra đi chứ anh giáo. Giọng trung sĩ Tạo bừng bực rồi. Tôi đành mở cửa nắp áo quan bước lên. Anh Tạo ít tuổi hơn tôi nhưng thuộc hàng cũ hơn, tôi buộc phải nể mặt. Trăng mới nhú. Khung cảnh nhuốm màu bàng bạc. Nhấp nhô trên mỗi ngôi mả từng đầu ma ngồi vươn vai vặn mình cho đỡ mỏi. Mươi cái bóng khoác lân tinh chạy tới chạy lui chập chờn. Ai chưa quen mắt nhìn chúng tôi dễ phát khiếp. Nhưng cư dân nghĩa địa nhìn nhau không chỉ thấy có khung xương trắng hếu, họ thấy cả hình hài nhau thuở sinh thời, mắt người trần chẳng bao giờ nhận ra. Lão Hớn vỗ vai tôi, nhe răng cười. Tóc lão hôm nay đã bợt ra từng mảng lớn. - Ấm bụi rồi nhỉ? Đủ cỗ bốn anh. Này, có cả huân chương kháng chiến hạng nhất nữa nhé. Ái dà, tay này lạ lắm. Đêm nay khối chuyện hấp dẫn. Chúng tôi chưa kịp hàn huyên đã thấy đám chức sắc từ xa kéo tới. Vẫn ba ông thổ thần thổ địa cải tiến mọi hôm. Không biết họ thuộc chính thể nào, do dân cử hay ai cử, nhưng họ vẫn tồn tại lâu lắm và không một ai dám chất vấn họ. Ba vị ma oai quyền ấy đêm nay lên sống áo trịnh trọng. Ông quản trị hành chính khu dẫn đầu, khua những đốt xương lốc cốc hơi ồn ào để tăng vẻ quan cách. Theo sau ba ông cả đàn cả đống ma lặng lẽ bám sát thành một khối đông nghịt, óng ánh phát sáng. Anh trung sĩ Tạo thu vội những vạt quần áo rách tươm, dẹp lối cho họ, rồi đứng thẳng đuỗn theo tư thế quân sự. - Báo cáo, em chào các thủ trưởng. Tôi, lão Hớn, lão Bạch ngồi nép vào nhau. Trong lúc vội vã tôi đã đụng rơi mất cái răng cửa của lão Bạch mù. Lão càu nhàu: - Lát nữa ông phải tìm giả lão đấy. Tôi bấm vội cho lão im đi. - Chúng tôi mời... e hèm... xin kính mời đồng chí lên chơi thăm anh em. Ông quản lý lý lịch dè dặt ngọt ngào nói vọng xuống ngôi mộ phủ đầy hoa. Im lặng. Tôi rợn sọ não. Cư dân khu nghĩa địa chưa từng được nghe giọng mời ngọt ngào lịch sự như thế bao giờ. Ông lý lịch xưa rày chỉ gõ gõ đốt xương bàn chân lên trốc mộ mà hạch con ma mới, bắt lên trình diện. Thường thì những con ma mới không đợi mời mọc. Ngay đêm đầu tiên họ sẽ náo nức nhảy bổ ra khỏi quan tài sớm nhất, tay bắt mặt mừng với bà con họ tộc đã lâu nay âm dương xa cách. Trông họ hớn hở cười nói chẳng khác những kẻ bị lưu đày xa xôi nay mới trở về quê mẹ. Sau đó họ tự đến trình diện đám chức sắc, mang theo quà cáp biếu xén, không đợi phải gọi. - Xin đồng chí chiếu cố lên gặp gỡ anh em vài phút. Kể ra... nếu đồng chí còn mệt cũng xin cho chúng tôi biết để khỏi quấy quả. Đồng chí tha lỗi cho chúng tôi vì chưa biết được quý danh. Chút nữa tôi phì cười. Ông quản lý hộ khẩu tính tình hách dịch nhất đám chức sắc, bữa nay giở giọng uốn éo khúm núm nghe thật khó vào. Chẳng thà lão cứ quát tháo như mọi bận. Cả nghĩa địa im phắc nín thở trừ đám dế vô tư. Sau vài giây mới nghe từ dưới tầng hoa vọng lên tiếng rên rỉ yếu ớt. - Ừ hưm... A hưm... Mọi người xì xào. Ông quản lý hộ khẩu lừ hai hốc mắt tứ phía. Tức thì im bặt. Một lần nữa ông ta lại cất giọng nài nỉ: - Kính mời đồng chí... mời thủ trưởng lên gặp gỡ bà con. Xin thông cảm vì... Những cánh hoa trên mộ bỗng rung động, rồi xuất hiện một thể xác lừng lững, cao đến mét bảy, đóng khung trong bộ quân phục cấp tướng, huân chương đầy ngực, chống cái gậy có cán bịt bạc, thật oai phong lẫm lẫm quá chừng. Cư dân nghĩa địa một phen lác mắt. Chỉ thiếu nước nhảy cẫng tung hô. Thách nghĩa địa hàng xã có ông tướng oách như vậy đấy. Lại còn xịn nguyên xi nhé. Tuy nhiên tôi ở quá gần nên không chỉ bị choáng bởi vẻ bề ngoài của vị tướng. Tôi buộc phải chú ý đến bộ mặt ngài ngơ ngác, vẻ lúng túng sợ hãi, sự loay hoay không biết ngồi đâu đứng đâu lẫn ánh mắt lấm lét nhìn ngó mọi người. Quái thật, các ông tướng lúc sống ông nào cũng hét ra lửa, động nói đã trợn mắt, chả lẽ lúc chết lại kém thế? - Báo cáo thiếu tướng, tôi trung sĩ Đàm Xuân Tạo, thuộc binh chủng phòng không không quân, hiện có mặt tại đây, xin ra mắt thiếu tướng. Tiếng hô dõng dạc của Tạo đã khiến ngài thiếu tướng hoảng hồn, ngã bệt xuống vòng hoa trốc mộ cả người run bắn. Ơ hay nhỉ, trông ngài ngồi ngay cán tàn giữa vòng hoa đang héo rũ mới ngộ chứ. Ngài nhìn sững anh trung sĩ Tạo, miệng há hốc. Quả tình thấy một bộ xương lêu đêu rập gót chào, ai chẳng hãi đến bạt vía. Ông quản trị hành chính liền ném khúc xương tay đánh bốp vào sọ trung sĩ Tạo, nghiêm giọng: - Dẹp đã. Ai cho phép ra mắt vô tổ chức? Thủ trưởng chưa tiếp khách cá nhân lúc này. Để yên người ta làm việc. - Báo cáo rõ. Tạo lướt biến vào giữa lão Hớn với tôi. Tấm khung xương sườn của anh chạm phải tôi phập phồng run run. Tôi bỗng thương hại Tạo. Đã bảo thấy những người sang trọng cố gắng tránh cho thật xa. - Kính thưa thủ trưởng, dân cư nghĩa địa xóm Chùa xin nhiệt liệt chào mừng thủ trưởng. Ông quản lý hành chính hô to. Mọi người đồng thanh hô theo. Hai mắt vị tướng giương lên kinh hãi hơn. Khi đám đông chập chờn nhảy múa vờn vã tiến đến gần, ngài bỗng đưa hai tay ôm lấy mặt. - Im lặng. Im lặng. Ông quản lý hộ khẩu bay lên khỏi mặt đất nửa mét, huơ mảnh áo liệm trắng tinh, phất phất ra hiệu. Khối quần chúng lập tức im phắc. Chúng tôi xưa nay sống rất kỷ luật. Ông quản lý hộ khẩu quay lại cười hị hị: - Thưa thủ trưởng, xin đồng chí bình tĩnh. Nói chung dân cư ở đây đều rất tốt, nhiệt tình nhưng chưa được tâm lý, có thể đồng chí chưa quen lắm. Xin hân hạnh được tự giới thiệu: ba chúng tôi đây đại diện chính quyền, đến để xin đồng chí cho phép làm thủ tục nhập cảnh. - Thưa vâng... thật là hân hạnh. Bấy giờ ngài thiếu tướng mới lí nhí đáp lời ông quản lý hộ khẩu. Đêm trở nên đen loãng, tĩnh mịch lạ thường, do một đám mây lướt qua mặt trăng. Ai cũng cố giữ cho các khớp khỏi kêu lục cục, sợ thất thố. - Xin thủ trưởng cho biết quý danh. - Tôi ạ? Thưa tôi là Dương Đức Lâm. Giọng ngài thiếu tướng khúm núm sợ sệt. Lão Hớn ghé tai tôi thì thào: - Ra tướng soái về đến nghĩa địa cũng tan cả khí phách nhỉ? - Báo cáo thiếu tướng Dương Đức Lâm... - Ấy chết, ông đừng lầm. Tôi là Dương Đức Lâm thợ điện bậc ba về hưu. Ngài hốt hoảng cắt lời ông hộ khẩu, cải chính. Tất cả chúng tôi đều như bị điện giật. - Thưa... Sao lại... sao lại thợ điện bậc ba ạ? - Chả là quần áo, mũ mãng người ta mặc nhầm cho tôi. Tôi tên thực là Dương Đức Lâm, thợ điện bậc ba về hưu. Những thứ này... chẳng qua do sự nhầm lẫn trong lúc mai táng. - Thưa thủ... Chắc đồng chí muốn đùa chúng tôi đấy chứ? Ông quản lý hành chính rụt rè hỏi lại. Ngài ma mới còn rụt rè hơn. - Chết nỗi, tôi đâu dám đùa. Rõ khổ quá, xin các ông tin tôi. Đâu phải tôi định tâm lòe bịp đùa cợt ai. Duyên do khâu nhà xác lộn xộn quá. Trong khối ma phía sau bỗng rộ lên tiếng cười sằng sặc. - Vậy còn quan tài kính thì sao? - Thưa cũng thế. Tất cả đều của ông thiếu tướng Quách Văn Thanh. Đây, các ông nhìn xem, cây gậy khắc tên ông ta, trong túi áo quân phục còn sót cái giấy mời họp của bộ tư lệnh. Ông quản lý hộ khẩu thận trọng xem xét tờ giấy mời họp đã nhàu nát. Hai vị chức sắc kia chuyền tay cây gậy bịt bạc để đọc dòng chữ khắc trên cán. Sau đó họ chụm vào nhau hội ý rất lâu. Rồi ông hộ khẩu lại hỏi: - Vậy có gì chứng minh ông là Dương Đức Lâm, thợ điện bậc ba? Ông hộ khẩu đã đổi sang giọng hạch hỏi. Trước mắt chúng tôi cũng không còn vị thiếu tướng lung linh hào quang nữa, chỉ còn một lão ma mới, lý lịch mờ ám. Làm sao lão chứng minh được mình đích thực Dương Đức Lâm, thợ điện bậc ba về hưu? Chợt ông quản trị hành chính nảy ra sáng kiến. Ông quay về phía đám đông dõng dạc hỏi: - Ai nội ngoại thân thích của bà hai Đá, hãy ra cả đây. Chừng dăm sáu con ma tách khỏi đám đông lập lòe lân tinh lướt tới gần ba vị chức sắc. - Thưa chúng tôi đây ạ. - Ai quen biết ông Dương Đức Lâm này không? Một chú ma khoảng mười chín đôi mươi khép nép thưa: - Thưa bác, cháu thường được mợ hai Đá đưa ra ăn cỗ nhà ông Dương Đức Lâm ngoài tỉnh. Mợ Đá với ông Lâm con dì con già nên đi lại cũng gần. - Mày nhìn kỹ xem có phải ông Lâm đây không? Chú ma trẻ lượn quanh lão ma mới hai vòng. Chúng tôi thấy thần kinh căng như dây đàn. Im lặng đến mức nghe rõ mấy hạt sương rơi lộp bộp trên nhành tầm xuân. - Ôi cậu Tuyên... Nếu phải cậu Tuyên xin hãy nhận thực giúp tôi. Lão ma mới lắp bắp, giơ cả hai tay về phía chú ma trẻ van vỉ. Nhưng dường như chú sợ sệt điều gì, lượn ra xa, né tránh lời cầu cạnh ấy. - Thế nào? Ông lý lịch sốt ruột túm lấy cổ chú ma trẻ quát hỏi. Chú ta lúng túng trả lời: - Thưa đồng chí thủ trưởng, em nhìn mặt ông ấy có nhiều nét giống ông Lâm. Nhưng em... - Cậu có dám cam đoan là ông Lâm đấy không? - Nhưng em không dám cam đoan... Lão ma mới bật đứng dậy, cuống quýt nói liền một hơi: - Này cậu Tuyên, đừng có lối giết người không dao thế. Không phải tôi thì ai biết cậu mò vào buồng con Hằng nhà tôi lúc nó ngủ trưa, bị tôi bạt tai cho một cái hở? Chú ma trẻ như bị chạm tự ái cũng nổi đóa quát lại: - Ông đểu vừa vừa chứ. Chính ông cũng biết lần ấy Hằng hẹn hò tôi. Chẳng qua ông chê tôi nghèo, ông ngăn cấm chia rẽ chúng tôi, ép con gái ông lấy chồng Việt kiều, đến nỗi tôi uất ức chết oan chết uổng. Hu hu... chính lão Lâm đó. Tôi đã thề không đội trời chung với lão. Không còn gì nghi ngờ nữa nhé. Rành rành lão ma mới đã cho mọi người ăn quả lừa. Cái tội lão để chúng tôi hồi hộp bàn tán suốt hai ngày không thể tha thứ. Nỗi tẽn chuyển thành căm phẫn. Chúng tôi giậm chân, la hét, chửi rủa. - Ê, lão không biết ngượng sao, thiếu tướng rởm? - Đồ lừa bịp. - Giời ôi, còn quan tài kính nữa chứ. - Tống cổ lão khỏi đây đi. Ông hộ khẩu phải quát lên: - Im đi. Ai khiến các người tham gia xử lý? Để chúng tôi làm việc. Ba ông chức sắc chụm đầu hội ý lần thứ hai. Một lát ông lý lịch cao giọng tuyên bố: - Này ông Lâm, hiện thời chúng tôi chưa quyết định điều gì cả. Ông hãy nhờ ông giáo kia (ông ta chỉ vào tôi) làm ngay hộ một bản tường trình sự việc nhầm lẫn để chúng tôi xét. Hiểu chưa? - Thưa vâng. Ông hộ khẩu trót thưa gửi lúc đầu, chưa tìm được cớ gì để cáu, nên trước lúc quay đi ông chỉ mặt lão ma mới đe dọa: - Khai cho đúng sự thật. Phát hiện chỗ nào cố tình giấu giếm đừng trách chúng tôi ác. Ba ông chức sắc kéo nhau về. Lão ma mới chưa kịp hoàn hồn đã bị vây kín xung quanh. Người ta lêu đêu, giễu cợt. Kẻ giựt áo, người giằng gậy... Lão ma mới chúi đầu vào giữa hai gối né tránh. Trung sĩ Tạo còn định đá cho lão vài đá nếu tôi không kịp giữ tay anh. Duyên do ai đã là ma sẽ hiểu tội lòe bịp dối trá bị coi khinh nhất, bị lên án nhất. Suốt một đời trên trần dối trá bịp bợm chán chê mọi kiểu, cái chết được coi như lời ăn năn sám hối đầu tiên, thánh thiện nhất. Kẻ nào đến cái chết còn bợn mùi dối trá đê tiện, kẻ đó không được mẩu đất nghĩa địa dung thân. Làn sóng tấn công lão ma mới mỗi lúc một ào ạt. Bỗng nhiên lão ôm mặt khóc rống. Nghe tiếng khóc thảm thiết của lão tôi động lòng trắc ẩn, vội đứng ra dẹp mọi người lùi lại. - Thôi nào các vị. Làm tình làm tội lão phỏng có ích gì? Ác với nhau lúc sống chưa chán sao? Ở đây người ta rất nể tôi. Kể về giáo giới, tôi xuống đất mới nhất. Tôi dạy con cháu chắt chút họ trên trần nên được tính như một cái công lớn với họ. Họ liệt tôi vào dạng cố vấn có uy tín ở khu nghĩa địa. Thường những vụ kiện cáo bất đồng gì họ cũng tìm đến tôi. Tóm lại, nhờ tiếng nói tôi có một trọng lượng nào đấy nên đám đông đang sôi sục ồn ào đã dần dần lắng lại. Lão ma mới được thể khóc tức tưởi hơn. Tôi huých cho lão một cái, khẽ bảo: - Thôi đi, ông có nín ngay không? Lão sợ hãi nín bặt, hệt một đứa bé bị bắt nạt. Lúc ấy tôi quay ra nói với mọi người: - Theo tôi bà con hãy cân nhắc trường hợp này thận trọng. Tôi nghi là có nhầm lẫn thật. Nhắm mắt hai tay buông xuôi, lão phó mặc cho những người sống bày vẽ, lỗi đâu tại lão? Tôi được cử giúp lão viết bản tường trình, tôi sẽ hỏi han cặn kẽ, rồi thực hư ra sao, tôi xin trình lại bà con sau. Đám đông miễn cưỡng đồng ý. - Trước mắt lão cứ phải trút bỏ bộ thiếu tướng đi mượn ấy đã. Trông ngứa mắt lắm. Hoặc lão thích diện quá, xin mời lão về Mai Dịch. - Ông giáo giảng giải cặn kẽ luật lệ chúng ta để lão biết. - Vâng. Tôi sẽ bảo lão. Thường mỗi ma mới về đây đều được giao cho một ma cũ hướng dẫn nếp sống. Như vậy họ có ý giao lão cho tôi. Bây giờ đám đông kéo nhau về khu trung tâm sinh hoạt theo thường lệ. Câu chuyện cái quan tài kính, lão thiếu tướng rởm vẫn được mọi người bàn tán mãi chưa thôi. Ba người hàng xóm của tôi cũng theo chân đám đông. Tôi do nhiệm vụ được giao, do tò mò lẫn thương hại, tôi ở lại cùng lão ma mới. Nhặt được tấm khăn liệm ai vứt vương vãi tôi ném cho lão. - Ông quẳng quách những thứ sang trọng kia đi. - Vâng. Lão líu ríu rũ bỏ bộ quân phục, khoác tấm chăn liệm, co ro ngồi xổm giữa những vòng hoa tơi tả. Lão sụt sịt nói với tôi: - Thưa ông giáo, tôi rất cảm tạ ông đã có lòng che chở. Thật tình tôi chẳng biết lấy gì đền đáp. Trăm sự trông cậy ông, nên làm gì ông bày vẽ giúp cho. Trút bỏ bộ quân phục rồi trông lão ma mới hiền lành thảm hại. Tôi ngồi xuống trước lão. Bây giờ lão nhìn tôi có phần bình tĩnh hơn. Lão ngắm những khúc xương trắng với vẻ tò mò. Lão ngạc nhiên quan sát gương mặt nửa thực nửa hư của tôi, cái mặt đặc biệt của những cư dân nghĩa địa. Nghĩa là ngoài đầu lâu xương sọ bên trong chúng tôi mang thêm lớp bọc lờ mờ xanh lợt, y hệt nét mặt sinh thời. Tấm màng bao phủ này nhìn rất rõ nhưng không sờ mó thấy. Có vậy chúng tôi mới phân biệt được nhau, chứ lủng củng rặt những xương ai chả giống ai. Mấy mụ ma đàn bà ưa làm đỏm còn thích giữ cả hình dáng thân thể trời đã phú cho khi sống. Với cánh đàn ông nó chỉ tổ vướng víu nóng nực. Riêng diện ma mới như lão Lâm phải sau tuần bốn chín mới rũ bỏ được hết dư vị trần tục, khi ấy lão mới thoát xác giống dân cư ở đây. Tôi thong thả lôi cái bút máy cùng cuốn sổ tay ra. - Tôi làm tường trình cho ông đây. Nào, hãy kể từ đoạn ông chuẩn bị bước sang thế giới bên này nhé. Lão chợt nhớ công việc nặng nề liền thở dài đánh thượt. Mùi hoa giập nát nồng nặc trong đêm. Trăng lơ lửng giữa đỉnh đầu vằng vặc. oOo Thưa ông giáo, có ai kịp chuẩn bị cho mình kia chứ? Tôi ngã xuống đúng lúc bị một mụ đẫy đà thơm ngát nước hoa chen lấn ở quầy gửi tiết kiệm. Chả là tôi có ít tiền về hưu, gửi lấy lãi. Bụng đang bực vì con mụ vô ý cứ cong tớn bộ mông đồ sộ phía trước để mình ra sức né tránh, bỗng nhiên tôi thấy tê nhói từ gáy lên đỉnh đầu. Chỉ kịp quờ quạng níu lấy cuốn sổ tiết kiệm từ trên mặt quầy, tôi lăn xuống đất. Khi biết ra đã thấy mình nằm trong nhà xác. Căn nhà chữ nhật, đèn đóm sáng choang. Chúng tôi gồm bốn người, ba đàn ông, một đàn bà, đều nằm trên những bệ xi măng lạnh ngắt. Nửa đêm yên ắng, chúng tôi lên tiếng chào hỏi nhau. Tôi nằm ngoài cùng rồi đến ông thiếu tướng, đến vị anh hùng lao động họ Ngô. Trong cùng là một bà phu nhân bộ trưởng nào đó. Bà ta im lặng không nói với chúng tôi một lời. Ông thiếu tướng khẽ rỉ tai tôi rằng bà ta tự tử vì ông bộ trưởng bồ bịch, nên tận lúc chết bà vẫn căm thù đàn ông. Tôi không khỏi bứt rứt vì lọt vào nơi toàn người quyền quý. Tôi hỏi ông thiếu tướng: - Thưa ông đây là đâu vậy? - Nhà xác bệnh viện Việt Xô. Thảo nào, hẳn vì quỹ tiết kiệm cách bệnh viện mấy bước chân nên tôi may mắn thế. Lúc sống không có tiêu chuẩn, nay chết được vào nằm nhờ một tí cũng hả. Chỉ sợ thằng cháu Hùng, thằng con trai duy nhất của tôi không đoán nổi sự tình, không dám mò vào đây tìm bố. Vị anh hùng lao động có vẻ thanh thản với sự ra đi. Ông nói trong tiếng cười vui vẻ: - Hôm nay ta sẽ rũ sạch mọi thăng trầm sướng khổ của một đời người các ông ạ. Thú thực cùng hai ông, một nửa cuộc đời tôi vị anh hùng ấy sống chứ tôi đâu được sống. Tôi bị vị ấy đè bẹp gí. Cái gánh nặng quả không thể tưởng tượng nổi. Phút nhắm mắt tôi thật sự khoan khoái khi trút được vị ấy ra khỏi vai mình. Bây giờ lòng cứ lâng lâng mới lạ chứ. Giá rít điếu thuốc lào nữa thì tuyệt! Tâm trạng ông thiếu tướng lại dào dạt kiểu khác: - Tôi mong chóng tới lúc được thấy mặt người thân. Tôi không an ủi nổi họ nhưng sẽ cố bình thản để trấn tĩnh họ. Xưa nay tôi vốn sợ nhất phải nhìn gương mặt vợ con đầm đìa nước mắt. Với bạn bè chiến hữu lại khác hẳn. Dù nỗi đau đớn có xé lòng thì chúng tôi cũng chỉ ôm chặt nhau một cái, vỗ vai nhau nói một câu giản dị: "Đi nhé!" như thuở vào sinh ra tử... Là thợ điện bậc ba, nghe những điều họ nói thật xa lạ cao vời, nên tôi chỉ biết im lặng với lòng đầy kính trọng. Phải kể rằng hôm đó chúng tôi đã gặp phải một gã gác nhà xác xỏ lá, tắc trách đến nỗi tôi không thể hiểu tâm địa thực của gã. Ba hôm rồi gã nhận làm hộ ông già trực gác bị ốm. Nhưng đáng lẽ phải có mặt suốt đêm ngày ở phòng trực, gã đã khóa cửa lẻn về hú hí với gái vào đêm tôi nằm đây. Mãi sáu rưỡi sáng gã mới mắt nhắm mắt mở đến trông coi công việc. Gã vừa lạch xạch mở khóa đã nghe có tiếng một thanh niên tìm gặp. Tôi nằm ngoài cùng nên nghe rõ cuộc đối thoại của họ. Anh thanh niên là con trai ông thiếu tướng. Anh đưa gã gác nhà xác một gói quần áo đồ dùng, dặn gã sửa sang cho cha anh để kịp chín giờ rước linh cữu tới hội trường thành phố làm tang lễ. Điều này lẽ ra tôi chẳng nói, nhưng mọi nỗi khốn khổ của tôi từ việc đó sinh ra tất, ông giáo ạ. Nên tôi xin ông đừng ghi vào bản tường trình. Những điều ta còn mơ hồ, chớ vội nghĩ xấu cho ai. Gây nên thù oán tôi không thích. Vả tôi không biết rõ duyên cớ vì sao con trai ông thiếu tướng không làm cái việc hiếu nghĩa cho cha mẹ theo đúng phong tục cổ truyền, không tự tay chăm sóc hình hài ruột thịt. Có thể anh đang cuống cuồng vì công việc chuẩn bị tang lễ, có thể anh yên tâm cha anh ngoài cương vị thiếu tướng còn là một vị cách mạng lão thành, nhà nước sẽ lo chu tất mọi chi tiết nghi thức tang lễ, có thể anh nhầm gã gác nhà xác cũng trong ban tổ chức đám tang thiếu tướng... nói gọn lại anh trao bộ quân phục, những tấm huân chương, cái gậy bịt bạc, toàn kỷ vật của ông thiếu tướng cho gã gác nhà xác, rồi không kịp cả việc vào bên trong thăm cha, anh vội cùng cô vợ chưa cưới lao xe máy đi ngay. Nghe đâu tang lễ sẽ rất long trọng, có phái đoàn chính phủ đến viếng. Anh con trai thiếu tướng thức suốt đêm qua vẫn còn ngập việc chưa lo kịp. Do ông thiếu tướng có hai vợ nên phải tổ chức bàn thờ gia đình cả hai nơi để đón quan tài từ hội trường vòng qua vĩnh biệt hai tổ ấm. Nào bố trí người tiếp khách, ai theo xe tang, ai ở lại cảm tạ mời mọc khách viếng, ai tiếp bốn phía họ hàng nội ngoại, tiếp bà con trong quê ra đưa đám, lo nơi ăn chốn ngủ... không thể kể cho xuể. Tôi nghe được anh bàn bạc cùng cô vợ chưa cưới khi họ đứng chờ gã gác nhà xác nên tôi rất thông cảm cho sự tất tả vội vã của anh. Nhưng cũng do yên tâm việc thay quần áo, sửa soạn linh cữu thuộc bổn phận gã gác nhà xác phải làm, nên anh con trai thiếu tướng không đưa cái khoản lót tay tiêu cực phí. Tôi thấy rõ sự bất bình của gã. Khật khưỡng bước vào nhà, miệng gã lủng bủng: - Chưa có tí gì vào bụng, mới sáng bảnh mắt đã phải mó tay thay quần áo cho cái của nợ, thằng cha sao quá thiếu lịch sự, mình có phải người nhà nó đâu, nó dám quen thói con ông cháu cha sai hạch thiên hạ, một xu thuốc nước không chi... Gã vừa ca cẩm vừa ôm bọc quần áo, mũ, gậy, tiến đến những bệ xi măng chúng tôi nằm. Gã đứng sững im lặng. Cái giây phút im lặng độc địa ấy có lẽ là giây phút gã bị quỷ dữ mua mất linh hồn. Tôi nghe gã chậc lưỡi một cái rồi lấy tay lật vải liệm che mặt tôi. Gã ngoái sang cũng mở mặt ông thiếu tướng như thế. Gã nhướn mày nhìn tôi, nhìn ông thiếu tướng, lại nhìn tôi, nhìn ông ta... Gã phân vân không biết ai là người gã phải sửa sang, hay gã chợt nhận thấy chúng tôi có nét hao hao giống nhau, cả tầm vóc cũng giống, gã bỗng nảy ý nghĩ tai ác nào đó, hay đầu óc gã vẫn để lơ mơ đâu đâu? Tôi chỉ nghe gã chậc lưỡi lần thứ hai rồi nhanh nhẹn bắt tay lột bỏ quần áo bệnh viện, thay bộ quân phục vào, gài tất huy chương huân chương, đặt mũ lên ngực, đặt gậy bên tay cho... tôi! Ôi cái thằng khốn kiếp ấy, nó chọn xác tôi thế chỗ ông thiếu tướng! Giá lúc đó tôi bật dậy được, bạt tai cho gã vài cái. Thưa ông giáo, ông cũng thấy tôi không có lỗi gì đấy nhé. Ông có thể chấm dứt bản tường trình quãng vừa rồi hay đoạn kể tiếp theo tùy ông. Phần quan trọng nhất tôi đã nói ra. Chỉ tha thiết nhờ ông lựa lời viết cho. Chi tiết nào không cần thiết ông lược bớt hộ. Còn kể từ khúc này xin ông coi như tôi tâm sự riêng với ông. Thưa ông giáo, mọi chuyện cứ thế tiếp diễn. Người ta mang quan tài kính đến, trịnh trọng đặt xác tôi vào, mũ đội đầu, gậy bên tay. Cái tòa pha lê bé nhỏ tuyệt vời đó được chuyển gượng nhẹ lên xe ô tô đặc biệt, chở tôi tới một chỗ rực rỡ trang nghiêm. Quả thật tôi chẳng biết mình tỉnh hay mơ. Tự nhiên thành tướng, đón rước linh đình, có lính uy nghi bồng súng, chung quanh đèn nến tựa sao sa, cờ quạt buông rủ... Đáng lẽ cứ đánh liều hưởng chút vinh hoa phú quý. Nhưng lòng tôi chỉ dấy lên sự sợ hãi mỗi lúc mỗi lớn. Họ phát hiện tôi không phải là ông thiếu tướng thì dơ dáng quá. Sự thể sẽ ra sao? Hẳn người ta lập tức tống tôi ra khỏi quan tài kính, lột lấy quân phục mũ mãng, như thể xử lý với quân bịp bợm. Ôi, xấu hổ quá. Tôi xác định trước sau cũng không cách nào thoát khỏi cảnh nhục nhã ấy. Ước sao sớm có người phát hiện sự lầm lẫn để tôi mau chóng được yên thân trở lại nhà xác. Nhưng có đến vài chục người qua lại bên quan tài tôi, họ chỉ bận lo kê cho chắc, đặt hoa cho đẹp, hương đốt cho đượm, tịnh không ai nghi ngờ chút gì. Tôi tự động viên cố gắng chờ đến phút thân nhân ông thiếu tướng có mặt, chứ những người trong ban tổ chức chưa hẳn đã biết ông. Thì đây, vài chục người khăn sô mũ mấn trắng lóa kéo tới sắp hàng một dãy bên quan tài tôi. Tôi nghe được những tiếng khóc tấm tức dè dặt. Đích thị vợ con ông thiếu tướng. Tôi nôn nao chờ một tiếng kêu kinh ngạc trong đám trắng lóa kia cất lên. Một phút rồi hai phút trôi qua. Nhạc cử ai khúc. Trông xuống dưới đông nghìn nghịt lúc nào không biết. Nhạc chấm dứt, liền tới một vị trung tướng lên đọc điếu văn bằng một giọng nghẹn ngào rơi nước mắt. - Đồng chí hãy nhận ở đây tấm lòng tiếc thương vô hạn của những người bạn vào sinh ra tử cùng nhau. Sao lại thế hở giời? Chẳng lẽ gương mặt tôi lồ lộ sau làn kính trong suốt mà hai bà vợ lẫn từng ấy con cái ông thiếu tướng không ai nhận ra? Họ mải nhìn vào nỗi đau trong lòng họ, hay mải giữ lễ với ông cả bà lớn đến viếng, nên chưa một lần liếc mắt tới tôi? Hay tôi không phải tôi nữa? Tôi đành đặt hết hy vọng vào số chiến hữu gắn bó của ông thiếu tướng. Thế nào cũng có một người nhìn đến tôi, dù chỉ một người thôi. - Chúng tôi xin được ghi tạc trong trái tim mình hình ảnh xiết bao yêu quý của đồng chí trước giờ phút vĩnh biệt. Chao ôi, ông giáo có thể tin được không, hàng đoàn người quân phục có, thường phục có, đặt vòng hoa, đứng mặc niệm rồi đi vòng quanh linh cữu mà tịnh không một ai... Tôi những muốn kêu lên, hét lên với tất cả nỗi kinh hoàng. Trong lúc đó cứ lũ lượt những bộ mặt buồn bã diễu hành, những cặp mắt âu sầu lơ đãng lướt qua tôi tưởng chừng bất tận. Từ nỗi tuyệt vọng, tôi chuyển thành bất mãn, chua chát. Ông thiếu tướng kia ơi, nếu ông hóa ra cái xác vô thừa nhận cũng đừng tiếc rẻ oán trách tôi. Ở đây không ai cần ông, không ai thật sự tha thiết đến ông. Không phải tôi tranh mất vinh hạnh mà chính thực tôi hứng chịu nỗi bất hạnh cho ông đó. Gần cuối buổi tang lễ, khi tôi sắp dửng dưng mặc kệ tất, tôi bỗng nhận ra trong đoàn đại biểu binh chủng không quân lạc vào một khuôn mặt. Trời ơi, hồn tôi phập phồng thổn thức. Thằng Hùng, con trai tôi. Đúng nó! Nó đi phía cuối đoàn, vẻ cũng bồn chồn nôn nóng, đang tiến dần tới nơi đặt linh cữu. Vừa nhìn rõ tôi, nó đứng dừng lại, miệng há hốc. Người đi sau đẩy lưng nó. Thằng Hùng miễn cưỡng bước tiếp nhưng mắt vẫn chòng chọc vào tôi. Còn nhìn gì, cứu bố mau con ơi! Mày lại lạ bố mày ư? Nào, nhanh con. Quả nhiên thằng Hùng bỗng rẽ ngang. Nó lao vào giữa đám khăn sô áo trắng. Không biết nó nói gì với họ, cả đám bỗng nhốn nháo. Dù đang không khí trang nghiêm, hai người đàn bà mặc tang phục cùng một lúc bổ nhào tới sát áo quan, nhòm tận mặt tôi. Tôi đoán họ là hai vị phu nhân ông thiếu tướng. Mắt họ dần dần trợn ngược. Cái bà trẻ hơn bỗng buông người ngã xuống ngất xỉu. Tức thì chấp chới đám khăn áo trắng đó đổ xô cả đến quanh linh cữu. Thằng Hùng run ríu lưỡi nhưng nó khăng khăng chỉ vào tôi tuyên bố: - Đây là bố tôi. May sao người ta đã kịp thời ngăn khách viếng từ xa, không ai biết sự thể. Vài giây sau một người trong ban tổ chức nói vào micro: - Xin các vị thứ lỗi. Do có trục trặc xảy ra trong tang lễ, ban tổ chức đề nghị các đoàn đến viếng thiếu tướng Quách Văn Thanh lùi tới một rưỡi chiều nay sẽ tiếp tục. Thành thật cáo lỗi cùng các đồng chí. Cửa hội trường được lệnh đóng lập tức. Gia đình cùng ban tổ chức quây lại hội ý. Ai cũng hốt hoảng nhìn tôi như thể tôi vừa dùng ma thuật lẻn vào nằm đó. Anh con trai ông thiếu tướng cũng trạc tuổi thằng Hùng, giờ đây tôi được nhìn rõ anh là người chỉ huy ở đây. - Tất cả bình tĩnh, tuyệt đối giữ kín để tôi lo liệu. Tôi sẽ đưa ông cụ nhà anh Hùng về bệnh viện rồi đưa bố tôi tới đây trước một rưỡi. Thật may quá, đoàn viếng bên chính phủ vừa lên ô tô xong. Thôi, cấm bàn tán. Căn cứ vào những tiếng xì xào của gần hai chục bộ mặt còn nhòe nhoẹt nước mắt, tôi được biết mỗi người đều có một lý do riêng khiến không ai kịp nhìn đến tôi. Duy chỉ có một chị cháu họ xa ngờ ngợ nhưng không dám nói. Lỡ đây do căn bệnh ác liệt làm biến dạng ông chú, hoặc giả một cách ngụy trang cho ông thiếu tướng rút lui hoạt động bí mật như thuở xưa chăng? Chị định bụng chờ dịp đến thật gần linh cữu quan sát. Hai phút sau ban tổ chức cử một cán bộ cùng thằng Hùng và anh con trai thiếu tướng, đưa linh cữu theo lối cửa sau, bí mật lên cái ô tô kín về bệnh viện Việt Xô. Thoát nạn! Tôi mừng như sống lại. Đúng câu trẻ cậy cha, già cậy con. Sau này tôi được biết nỗi gian truân của thằng Hùng khi đi lùng xác cha thật đáng thương. Gã gác nhà xác bảo nó: - Ơ hay, có bao nhiêu người ở cả đấy. Dễ tôi thủ tiêu ông cụ nhà anh chắc? Bảo vật dụng quý hóa cho cam. Đằng này... tôi có nhầm ông cụ với hài cốt lính Mỹ đâu. Thằng Hùng thiếu nước phát điên lên. Đang lúc khóc lóc đau đớn nó chợt nảy ra ý nghĩ: Hay người ta lấy nhầm xác? Nhầm ở những nơi khác chứ bệnh viện Việt Xô có một trường hợp ông thiếu tướng chắc không thể nhầm được. Nó vội phóng xe đến ba bệnh viện quanh khu vực quầy tiết kiệm, dò hỏi ba ông gác nhà xác, nhặt địa chỉ cả thảy mười bốn người chết được đưa đi chôn sáng nay. Tám đàn bà loại ra. Còn sáu đàn ông, thằng Hùng lao đến từng địa điểm cử hành tang lễ tìm cách nhận diện. Đám tận Thanh Xuân, đám ở Bưởi. Nhờ giời phật phù hộ, nó cứ phóng xe như điên trên các đường phố dày đặc xe cộ mà không sao cả. Hết năm vị rồi. Thằng Hùng đã tuyệt vọng lắm. Chỉ còn duy nhất mỗi ông thiếu tướng. Chả lẽ ông thiếu tướng? Lấy hết can đảm thằng Hùng đi tới hội trường lớn, nơi đang cử hành tang lễ rất trọng thể. Đúng lúc đoàn khách chính phủ đến viếng, ban bảo vệ không cho người lạ bén mảng. Nó đành nén lòng chờ. Mãi khi đoàn khách quan trọng ra về, nó lân la cầm một thẻ hương trà trộn vào đoàn đại biểu không quân, bám theo đuôi, lọt vào trong. Nó đánh nước cầu may cuối cùng, thực tình nó không dám tin tưởng tí nào. Giờ đây ngồi trên ô tô thằng Hùng cứ đăm đắm nhìn sững tôi, vẻ mặt lạnh lùng. Cảm nghĩ nó ra sao khi thấy bố nó uy nghi trong bộ quân phục nhỉ? Bỗng nó hỏi anh con trai thiếu tướng: - Anh Tài này, giờ anh định ra sao? Tài đang ngơ ngẩn mất hồn, cau có trả lời: - Vâng, sự nhầm lẫn thật tai hại. Tôi chưa hiểu thực chất vấn đề này do đâu. Để tang ma xong, tôi sẽ làm cho ra lẽ. - Việc đó tùy anh. Tôi muốn hỏi rằng bây giờ sẽ điều chỉnh nhầm lẫn ra sao đây? - Thì... chúng ta đang đưa ông cụ anh về bệnh viện, sau đó tôi đưa bố tôi trở lại hội trường. Anh vui lòng vậy, biết làm sao nữa. - Nghĩa là sẽ mở quan tài đưa bố tôi ra để đặt ông cụ anh vào? - Còn làm sao khác được? - A, vậy thì không xong đâu. Dễ anh chưa biết đã nhập quan không có lệ thay áo lại để tránh chuyện trùng tang. Mẹ tôi ở quê lại đang ốm. Thằng Hùng nói dối. Mẹ nó chết từ thuở mới sinh nó kia mà. - Anh nói lạ vậy? Không đưa ông cụ ra thì làm thế nào? - Làm thế nào mặc anh. Nhưng dứt khoát không ai được phép chạm vào thi thể bố tôi. Anh bảo đảm tính mạng cho gia đình chúng tôi không bị chôn thêm người nữa chứ? Đây không phải do tôi gây chuyện. Quan tài kính nhà anh không to lắm đâu. Thằng Hùng đỏ mặt tía tai giận dữ. Tài cùng anh ban tổ chức luống cuống nhìn nhau. - Trời ơi, lại thế nữa. Chúng ta đều đang đau khổ, anh phải thông cảm cho tôi với chứ. - Tôi đã nói mẹ tôi đang ốm. - Hay anh cầm chút tiền phí tổn, dù dăm bảy triệu cũng cố giúp tôi cho êm đẹp chuyện này đi. Thằng Hùng trợn mắt quát: - Vậy ra anh cho tôi bắt bí tống tiền anh hử? Anh dám nghĩ thế hử? Tài cũng hết chịu nổi. Anh ta run tái người đi, giọng đanh lại: - Nếu lúc khác tôi dám thách cái mặt anh gây chuyện lôi thôi. Chẳng qua trong tình trạng cấp bách tôi phải nói khó với anh. Chứ không thì... Anh ban tổ chức hoảng hồn can cả hai bên. Vừa lúc xe tới bệnh viện. Tôi được chuyển ngay về nhà xác, đúng vị trí cũ, khác chăng chỉ thêm cái quan tài kính. Thằng Hùng không rời tôi nửa bước. Ông thiếu tướng vẫn nguyên đó. Trước cơn phát khùng của Tài, gã gác nhà xác ú ớ thanh minh: - Nào tôi có biết mặt bố anh bao giờ. Rồi gã lỉnh mất. Đã mười hai giờ rưỡi. Tài cùng anh ban tổ chức cuống cuồng lo lắng trước vẻ lạnh như đá của thằng Hùng. Tôi thừa biết tính khí ngang ngạnh của thằng con tôi nên khi nó sụp xuống ôm lấy quan tài tuyên bố ai muốn mở nắp cỗ áo ấy phải qua xác nó, tôi cứ rợn cả người. - Ông giáo ạ, có những người số phận kỳ quặc, đến chết cũng không được yên ổn là làm sao? Lão ma mới ngước nhìn tôi dò hỏi, mắt thẫn thờ buồn. Tôi muốn an ủi lão nhưng chẳng biết nói gì. - Kể ra anh con trai ông cũng bướng đấy nhỉ? - Vâng. Tôi không biết do nó thích tôi được nằm trong quan tài kính hay nó sợ trùng tang thật... hay nó thấy lúc sống tôi ngậm nguội thua thiệt đủ điều, nay đến lúc chết còn bị người ta lột lại quần áo trông bất nhẫn quá, nó không chịu chăng? - Thằng khá mới nghĩ được thế. - Ông giáo ạ, anh ban tổ chức đã đứng làm trung gian vận động thằng Hùng chịu lấy hai chục triệu, đừng gây khó dễ cho họ nữa. - Hai mươi triệu? Úi giời, lộc tự nhiên rơi xuống tay. - Vâng. Bố con tôi chưa nhìn thấy tiền triệu bao giờ. Tôi những muốn nhảy khỏi quan tài để thằng con tôi có cơ hội kiếm số vốn làm ăn. Nhưng nó lại chối đây đẩy. - Rốt cục người ta xử lý thế nào. - May sao bữa qua còn có ông anh hùng lao động họ Ngô nằm cùng chúng tôi. Ban tổ chức tang lễ ông thiếu tướng cũng là những người sẽ tổ chức cho ông anh hùng, họ có sáng kiến điều tạm cái quan tài kính sắp sẵn để ông thiếu tướng mượn dùng trước đã. - Cũng may nhỉ? - Vâng. Bộ quân phục dễ kiếm. Phiền nhất món huân huy chương. Người ta phải điện sang bộ nội vụ xin vay, bằng mọi giá nửa giờ sau đó có đủ cho ông thiếu tướng. Riêng cái gậy kỷ niệm đành chịu. Loay hoay đến phút cuối cùng anh con trai thiếu tướng cho lệnh không chờ gậy nữa. Tôi cứ áy náy không hiểu ông thiếu tướng ấy thiếu gậy chống sẽ đi đứng ra sao? Nghe nói vết thương hồi trẻ đã làm teo một chân ông ta, ông giáo ạ. - Ôi dào, ông ấy quyền chức thế, ở Mai Dịch khắc có người phục vụ chu tất. Chúng tôi cùng bất chợt im lặng vì phía trung tâm nghĩa địa bỗng dưng rộ lên những tiếng cười. Tôi muốn chấm dứt ghi chép nên bảo lão: - Tôi sẽ viết bản tường trình ngắn gọn, đủ cho người ta hiểu ông là nạn nhân của một việc nhầm lẫn. Thế nhé? Lão ma mới cúi gằm mặt, giọng sượng sùng: - Vâng. Ông nói đúng quá. Nạn nhân ông giáo ạ. Tôi với thằng cháu Hùng có được nhờ sự lẫm lẫn mà sung sướng hơn đâu. Nó không muốn báo tang với ai, chỉ người gia tộc đưa tôi về đây. Thâm tâm nó rất ngượng khi nghe người ta xì xào: Lão Lâm chết bở quá, trông ra dáng thiếu tướng đấy chứ. Còn tôi, tôi chỉ mong chết đúng như một lão thợ điện bậc ba về hưu nghèo túng. Đấy, tôi đã thử làm thiếu tướng mấy giờ liền nhưng có thấy sung sướng gì đâu. Trăng về sáng nhạt dần. Khối cộng đồng dân cư nghĩa địa đã tới giờ túm năm tụm ba lang thang dạo chơi đây đó. Có tiếng đàn mơ hồ của lão Bạch mù. Tôi nhận ra nhóm văn nghệ của lão đang chơi trích đoạn Thị Mầu lên chùa. Mụ đào Xuyến từ hôm rằm tháng bảy được con cháu đốt cho mươi bộ quần áo xanh đỏ, dạo này vung vẩy õng ẹo tợn, mớ năm mớ ba phấp phới hay đáo để. Một đêm mụ hát ve vãn tôi: - Này thầy giáo ơi... Thầy như táo rụng sân đình. Em như gái dở... Xem ra chỉ cuộc sống chúng tôi thanh thản, sạch mọi bận tâm với nhân tình thế thái, trừ khi người ta bắt di chuyển mồ mả để lấy đất quy hoạch. |
| | | Tinh Hoa
Tổng số bài gửi : 1060 Registration date : 19/01/2020
| Tiêu đề: Re: Truyện ngắn Việt Nam Fri 09 Oct 2020, 20:30 | |
| Người đẹp xóm Chùa (tác giả: Đoàn Lê)Tôi vẫn ngỡ mình là một thiên tài chưa có đầu ra. Thời thị trường còn đang mạnh giá gặp mấy anh có máu buôn vua, chắc họ phải vồ lấy tôi. Đấy, như ông Van Gogh, ông Gaughuin, mỗi bức tranh các ông để lại đều có giá hàng triệu đô la, vậy hiển nhiên cánh họa sĩ chúng tôi xứng đáng xếp loại mặt hàng quý hiếm. Chưa kể riêng tôi, năm ba mươi tuổi đã có một triển lãm gây xôn xao dư luận, triển lãm Hai mươi mùa xuân nữ, nên tôi cũng có quyền coi mình thuộc diện ấu chúa lắm chứ. Hai mươi mùa xuân là tên gọi cho hai mươi bức tranh khỏa thân nữ, tôi đã cật lực vẽ trong suốt bốn năm. Bốn năm tính ra gần ngàn rưỡi ngày đêm. Cái ngàn rưỡi ấy đáng lẽ dùng mua bán được biết bao ngọt bùi, nhưng tôi lại dành hết quãng sinh thời quý báu ấy để ca ngợi cái đẹp diệu kỳ của phần nửa nhân loại. Bởi phần nửa này vốn hoàn mỹ nhất trong các sáng tác của thượng đế, đến nỗi nó làm cho toàn trái địa cầu khốn đốn. Tôi đồ rằng chính thượng đế cũng đã ban phát xuống cho nhân thế trong một lúc đang điên đầu. Đương nhiên tôi không dám phung phí, tận dụng hết ma lực của những bầu ngực, những vồng mông báu vật. Ở bức tranh này tôi nhấn vào mấy ngón chân mỹ nữ mũm mĩm uốn cong lên, tinh nghịch đón một đốm nắng chiều. Ở bức kia tôi gợi một đường cổ mềm tựa ức bồ câu yếu đuối mà ngây thơ, khiến người ta không dám thở mạnh. Còn đây, nơi bờ vai tràn trề sinh lực đã mờ đi dưới cái bóng của vài lọn tóc rơi xõa lơ đễnh, tôi chỉ để sáng lên khoảng gáy đầy đặn trắng ngần thiếu phụ... Tôi chẳng rõ những ai chịu bớt chút thì giờ đến nghiêng mình tại cuộc triển lãm trước những cái gáy hay những ngón chân mỹ nữ của tôi, nhưng đã không ma dại nào mua hộ một bức. Cũng có vài ông Tây ba lô xì xồ hỏi mua rẻ, mặc cả ráo riết, tôi cho qua luôn. Trong thâm tâm tôi không muốn xuất ngoại những mùa xuân Việt Nam. Có khác gì bắt các trinh nữ phương đông đi làm me Tây? Thế nên suốt hai chục ngày tôi chỉ ngồi canh chừng cho những tấm nhan sắc ế ẩm, mặc dù người xem kéo đến đông nghịt. Trong đám người ấy tôi nhận ra không ít đôi mắt phàm phu tục tử. Các vị khách háo ngọt lục lạo những phần thân thể đàn bà tôi đã cố tình giấu đi. Họ giống hệt những anh hàng thịt soi mói con lợn sắp pha. Vài vị cao hứng cũng mặc cả mua tranh, tương tự mặc cả lợn hơi ngoài chợ. Tới ngày thứ mười tôi không còn giữ được bình tĩnh, và cũng để khỏi trả lời nhiều, tôi đặt vào mỗi bức tranh một mảnh giấy đề giá bán, cái giá làm bất cứ ai nhìn cũng phải sởn gai ốc: mười lăm ngàn đô la, mười tám ngàn đô la... Cái đẹp chứ không phải rác nhá! Dĩ nhiên những ngày sau đó tôi còn mỗi việc ngồi đuổi ruồi cho các mỹ nhân. Dạo ấy gặp tiết mưa phùn, gió mùa đông bắc tràn về, tôi có cảm giác các mỹ nhân của tôi đều ẩm ướt, giá lạnh, run rẩy trên bốn bức tường xám. Tôi xót xa cho cái đẹp. Vài bữa cuối cuộc triển lãm, thậm chí tôi không đủ can đảm nhìn vào những bóng dáng bất động dầu dãi trên tường. Mặt mũi tôi rần rật nỗi ngượng ngùng của một ông chủ nhà chứa ế như lời đám bạn tôi giễu. Sau cuộc triển lãm tôi gói gọn Hai mươi mùa xuân nữ cất lên gác xép. Vừa để tỏ lòng tôn kính cái đẹp, vừa bởi lòng tự ái của tôi đã bị thương tổn. Tôi thề sẽ không vẽ thêm một mùa xuân nào nữa. Hãy thôi đi lòng ta ơi! Thế nhưng một buổi thằng Hiền tìm đến tôi. Nhìn xoáy thẳng mắt tôi, cái thằng thanh niên dạn dĩ ấy đã nói không úp mở: - Cháu biết chú cần một người mẫu khỏa thân thật chuẩn. Cháu sẽ tìm cho chú một người bảo đảm tuyệt vời. Xong không? - Mày lên cơn lảm nhảm gì đấy? - Ôi dào, chú vứt quách ba cái cây lăng nhăng kia đi. Thị trường tranh hiện giờ khát khỏa thân lắm. Sở trường chú đang có đất dụng võ. Chú được người này làm mẫu bằng cả tá hoa hậu. Cháu chỉ yêu cầu chú hứa một điều. Chưa bao giờ tôi thấy thằng mất dạy có bộ mặt nghiêm túc như lúc này, một vẻ nghiêm túc đe dọa. - Rằng chú không được cư xử nhí nhố. - Thằng này bố láo! Mày đã thấy tao nhí nhố với ai chưa? Thôi, cút! Tôi cũng làm mặt nghiêm. Kể từ khi biết nó, một thằng nhỏ mồ côi lang thang của khu vực này, tôi thường ký hợp đồng với nó, nhờ trông cửa ngõ, không để trẻ con vào quấy nhiễu mỗi khi tôi làm việc, đặc biệt vào thời kỳ tôi đang vẽ khỏa thân. Thằng Hiền dịu giọng: - Chú ơi, chú là người duy nhất cháu tin cậy. Cháu không thể để nó đến làm mẫu cho ai, ngoài chú ra. - Sao? Nó là ai? - Nó là em gái cháu. Tôi hơi sững người. Một đứa có thành tích bài bạc bất hảo như Hiền, tôi không mong chờ ở nó những điều tử tế. Nó giăng bẫy gì tôi đây? - Em ruột à? - Vâng. Mẹ cháu chỉ có hai anh em cháu. - Gì nữa? Cứ nói thật tao nghe. - Chúng cháu đang cần gấp một món tiền. Đã vơ vét hết nhưng vẫn thiếu hai trăm rưỡi. Chúng cháu không thể vay ai. Mà vay rồi lấy gì trả? Chính cái Hương đã bàn với cháu chuyện tới đây. Thằng Hiền chợt ngưng lại, liếc tôi một cái. Thằng dối trá. Nếu nó không đầu têu, con bé em sao biết chuyện tới đây làm mẫu khỏa thân? - Thôi đi, tao biết thừa mày đạo diễn cả. Tóm lại mày đang cần tiền hay cô bé kia? - Cháu xin lỗi vì chưa thể nói hết với chú. Nhưng chú cứ tin cháu. Cái Hương không tự nguyện, cháu ép nó cũng không xong. Chú khỏi cần để ý đến những chuyện vặt. Chú cứ vẽ cho đủ số tiền hai trăm rưỡi. Nhưng chiều nay chú cho chúng cháu xin tiền trước. Được không? Thấy tôi cau mặt lặng thinh, Hiền nài nỉ: - Chú mạnh dạn ừ cho cháu một tiếng. Chả lẽ chú để cháu đưa nó đến ông Quắc ư? Vừa nghe đến Quắc tôi đã thấy kiến đốt gáy. Trong giới họa sĩ ai lạ gì lão. Mượn cớ vẽ vời, lão chuyên rủ rê các cô gái ngớ ngẩn để thỏa lòng háo ngọt. Và lão giàu. Và tôi căm ghét lão. - Nếu quả mày vì hai trăm rưỡi dám đưa em gái cho quỷ sứ xơi, thì đây... Cầm lấy rồi cút! Tôi quẳng cho nó hai trăm rưỡi trong số tiền lương mới lĩnh. - Cảm ơn chú. Nửa tiếng nữa cháu đưa nó đến. - Khỏi cần. - Không, chúng cháu không muốn nợ ai cả. Tôi cười nhạt. Dân cờ bạc có mãn kiếp cũng không thoát được đời con nợ. Tôi xót tiền, định phang nó một câu cay độc nhưng nó đã biến trước khi tôi kịp nghĩ ra. Ấy thế tôi vẫn bối rối khi Hiền dẫn tới một cô bé ngoan ngoãn với đôi mắt nhìn xuống e lệ. Bối rối vì cái vẻ non tơ hiền hậu khác hẳn thằng anh, bối rối vì ngay giây phút gặp mặt tôi đã đoán chắc đó là một cô bé nhà lành, lần đầu tiên liều mình bất kể. Vì sao? Chỉ vì hai trăm rưỡi ư? Tội nghiệp quá! Sau vài câu giới thiệu qua loa, Hiền dặn cô bé: - Hương cứ ở đây làm việc với chú. Năm giờ chiều anh tới đón. Yên tâm. Nói xong nó liếc tôi một cái đầy ngụ ý, khẽ gật đầu chào rồi đi. Tôi mặc cô bé ngồi im lặng ở bàn nước, vờ loay hoay dọn dẹp toan, màu. Tôi muốn cô bé có thời gian làm quen với căn phòng, với người đàn ông đã hoa râm mà gương mặt khắc khổ chắc gớm ghiếc lắm. - Thưa chú, khi nào bắt đầu làm việc chú cứ bảo cháu. Cô bé cất giọng rất nhẹ, từ tốn, tựa hồ sợ tôi giận. Tôi đặt trước mặt cô bé một cốc nước lọc. - Cháu uống nước đi. Chú nói ngay cho cháu yên tâm, cháu sẽ không phải làm cái việc ngồi mẫu cho chú vẽ. Cô bé ngước nhìn tôi, ánh mắt thoáng lo âu. - Chú không muốn vẽ cháu ạ? - Chú không nỡ bắt cháu phải làm việc đó. - Cháu không nghĩ... - Ừ, việc đó hoàn toàn tốt, nhưng cháu chưa đủ ý thức và cũng không phải việc của cháu. Tôi nghe giọng mình khô khốc đáng ghét. Cô bé khẽ nhếch khóe môi vẻ khó hiểu. Tôi lúng túng im lặng. Mọi lời giải thích đều sẽ thô bạo nhưng sự im lặng cũng vẫn len lỏi một ngụ ý chẳng kém thô bạo hơn. Có tiếng người đưa thư gọi cổng. Tôi mừng vì có cớ tạm thoát khỏi tình thế kỳ cục này. Tôi nấn ná đọc lá thư ngay ngoài thềm. Một lá thư tào lao không mấy ý nghĩa, nhưng tôi đọc từng chữ, gần tới hai lần rưỡi, để kéo dài thời gian khỏi phải trở vào nhà. Hình như trong tôi có một nỗi run sợ mơ hồ mỗi khi phải đối diện với cái đẹp đích thực. Lần này thậm chí còn hơn thế. Rồi cũng phải trở vào chứ. Tôi uể oải lấy mũi giày đẩy nhẹ cánh cửa. Gì thế kia? Ở góc phòng vẽ của tôi, cô bé đứng co ro với chiếc khăn phủ tranh nhem nhuốc màu vẽ, đang dùng dằng nửa muốn che đậy đôi chút, nửa muốn dứt bỏ những ngượng ngùng cuối cùng. Chợt thấy tôi vào, cô bé hơi giật mình, để rơi mảnh vải xuống chân, hai mắt giương to nhìn tôi sợ hãi lẫn dò hỏi. Tôi xiết bao bàng hoàng. Cả góc phòng ngổn ngang luộm thuộm bỗng như sáng bừng trước vẻ lộng lẫy tinh khiết của một thân thể thiếu nữ. Tôi không thể cầm lòng để không hình dung một bức tranh khỏa thân đúng như trước mắt tôi kia. Thân hình mềm mại hơi run rẩy, ánh sáng cửa sổ hắt vào rõ cả chút mồ hôi râm rấp trên làn da trắng nuột... và trời đất ạ, cái nốt ruồi đỏ thắm nổi lên giữa bầu vú tròn mâng của cô bé tựa như có bàn tay nào tinh nghịch đánh dấu một vùng cấm thiên đường cho riêng mình. Xin đời tha thứ cái yếu lòng thằng tôi. Chút áy náy cuối cùng lẫn lòng trắc ẩn đã nhường chỗ cho con ngựa nghệ thuật nó đột ngột lồng lộn. Tôi bỗng náo nức, con tim nảy thì thụp dưới ngực áo, luýnh quýnh vơ đại cây bút vẽ nào trong tầm tay. Giờ thì tôi cắm cúi vẽ, mê man quên hết mọi điều trên đời, quên tôi, quên Hương, chỉ còn một thứ duy nhất ngự trị trong phòng đó là bức tranh trên giá vẽ. Gần một giờ trôi qua, Hương chừng mỏi, động đậy người. - Cảm ơn cháu, ta nghỉ một lát. Tôi rút tấm lụa trắng trên mắc áo đưa cho Hương. Cô bé choàng vội quanh người, tới ngồi đúng cái ghế khi mới tới đây đã ngồi, nơi bóng tối của căn phòng được cô bé chọn làm vùng phòng ngự. Tôi cũng ngừng tay, hoan hỷ ngắm công trình vừa khởi sự, lòng tấp tểnh hy vọng. Hóa ra đã trải hai mươi mùa xuân nữ, cái thân thể đàn bà tôi ngỡ quen thuộc từng đường nét, biết rõ từng vùng phớt tối mơ hồ nhất mà nó vẫn luôn mới lạ, kỳ bí, thách đố. Vì sao? Tôi không ngăn nổi mình đưa mắt nhìn lại cô bé với nỗi ngạc nhiên lặng lẽ. Nhưng trước mặt tôi cô bé đã co lại trong tấm lụa choàng tựa con tằm trong cái kén trắng. Tôi chợt thương cảm nỗi sợ hãi con nít ấy. - Chú hỏi thật Hương nhé, có đúng cậu Hiền bắt cháu tới đây không? - Không. Tự cháu đấy ạ. - Chú không ngờ cháu rất hiểu công việc. - Vâng. Ngày xưa có lần anh Hiền dắt cháu đến đây ngó trộm chú vẽ như thế này. Dạo cháu xem triển lãm của chú, cháu nhận ra đúng cô gái cầm hoa lưu ly ngày ấy, cháu thích lắm. - Vì thế cháu đến làm việc giúp chú ư? Hương ngập ngừng một chút: - Dạ. Cũng vì anh Hiền đang mắc nợ người ta. Những bảy trăm. Cháu bán xe đạp của cháu chỉ được bốn trăm rưỡi. - Lại trả nợ bạc phải không? Hương ngước nhìn tôi, giọng buồn hẳn: - Xin chú giữ kín cho. Anh ấy thua bạc, liều lĩnh lấy xe của gia đình người quen đem gán. Hôm nay không chuộc được xe trả họ, họ sẽ báo công an bắt. Cổ tôi nghẹn đắng. Giá thằng Hiền có đó chắc tôi đã đấm vào mặt nó. - Mẹ cháu lại đang ốm nặng. Chúng cháu chẳng còn gì để bán. Anh ấy đã thề độc với cháu lần này là lần cuối cùng, từ rày không đánh bạc nữa. Thoáng một nét mỉm cười dịu dàng trong ánh mắt Hương. Cô bé không nhận ra tôi sắp khóc vì niềm tin yêu mộc mạc ngây thơ ẩn giấu trong giọng nói của cô bé. Chúng tôi lặng lẽ trở lại công việc. Thú thật đã gần chục năm trời, sau đợt triển lãm Hai mươi mùa xuân nữ, những xúc cảm mãnh liệt của tôi trước tấm toan hình như giảm đi đến mức báo động. Giờ đây nó bỗng trở lại đột ngột, ào ạt, mừng tủi, vội vã. Mùi dầu, mùi sơn ngây ngất. Cây bút nhiều khi lạc đường. Và màu, và ánh sáng lung linh, ánh sáng mỗi lúc biến động trên thân thể kia như trêu cợt tôi, cộng với tiếng đồng hồ cứ thảng thốt hối thúc. Tôi sẵn sàng đổi mọi giá để ghi được trọn vẹn vẻ đẹp đang lướt qua tầm tay. Lạy trời, như một búp hoa rồi sẽ nở, sẽ tàn úa. Có thể cây bút tôi sẽ chẳng kịp với thời gian, cũng có thể vì bất lực. Rồi sẽ không mấy ai biết được đã có một vẻ đẹp như vậy đi qua thế gian này. Rồi sẽ chẳng lâu nữa cái hương sắc trinh nữ kia bị vầy vò, bị những bàn tay đàn ông hưởng thụ không thương tiếc. Rồi sẽ chẳng lâu nữa những đứa trẻ lốc nhốc theo nhau rút đi máu thịt từ cội nguồn, để lại sau chúng một mẫu vật của lòng hỉ xả, nhăn nhúm, được mệnh danh là người mẹ. Rồi sẽ chẳng lâu nữa... chẳng lâu nữa... Mau với chứ, vội vàng lên với chứ! Em, em ơi tình non sắp già rồi. Câu thơ của chàng thi sĩ đa tình lặp lại trong óc tôi thành một điệp khúc vô lý. Rồi bỗng nhiên tôi hụt hẫng. Mình có khác gì mấy anh hàng thịt lợn? Điều cần miêu tả trong bức tranh đâu phải chỉ da thịt? Còn chuyện cô bé tự đến đây, tự khỏa thân để lấy tiền cứu thằng anh cờ bạc, cứu người mẹ đang hấp hối. Có cách gì vẽ được vẻ đẹp của tâm hồn một nữ thánh trong cuộc hành đạo tới nơi tử nạn không? Có lẽ phải vẽ một cái gì khác bức tranh tôi đang theo đuổi. Đúng vậy. - Chú ơi, chú không vẽ cái nốt ruồi chứ? Giọng cô bé sẽ sàng cất lên. - Vì sao? - Dạ, cháu nghĩ thế. Tôi an ủi cô bé: - Nó có xấu đâu. Đẹp là đằng khác. Hương khẽ cười. Lần đầu tiên tôi nghe cô bé cười. Tiếng cười của một đứa trẻ đấy chứ. Đáng lẽ tôi không nghĩ tới cái nốt ruồi, giờ nó cứ ánh lên trong mắt tôi. Hương sợ ai nhận ra cô bé ở điểm đặc biệt ấy chăng? Người chồng sau này chẳng hạn? - Cháu yên tâm. Bức tranh này chú dành riêng cho mình. Khi nào chết, chú tặng cháu. Và nếu cháu chết, hãy mang nó theo. Lại cười. Yêu chết mất cái cười... oOo Lai lịch, số phận cái tranh khỏa thân trôi nổi từ đâu, ai biết rõ được. Tôi tin vào thuyết phân thân, tin có kiếp trước kiếp sau cùng mọi mối duyên nợ lằng nhằng. Trang Chu mộng hồ điệp... chưa biết chừng tôi đích thực là ông họa sĩ gàn dở nào đó ngày xưa đã vẽ bức tranh khỏa thân với cái nốt ruồi đỏ kia. Đương nhiên hiện nay tôi cũng không phải ai khác ngoài anh chàng thanh niên sinh ra ở ven ngoại ô. Tôi vừa thừa hưởng gia sản của mẹ tôi một cửa hàng tạp hóa. Để giễu thiên hạ, để các bà chị gái - bà nào cũng đầy đủ chồng con - chứng nhận cho sự ngoan ngoãn vì giữ được cơ nghiệp, tôi đã phải bỏ phòng văn hóa Sơn La, xin thôi việc, trở về đứng sau quầy hàng giữa đám sách báo, tạp chí, kim băng, dây chun... Chủ yếu tôi ngắm bụi đường cùng khách bộ hành chứ buôn bán là mấy. Tôi đang rình một cô vợ do các bà chị mối manh đưa về đây làm hình nhân thế mạng, đứng sau quầy thay tôi. Nhưng mãi chưa ai mắc lừa. Các bà chị tôi sốt sắng phàn nàn với tất cả cấp bậc phụ huynh của mọi cô gái quen biết rằng: - Xem ra số cậu cháu chưa đứng. Bốn mươi đến nơi mà chưa ai ỉa đái cho. Tôi nghe phát bực. Dễ mình phải đeo sau lưng tấm bảng toilet công cộng chăng? Hãy đợi đấy các thỏ non ạ! Như tôi đã kể, cơ nghiệp gia tộc ngoài quầy tạp hóa còn có bức tranh khỏa thân treo ở góc khuất, che lỗ chuột. Nó bụi bặm mù mịt. Ngày mẹ tôi còn sống, có lần bà kể đã mua một mớ đồ đạc tầm thường của ông họa sĩ nghèo nào đó. Mua làm phúc lấy tiền chôn cất ông ta. Bởi ông sống độc thân, không ai ruột thịt. Hẳn bức tranh này của ông ta. Đứng suốt những ngày mưa ngâu trong quầy hàng, tôi có nhiều dịp ngắm bức tranh thiếu nữ khỏa thân. Duy nhất cô ta chia sẻ cùng tôi nỗi cô đơn mốc meo. Phần tôi, tôi cũng thương cái màu sắc ẩn hiện đã tàn phai theo năm tháng kia, chẳng khác thương mình đang hoen rỉ sau quầy tạp hóa. Mối đồng cảm giữa chúng tôi sâu nặng đến nỗi một hôm tôi quyết định lấy từng lát hành tây lau bức tranh như người ta dạy. Bụi sạch đến đâu bức tranh lộ ra một khung cảnh bất ngờ đến đó. Vùng ánh sáng ngoài cửa sổ hắt vào căn phòng làm ửng lên từng phần da thịt nuột nà thiếu nữ. Với tấm lụa trắng vắt vai rủ tới ngang bắp chân trần, cô gái đặt ánh mắt vào tôi vẻ hờ hững, đoan trang. Nàng đẹp mê hồn, nhưng không một mảy may gợi lên cái nồng nàn thân xác. Điều đặc biệt trên bầu ngực trái có nốt ruồi đỏ nâu rất tuyệt. Mới đầu tôi ngỡ người vẽ vô ý, sau nhìn kỹ tôi đã hiểu tác giả của bức tranh quả nghịch ngợm cố tình. Khi tấm nhan sắc được đại tu đến mức lộng lẫy, tôi không dám đặt nó trong quầy hàng nữa. Tôi treo ở một góc khuất, đúng tầm nhìn, để tôi có thể lẩn thẩn trò chuyện cùng nàng trong suốt những ngày tháng dài làm kinh tế. Nàng an ủi tôi, xoa dịu mọi nỗi đau buồn, đôi lúc cũng hay lý sự. Bao giờ tôi cũng chìu theo ý nàng. Tôi không tưởng tượng được thiếu nàng đời tôi sẽ ra sao những ngày tháng này. Tuy nhiên thỉnh thoảng lại len lỏi trong ý nghĩ tôi một nỗi sợ hãi. Hẳn người đẹp trong tranh đã chết từ lâu, giờ đây hồn nàng nhập vào hình bóng để sống chung với tôi như những truyện Liêu trai vậy. Bởi đã nhiều đêm tôi mơ gặp gỡ nàng, âu yếm nàng. Nàng lẫn lộn trong hình bóng cô gái bán bánh cuốn mà ngày nào tôi cũng mua ăn. Nhiều đêm tỉnh dậy tôi choáng váng chẳng rõ vừa mơ thấy ai trong hai người ấy. Cô hàng bánh cuốn nóng mỗi buổi sáng vẫn gánh bánh đi qua nhà tôi. Cô bé không đẹp nhưng bù lại kiểu ăn nói có duyên lạ lùng. Mời mọc ai, người đó không thể từ chối. - Ngày nào em cũng mời anh bánh cuốn thế này, ông táo nhà anh khéo chết đói mất. - Táo ông đã có táo bà chăm lo, sợ gì. Bao giờ anh có vợ, em không mời anh bánh cuốn nữa. Tôi được biết cô vốn dạy trẻ mẫu giáo. Lương ít quá, không đủ nuôi bà mẹ già ốm, cô đành xoay nghề bán bánh cuốn. Đã dạy mẫu giáo nên cô bé mềm mỏng dễ thương, dỗ khách hàng ngọt ngào như dỗ trẻ. Tôi đã dị ứng món bánh cuốn sau mấy tháng trời nhưng ngày nào cũng phải mua nửa cân. Cô bé có cái cười giòn tan, hai răng khểnh duyên dáng hơn hai hột ngô nõn. Mỗi lần cân bánh xong cô lại đặt thêm vào đĩa cho tôi một lá bánh nhỏ. - Này, để anh hay ăn chóng lớn nhá! Bố ai không mê? Tôi đã nghiệm các cô răng khểnh cực kỳ nguy hiểm. Cứ xét từ các con thú xem. Bé như nanh rắn mà lớn như ngà voi, thảy đều đáng sợ. Nhưng có lẽ không gì nguy hiểm hơn những chiếc răng khểnh của các cô gái. - Liệu trong bánh cuốn có bùa mê không em? - Nếu có bùa mê thì cụ già bên kia đường đã mê trước anh. Ngày nào cụ ấy cũng mua một cân cơ. Lại cười nữa. Nhiều lúc mơ màng tôi ước cô bé với người trong tranh nhập làm một, lúc nào cũng hiển hiện trước mặt tôi, trò chuyện cùng tôi. Để ý kỹ, lắm lúc tôi ngỡ họa sĩ vẽ cô hàng bánh cuốn chứ không phải ai khác. Một ngày kia cô bé phát hiện ra bức tranh khỏa thân. Tôi hơi ngượng, còn cô rất kinh ngạc. - Ai đây anh? - Làm sao anh biết được. Có lẽ đây là người tình của ông cụ anh chăng. - Anh treo bán bức tranh này ư? - Bao nhiêu người hỏi mua nhưng anh không bán. - Thật ư? - Trời ơi, hàng ngàn dollar đấy cô bé ạ. Đây là tác phẩm nghệ thuật chứ đâu phải trò nhảm nhí. Của gia bảo nhà anh đấy. Rồi tôi sẽ phải ân hận suốt đời vì đã trêu đùa một cô bé ngây thơ. Lúc đó tôi đâu biết. Chỉ thấy cô ngây người ra, tôi cố nín cười. Mấy hôm sau tôi để ý cô bé thường kín đáo ngắm nghía bức tranh, nhưng tôi lờ đi, không nhắc đến nó. Dạo này quan hệ giữa tôi với món bánh cuốn nóng được cải thiện rõ rệt. Có nghĩa rằng sau khi thú thực với cô hàng chuyện mấy bà chị gái tôi cũng xin thôi không chịu nhận món bánh cuốn tôi biếu nữa, cô bé thông cảm không nỡ ép tôi phải mua thường xuyên. Tôi mừng rỡ thầm gọi cô bé bằng nàng một cách âu yếm, biết ơn. Và không mấy ngày nàng không rẽ vào thăm tôi, sau mỗi tầm đã bán hết bánh. Cũng tự nhiên mối tình thầm lặng trong tôi tiến triển đến giai đoạn phải giải tỏa bằng thơ. Tôi làm liền sáu bài lục bát tặng nàng, tha thiết vô cùng, bài nào cũng đi đến một cái đích duy nhất: nếu nàng không định cắt vụn trái tim tôi bằng cái kéo sáng loáng vẫn dùng cắt bánh cuốn nóng, thì xin nàng hãy nhận lấy nó. Tôi cùng lũ quần thần kim băng, dây chun, băng phiến... có ước nguyện được tôn thờ nàng làm bà chủ sở hữu mãi mãi. Chao ôi, nàng đã nhận lời yêu tôi, cô bé tội nghiệp ấy, nàng nhận một cách dễ dàng, không kiểu cách. Cái anh nhà thơ tình nghiệp dư bỗng choáng ngợp hạnh phúc. Điểm duy nhất khiến tôi thắc thỏm là nàng nhất định chưa ưng cho tôi đến thăm nhà, thăm bà cụ đang ốm nặng. Nàng khất lần mãi với nhiều lý do hợp lý cũng như bất hợp lý. Nhưng khi người ta yêu, con người thường ích kỷ, chẳng cần gì hơn ngoài hình bóng mình yêu dấu. Tôi tặc lưỡi đồng ý để nàng trì hoãn, ngờ nàng mặc cảm không muốn tôi nhìn thấy cảnh túng bấn khó khăn. Người yêu dấu, sao em nỡ nghĩ thế? Sau giai đoạn thi ca, tình yêu được chắp cánh với tốc độ bay chóng mặt. Đêm ngày qua đi toàn những giấc mộng. Nào môi, nào mắt, nào ngọt ngào hương vị những cử động mơ hồ ý nhị. Tôi chết lịm y hệt một chú ong say mật. Cơn bão số ba năm nay gió xoáy cấp mười. Đúng đêm bão về, con tim tôi rụng rời, không được phòng chống mảy may. Nàng gõ cửa vào lúc mười giờ đêm, quần áo ướt sũng, chiếc áo mưa tím mỏng tang chỉ như cánh hoa bằng lăng, dán phớt lên thân hình tròn trặn. Tôi không dám đặt mắt vào đâu trên những đường tròn, luýnh quýnh giúp nàng cởi áo mưa, giúp nàng lau khô mái tóc. Cơn mưa mười giờ mới thật dữ dằn. Nó lồng trên mái nhà và mặt đất bằng tất cả sự điên cuồng vui sướng. Tôi không nhớ những giây phút đầu tiên đã qua đi như thế nào, nhưng lúc đồng hồ điểm mười hai tiếng chuông mơ hồ lẫn trong tiếng thác nước trút xuống, tôi nhận ra nàng đã ở trong vòng tay tôi, ẩm ướt và giá lạnh. Tôi nghe mình thổn thức tan ra, quên hết thế gian, quên mọi thứ kim khâu nội ngoại cùng bút bi, hồ dán... Cái phần da thịt mướt mịn đang áp lên da thịt tôi, đang nóng dần ngan ngát, nó làm tôi mê mụ. Nàng lặng lẽ hiến thân cho tôi. Tôi cũng dâng tôi cho nàng rất mực dịu ngọt. Khi nàng bỗng trở mình gỡ khỏi vòng tay tôi, tôi run bắn người nhìn trân trối vào những vết loang đỏ trên nệm. Nàng dụi đầu vào ngực tôi. Tôi chờ đợi những tiếng nức nở vang lên. Không rõ tôi đọc ở đâu người ta viết rằng các trinh nữ phải khóc khi trót lỡ bồng bột. Nếu vậy tôi cũng sẽ vui sướng đập đầu tự tử dưới chân nàng theo đúng cung cách tiểu thuyết. Mười lần chết, em ơi... - Anh xin em, mặt trời của anh. Anh thề rằng sẽ chỉ có cái chết mới chia lìa chúng ta. Anh sẽ làm tất cả, sống tất cả cho em. Tôi hôn lên những ngón tay im lặng của nàng, thành tâm hứa hẹn mọi điều. Tôi cố không nghẹn ngào. Từ tầng văn hóa của một anh hàng xén có trình độ thơ tình lục bát, tôi cho rằng đàn ông không được khóc. Mưa bớt hối hả. Vào lúc tiếng sấm làm một trong hai ngọn đèn điện trong phòng vụt tắt, nàng ngước gương mặt ướt át nhìn tôi, khẽ nói: - Chúng mình uống một chút nước cam nóng, được không anh? Tôi cuống quýt mừng rỡ vì dù sao nàng đã nói, một câu nói đời thường, giúp tôi thoát khỏi tình thế của kẻ tội đồ. - Đúng rồi. Chờ anh một chút nhé. Tôi lại hôn nàng lần nữa trước lúc xuống bếp. Cam thì nàng mang tới khi tối, đường thì cửa hàng tôi còn tồn đến nửa tạ. Khoảng mươi phút sau tôi đã mang hai ly nước cam lên. - Em uống vừa miệng không? - Hơi ngọt quá anh ạ. Cho em chút nước lọc nữa. Tôi xúc động cả cái cốc nước lọc ấy. Không phải tôi đi xuống bếp mà thánh thần nâng cánh tôi bay lên. - Em xin anh. Nàng uống lặng lẽ. Thấy tôi cứ đắm đuối nhìn, nàng khẽ cười giục: - Anh uống cùng em đi chứ. Tôi nốc cạn cốc nước cam của mình như uống một hơi đôi mắt long lanh kia. May sao nó không làm tôi chết nghẹn. Rồi tôi ngủ một giấc tới tận trưa hôm sau. Nàng, trong thời điểm hay gặp ở các truyện vụ án hình sự, nàng biến mất. Có thể nàng là cô gái út của nhà trời lẻn xuống trần một đêm cho biết mùi đời, hoặc cô hồ ly nhân mưa to gió lớn hiện hình trêu ghẹo tôi. Dù là ai, nàng cũng đã biến mất. Và bức tranh khỏa thân biến theo nàng. Tôi đóng cửa hàng, không thiết ăn uống, chỉ vật vã suy nghĩ, xem xét mọi bề. Có phải nàng đã khờ khạo đánh đổi một đời con gái vì lầm tưởng bức tranh hàng ngàn dollar như tôi đùa cợt? Tôi lao đi tìm nàng. Rất nhiều người nhận có ăn bánh cuốn nóng nhưng không hề biết gì về cô hàng bánh. Càng tìm, nỗi tuyệt vọng càng lớn. Tôi lên phố vật vờ vào những gallery để mong manh hy vọng sẽ dò tìm được tung tích bức tranh khỏa thân. Biệt vô âm tín! Sang đến ngày thứ tám, tôi quyết định mở cửa hàng, coi chuyện đã qua tựa hồ một giấc mộng ngọt ngào không có thực. Tôi chỉ cố tránh không nhìn vào khoảng tường xưa treo bức tranh thôi. Khoảng tầm chiều bỗng có chiếc xích lô đỗ lại trước cửa hàng. Ông xích lô đã già, gương mặt úa héo, vác một gói giấy to tướng, tò mò ngắm nghía quầy tạp hóa, rồi ông ngắm tôi, có lẽ chủ yếu ngắm tôi. - Ông cụ muốn mua gì? - Cậu là cậu Quảng. - Vâng, cháu đây. - Có người nhờ tôi đưa cho cậu cái này. Ông xích lô đặt gói giấy lên mặt quầy hàng. Tôi vồ lấy nó, không kịp mở nút dây buộc, xé luôn những tờ giấy báo bọc ngoài. Đây rồi, bức tranh của tôi. - Chắc cậu chưa biết, bà cụ cô Hằng đã mất năm hôm nay. Tội nghiệp, hai mẹ con nghèo quá. Cả xóm ai cũng quý hóa, mỗi người giúp giập một tí, thế cũng xong. Hôm qua, cô Hằng giao nhà cho vợ chồng tôi trông nom hộ, đi chuyến tàu trưa ra Cát Hải. Chả hai nhà giáp vách nhau, tôi lại đông con, chật chội. Cô bé tốt nết quá. Hiếu thảo với mẹ thì tôi chưa từng thấy ai được như thế. Đã bảo cứ ở lại buôn bán kiếm ăn với chúng tôi, nhưng cô ấy không nghe. - Cô ấy đi đâu hở cụ? - Nghe nói ra Cát Hải với bà bác họ. Nhưng cụ thể ra sao, cô ấy không nói rõ. Chỉ hẹn nếu có địa chỉ sẽ viết thư gửi về. Cô ấy nhờ tôi trao tận tay cậu bức tranh với lá thư đây. Ông già xích lô đi lúc nào tôi chẳng để ý, sau khi cho tôi địa chỉ của ông ở một xóm ngoại ô phía tây thành phố. Lá thư nàng gửi dày đặc bốn trang giấy, nét chữ tròn, hiền lành. Ngoài những lời xin lỗi hết sức cảm động, nàng hé mở cho tôi đôi phần bí ẩn. Hóa ra người đẹp trong bức tranh khỏa thân ấy chính là mẹ nàng, nàng nhận ngay được bởi cái nốt ruồi đỏ thân thuộc. Bà mẹ đã khóc, kể cho nàng nghe lai lịch cái tranh bị lưu lạc đến tay tôi đã được vẽ trong hoàn cảnh nào. Trong những ngày hấp hối của bà, nàng hứa sẽ chuộc lại cho bà bức tranh khỏa thân xa xưa ấy. Nhưng lấy đâu hàng ngàn dollar? Cái đêm mưa bão nàng đến với tôi là để ít nhiều trả giá, gián tiếp sòng phẳng. - Hãy tha thứ cho em đã dám dùng gói thuốc ngủ như một kẻ trộm đạo lọc lõi. Trước những giờ phút đau đớn vật vã cuối cùng của mẹ, em dám có gan liều mình hơn thế. Chỉ đến giờ em mới kịp xấu hổ với anh. Anh nhận lại bức tranh quý giá và nếu có thể được, đừng nhớ gì về em. Nàng thật điên rồi. Khoảng nửa tiếng sau tôi đã phóng xe tới xóm ngoại ô, tìm đến căn nhà lá của nàng. Bà vợ ông xích lô đang dọn dẹp quét tước. Không khí nhà đám còn vương vất mọi nơi. - Nếu như bà có biết địa chỉ dưới Cát Hải, cháu nhờ bà đưa cháu xuống. Sau này cháu xin hậu tạ chu tất. - Sao cậu nỡ nói thế? Nghe cậu kể hết sự tình hai người, tôi cũng mừng cho con cháu Hằng gặp được người thật thà thương yêu. Lạy vong linh mẹ cháu chứng cho bụng dạ tôi. Chỉ sợ nó nói dối, không về Cát Hải, toi công tôi với cậu. Tôi thắp ba nén hương, cầu nguyện trước bàn thờ mẹ nàng. Tôi trông mong một sự dun dủi linh thiêng. Và chính lúc ấy tấm ảnh bà mẹ Hằng cuốn hút tôi như có ma lực kỳ lạ. Tôi sững sờ. Chao ôi, người đàn bà già nua sầu muộn, hai hốc mắt tối thẫm, cái sọ trơ xương kia chính là người đẹp trong tranh đấy ư? Tôi không thể tin sự thật lại như thế. Chẳng có chút liên quan nào giữa hai đỉnh đối nghịch này. Nếu có chút liên quan thì nó quá phũ, quá khốc liệt. Liệu ông họa sĩ khi vẽ bức tranh người thiếu nữ khỏa thân ngày ấy có tưởng tượng nổi một mớ gân xương đậm xỉn, nhăn nhúm này không? Thật kinh hoàng. - Ảnh chụp bà lão lúc mới liệt giường trông còn khá đấy. Gớm, lúc chết trông mới thương chứ. Đúng như bộ xương khô, không ai dám nhìn lâu. Nhìn lâu không cầm được nước mắt. Bà vợ ông già xích lô vừa nói vừa sụt sịt. Tôi ngây dại. Nhìn hai đốm sáng ở hốc mắt người đã chết trong ảnh, tôi có cảm giác bà đang dần dần nhận ra tôi, anh chàng hàng xén vẫn trò chuyện bao ngày với người đẹp có nốt ruồi đỏ. Hỡi ôi, cái đẹp có thực hay không có thực? oOo Tôi nói với Hương: - Cháu có muốn nghe chú kể về một anh hàng xén liên quan đến bức tranh chú vẽ cháu đây không? Hương mỉm cười: - Chuyện cổ tích ạ? Đúng lúc đó tôi quyết định đặt ngọn bút vừa chấm sơn đỏ vào tranh. Để đánh dấu rằng quả thực đã có một nhan sắc như thế đi qua thế gian chúng ta. |
| | | Tinh Hoa
Tổng số bài gửi : 1060 Registration date : 19/01/2020
| Tiêu đề: Re: Truyện ngắn Việt Nam Thu 15 Oct 2020, 23:44 | |
| Anh lính Tony D (tác giả: Lê Minh Khuê)
Một gã đàn ông mặt mũi tối tăm, loại người nhan nhản vẫn lượn lờ ở các chốn đô hội, ghé vào nhà lão Thiến. Gã đàn ông đứng ở cửa, thân thể vạm vỡ, khuôn mặt nhờ nhờ không ra thiện ác. Lão Thiến hỏi mà không thèm đứng lên:
- Chuyện thằng Thán hả?
- Vâng, sao ông biết?
- Điều đó tính sau. Sao?
- Thằng Thán chết mất xác rồi.
Lão Thiến nghe câu đó, hơi động đậy cục hầu to tướng trông như cục gạch bám vào cổ. Thằng Thán con trai lão đi đào vàng ở miền Trung. Nó nhập vào đội ngũ những kẻ đào vàng tứ xứ đã gần năm nay. Đây là lần thứ ba có kẻ đến nhà báo tin thằng Thán chết: một lần chết đuối, một lần chết chém, lần này chết mất xác. Gã đàn ông báo tin đứng ở cửa liếm môi. Trông bộ gã đói ăn. Lão Thiến thừa biết tâm địa bọn này nên lão hỏi mà không thèm động đậy các cơ mặt.
- Vì gì mà mất xác?
- Sập hầm. Không moi được.
- Ba kiểu chết.
- Ông bảo gì?
- Ba thằng báo ba kiểu chết. Mẹ chúng mày!
Gã đàn ông đưa tin có vẻ hơi sững người. Gã quan sát căn phòng của cha con lão Thiến. Không có gì đáng cho gã cầm lên tay. Đồ giẻ rách! Gã lầm bầm rồi cố nài:
- Nhưng tôi đã đến đây. Tàu xe tốn kém. Xin ông vài bữa cơm bụi.
Lão Thiến khoát tay chỉ ra cái hõm tối tăm:
- Xem đấy. Gặm được cái chó gì thì gặm.
Gã đàn ông rõ là loại cố cùng. Gã bước chân qua lưng lão Thiến, giơ tay túm cái quạt tai chuột, cánh quạt thủng lỗ chỗ như cóc gặm:
- Xin ông tạm.
Gã kẹp cái quạt vào nách đi ra. Lão Thiến nói to:
- Liệu hồn. Thằng Thán nhà ông nó về xin tí tiết mày bù vào, giờ xéo mẹ mày đi.
Lão Thiến thừa biết thằng con lão loắt choắt như loài chuột nhắt, chứ nó thuộc loại trời đánh không chết. Nó như loại cỏ dại đốt bảy lần là bảy lần mọc lại, lần sau mạnh hơn lần trước. Chả thế có lần nó đi ăn trộm ngã từ sân thượng tầng ba xuống, phúc bảy mươi đời lại có cụ tổ đỡ cho rơi vào đống cát. Lão đố thằng nào vật chết được nó. Tuy vậy, sau khi tống được gã đàn ông ra cửa, lão Thiến cũng thấy nôn nao trong dạ. Lão chờ đêm đến, lão lôi cái radio nhỏ giấu kỹ trong đống bát rếch ở gậm giường ra, bắt đầu dò đài. Không bao giờ lão nghe trọn được một câu người ta nói trong đài. Cái thú của lão là cầm núm điều chỉnh mà xoay. Chỗ nào sọt sẹt, lão lắng nghe rồi vặn tiếp. Hàng xóm láng giềng lườm nguýt, hậm hực. Lão cho qua tất. Việc lão lão làm. Động đến mả bố chúng mày đấy à? Lão sẽ trả lời như vậy vì lão không thể tưởng tượng được con người ta, tại làm sao chỉ vì những tiếng động mà lại mất ngủ? Có nổ bom tấn bên tai lão, lão vẫn an giấc như thường.
Lão chén bữa tám bát cơm gạo mốc, cho nó rẻ, ăn kèm với thứ mắm muối từ đầu cá ruột gà nhặt nhạnh ở chợ chiều. Mỗi khi lão ăn mắm, cả xóm nín thở. Lão bảo chỉ có những thứ nặng mùi thế này mới hợp khẩu vị lão. Lão to kềnh to càng như cái máy kéo cổ lỗ hết dầu mỡ bỏ xó từ đời tám hoánh nào. Đôi khi người ta bảo lão là cái hồn ma từ địa ngục trở về hoành hành nơi dương thế. Ăn ngủ như thế nên lão cường tráng nhất khu nhà này. Không ai muốn dây vào lão. Trước kia lão hù dọa láng giềng là nhà lão ba đời trong sạch, lại có công lao. Hơi một tí lão lôi công lao ra kể, ai muốn nghe thì nghe, thường là con trẻ muốn nghe, như vịt nghe sấm. Đến lúc các thứ hù dọa như thế có vẻ hết hiệu lực, lão lấy sức mạnh bù vào. Lão đi qua sân là cả khu nhà rung lên như động đất, nói theo nghĩa đen vì lão khỏe lắm, như một con bò mộng. Mà lão lại xuất thân từ tầng lớp không bao giờ đếm xỉa đến chữ sĩ, cái thứ xa xỉ của những con người hèn yếu vì có đôi chút lương tâm. Lão muốn gì lão làm cho bằng được. Lão xéo lên tất cả.
Lão làm chân gác cổng, về hưu từ chục năm nay. Lão có nhà ở ngoại ô, có vườn, ao thả cá. Đột nhiên lão bán tất để chuyển vào thành phố. Lão mua vàng giắt túi, giả nghèo giả khổ, bắt cả nhà chui vào cái hốc chưa đầy chục mét vuông, không cửa sổ, một bên là khu vệ sinh công cộng, mà đã là của công thì không thiếu gì mùi, một bên là cái sân thượng giờ đây người ta tràn ra che cót để ở. Mỗi cái hốc bốn bên cót ép là một gia đình. Thật đủ màu sắc. Có cặp vợ chồng phường chèo chửi nhau như chó với mèo, tối vẫn ôm nhau ngủ trên một cái giường, rúc rích cười đùa khi đêm về có trận mưa làm không khi bớt nồng nặc hôi thối. Có nhà toàn đàn ông con trai lộc ngộc, ban ngày tứ tán kiếm ăn, đêm cùng chui vào hốc. Điện mất. Quạt không có. Nước hiếm không dội được cái thân thể tràn trề sinh lực vì mồ hôi. Họ cởi trần nằm ngủ như cá xếp trong nồi. Sân thượng ngày xưa từng là nơi các cậu ấm cô chiêu hóng mát giờ đây khò khè khọt khẹt tiếng ngáy của đám chúng sinh yên ngủ dưới bầu trời đầy sao của thượng đế che chở họ.
Ban đêm họ ngủ như những con người khốn khổ hèn mạt. Ban ngày họ là lũ quỷ dữ, một bầy súc vật sống với nhau, con nào mạnh thì tranh được miếng ngon. Đó là bộ mặt của trăm ngàn cái nhà tập thể đổ ra từ khi người ta cứ quyết tâm nhốt từ linh hồn đến thể xác con người vào cùng một rọ. Lão Thiến bán gia tài ở quê, vàng giắt đầy người mà vờ đói khổ như đồ giẻ rách. Lão cũng chui vào một cái hốc trên sân thượng này và trong bầy thú ở đây, lão là con thú có bộ răng dữ tợn nhất. Vài hôm sau thằng Thán lù lù xuất hiện. Hắn có cái ba lô căng phồng đằng sau lưng, bên trong không hiểu đựng thứ gì. Thán bước đi oai vệ vào khu tập thể. Mọi ánh mắt phóng ra từ các hang các hốc đều hội tụ vào cái ba lô thằng du côn đang đeo sau lưng. Có tiếng chớt nhả giọng Nghệ pha giọng Bắc vang lên trong hốc cầu thang:
- Thán.
- Gì?
Thằng Thán quay nhìn mụ đàn bà béo ngấn cổ, son phấn lòe loẹt như gái ở ngoài ga, miệng toe toét cười, một cọng hành còn dính ở răng cửa:
- Chào chú.
- Vâng, chào bà chị.
- Mày mang cái gì trong ba lô mà hùng thế?
- Quần áo thôi.
- Mẹ mày, quần áo cái chó gì. Có là vàng mới nặng thế chứ.
Lão Thiến chạy ra đón con, lão đỡ lời:
- Vàng gì, có là vàng thoi.
- Vàng thoi đấy.
Thằng Thán hiên ngang đi lên gác. Cái cầu thang xây từ thời Pháp thuộc rên rỉ cót ca cót két, lúc nào cũng gây cảm giác a lê hấp sập cho mà xem, nhưng hàng chục năm nay nó vẫn chưa sập. Người ta bảo vì nó được xây từ thời Pháp. Thời ấy thợ thuyền chưa biết ăn cắp xi măng, chưa hề đếm xỉa đến cái thói gian dối đã trở thành nạn dịch thời nay nên nhà cửa thời ấy chứa năm người bây giờ chứa cả hai trăm người mà không có sao hết. Mấy thằng nhãi đang chơi bài ăn tiền ở sân túa ra, reo ầm lên khi trông thấy thằng Thán:
- Công tử đã về, quan đại thần khao chúng cháu đi.
Sở dĩ lão Thiến có cái tên quan đại thần vì lão sống như súc vật, ai cũng nghĩ lão như súc vật, trừ có lão. Lão hoàn toàn hài lòng ở trong cái hốc tăm tối mà lão gọi là nhà. Lão cũng làm lễ sinh nhật. Trời phật ơi, sinh nhật hẳn hoi! Đám nhãi con nín thở theo dõi lão làm sinh nhật. Ngày xưa lão đã làm thường trực ở một cơ quan to đáo để ngoài phố nên lão biết mùi vị các thứ lễ lạt này lắm. Lão kéo hai gã đàn ông vô tích sự ở cùng phố tới nhà, ngồi nhắm bia với lạc rang và đọc thơ. Gì chứ thơ thì lão như trẻ con đánh rắm, mỗi giờ làm được vài chục bài. Rồi lão làm giỗ chạp, tết nhất. Họ hàng lão đã tràn từ cái làng xa tít tắp kia ra hết thành phố. Lão là một tài năng ghê gớm. Đám anh em lão chẳng học hành gì sất mà có trong biên chế nhà nước tất tật. Người bán rau mậu dịch, kẻ làm bảo vệ, lúc về hưu cũng lương bổng như ai. Lão mang cái bằng có công với cách mạng làm tấm bùa hù dọa các ông thủ trưởng yếu bóng vía. Lão đi lại năm bảy lần, ngồi lỳ ở nhà các thủ trưởng, không quà bánh gì sất, chỉ nói oang oang.
Ấy vậy mà hai lão em trai, hai bà em gái và hàng chục họ hàng hang hốc được cấy hết vào các cơ quan nhà nước, hộ khẩu tem phiếu đàng hoàng. Giỗ chạp, lão tập trung cả đám trong cái hốc nhà lão, đãi cả đám một con vịt cỏ, năm nào cũng thế. Con vịt được nấu trong nước loãng thêm gia vị, hàng chục nhân mạng ngồi quanh sì sụp ăn uống. Chật chội nhưng thành thị vẫn hơn đất nhà quê. Lão ngồi giữa, đàng hoàng lên giọng phê phán, đi ra đi vào giữa đám em út cháu chắt trong khi vàng lão giắt nặng trong người. Chưa có ông quan nào trên đời lại thỏa thuê sung sướng trong cảnh điền viên như lão. Biệt hiệu quan đại thần đặt cho lão thật là xứng đáng. Chỉ có vua mới sống trong vương quốc của mình được như thế, bất kể trời nóng trên 40°C, bất kể mưa dột, mùi chuột chết, mùi nhà xí... Lão cứ làm việc lão, cứ ăn ngủ như thường. Thằng Thán ném cái ba lô, ra chiều mệt nhọc. Nhưng nghĩ thế nào nó lại ôm vào lòng, nhìn quanh quất rồi giúi vào góc, chỗ vẫn thường nấu nướng bằng bếp dùng điện ăn trộm. Hắn trông chừng lão Thiến.
Lão kềnh càng thế thôi chứ khi ăn cắp, lão nhẹ nhàng hơn mèo. Suốt ngày chăm chắm xem ai có gì là lão thó. Lão thó tất, từ quần lót đàn bà đến đoạn dây điện nối từ ngoài vào nhà người ta. Lão lấy cả cái bô trẻ con để ngoài sân. Lão tống tất cả vào cái ba lô to, thỉnh thoảng làm một chuyến về quê. Lão còn ông anh ruột ở lại quê vì không thể chuyển tải lũ con mười đứa ra thành phố. Lão đổi cái ba lô đựng đồ ăn cắp vặt cho anh lão rồi mang ra thành phố nắm khoai sọ, nắm đỗ... Cả khu nhà này biết lão ăn cắp mà không bắt được bao giờ. Thằng Thán là môn đệ của bố nhưng hắn thường làm các quắn to.
- Không lèm nhèm ăn vặt như ông.
Hắn hay quát bố như thế. Vợ lão Thiến đã chết. Đứa con gái gả chồng trên miền núi. Còn lão với thằng Thán. Thằng Thán theo chúng bạn đi tứ phương kiếm ăn thỉnh thoảng cho lão tiền nhưng hai bố con không bao giờ ăn cùng mâm. Khi thổi cơm, lão hoặc thằng Thán ăn trước. Hai bố con làm cái dây móc trộm điện ở công ty bên cạnh, đun sùng sục ngày đêm. Lão thường đun nhừ mớ đầu cá hoặc xương lợn mua rẻ ngoài chợ để húp nước, khi không có gì đun lão cũng cắm điện vào bếp. Lão chặc lưỡi:
- Ăn cắp thì cho bõ. Ăn cắp như tớ ăn thua chó gì. Báo đài nói đầy ra đấy. Có kẻ ăn cắp bạc tỷ mà chả sao sất. Tớ là gà què ăn quẩn cối xay.
Lúc này lão Thiến quanh ra quẩn vào, mắt liếc liếc cái ba lô. Ruột gan lão cồn cào. Chưa bao giờ lão thấy thằng Thán mang về được cái ba lô to như thế. Lão hào phóng chìa cho thằng con cái bánh mì. Nhìn thằng con im lìm ngồi ăn, lão không thể nhịn được nữa.
- Thán, quắn này mày vớ bẫm hả?
- Cái chắc.
- Quả gì đậm thế?
- Quả cặc!
Thằng Thán văng tục, nhặt nhạnh mấy mẩu bánh rơi dưới chiếu, quệt tay chùi mồm, vào xó mở cái nắp bô. Một mùi khai thối khủng khiếp lan ra khắp nhà. Thằng Thán làm phận sự xong, chui vào cái xó nhà bố nó phân chia cho nó, ngáy như sấm. Một tay nó ngoắc vào cái dây ba lô. Trong khi thằng con ngủ, lão Thiến như ngồi trên lửa. Lão cố đoán xem cái gì mà không tài nào đoán được. Gần tối lão dò dẫm lại chỗ thằng con:
- Thán, dậy tao bảo.
- Gì?
- Mày có của sụ, coi chừng thằng Hùng. Nó về hơn tuần nay. Trốn trại.
- Vậy hả?
Thằng Thán bật dậy, ôm ghì cái ba lô. Thằng Hùng con mụ Phàn người Nghệ mà buôn bán ranh ma hơn bất cứ một dân thổ cư nào. Thằng Hùng hai mươi nhăm tuổi, đã ba lần ở tù. Mỗi lần một năm lại ra. Mỗi lần ra lại anh hùng hơn. Loại thằng Thán còn phải kiềng. Kỳ này thằng Hùng lĩnh án năm năm tù về tội hiếp dâm. Chưa được một năm, hắn đã trốn trại.
- Có bị nã không?
- Chắc có. Bây giờ hắn nằm tít trên gác xép. Cả nhà này không đứa nào dám hé răng. Hắn xin tiết liền... Mày cứ nói thật. Cái gì ở trong đó. Rồi hai bố con cùng lo, mình mày tao e không xong.
- Bố phải kín mồm nhá.
Lão Thiến nhổ nước bọt vào tay, huơ lên trước mặt hai lần như một cử chỉ hành lễ. Thấy bố thề thốt coi bộ rất nghiêm trang, thằng Thán xích lại gần bố:
- Trong này là xương.
- Mày đùa.
- Đùa với bố đấy. Xương này quý hơn vàng. Xương Mỹ.
Lão Thiến khịt mũi. Lão nhướng cái cổ lên thật cao. Đó là kiểu lão xúc động. Lát sau lão thì thào:
- Thật không? Khéo nhầm bỏ bố.
- Tôi với thằng Đảo đào được. Có cả dây vàng đeo ở cổ. Chỗ dây vàng móc cái lọ nhựa, bên trong đựng thỏi nhựa in tên. Bị tróc mất cái đuôi tên. Còn rõ mỗi chữ Tony D. Phiên hiệu đơn vị cũng mờ mờ. Lọ đó thằng Đảo cầm đi chào hàng. Xương Mỹ trăm phần trăm. Thằng Đảo có kinh nghiệm. Nó còn đo kích thước nữa kia.
- Nếu bán được thì giá bao nhiêu?
- Thằng Đảo bảo còn phải chi cho cả dây, cũng nhiều ra phết. Còn bọn đào được khoảng năm triệu. Tôi với thằng Đảo chia đôi.
- Mẹ kiếp khối tiền.
- Thằng Đảo đi bắt mối ngoài cảng. Thằng Đảo chờ ở đó. Bán cho bọn thủy thủ. Bọn nó đưa qua Mỹ, khối tiền. Nếu vụ này xong tôi sẽ cho bố năm trăm ngàn. Được chưa?
- Tùy mày. Nhưng ăn thì cũng ăn mỏng thôi. Nó mới bền.
- Bố không phải dạy. Tôi cho bố năm trăm là bố lãi. Chả mất giọt mồ hôi chó nào mà vớ năm trăm.
- Được rồi mày ngủ lấy sức mai lại đi. Tao canh cho.
Lão Thiến ngồi cạnh cái cửa làm bằng cót ép. Lão có kiểu ngồi của chó trong ổ, khoanh tay chân cho vừa ổ. Sau cơn xúc động, bắt đầu đến trạng thái tinh thần kỳ lạ mà lão vẫn có khi nghe tin con có tiền. Thằng Thán không bao giờ giấu bố số tiền kiếm được. Đôi khi hắn còn khuếch thêm lên nhưng đố nhả cho xu nào. Tiền có khi hàng triệu nhưng quanh quẩn dăm hôm là nướng vào đề hết. Của thiên trả địa, làm sao giữ được nếu nó không đưa cho bố nó giữ hộ? Lão bố vừa ghen tức vừa thèm khát. Hàng loạt âm mưu xuất hiện trong đầu lão nhưng nghĩ đến cái máu hung dữ của thằng con, chưa bao giờ lão ra tay. Lão cứ loanh quanh trong cái mớ bùng nhùng ý nghĩ mờ ám và nỗi sợ hãi triền miên, bất kể lúc nào thằng con có tiền, mỗi lần như thế miệng lão nhạt như ngậm phải bèo, mắt lão đục lờ đờ nhìn không rõ. Lúc này lão đang trải qua trạng thái nửa thèm nửa sợ ấy, tai lắng nghe tiếng động bên ngoài. Lão lơ mơ ngủ cho đến khi có bàn tay ai đập nhẹ vào vai.
Lão ngẩng lên, rõ ràng như ban ngày, lão nhìn thấy mặt thằng Mỹ đen như hắc ín, răng trắng như vôi, hắn đưa bàn tay chỉ còn xương ra vuốt tóc lão. Lão cố cựa mình mà không cựa nổi. Người lão như được quết một lượt sơn, dính cứng vào nhau. Lão ú a ú ớ gọi thằng Thán. Thấy lão lúng túng, thằng da đen cười nghiêng ngả nhưng không ra tiếng. Hắn cứ đứng bên lão, chỉ cái đầu còn nguyên, toàn thân là xương trắng hếu, hắn cười mà coi bộ cực kỳ thê thảm. Lão Thiến khiếp sợ, đạp mạnh chân vào cánh cửa bằng cót ép và tiếng động ấy làm lão tỉnh ngủ, thằng da đen biến mất. Thán bàng hoàng hỏi bố vì hắn cũng vừa tỉnh dậy.
- Thằng Hùng hả bố?
- Hùng nào. Thằng da đen...
- Thằng da đen gì?
- Có lẽ tao mơ. Tao thấy thằng da đen cười tao.
- Bố mơ thấy thằng da đen hả? Mẹ khỉ, tôi cũng vừa mơ thấy. Hãi quá, muốn gọi bố mà không được.
Thán bật đèn. Cả hai cha con đầu trộm đuôi cướp lần đầu tiên khám phá ra rằng có một cái gì bí ẩn vẫn khống chế những giấc mơ con người. Nó khống chế cả tham vọng tiền bạc, cả sự độc ác và ngu muội của con người.
- Thằng đó nói gì với mày không?
- Không, hắn chỉ cười thôi, mà tôi ngửi thấy cả mùi tanh.
- Mày mang nó đi đi. Để ở nhà hãi bỏ mẹ... Đưa tao mấy que hương.
Lão Thiến thắp ba nén nhang, múc một tách nước để lên cái ba lô, lấy ống bơ gạo cắm nén nhang vào, cũng để lên cái ba lô. Cả đời lão không biết khấn ai, nhưng lúc này như có cái gì mạnh khủng khiếp nhập vào người, lão xì xụp trước cái ba lô.
- Ông có khôn có thiêng thì ông ngủ đi, ngày mai thằng con tôi tìm đường cho ông về quê quán. Như vậy thằng con tôi đã làm phúc chứ không phải nó gây tội. Ông về với cha mẹ vợ con, còn hơn nằm lại rừng núi mà không ai tìm thấy ông.
Thằng Thán im lặng nghe cha khấn. Hắn ít tin rằng linh hồn anh lính da đen Tony nào đó lại oán hắn. Hắn cũng có học đến lớp bảy. Hắn biết Tony D vì sao bị giết. Ác giả ác báo chứ. Anh ta giết người thì anh ta bị người giết. Anh ta cô đơn lủi thủi ở chốn rừng xanh núi đỏ, hắn có công tìm thấy anh ta và anh ta phải trả tiền cho hắn. Vậy thôi. Nghe nói bên Mỹ người ta sòng phẳng trong mấy vụ tiền bạc lắm. Lão Thiến khấn xong lại giục con trai đi ngủ. Lão không dám tắt đèn. Lão ngồi chong chong ở cửa chờ sáng. Tuy vậy gần sáng lão lại thiếp đi. Lão nhìn thấy rõ ràng hai bàn chân bằng xương đang dạo quanh người lão và một mùi hôi thối nồng nặc bốc lên làm lão phát nôn. Sợ hãi quá, lão nhắm nghiền mắt và vẫn nghe tiếng chân khô khốc như tiếng động của kim khí dạo quanh chỗ lão ngồi. Lão thiếp đi mê mệt cho đến sáng. Ba ngày thằng Thán đi vắng, lão Thiến không ngủ được vào ban đêm. Lão mơ liên tục. Vẫn là anh lính da đen, lúc thì có da có thịt y như ông Tây đen hàng binh Pháp ngày hòa bình vẫn lái xe ở quê lão.
Lúc đó lão còn trẻ. Người lính Pháp có lần dừng xe mời lão hút thuốc lá. Anh lính da đen ngày đó hiền lành là thế mà sao cái ông Tony này lại im lìm bí hiểm. Ông ta giống hệt anh hàng binh Pháp khi xưa, nhưng chả nói năng gì sất, cứ đứng trong góc phòng nhìn ra. Mỗi lần lão mơ, lão lại ngửi thấy mùi hôi của xương của thịt được đào lên từ mồ mả. Có lúc lão lại thấy trần xì bộ xương trắng hếu đi lách cách trong nhà, bộ xương leo lên giường, lên thành cửa sổ rồi cái mồm xương với hai hốc mắt nhìn lão chằm chằm ghê gớm. Xưa nay lão chưa hề yếu bóng vía, thế mà mấy ngày này lão cứ bủn rủn cả chân tay mỗi khi nghĩ tới giấc ngủ. Ban ngày lão khóa cửa, ra vườn hoa chỗ ngã tư phố, leo lên cái ghế đá còn cả dấu vết của các cuộc trăng hoa ban đêm, lão ngủ. Ở đấy lão ngủ yên, mặc kệ nắng gió vì xưa nay nắng gió không là quái gì đối với lão. Đến tối lão phải về. Cả đêm lão chong đèn dò đài. Lão bắt chước mụ Phàn rắc muối ra cửa sổ, thắp hương cắm ở lối đi. Lão nghe rõ tiếng động của bầy thú ngủ đêm trên sân thượng.
Cạnh cái hõm nhà lão là vợ chồng thằng Xét bán thịt chó ngoài chợ. Thằng Xét bỏ con vợ nhà quê, ra đây mở hiệu thịt chó và chiếm được một hõm trên sân thượng này. Hắn kiếm đâu được con bò lạc về làm vợ. Nàng người miền trong, da trắng, giọng ỏn ẻn. Nàng sướng điên vì được tắm xà phòng Camay, được mặc slip Thái Lan, được xức nước hoa Tàu. Thằng Xét chìu cô vợ mới, chịu khó mua sắm cho nàng để ban đêm nàng ban phát cho hắn thứ hạnh phúc của một con cái hùng hổ bên cạnh một con đực dư thừa sức lực vì rượu, vì thịt chó. Xét sắm cả áo ký giả, quần bò mốc, giày bít cho nàng. Và hắn sung sướng khi thấy bất cứ mốt mới nào xuất hiện trong đám con gái bán thịt ở chợ là vợ hắn cũng có. Mấy đêm nay, tiếng chân đi lại của lão Thiến cản trở vợ chồng Xét khá nhiều. Nàng nằm im nghe ngóng và ngay đến con hổ cái khi nằm cạnh con đực ban đêm cũng trở nên mềm oặt, nàng nép đầu vào cái nách hôi hám của thằng Xét, thứ mồ hôi của kẻ ăn nhiều thịt chó. Nàng nũng nịu bằng cái giọng miền sơn cước quanh năm gió Lào:
- Em sợ lão Thiến quá!
Thằng Xét xoa đầu vợ y như cái cảnh phòng ngủ hắn vẫn được xem trên ti vi. Hắn cũng muốn bắt chước phim ảnh nói một vài lời nịnh vợ, âu yếm vợ nhưng hắn không quen. Hắn ậm à rồi văng ra trong lúc nàng vẫn chờ đợi một lời nói khác.
- Đụ mẹ, não điên, chấp nàm đéo gì? Quay sang bên lày, khiếp, dạo lày béo thế, y như con nợn cạo nông.
Tiếng cười nghèn nghẹt như tiếng chuột cống ăn đêm của vợ chồng Xét lại khiến lão Thiến yên tâm. Lão mở đài, dò đài, thắp đèn sáng trưng và mong cho hết đêm. Một tuần sau thằng Thán hí hửng mang về bọc tiền to. Hắn cười toét cái miệng đầy những răng:
- Trúng đậm.
Hắn mang về một bọc lá chuối tướng đựng đầy lòng lợn, có cả mắm tôm và ba cân bún, hai bố con làm một lèo hết sạch. Quanh đi quẩn lại, lão Thiến không nhìn thấy bọc tiền của thằng con đâu:
- Mày nhét nó đâu rồi?
- Ở trong nhà này thôi. Tôi đi vắng một ngày, khi về tôi sẽ chi cho bố năm trăm. Quân tử nhất ngôn.
Thằng Thán đi, ở nhà lão bố không thể ngồi yên. Ban ngày mà lão không ngủ được. Lão lò mò khắp nhà để tìm bọc tiền. Xó xỉnh nhà này có chỗ nào mà lão không mò ra. Lão tìm, lão móc ở tất cả chỗ kín nhất mà không thấy. Buổi trưa mệt quá, lão nằm ngay trên sàn nhà, bụng nghĩ xem còn chỗ nào? Lão chỉ cần rút vài tờ trong đống tiền, đến mẹ nó cũng không biết được. Nghĩ ngợi, lão thiếp đi và phải bật dậy ngay khi trông thấy bộ xương ngồi chồm hỗm trên kèo nhà. Lão văng tục:
- Đụ mẹ mày, mày đang về quê cha mày, mày còn muốn cái chó gì nữa mà dọa tao?
Bộ xương cứ ngồi như thế, lúc lắc đầu, những khớp xương lỏng lẻo, chuyển động rung leng keng như tiếng nhạc ngựa. Lão Thiến sợ hết hồn. Lão xua tay xua chân cho nó đừng làm thế nữa nhưng nó càng làm già. Mùi hôi thối khiến lão tắc thở. Lão chống cự với bóng ma trong giấc ngủ chập chờn, đến khi tỉnh dậy, lão cảm thấy mình gầy tọp, chán ăn, người ngợm bải hoải như phải gió. Ngày hôm sau, lão Thiến lại phải mò ra vườn hoa ngủ. Buổi chiều, thằng Thán về nhà, nó xộc ra vườn hoa kéo cổ bố:
- Về ngay.
Thấy mắt thằng con ngầu đỏ, cái môi nó đen sạm lại một cách dữ tợn, lão Thiến đi theo con. Thằng Thán về nhà trước, và khi bố nó vừa bước qua cái cửa cót ép, nó túm cổ lão Thiến:
- Tiền đâu?
Lão Thiến sửng sốt:
- Sao lại hỏi tao tiền?
- Tiền tôi để dưới cục gạch này, bố đem đâu rồi?
Lão Thiến chỉ biết lắc đầu, lùi xa bàn tay cứng như gọng sắt của thằng con. Lão không nói nên lời. Thằng Thán thấy bố như vậy càng nghi ngờ một cách điên dại.
- Ông nôn ra. Tiền mồ hôi nước mắt của thằng này, ông nuốt không trôi đâu. Ba triệu đồng của tôi, không phải của thiu thối.
- Tao không lấy.
Lão Thiến bắt đầu lắp bắp được.
- Không ông lấy thì chó vào đây à? Nôn ra.
- Tao thề với mày, tao có tìm thật, định rút vài tờ nhưng không thấy. Tao thề với mày, tao mà nói điêu thì tàu xe chẹt tao nát ra như bụi.
- Ông có mà chết. Ông thề mà chết được thì tôi ăn cứt chó. Nghe thủng chưa? Nôn ra, ọe ra. Tôi bóp cổ ông lè lưỡi bây giờ.
Và nó xông vào, túm lấy cái cổ có cục hầu to như cục gạch của lão bố. Lão Thiến kêu ặc ặc như một con chó già bị trấn nước.
- Nôn ra. Một mình ông ăn không xuôi đâu. Nôn ra cho tôi đi nộp đề.
- Tao không lấy. Tao thề.
- Thề cái con chó. Nếu ông không lấy thì tự cầm dao rạch mặt cho tôi xem, không là tôi bóp cổ ông chết. Dao đây.
Lão Thiến run lập cập. Cầm con dao sắc như nước, lão Thiến nhìn con van nài:
- Tha cho tao, tao không lấy của mày đâu. Con ơi, đời nào bố làm thế. Bố già rồi, bố làm thế phải tội.
- Rạch mặt đi.
- Thôi, đau lắm tao chịu sao được?
- Không rạch thì chặt một ngón tay. Làm ngay. Ông có làm thế tôi mới tin, không là tôi bóp cổ chết tươi. Chặt đi.
Thằng Thán xông tới. Cái mặt nó xù ra vì độc ác. Một cách vô thức, tội nghiệp, lão Thiến kê ngón tay lên thành giường, nhìn con. Thằng Thán hét:
- Chặt đi, đồ sâu bọ! Chặt ngay không là thụt lưỡi với thằng này.
Con dao giơ lên, phập một tiếng khủng khiếp, một giòng máu trào ra theo ngón tay trỏ bên bàn tay trái của lão rơi xuống sàn. Thằng Thán nhìn cảnh đó, không một chút xúc động. Hắn thấy bố hắn mặt tái mét, miệng lệch sang một bên vì đau đớn. Tất cả điều đó chỉ làm hắn tĩnh trí lại. Hắn bước ra ngoài, còn biết né chân cho khỏi giây vào máu. Hắn bừng bừng ý muốn trả thù đứa nào cướp không của hắn ba triệu. Ngón tay của lão Thiến có lẽ làm nó tin là lão không lấy thật. Nhưng thằng nào, thằng nào vào đây? Biết lấy gì trả nợ? Không trả, lão chủ đề cho rửa mặt bằng acid ngay. Mẹ kiếp, thời này đứa nào cùn đứa ấy thắng. Tao trốn. Và trong những bước đi như say, hắn mơ thấy đất thánh Hong Kong. Trông thấy thằng Thán xăm xăm bước xuống cầu thang, mụ Phàn muốn cười với hắn mà không dám cười. Cái mặt hắn hãi quá, y như vừa uống máu người. Mụ đi lên sân thượng, định vào nhà thì nghe tiếng rên đau đớn của lão Thiến. Chưa hiểu chuyện gì mụ đã hô hoán.
- Giết người, có người bị giết.
Người ta thấy lão Thiến đang gục đầu xuống miệng ngậm chỗ tay bị thương, máu từ đó nhuộm đỏ cả cằm lão, chảy xuống ngực áo. Cái thân thể to tướng của kẻ tạp ăn và lười nghĩ ngợi, cái thân thể hung dữ của kẻ chỉ chuyên dùng cơ bắp vào mọi chuyện giờ đây rúm ró lại, đến đứa trẻ có con tim độc ác cũng phải mủi lòng. Ngay giây phút ấy lão Thiến hơi mê đi. Lão nhìn thấy trong làn sương mờ mịt ở đâu đó, bộ xương người trắng hếu đang nhìn lão, bộ xương mờ mờ, hơi cử động và giơ bàn tay lên đỉnh đầu. Lão nghĩ là nó gọi, định đi tới nhưng hóa ra không phải, bộ xương đang chào lão. Thậm chí lần này bộ xương còn ré lên cười y như đàn bà. Lão muốn giơ tay chào lại nó nhưng không được, tay lão bị trói chặt. Lão loáng thoáng nghe tiếng cười.
- Lão tỉnh rồi gọi taxi cho lão đi. Đi taxi cho nó êm.
Một tiếng nói rất tục. Tiếng cười đàn bà lại ré lên. Lão Thiến hiểu ra đó là tiếng cười của mụ Phàn. Và cái đám thú mà lão vẫn chung sống bấy lâu nay trong cùng một cái sân thượng giờ đây đang là những con người bên cạnh lão. Lão được băng bó, được rửa mặt, được mặc thêm cái áo, được khiêng xuống cầu thang cấp cứu. Từ đó lão không bao giờ mơ thấy bộ xương và anh lính da đen nữa. Lão đã được yên, ngoại trừ thằng Thán đi biệt tích... Một đêm thằng Xét giục vợ đi ngủ sớm. Hắn ôm cái của mũm mĩm trời cho vào hai cánh tay đồ tể chó, phả hơi rượu vào mặt nàng:
- Của lỡm ơi, ngày mai anh sẽ mua cho làng cái áo nông cực xịn.
- Của đâu mà xộp thế?
Nàng bắt đầu dùng ngôn ngữ đô thị.
- Bắt được. Mà đừng có bép xép ông xẻo nưỡi nghe chưa? Sắp tới ông mua cub thì cũng phải lói tiền riêng của mình, nghe chưa? Không nghe ông nà ông xẻo tất... Món chôm được cực to, ló mà biết thì tù. Hiểu chưa?
Nàng cười thét lên như bị cắt tiết. Đêm nào nàng cũng có những trận cười như thế. Khắp cái sân thượng đang mờ mịt trong giấc ngủ nặng nề, sau một ngày vật lộn với miếng ăn, chỉ có vợ chồng thằng Xét là ồn ào nhất, thức khuya nhất. Chúng vẫn là con thú ngay cả khi màn đêm khiến cho thú trở thành người. Đêm nay lại oi nồng, trời đang chuyển cơn giông. Lão Thiến lên cơn đau ở ngón tay cụt. Lão ngồi ở cửa sổ nhìn ra, chờ cơn mưa cho vết thương dịu lại. Ngoài kia là đô thị. Nhà nhà xếp chồng lên nhau. Anh lính Tony D không còn quấy nhiễu lão nữa. Lão lại hài lòng, mãn nguyện, như quan đại thần chính hiệu. Chỉ tức những lúc này, cơn đau khắc khoải đỏ màu máu khiến lão chán ngán sự đời. Lão bỗng nghĩ ra, và ngớ cả người trước một điều mà lâu nay lão không nghĩ tới: Chính thằng lính da đen kia đã chôm bọc tiền. Mẹ nó, chả thế mà từ hôm chôm được đến nay, không thấy nó xuất hiện nữa. Thằng xỏ lá đến thế là cùng! |
| | | Tinh Hoa
Tổng số bài gửi : 1060 Registration date : 19/01/2020
| Tiêu đề: Re: Truyện ngắn Việt Nam Mon 19 Oct 2020, 07:00 | |
| Ngọn lửa (tác giả: Lê Minh Khuê)
Cô ta xuất hiện ở công ty, trông chả có gì rôm rả. Gầy đét, son phấn xoàng xĩnh. Nghe nói học rất giỏi, xuất sắc thi vào công ty, được nhận làm ngay. Chỉ chừng đó, ngoài ra là con số không. Kiểu con gái như cô ta có vẻ ít may mắn trên đường tình duyên. Anh nào thích một người đàn bà chung thủy - vì có gì đâu mà chả chung thủy - thì chọn cô ta tạm vậy. Mấy đứa con gái ở phòng tôi tán qua loa như vậy. Anh Quý lúc đó cũng có mặt trong phòng nhìn chúng tôi như nhìn mấy mụ đàn bà lắm lời. Anh không nói gì nhưng tôi cảm thấy anh như khổ sở. Tôi không để ý lắm. Cô ấy làm cho chúng tôi cảm thấy bứt rứt, kiểu như một người thì túi đầy còn người kia không có một xu. Nguyễn Thị Duyên. Cái tên đúng như người, luôn ở ngoài lề, ít được ai để ý. Sáng sáng, công ty tôi như cái chợ thời trang. Quần áo đủ màu, mỗi sáng mỗi kiểu. Các nàng lòe xòe váy đi dưới sân, liếc liếc vào các phòng phô diễn mọi đường nét, xong mới ngồi sau bàn, sau máy.
Làm công ty nhà nước, lương lậu bảo đảm thành thử các nàng có dư thời gian săn sóc tới tóc, tới mặt, tới móng. Nàng nào cũng sực nức ướt đẫm ở tóc, ở lông mi. Bóng loáng ở móng tay, ở váy. Ðàn bà con gái được vậy là may mắn. Nhưng Duyên thì khác. Tới công ty, vào phòng ngay, quấn hai bím tóc dài thành hai lọn. Tôi ngồi sau bàn nhìn ra, thấy Duyên cứng, gầy, eo và mông thấp thoáng ở đâu. Duyên chả để ý gì đến chung quanh. Tôi chợt nghĩ âu cũng là số phận. Chả bù cho mình. Quanh tôi có tới ba chàng lúc nào cũng đề nghị đi uống cà phê, đi hát, đi nhảy. Chàng nào cũng lém. Có tiền, có duyên. Tôi chờ đợi một lời tỏ tình nhưng chưa ai lên tiếng. Anh Quý là họ hàng xa của tôi, là trưởng phòng. Ðối với anh, tôi là trẻ con. Nghĩa là thỉnh thoảng anh cho tôi bánh xà phòng thơm, quả hồng, cái cặp tóc lạ kiểu. Và trong phòng có gì khó lại bảo: làm giúp anh, anh đỡ phân công lằng nhằng. Chị Nghiên vợ anh đẹp như người mẫu, đôi môi khao khát, luôn nhoẻn cười. Không ai không ngoái đầu nhìn chị.
Chị kiếm tiền khá, biết lái xe hơi, biết nhảy, nói tiếng Anh như gió. Chị là kiểu mẫu của người phụ nữ mới. Hai người lấy nhau hai năm, chưa con cái. Từ ngày lấy vợ, anh Quý lầm lì, đi qua sân công ty cứ hai tay đút túi quần, ai hỏi mới gật còn toàn đếm bước. Tôi nghĩ có lẽ lấy vợ rồi người ta phải nghiêm chỉnh như vậy. Tối đến nhà anh chơi vào ngày nghỉ. Lúc thì anh ở nhà. Lúc thì có mình chị. Lúc có hai người thì một đọc sách, một tưới cây, hoặc chị xem ti vi còn anh tha thẩn ở ban công. Có lần tôi hỏi: hai anh chị không đi chơi với nhau ngoài đường bao giờ à? Anh bảo: không. Chị bảo: hồi đầu thì có, bây giờ thì thôi, đi một mình khỏe người. Nhìn thấy hai người sống với nhau, tôi lại sờ sợ phải lấy chồng. Nhỡ có hôm nào đó thức dậy nhìn thấy nhau mà không biết nói câu gì. Thà chết già còn hơn. Anh Quý bảo: xếp chỗ gần cửa sổ cho Duyên ngồi. Việc của cô ấy cần ánh sáng. Tôi hơi ngạc nhiên, xưa nay, trừ tôi ra, anh xưng hô nhất loạt với chị em trong phòng: chị và tôi. Có vẻ giữ kẽ. Lại khá lãnh đạm.
Anh là trưởng phòng thành thử bọn con gái để anh yên không trêu trọc. Nhưng chúng nó nói với tôi: anh mày như lô cốt. Tinh tướng. Sau rồi tôi phải để ý đến anh Quý. Trông dạo này cứ bần thần. Già hẳn đi. Công việc nhiều, nhưng cũng có ngày nghỉ. Công ty hay cho nhân viên đi chơi vài ngày lên Tam Ðảo, hay đi Ðồng Mô. Trước khi lấy chị Nghiên, anh Quý hay đi chơi với chúng tôi. Nói suốt dọc đường, có khi nói bậy bạ, không ai nhịn cười được. Lấy vợ rồi, anh cũng hay đi chơi với chúng tôi, không có chị Nghiên, và anh cũng không hay cười, không nói bậy bạ như trước. Duyên về phòng, anh hỏi chúng tôi: Sao dạo này không đi dã ngoại nhỉ? Tổ chức để nhân viên mới tham gia với chứ. Anh nói rồì nhìn Duyên. Rất nhanh, Duyên quay lại nhìn anh Quý. Một cái nhìn là lạ, như giữa ta và ấy, không còn gì phải bí mật nữa. Và lần đầu tiên, tôi chú ý đến khuôn mặt Duyên. Như có một ngọn lửa được đốt từ bên trong, khuôn mặt tầm thường ấy sáng bừng lên, không những ưa nhìn lắm lắm, mà còn đẹp nữa. Tim tôi như thắt lại.
Thôi chết rồi, anh tôi, chị Nghiên và Duyên. Chuyện này cũng như vô khối chuyện tình tay nọ tay kia vẫn xảy ra, có gì khác đâu, nhưng tôi vẫn không tin được. Không thể tin được vì anh Quý đẹp trai, cao mét bảy mươi lăm, hai bằng đại học khoa học, anh khoác cái áo xoàng xĩnh mấy vào trông cũng tươm tất như đi vũ hội. Chị Nghiên thì lúc nào cũng thế, đôi môi đỏ hồng, khát khao tình ái. Còn Duyên thì e ấp ở đâu ấy. Hai người tìm thấy nhau như thế nào? Tôi ngồi nát óc suy nghĩ và thề rằng tôi không bao giờ nên có cái lối ngoái đầu nhìn một cách chết người như Duyên. Cái lối nhìn ấy nó chết người thật, vì phải sao đó mới có thể đẹp lên khi nhìn người đàn ông như thế. Tôi vẫn quan sát anh Quý và Duyên. Lại không có gì nhiều nhặn nữa. Duyên vẫn xoàng xĩnh, không ai bàn tán đến. Còn anh Quý thì già thêm, anh cứ bần thần ngồi sau bàn, cứ mong có tiếng ai gọi ở ngoài là nhảy tót ra ngay đi như chạy. Tôi nhìn hai người một cách bất chợt. Một buổi sáng chủ nhật, tôi đạp xe đi sớm.
Xa xa trông thấy một đôi trai gái đèo nhau bằng xe máy đi chầm chậm. Người con trai nghiêng tai xuống nghe. Cô gái dựa cằm vào vai người con trai, nói cái gì đó. Một tay người con trai lái xe, một tay cầm tay cô gái để lên đùi mình. Xe vẫn đi chầm chậm giữa giòng xe máy buổi sáng đang ngược xuôi trên đường, dường như thế giới là của riêng hai người. Mùa này, buổi sáng sương mù lãng đãng che mờ những ngôi nhà cao tầng. Những hàng cây bên đường bồng bềnh hiện ra trong sương. Tôi không đạp nhanh được nữa khi nhận ra đôi thanh niên kia là anh Quý và Duyên. Lại cũng là lần đầu tiên tôi chú ý tới lọn tóc cao trên gáy Duyên. Tóc búi cao hiện ra cái cổ thẳng, trắng ngà, dễ thương như cổ trẻ con. Những sợi tóc lòa xòa trên cái cổ trinh bạch, nhìn mà xao xuyến. Anh Quý có lẽ nhìn thấy sự trinh bạch từ người con gái mà không ai cho là đẹp. Dù là như vậy tôi vẫn không thể nào hiểu được người ta yêu nhau vì cái gì? Tôi tức giận đạp xe lướt qua. Hai người vẫn không nhận ra tôi. Đã bảo thế giới là của riêng họ mà.
Một tháng sau, Duyên đi khỏi công ty. Không ai biết chuyện gì nhưng anh Quý hốc hác hẳn đi. Anh lầm lầm lì lì, ngồi đâu trông cứ như đụn rạ. Ông giám đốc phải lên tiếng cảnh báo công việc trong phòng tôi chậm như rùa. Cứ như thế vài tuần. Tôi thấy anh Quý đấu tranh với mình chật vật để đứng vững, rồi anh cũng lấy lại được thăng bằng nhưng trông vẫn mất mát lắm. Hôm công ty tổ chức đi chơi cuối năm, tôi ngồi cạnh anh trên ô tô. Lúc này tôi mới gợi chuyện.
- Anh biết chị Duyên đi đâu không?
- Chuyển công tác đi sang bên kia với chồng chưa cưới rồi.
- Xấu thế cũng lấy được chồng à?
Anh Quý quay mặt đi và ngán ngẩm không thèm nói gì. Anh chờ tôi nghiêm túc lại rồi bảo:
- Ở công ty này chẳng cô nào được như cô ấy.
- Anh lại bảo anh chưa yêu ai như yêu cô ấy chứ gì?
Tôi dài giọng trêu anh. Anh Quý im lặng nhìn ra cửa xe. Tôi cũng không biết nói gì với anh nữa. Không biết tôi đã học câu này ở đâu: khi yêu, chỉ có riêng người đang yêu biết phải làm gì. Sau đấy rất lâu, tôi không thấy anh nói gì đến Duyên. Nhưng anh vẫn thường ngồi lại ở sau cái bàn Duyên đã ngồi, nhìn ra cửa sổ. Mùa này mưa không ra mưa, nắng không ra nắng. Nên mỗi khi nhìn cái kiểu anh ngồi như vậy, tôi lại rủ: đi ra ngoài này với em một tí, anh Quý ơi. |
| | | Tinh Hoa
Tổng số bài gửi : 1060 Registration date : 19/01/2020
| Tiêu đề: Re: Truyện ngắn Việt Nam Fri 30 Oct 2020, 21:15 | |
| Bài toán (tác giả: Vũ Thư Nguyên) Văn đẩy tấm cửa kiếng, lách mình ra lan can. Buổi sáng tịch mịch, trời u ám. Phòng anh ở lầu ba chung cư, xoay lưng ra khu rừng thưa trải dọc xa lộ vùng Bethesda. Từ nơi đang đứng, anh có thể nhìn thấy sau đám rừng thưa, đoàn xe nối đuôi nhau như đoàn viễn chinh trên đường ra trận. Hôm nay dậy trễ, xa lộ đã thưa thớt xe cộ, anh tần ngần nhìn xuống khoảng cỏ úa dưới sân ngập đầy lá vàng. Một cơn gió bỡn cợt thổi những chiếc lá úa xoáy tròn quanh những gốc redwood cao sừng sững, dang những cánh tay khẳng khiu như cố đón bắt những chiếc lá đã lìa cành. Vài cành cây đong đưa uốn éo như muốn nhặt đám lá khô đó kết lên thân hình khô héo của mình để trở lại mùa hè rực rỡ, như một người già vân vê những sợi tóc úa nuối tiếc thời son trẻ. Nhưng không, mùa hè đã qua, mùa đông sắp đến, còn mùa xuân thì xa mù diệu vợi. Anh mê mải nhìn những chiếc lá vàng nô đùa đuổi nhau khỏi thảm cỏ khô, chạy xuống mặt đường rồi mất dấu dưới chân đồi, cho đến khi những giọt mưa phùn lất phất hắt nhẹ vào mặt. Trời chuyển mưa sang mùa. Văn ngửa mặt nhìn bầu trời xám xịt, hứng lấy những giọt nước mưa lấm tấm bám nhẹ lên má lên tóc, như vỗ về, như thấm mềm những khô cằn trong anh. Chậm chạp quay vào, Văn nhìn căn phòng ngổn ngang sách vở, quần áo, dĩa chén dơ chồng chất, tự thấy mình muốn làm biếng, muốn bừa bãi cẩu thả như thời sinh viên. Mấy tháng đầu mới dọn đến đây, anh cảm thấy thừa thãi bứt rứt vì những ngày cuối tuần trống rỗng. Bây giờ Văn lại thấy quý cái lê thê chậm chạp đó. Quý khoảng thời gian trống rỗng ấy, để được ngồi ì bên khung cửa sổ nhìn mùa thu đi qua. Để tưởng tượng. Để mơ mộng vẩn vơ. Để nhớ nhung lẩn thẩn. Rùng mình, Văn nghĩ đến những ngày quay cuồng trong con lốc của đời sống. Cuộc sống đầy hỉ nộ ái ố tham sân si. Sợ người ta giành bên này, lấn bên kia, đâm sau lưng, chém đằng trước. Tại sao không? Lấn được thì người ta cứ lấn, chèn được thì cứ chèn, dại gì không làm, đâm chém chèn ép nhau để mà sống chứ. Ôi, những năm tháng lăn lộn đã biến Văn thành một tên nô lệ giác đấu đầy vết sẹo của bon chen theo thời gian. Đời sống đã cuốn hút anh vào một giòng thác cheo leo, nhồi anh vất vưởng lên xuống gập ghềnh. Bây giờ đến khúc sông êm đềm, Văn buông mái chèo từ từ tận hưởng sự bình yên, như lúc bé thích để dành đồ ăn ngon tận đáy chén cơm, sợ ăn liền sẽ mất. Anh muốn ôm ấp tận hưởng cái hạnh phúc hiện có, vì Văn hiểu một khi hạnh phúc đã qua sẽ không quay trở lại. Hạnh phúc như một làn khói mong manh dễ dàng tan biến. Hạnh phúc bao giờ cũng chỉ là ước mơ, mà có mấy khi ước mơ trở thành sự thật? Văn đun nước nấu cà phê, không dùng lò microwave như mọi khi. Anh muốn ngồi chờ nghe tiếng nước reo, cười thầm khi nghĩ đến mẹ anh vẫn nói: cà phê nấu bằng nước đun lò uống ngon hơn nấu bằng microwave oven. Cái ngon ở đây có lẽ do sự chờ đợi khao khát, ly cà phê đắm thêm hương vị, ngược lại khi người ta có mọi thứ dễ dàng, tất cả sẽ trở thành lạt lẽo vô vị. Có rất nhiều thứ đối với Văn là một trời ước mơ của tuổi nhỏ, giờ đây trên xứ người đã trở thành nhạt nhẽo. Cái có đến quá dễ dàng thì người ta không thấy quý cái không. Nhấm nháp ly cà phê nóng, Văn ngồi xuống bàn bâng quơ nhìn những hạt mưa lăn tròn trên cửa kính. Anh không vội đi làm những khi mưa lất phất như thế này. Kệ tía chúng, bom nguyên tử nổ cũng chưa chết nữa là nhịn đói vài giờ. Chúng là những tế bào ung thư Văn cấy trong ống nghiệm dùng để tìm thuốc trị ung thư. Những tế bào đó sinh sản rất man rợ, chỉ cần chút máu bò là có thể sinh sôi nảy nở một thành hai, thành bốn, thành tám trong vài ngày, cho tới khi chật ống nghiệm và hết đồ ăn mới thôi. Có lần Văn thầm nghĩ nếu cho chúng ăn nước mắm liệu chúng có chịu nổi không nhỉ. Chỗ Văn làm, viện Ung thư quốc gia, là trung tâm nghiên cứu và chữa trị ung thư nổi tiếng nhất thế giới, nằm trong một khu khang trang của tiểu bang Maryland. Hàng ngàn khoa học gia từ khắp thế giới đổ về đây nghiên cứu. Hàng triệu bệnh nhân đủ mọi chủng tộc đến đây mong được chữa trị bằng những phương pháp mới lạ còn trong vòng thí nghiệm. Giờ ăn trưa tíu tít những ngôn ngữ khác nhau làm át cả tiếng chim trong công viên rợp nắng sau viện. Phòng thí nghiệm chỗ Văn làm thì nhỏ mà người nghiên cứu thì đông, vì thế anh phải chia phiên với những người khác. Văn chịu vào trễ, làm trễ, và về trễ. Ly cà phê đã uống cạn mà trời hãy còn mưa rỉ rả. Văn quyết định đi thăm các tế bào ung thư của mình. Anh vẫn thích lang thang dưới mưa. Cái thú đơn giản gợi nhớ quãng đời thơ ấu ở truồng chạy rông tắm mưa. Văn kéo cao cổ áo ngoài rồi bước thẳng lên đồi. Con đường từ nhà đến chỗ làm non hai cây số, mưa hay nắng, Văn vẫn thích đi bộ xuyên cánh rừng thưa, để lòng lắng đọng, không âu lo, không vướng bận. Văn thích con đường này từ mùa hè vừa qua, khi rừng còn ngập lá, với tiếng ve sầu rộn rã, tiếng chim líu lo. Với những chú sóc nhút nhát chạy tung tăng trên cỏ rồi vọt lẹ lên cây mỗi khi Văn đến gần. Có một chú bạo dạn chạy theo Văn mỗi ngày để ăn những mẫu bánh mì khô mà Văn để dành cho chú. Dần quen, chú nhảy phóc vào lòng Văn với đôi mắt lim dim để Văn vuốt ve, thủ thỉ. Văn nhận ra chú sóc ấy rất dễ dàng vì lông chú màu trắng xám. Một con sóc bạch tạng. Anh cũng quen với những người đi bộ, chạy bộ tập thể thao hai buổi sáng chiều. Lúc nào gặp anh họ cũng nhã nhặn gật đầu chào xã giao. Văn cười một mình khi nghĩ đến bà mập Cathy và bà ốm Ann. Ann cao dong dỏng, hơi ốm, ít nói, nhưng nét mặt rất hiền và quý phái. Còn Cathy mập lùn, mặt mày chất phác, rất bặt thiệp. Hai bà khoảng sáu mươi, là bạn thân của nhau, ngày ngày sáng chiều dắt chó đi dạo. Lần đầu gặp, con chó nhỏ chạy lăng quăng tìm chỗ phóng uế, thấy Văn đi qua, nó quấn quýt theo anh. Vừa khi đó hai bà thong dong từ bên kia đồi đi bộ lên. Sợ chó cắn Văn, Cathy xuýt xoa xin lỗi. Hôm nay trời mưa, anh hơi buồn vì không thấy sóc, không thấy chó, không thấy hai bà mập ốm. Văn bước đều trên đám lá vàng dày cộm. Cơn mưa nhỏ chỉ đủ sức thấm ướt lớp lá khô trên mặt. Lớp bên dưới vẫn khô, rộp rộp theo từng bước chân của anh. Những bước chân đưa anh về năm tháng ấu thơ không mấy thơ mộng ở làng quê Non Nước. Đêm nằm nơm nớp sợ, nghe tiếng chân dẫm lên lá bàng khô xào xạc sau nhà. Tiếng chân du kích về làng. Tiếng chó sủa. Tiếng súng đì đoàng lẻ tẻ. Để sáng hôm sau thấy cờ sao xanh đỏ tung bay giữa chợ, trên vài xác người đẫm máu tươi lây lất dưới chân cột cờ. Rồi lính Mỹ lên làng, bắt dân chúng sắp hàng ngoài giếng nước đầu đình. Họ đánh đập những người đàn ông bị tình nghi là Việt cộng. Thảm kịch cứ lập đi lập lại như một đoạn phim kinh dị mà Văn đã coi nhiều lần đến độ nhàm chán cái đoạn kết. Làng thì nhỏ, nhỏ đến nỗi mọi người dường như là bà con của nhau. Chỉ ban ngày thôi. Khi đêm về, kẻ quốc gia người cộng sản, giết nhau như bầy con nít chơi trò đánh giặc. Người dân vô tội bị nghi cộng tác với bên này hay bên kia cũng bị giết lây. Đi lang thang sau giờ giới nghiêm cũng có thể mất mạng vì bị bắn lầm bởi bên này hay bên kia. Làng xóm thưa dần, chỉ còn người già và con nít. Đám con nít ngày càng nhiều thêm những mái tóc vàng. Vì lẽ con gái không đi bán bar cho Mỹ thì theo du kích, chỉ một trong hai con đường lựa chọn, có khi là cả hai. Người lớn thù ghét nhau. Con nít cũng học thù ghét nhau, để tranh sống. Tuổi thơ của Văn quá ngắn ngủi, anh lớn quá nhanh theo chiến tranh. Mười tuổi, Văn đã luôn miệng chửi thề, đã biết mài một con dao nhọn ngụy trang trong cây viết máy, thủ sẵn trong túi quần sọt. Có lần Văn đánh lộn với một tên nhóc cùng trường tiểu học cộng đồng An Hải, suýt lụi nó một dao, may đám bạn can kịp. Mười tuổi, Văn đã dẫn gái cho lính Mỹ ở ngã ba cầu Đà Lách để được vài chục xu, hay có khi hên, một dollar đỏ chói in hình ông mọi da đỏ mặt như người say rượu. Mười một tuổi, bập bẹ hút cần sa. Mười hai tuổi, phi xì ke. Rồi mười ba tuổi... oOo Khi Văn gần đến khu bệnh viện thì trời chuyển mưa nặng hạt. Không mang dù, anh chạy vội vào trạm xe buýt để đụt mưa. Nép bên vách tường mica chắn gió, một người đàn ông Á Đông dáng xương xẩu đang co ro vì lạnh. Cái dáng mảnh khảnh ấy run lên từng hồi theo cơn gió lộng thổi từ ngoài vào. Bàn tay gầy guộc bám lấy bờ tường trạm xe buýt như sợ gió cuốn bay đi mất. Đôi vai hơi gù trồi lên thụt xuống theo cơn ho sù sụ từ cái lồng phổi lép kẹp. Thấy Văn vào, người đàn ông gượng gạo cười chào sau một cơn ho húng hắng. Cả hai im lặng cùng đưa mắt nhìn những giọt mưa trĩu nặng trên mái. Thỉnh thoảng một cơn gió lùa, tạt từng chuỗi nước mưa vào bên trong. Hạt nước mưa rớt xuống mặt nền vỡ toang ra ngàn mảnh. Người khách lạ lại húng hắng ho. Văn nhìn ông, ái ngại. Ông nhìn Văn rồi rút trong túi ra gói thuốc, lịch sự mời. Văn nhè nhẹ lắc đầu. Bây giờ anh mới nhìn rõ nét mặt người lạ. Một người xấp xỉ lục tuần, khá đẹp trai với cái cằm vuông và làn da sạm nắng thành màu nâu đậm làm cho khuôn mặt chất chồng nét khắc khổ. Tóc ông đã hói, lưa thưa như những sợi râu mép trên vành môi mỏng ẩn hiện nụ cười thân thiện. So với vành môi như muốn cười ấy, đôi mắt ông đục ngầu buồn bã. Viền mí mắt dưới đã nhăn nheo, hơi nhíu lại. Người đàn ông lặng lẽ rít một hơi thuốc, ém khói, nhìn xa xăm ra ngoài trời mưa. Ông có lối cầm thuốc lá kiểu nông dân hút thuốc vấn Cẩm Lệ, với hai ngón trỏ và cái nắm lấy đầu lọc, tàn lửa xoay về phía lòng bàn tay, điếu thuốc ngậm hơi trề xuống môi dưới. Ông khách gợi chuyện, giọng Mỹ rời rạc: - Anh chờ xe buýt? Chuyến xe 31 dừng chỗ này phải không? Cái âm hưởng khá quen thuộc đầy dấu nhấn của một người Việt Nam mới đến. Văn trả lời ngập ngừng bằng tiếng Việt. Không hẳn là câu trả lời mà là một câu hỏi: - Thầy... Thưa thầy... Phò? - Xin lỗi anh là ai mà biết tên tôi? Ngạc nhiên, thầy Phò quay lại. Tròng mắt ông giựt nhanh hơn trước. Vành mi dưới nhăn nheo thêm, cặp lông mày nhướng cao làm đôi mắt tròn hẳn lại. Điếu thuốc trên môi trề xuống gần rớt khỏi miệng. Đôi vai gù chùng thêm chút đỉnh. - Con là Văn đây thầy. Thầy dạy con ở trường La San đó thầy. Văn nhắc tên trường cho thầy nhớ, vì ngày xưa thầy dạy nhiều trường, bán cháo phổi kiếm cơm, như thầy thường nói. - Văn? Trần Hưng Văn? Lớp bảy phải không? - Dạ phải. Văn. Trần Hưng Văn. Lớp bảy. Năm mười ba tuổi, gia đình Văn chạy giặc mùa hè đỏ lửa từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Năm mười ba tuổi... Ba mẹ biết con mình du côn nên đã bỏ Văn vào trường dòng La San cho các sư huynh trị. Ôi năm mười ba tuổi, Văn thù mấy ông frère quá. Nhất là frère giám thị Léon, frère giám học Bienvenu. Có lần đi học để tóc dài, frère Léon dùng tông đơ cạo sạch đầu. Lần khác mặc quần ống voi, frère Bienvenu cắt cụt ống quần đuổi ra khỏi trường. Mấy frère cũng chán ngán Văn không ít, cái tên Trần Hưng Văn được đổi thành Trần Hung Hăng mới sau hai tháng học. Văn thù đi học, thích chuồn ra ngoài ăn phở Hiền Vương, ngồi hút thuốc, rồi vù qua Đa Kao coi phim Lý Tiểu Long. - Anh làm gì ở đây? - Con qua đây nghiên cứu về bịnh ung thư thầy ạ. - À ra thế. Thầy mừng cho anh. Thầy biết là Văn làm được. - Còn thầy? - Thầy mới qua. Giải phóng vào thầy đi cải tạo vì là giáo sư biệt phái. Hai mươi mấy năm rồi. Văn lớn quá thầy nhìn không ra. Anh cũng muốn nói là thầy thay đổi quá nhiều nhưng sợ thầy buồn. Ngày ấy thầy rất bảnh trai. Da dẻ trắng trẻo thư sinh. Mái tóc không hói, đen lánh, chải mượt. Văn thường nghịch ngợm đùa, con ruồi trợt patin gãy cẳng. Cũng vành môi mỏng lúc nào cũng muốn cười ấy. Đôi mắt ngày xưa trong sáng tinh nghịch hơn bây giờ nhiều. Thầy hay diễu cợt làm nghề bán cháo phổi không khá, vì phổi thầy là phổi Phò, không phải phổi Fe. Fe là ký hiệu hóa học của chất sắt, ý thầy muốn nói phổi thầy không phải là phổi sắt. Có đứa nghịch nhái lại, phổi bò chứ không phải phổi frère. Thầy dạy toán năm lớp bảy. Văn còn nhớ, một hôm phát bài kiểm, thầy nói trước lớp là thầy rất ngạc nhiên về một tài năng mới. Trò Văn. Trần Hưng Văn. Văn du đãng. Văn văng tục. Văn được 17 trên 20. Thầy khen Văn giỏi và bảo Văn lên bảng giảng lại bài toán cho cả lớp. Bàng hoàng Văn sợ không dám nắm lấy cục phấn trắng thầy chìa cho Văn. - Thầy biết là Văn làm được. Thầy gật nhẹ đầu khuyến khích. Nhìn nụ cười thân thiện trên đuôi mắt, khóe môi của thầy, Văn run muốn khóc. Cũng may, thầy chỉ muốn Văn chép lại bài toán cho thầy giảng mà thôi. Trong khoảnh khắc, Văn trở thành người hùng. Từ hôm đó đời học sinh của Văn như lật qua trang mới. Văn hối hận. Văn ăn năn. Văn không còn là Văn du đãng. Văn đứng hạng ba năm lớp bảy do chính sức mình. Hạng nhất toàn trường năm lớp tám. Năm lớp chín... Khi cái áo dòng đen của frère Bienvenu vừa khuất cuối hành lang, sau khi sư huynh phát xong học bạ cuối năm, Văn nghe lòng mình hụt hẫng. Thầy Phò tiến lại chỗ Văn ngồi. Thầy là giáo sư hướng dẫn của Văn năm lớp chín. Đặt cái thước kẻ lên đầu Văn, thầy khỏ nhẹ: - Đầu to năm nay đứng hạng nhì rồi. Thầy biết là Văn làm được mà. Tại sao thế? Thầy biết là Văn làm được mà. Tại sao thế. Mắt Văn đỏ hoe. Nước mắt chạy tròn trong bờ mi rồi trào ra khóe mắt. Văn khóc. Khóc giận mình. Tại sao chỉ hạng nhì? Tại sao chỉ 16,54? Thằng Bá hả hê ngồi nhìn Văn. Nó được 16,60. Cái thằng khốn nạn. Nó cười. Văn khóc. - Văn cho thầy xin số điện thoại đi. Mưa đã tạnh. Tiếng thắng xe của chiếc buýt rít lên cót két. Hai cánh cửa xe xập xòe đón mời khách. Văn vội vã dúi vào tay thầy mảnh giấy nhỏ ghi số điện thoại của mình. Thầy lên xe, anh vói theo: - Thầy... Bài toán năm lớp bảy... - Thầy biết... Thầy biết là Văn làm được... Thầy biết là Văn làm được. Anh không biết là thầy biết những gì. Có một điều canh cánh trong lòng anh suốt hai mươi mấy năm về bài toán đầu tiên thầy cho Văn 17 điểm. Văn chỉ mong được thú tội với thầy là anh cọp dê thằng Bá. Là Trần Hung Hăng đã chận đường Bá, dọa hắn phải cho Văn cọp dê hôm làm bài kiểm. Chiếc xe buýt chạy qua. Sau khung cửa sổ nhỏ đục ngầu, mờ mờ đôi vai gù của thầy Phò run lên thụp xuống. Hôm ấy là một ngày đẹp trời cuối thu. Gió đông đã về mơn man lành lạnh. Trời cao và trong. Nắng vàng hoe. Trên con đường quen thuộc đến chỗ làm, trừ những cây thông già sừng sững, đám cây sồi đều trụi lá. Từ phía bên kia đồi, loáng thoáng bóng bà Ann dong dỏng. Vẫn con chó lăng quăng vô tư lự tìm chỗ phóng uế. Không thấy bà Cathy lùn, Văn hỏi: - Bà Cathy đâu? - Bà ấy mất hai tuần rồi. Văn thảng thốt: - Tại sao? - Bà ấy bị ung thư nhũ hoa cậu không biết sao? Thật tình không biết, Văn lắp bắp chia buồn. Bà Ann lịch sự chào Văn rồi tiếp tục rảo bước. Con chó vẫn lăng quăng vô tư lự. Anh nghĩ đến con sóc bạch tạng. Không thấy nó. Không biết nó có khờ khạo băng qua đường bị xe cán chết hay chăng. Một chiếc lá vàng theo cơn gió nhẹ quấn quýt xoay tròn trên không rồi rơi thẳng vào bàn tay Văn. Vuốt nhẹ chiếc lá trong tay, anh ngước nhìn lên cành. Chiếc lá vàng cuối cùng. Trời xanh vẫn xanh. Gió lạnh vẫn mơn man lành lạnh. Nắng vàng vẫn vàng tươi. Văn lụi cụi đếm những tế bào ung thư trước khi cho vào dĩa thử nghiệm thuốc. Những tế bào li ti như những con vi trùng nổi lềnh bềnh dưới kính hiển vi. Một ngàn. Hai ngàn. Một triệu. Chuông điện thoại reo. Anh buông ống nghiệm xuống bàn, nhấc ống nói. - Eh, Van. Mày có muốn chút thịt tươi không? Giọng Travis hăm hở qua điện thoại. Travis là bác sĩ điều trị ung thư, chuyên về lâm sàng, vẫn thường gởi fresh meat, thịt tươi, những mẫu tế bào lấy từ các người bệnh, để Văn làm thí nghiệm. Hắn lải nhải kể công, như nhắc cho Văn nhớ là phải kê tên hắn trong những biên khảo của anh. - Người quá cố để lại di ngôn là cho mà người nhà thì không chịu. Khó lắm tao mới xin gia đình bệnh nhân được cái post. Post, post-mortem autopsy. Giảo nghiệm tử thi sau khi bệnh nhân qua đời để hy vọng tìm ra nguyên nhân gây ra cái chết. - Okay. Fedex lên cho tao. Gửi cấp tốc lên. Thật ra từ chỗ Travis đến Văn chỉ cách nhau khoảng sân cỏ rộng. Buổi chiều, miếng thịt tươi ướp đá được chuyển đến. Miếng thịt phổi đã bầm tím với những ống khí quản li ti xám xịt, chơ hơ trên nước đá xay trắng phau, như một tên lính bại trận phơi mình trên chiến trường phủ đầy tuyết trắng, sau trận đánh khốc liệt với tử thần ung thư. Chợt nhớ đến miếng phổi bò lều bều trong tô cháo lòng hôm cuối tuần, Văn hơi lợm trong cuống họng. Cầm hồ sơ bệnh lý, Văn lướt qua tên người quá cố. Patient’s name: Tran, Pho D. Văn nhìn miếng thịt phổi. Không còn chất sống. Bất động. Anh nghĩ đến Cathy. Đến con sóc. Đến con người ta. Con người ta sanh ra, con người ta giành giật, con người ta đâm chém nhau, con người ta hơn thua từng tí, con người ta giở trò hỉ nộ ái ố tham sân si, để rồi con người ta... ai cũng chết. Cái chết, một bài toán. Bài toán cuối cùng thầy để lại cho anh. Một bài toán mà cả thầy lẫn Văn, hay bất cứ ai, vẫn chưa có thể tìm ra câu trả lời. Và một bài toán không ai có thể gian lận nổi. Ngoài kia đám cây khô vẫn trút lá vàng xuống sân cỏ úa. Trời xanh vẫn xanh. Nắng vàng vẫn vàng tươi. Như mọi ngày. |
| | | Tinh Hoa
Tổng số bài gửi : 1060 Registration date : 19/01/2020
| Tiêu đề: Re: Truyện ngắn Việt Nam Fri 03 Mar 2023, 01:47 | |
| Dậy sóng (tác giả: Vũ Thư Nguyên)
- Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển...
Đêm trăng tròn trên đảo. Trăng mười sáu vừa ló dạng lên đỉnh núi. Trăng đứng giữa trời, tròn vạnh nhưng không tỏa rạng. Chỉ một ánh trăng duy nhất chiếu thẳng xuống mặt biển nghiêng nghiêng, nhạt nhòa thành những đường vàng nhạt, tan loãng trên sóng. Trăng vẫn tròn, trong sáng, tươi trẻ như mọi khi nhưng núi và đảo thì đã tiêu điều tiều tụy, già cỗi như cái bóng đổ, đùn đùn, gấp khúc nhăn nhăn trên sóng. Đám rừng cây từ trên đỉnh núi kéo dài qua bên mạn Đông Đảo người ta đã đốn trụi trong suốt mười mấy năm qua. Đám cây non lớn không kịp thay thế lũ cây già đã ngã quỵ. Khu trại phía Nam Đảo người ta phóng hỏa đốt bỏ hôm tuần rồi. Ngọn lửa thiêu rụi toàn khu trại bằng mái lá dừa, không đầy nửa buổi. Tối đến mưa phùn đổ xuống trên đống tro tàn, than và lọ nghẹ nhuộm đen bãi biển, sền sệt, nhão nhẹt. Và suốt tuần qua, mỗi đêm, trăng trải ánh sáng vàng vọt trên đống tro tàn cũ, tạo ra cái vẻ hoang vu ma quái.
Người ta vẫn giữ cái giếng ở Nam Đảo, chưa lấp lại, vì cái giếng ở Trung Đảo quá đông người. Những sinh hoạt quanh miệng giếng Nam Đảo tối nay vẫn xảy ra bình thường như mọi đêm. Các cô gái đợi đêm xuống mới kéo nhau ra giếng để tắm giặt, vì ban ngày cái giếng ấy là của cánh đàn ông. Bọn họ kháo với nhau rằng cái giếng ấy có ma.
1.
Buổi tiệc tàn. Trong cái dĩa sành, lơ thơ vài con tôm khô nằm mắc cạn chen lẫn với vài miếng ớt hiểm cùng vài mẩu chanh vắt. Ngoài kia sóng biển vẫn ì ầm, thủy triều rướn mình lên bãi cát sau mỗi đợt sóng, lấp lánh dưới ánh trăng tròn treo chênh chếch bên kia đỉnh ngọn núi Aur sừng sững. So với ánh đèn mờ mờ của thành phố Mersing cuối chân trời và ngọn đèn dầu heo hắt giữa bàn tiệc, ánh trăng có lẽ là nguồn sáng mạnh nhất, trải ánh sáng mập mờ trên những mái lá của khu trại Q, Nam Đảo. Phúc vươn vai xoay người khỏi ghế rồi quăng mình xuống bãi cát. Hơi rượu có lẽ đã thấm vào từng thớ thịt cuồn cuộn vạm vỡ của người thanh niên chài lưới. Tay xoa xoa cái bụng phẳng lì như tấm phản, Phúc nhìn lên trời sao, rống cổ:
- Con ở miền Nam ra thăm lăng...
- Nghe mày hát mà tao mắc...
Quang lên tiếng phê bình. Phúc không phiền lòng vì Quang chê mình hát ẹ, có vẻ hãnh diện là đằng khác, bâng quơ chửi thề một câu cho xong chuyện:
- Mắc thì cứ đi, tao hát kệ tao.
Xa xa về phía Trung Đảo, chơ vơ trên sóng biển dăm ba căn nhà hư ảo ma quái rải rác trong bóng tối ngai ngái, bóng soi vào vách núi chập chờn với ánh đèn néon lúc tắt lúc mở như gần đứt hơi. Quang chưa kịp trả đũa, dì Trang đã lên tiếng can:
- Đừng cãi nữa. Tối ngày cứ hết cãi tới đánh lộn. Chán quá! Bữa nay là tiệc tiễn đưa Thịnh đi Mỹ. Ngày mai Thịnh đi rồi. Không thấy Miên nó sắp khóc kia kìa.
Im lặng. Một cơn gió mạnh. Ngọn đèn dầu tắt phụp. Cái tim vải cháy xém, chết đuối trong đáy chai xá xị ngập dầu xà lách. Những chai xá xị hoặc chai bia được bọn tôi dùng dây cước cưa làm đôi, mài lên cát cho nhẵn, đáy chai dùng làm ly uống nước hay đựng dầu nấu ăn làm đèn để đốt. Bóng tối chìm xuống thêm một chút quanh cái bàn tiệc đóng bằng gỗ đẽo ra từ những thân cây dừa non. Khum bàn tay che gió, tôi mồi thuốc, khó khăn lắm mới mồi được điếu thuốc. Qua ánh lửa xập xòe, tôi không rõ Miên có khóc hay không. Em ngồi đầu bàn bên kia, đối diện, mặt quay ra ngoài phía đất liền, thỉnh thoảng đưa tay vén những sợi tóc mai lòa xòa trên má. Dì Trang đề nghị:
- Hay để Thịnh đàn cho Miên hát đi.
Phúc và Quang nhao nhao:
- Phải đó.
- Thôi dì Trang à.
Miên quay lại chống chế. Tôi ngồi im lặng. Im lặng nhất trong bữa tiệc đêm nay. Tiệc tiễn đưa tôi. Ngày mai tôi đi Mỹ rồi. Vui lên chứ. Sao lại buồn? Tám tháng trên đảo tưởng như dài lắm, bây giờ đã là quá khứ. Tương lai hứa hẹn đang chờ tôi bên kia bờ đại dương. Tôi phải vui lên chứ. Sao lại buồn nhỉ?
- Để tao vào lấy cái đàn.
Phúc đứng dậy, phủi cát. Không ai trả lời, nhìn theo bước chân của Phúc lảo đảo, bóng khuất dần sau tàn lá dừa che kín lối vào trại. Khi Phúc mang đàn trở ra, Quang đón lấy, dạo nhạc, những ngón tay dài thoăn thoắt trên cần đàn. Một lát sau, Miên nhè nhẹ cất tiếng hát theo:
- Đêm qua chưa mà trời sao vội sáng. Một đàn chim cánh nhỏ chở mùa sang... Mộng về một đêm xuân sang, em thì thầm ngày đó yêu...
Tiếng hát Miên dứt ngang tắt tịt, xuống nhịp bằng tiếng phập của con dao găm phóng xuống giữa bàn tiệc. Lưỡi dao cắm ngập vào gỗ mềm. Miên kinh ngạc nhìn cán dao run run, cái bóng nghiêng nghiêng của lưỡi dao chập chờn kéo dài thành một vệt chạy xéo ra tận góc bàn. Bất thần từ góc bàn ấy, một bóng đen to sầm dội trả lại, nuốt chửng cả hình lẫn bóng của lưỡi dao mỏng. Một người đàn ông trung niên khá lực lưỡng đứng sau Quang tự lúc nào. Khuôn mặt nhỏ, cằm lẻm, quai hàm run bần bật, đôi mắt trợn ngược trắng bảnh nổi bật trên da mặt đỏ bầm dưới ánh trăng. Tôi liên tưởng đến một người mắc kinh phong, một người điên, hay một con chó dại đang gầm gừ nhìn mình từ đầu đến chân. Bất động. Yên lặng đến ngột ngạt. Tôi có thể nghe rất rõ tiếng gió thổi ù ù qua mang tai. Hắn nhảy phốc lên bàn giằng mạnh lưỡi dao khỏi mặt bàn. Đó là một con dao săn bằng thép đen, hình dáng như một loại đoản đao thu nhỏ. Lưỡi dao một bên răng cưa, bên kia mài bóng loáng, mũi nhọn hoắt. Có lẽ mua của tụi lính Mã.
Bọn tôi như hóa đá ngồi quanh bàn tiệc, nhìn tên phù thủy lắc lư múa máy dưới bóng trăng với con dao lấp loáng trong tay. Hắn sẽ cắt tiết ai? Tôi. Hắn tiến về phía tôi. Mùi thép lạnh của mũi dao nhọn dí vào cổ. Mẩu thuốc lá gần tàn lụi vì thiếu hơi, rời khỏi miệng. Gió thổi bạt, tàn lửa bay chập chờn như con đom đóm kiệt sức, tan biến vào bóng tối. Mũi dao ấn mạnh hơn tí nữa. Con dao nhọn lắm. Cái nhọn cứa sâu vào da cổ, nảy mầm thành trăm ngàn mũi nhọn khác lan tỏa khắp người, nhột nhạt dưới cái áo sơ mi Liên Hiệp Quốc viện trợ. Một sự nóng bức ngột ngạt làm tôi khó thở. Cổ tôi cứng đờ. Thời gian và không gian giờ đây lắng đọng lại và hội tụ vào một điểm, bất động. Tôi đếm khẽ trong đầu: một... hai... Thời gian nặng nề. Một giây là trăm năm.
2.
Tôi đếm khẽ trong đầu: một... hai... ba... theo tiếng sóng vỗ mạn tàu. Đứa con gái ngồi bên cạnh mụ Tàu béo, nhìn tôi, đờ đẫn, vành môi nó giờ nhợt nhạt, vẫn xinh xắn, nhưng không cười tươi, liếc mắt với tôi như hôm xuống tàu tuần trước. Đầu nó lúc lắc, không còn sự kiểm soát của chiếc cổ trắng mảnh mai, lúc va vào thành tàu, lúc ngã vào vai mụ béo, theo từng đợt sóng nhồi lên xuống. Mẹ con gì mà khác nhau một trời một vực. Một nàng Kiều bên cạnh một mụ tú bà? Không biết con nhỏ về già có xấu như mẹ nó hay không. Khi khác thì tôi đã cười với ý tưởng ngồ ngộ ấy. Lúc này thì không. Cổ tôi khô đắng. Con tàu lắc lư trên sóng. Năm ngày qua nằm dưới hầm tàu, tôi chỉ được nhìn thấy nước qua những lỗ thông hơi nhỏ. Cái lỗ thông hơi lắm lúc bị che kín bởi đầu tóc rối bù của người đàn bà Tàu ngồi đối diện. Đã năm ngày tôi không được uống nước. Tôi khát lắm. Bỏ mặc con nhỏ, tôi đưa mắt nhìn quanh. Chúng tôi được dồn lên tàu, sắp lớp như cá mòi, lên đường về nước theo diện người Hoa.
Nước nào thì tôi không biết. Mà không biết tôi có thể đến được cái nước nào đó hay không. Miễn sao tôi có thể sống qua đêm nay. Ngoài kia dông tố ầm ì. Con tàu chao đi. Mặt nước chồm lên từng hồi như muốn ào vào những lỗ thông hơi nhỏ bé. Ào vô đi, cho ướt cái mụ béo và đứa con gái đẹp của mụ. Tại sao tôi lại có thể chết vô cớ như hôm nay. Tôi chưa làm gì nên tội mà. Đứa con gái chợt mở mắt như sực nhớ điều gì. Nó lục lọi túi xách kẹp giữa cặp đùi tròn. Một bidon nước! Loại bidon nội hóa dành cho học trò tiểu học. Chút nước đọng ở đáy bình chỉ đủ một hớp cuối cùng. Nó mở nắp bình, run rẩy đưa lên miệng. Bố khỉ, gần chết đến nơi rồi. Tôi nhủ thầm. Uống đi. Uống nữa đi, rồi tí nữa chết chìm, tha hồ uống nước muối nhỏ ạ. Tôi nuốt nước bọt. Không được. Cổ tôi khô đắng. Đắng như một người bệnh nặng lâu ngày. Đau như ngày xưa bị sốt rét rừng gần chết. Bất chợt, con nhỏ ngần ngừ, ngưng lại khi bidon vừa chạm môi, nó mạnh tay chìa bidon trước mặt tôi. Mặt nước trong bình sóng sánh.
- Uống tí đi. Có chết cũng đỡ. Tí nữa tha hồ mà uống nước biển.
Nó cười, miệng méo xệch, miệng hơi rộng một tí, nhưng bù lại được cái hàm răng khá đều. Với tôi chưa có nụ cười của một người con gái nào đẹp hơn lúc đó. Tôi ân hận. Nó đã đọc được ý tưởng trù ẻo của tôi dành cho mẹ con nó lúc nãy. Tôi đón lấy bình nước, ngần ngừ, đưa lên miệng. Một hớp nhỏ, vừa đủ ướt môi thôi. Tôi trả bình nước lại cho nó. Đứa con gái uống nốt phần còn lại. Ngụm nước ngọt ngào đang thấm xuống cổ họng tôi, và nó. Môi tôi đã chạm môi nó, qua chiếc bình nước. Có phải chúng tôi vừa hôn nhau? Chưa có nụ hôn nào mát và ngọt lịm hơn thế. Tôi nhoẻn miệng cười. Lát có chết xuống âm phủ cũng sướng. Nó nhìn tôi cười lại. Chắc nó lại đọc được ý tưởng của tôi.
- Xuống. Đụ mẹ xuống. Lên đây làm con cặc gì.
Người tài công quát tháo, chân đạp vào mặt, cố xua tôi xuống hầm tàu. Họ sợ mọi người đều tràn lên boong thì tàu sẽ dễ chìm hơn. Cũng lạ, tôi không thấy đau tí nào. Tôi không thể chết đêm nay được. Tôi hãy còn quá trẻ. Trườn ra khỏi hầm tàu, tôi cố ngoi lên boong. Thành tàu chòng chành ngang bằng mực nước. Bây giờ tôi mới nhìn thấy nước, toàn là nước, nước từ đại dương mênh mông tràn lênh láng xuống hầm tàu, nước từ bầu trời đen kịt tuôn xối xả xuống con tàu tròng trành như chiếc lá khô trên biển. Cơn bão gào thét. Gió gầm gừ xua những làn sóng tiếp tục ụp lên sàn tàu. Tiếng sóng, tiếng sấm long trời. Tiếng người lớn gào, tiếng trẻ con thét. Tiếng kêu phật, gọi chúa. Hỗn loạn. Tôi cố trườn lên tí nữa. Mưa vẫn tuôn xối xả như những lằn roi quất xuống mặt. Tôi nằm xoải tay ngửa mặt lên trời hả miệng hớp lấy nước mưa. Ôi những giọt nước ngọt ngào. Những người lái tàu bắt đầu quăng hành lý trên mui tàu xuống biển. Họ quăng tất cả những gì nằm trong tầm tay có thể vơ lấy được.
- Đồ của tui...
- Vàng của tui...
- Chết chìm tới nơi mà vàng với bạc.
- Xích qua bên trái đi bà con, nước tràn vô bên phải rồi.
- Tát nước lẹ lên.
Tôi lịm đi trong tiếng người ta gào thét.
- Dậy. Bộ muốn nằm đó chết hay sao cha nội.
Tôi mở bừng mắt khi gả tài công đá mạnh vào mạng sườn. Trời đã sáng. Bầu trời xanh, cao thăm thẳm. Gió hiu hiu mát lạnh. Sóng đong đưa vỗ nhè nhẹ lên mạn thuyền như không có chuyện gì xảy ra đêm hôm trước. Tôi tính lên tiếng trả đũa thì có tiếng la hớt hải trên mui tàu:
- Đất, đất, thấy đất liền rồi.
Mọi người nhao nhao dưới hầm tàu. Một lát, lại có tiếng rú:
- Tàu. Tàu Mỹ bà con ơi. Tàu Mỹ vớt.
Thật ra không phải tàu Mỹ mà là một chiếc tuần dương của hải quân Mã Lai. Chúng tôi đã đến Mã Lai. Một người thông thạo Anh ngữ được đề cử điều đình với bọn lính Mã. Hắn quay lại yêu cầu những ai còn vàng góp lại để hối lộ bọn lính. Nếu không, tàu sẽ bị kéo ra khơi. Những chiếc nhẫn, những đôi bông tai được chuyền tay. Thương lượng qua lại cả ngày trước khi con tàu được kéo vào đảo. Buổi chiều hôm đó trời mưa lâm râm, cả tàu được phép lên bãi, trừ một phụ nữ đã qua đời đêm hôm qua có lẽ vì sợ. Trời chuyển mưa nặng hạt. Phụ nữ và trẻ em được phép vào bên trong trại, bọn đàn ông phải sắp hàng trên bãi cát. Tôi đưa mắt nhìn quanh đảo. Từng dãy nhà lợp bằng lá dừa dựng sát vào vách núi. Chỉ vài trại đóng bằng gỗ gần trung tâm là có đèn điện, số mái lá còn lại leo lét đèn dầu. Xa xa tiếng vọng cổ từ máy cassette nào đó vọng lên buồn đứt ruột. Tôi muốn khóc nhưng sợ người trên đảo đang nhìn chúng tôi sẽ cười. Họ không cười, chỉ trỏ, có vẻ lo ngại về điều gì đó sắp xảy đến cho chúng tôi.
Bọn lính Mã lục soát từng người một, lấy cớ tìm vũ khí. Tôi trố mắt nhìn người đàn ông đứng bên cạnh run rẩy tháo cái đồng hồ có vẻ đắt tiền, đưa cho tên lính Mã. Thằng lính cầm cái đồng hồ, cười khoái trá. Nụ cười chợt tắt khi ánh mắt hắn bắt gặp ánh mắt tò mò của tôi. Một bạt tai nảy lửa xán vào mặt, theo sau là cú đá thốc vào bụng. Tôi gập người xuống bãi cát, chỉ kịp thấy loáng thoáng từ hàng hiên trại, con nhỏ trên tàu đưa tay ôm mặt. Tôi khóc tức tưởi. Hạt mưa vẫn rơi ướt đầu tóc rối. Tôi nhớ cú đá vào mặt đêm qua. Tôi khóc òa như đứa bé lên ba. Mặc cho trời mưa, tôi thiếp đi trên bãi biển. Mặt đất chòng chành, lắc lư như con tàu còn trên biển.
3.
Buổi sáng, tôi lang thang khắp các dãy trại như người mất trí. Hơn tuần lễ không tắm rửa, tôi nghĩ thân hình tôi chắc thê thảm lắm. Người ta nhìn tôi e dè, cố lánh xa như một người cùi hủi. Họ nhận ra tôi là người mới đến dễ dàng. Tôi cũng biết như vậy. Tôi tóc ngắn, họ tóc dài, dài tới cổ lận. Tôi quần dài, họ quần cụt, áo mặc phanh ngực. Bây giờ tôi mới nhìn rõ hơn khu trại tị nạn. Đó là những dãy nhà lợp bằng lá dừa chạy dọc theo bãi biển. Mỗi căn độ ba mươi thước bề dọc, tám thước bề ngang. Các dãy nhà không ngăn vách, bốn bề trống trơn. Mỗi gia đình chiếm ngụ một cái sạp nhỏ, trên dưới mười mét vuông, như kiểu sạp bán hàng ngoài chợ. Đi một đỗi, có một người đàn bà, độ ba mươi, khuôn mặt nhỏ, lông mày mỏng, cánh mũi hẹp, dễ nhìn, ngồi đong đưa trên cái võng may bằng vải bao bố, tỏ vẻ thương hại:
- Có phải cậu bị Mã Lai đánh hồi hôm không?
- Dạ.
- Tội chưa.
Người thiếu phụ hỏi ba điều bốn chuyện về chuyến hành trình của tôi. Chuyện tôi sắp chìm tàu, mất hết quần áo. Chuyện Sài Gòn mưa hay nắng. Chuyện kinh tế mới. Chuyện đổi tiền. Chuyện sắp hàng mua nhu yếu phẩm. Nhắc tới đồ ăn, như sực nhớ, bà hỏi tôi:
- Cậu đói không? Chắc đói lắm. Tôi có nồi cơm nấu hồi sáng còn nóng, để cậu ăn với cá mòi.
- Dạ.
Tôi đáp nhỏ nhẹ, mừng rơn vì đã đói lắm rồi.
- Ây mà không được.
Chưng hửng, ruột tôi thót lại.
- Cậu nhịn đói cả tuần rồi, không nên ăn cơm. Để tôi nấu cháo cho cậu ăn.
Cháo hay cơm gì cũng được, có ăn là mừng lắm rồi. Bà chủ nhà rời khỏi chiếc võng, đi chụm củi nấu cháo. Từ ngày giải phóng vào Sài Gòn đến nay, quen ăn bo bo với khoai mì, tôi chưa bao giờ được ăn tô cháo gạo ngon như thế. Tôi nghĩ vẩn vơ đến những truyện cổ tích nghe khi còn bé. Có lẽ bà tiên của tôi đây mà. Bà tiên không lộng lẫy nhưng hiền lành. Nhìn tôi ăn gần sạch nồi cháo, bà ta ngăn không cho ăn nữa, sợ tôi lăn ra chết bất tử:
- Ăn rồi ra giếng tắm đi.
Chắc tôi hôi hám lắm. Tôi hỏi đường ra giếng công cộng. Đó là một cái giếng khá lớn đào ngay giữa lối giao thông qua các dãy trại. Như một cái giếng làng, nơi tắm rửa, giặt giũ của dân tị nạn. Tôi vừa quay lưng, bà tiên của tôi gọi giật:
- Cậu à. Cậu không nhà không cửa. Ở gian bên cạnh có hai cậu độc thân ở. Tối cậu trở lại đây tôi nói giùm cho. May ra hai cậu đó cho cậu ở chung.
Tôi gặp lại con nhỏ trên tàu ở ngoài giếng với má nó. Tôi mượn được gàu xách nước. Nó ngồi chồm hổm cạnh miệng giếng, chìa cho tôi miếng khăn mặt nhỏ xíu:
- Lau mặt đi.
Không trả lời, tôi xối nước cho nó rửa chân tay. Bà Tàu cằn nhằn:
- Đồ ăn hại. Chỉ biết lo cho trai. Làm mất của tao cả trăm cây.
- Người ta biểu liệng thì tui liệng. Ai biết. Ai biểu đưa cái giỏ cho tui làm chi.
Người đàn bà hứ hó nhưng đột ngột im lặng khi tất cả ánh mắt mọi người từ chung quanh miệng giếng đổ dồn về phía bà ta. Rửa mặt xong, tôi ra bãi biển lãnh cá. Con nhỏ xách giỏ lẽo đẽo theo tôi. Chúng tôi không nói với nhau một lời suốt con đường về trung tâm đảo nơi phân phát thực phẩm. Tàu lương thực đến từ Mersing vào ba buổi sáng. Vì sợ người ta giành giật, nó chỉ đậu đàng xa hơn một trăm thước. Những bao cá được quăng đại xuống biển, người nhận lãnh phải lội ra nhặt vào. Đa số là thanh niên con trai, chúng tôi như đàn cá sấu nuôi trong hồ, bơi vùng vẫy mỗi khi một bao cá nhỏ quăng xuống mặt nước. Tôi quơ vội hai bao cá. Con nhỏ trên tàu lóng ngóng trên bờ. Lên cạn, nhớ đến hớp nước hồi đêm, tôi quăng cho nó một bao. Nó cúi xuống nhặt. Thảng thốt:
- Anh Xung ơi, anh bị đứt chân rồi. Máu chảy ra cát kia kìa.
Tôi cúi xuống ngạc nhiên. Thật sự tôi không thấy đau gì cả khi một mảnh san hô đã cứa đứt lòng bàn chân phải. Đứa con gái luống cuống chụp lấy bàn chân tôi, mong cầm máu. Bàn tay nó mềm mại, mát lạnh. Tôi ngồi phệt xuống bãi cát, ngượng nghịu gỡ nhẹ bàn tay nó ra:
- Không sao đâu... Mà tôi không phải tên Xung.
- Ai biết. Thấy người ta gọi tên anh lúc xuống tàu là Lâm Xung.
- Còn... tên gì?
- A Phấn... Mà không, tên thiệt là Miên.
Một ý nghĩ ngộ nghĩnh vụt qua trong đầu, tôi thốt lên:
- Lâm Xung đại hiệp rất hân hạnh được diện kiến Phấn Phấn nương nương.
- Quỷ!
Con nhỏ tát mạnh vào đầu gối tôi. Nó cười, mặt đỏ bừng trong ánh nắng.
4.
Tôi quen dì Trang, Phúc và Quang từ hôm đó. Bọn tôi hãy còn trẻ. Tôi là tên trẻ nhất. Phúc con nhà chài lưới ở Phan Rang. Da đen mun, tóc quăn tít như Mã Lai, bắp thịt cuồn cuộn, chắc nịch. Hắn lái tàu cho người ta vượt biên rồi đi theo luôn. Nghe đâu Phúc để dành được mớ vàng tiền bán tàu. Phúc đến đảo sớm nhất nhưng vẫn chưa đi vì không có thân nhân bảo lãnh. Bọn tôi hay đùa gọi Phúc là chúa đảo. Quang là con trai độc nhất của một gia đình giàu có ở Sài Gòn. Quang đang học y khoa Minh Đức năm thứ hai thì giải phóng. Quang bỏ học, bán chợ trời một thời gian, rồi có mối vượt biên như tôi. Quang rất nghệ sĩ, đi vượt biên, trong khi người cùng tàu mang súng và lựu đạn sợ chạm trán công an, anh chàng lại na theo cây guitar, đàn địch cà rịch cà tang suốt từ bến Bạch Đằng ra tận cửa biển, không ai xét hỏi. Cuộc sống trên đảo dần quen với tôi. Tôi cắt cụt ống quần, mang dép Nhật. Tôi mặc áo viện trợ, phanh ngực rộng thùng thình. Tôi để tóc dài chấm vai. Tôi giống như mọi người trên đảo.
Đây là một hòn đảo hẹp, mọc ra từ một dãy núi lửa đã tắt lâu đời của Thái Bình dương, đường kính lớn non mười cây số. Dân tị nạn khoảng mười ngàn người, sống tập trung ở Bắc Đảo, Trung Đảo và Nam Đảo. Trung Đảo là trung tâm văn hóa và chính quyền, được coi là phố của đảo. Chính giữa đảo là một hòn núi lớn, triền núi dốc về phía đông, thủy triều vào tận vách núi. Vì thế không ai ở Đông Đảo, quang cảnh còn hoang vu. Ngày ngày bọn tôi vác cưa leo lên núi, qua Đông Đảo đốn cây thả xuống triền núi, rồi bơi theo khúc cây về Nam Đảo. Sau đó cưa cây ra từng khúc, chẻ nhỏ, đem bán 50 xu tiền Mã một bó. Lúc đầu bọn Mã chưa cấm, với kinh nghiệm làm nhà học được hồi ở vùng kinh tế mới Lê Minh Xuân, bọn tôi đốn cây làm nhà bán cho những gia đình người Hoa giàu có muốn có nhà riêng. Một cây vàng cho mỗi căn độ hai mươi thước vuông. Có tiền bọn tôi rủ nhau xuống Trung Đảo uống cà phê. Bọn tôi mặc đồ của nhau, chia nhau từng điếu thuốc. Lúc hết tiền bọn tôi leo lên võng kháo chuyện đời.
Bọn tôi ngủ võng vì dưới sạp đầy rệp, chỉ dùng chứa đồ đạc. Bốn cái võng bằng bao bố giăng chéo bốn góc cột, hai cái sau cùng treo song song nhau ở hai cạnh xa nhất của gian nhà. Cái võng thứ tư? Miên dọn đến ở với bọn tôi một tuần sau khi lên đảo. Bà Tàu mập không phải má cô, chỉ là người quen đi cùng. Bà vẫn hận Miên chuyện cô quăng hơn trăm lạng vàng xuống biển. Nhưng không sao, Miên bảo tôi, bà ta hãy còn nhiều vàng, lót trong hông tàu, ngay sau lưng chỗ tôi ngồi hôm trước. Hèn nào hôm mới xuống tàu, bà ta cứ nhìn tôi chòng chọc. Lúc ấy tôi tưởng bà ta sợ tôi sẽ làm gì con gái bả. Tôi giới thiệu với mọi người, Miên, là em gái. Có Miên, bọn tôi như những chú lùn được Bạch Tuyết lo cơm nước, có khi giặt giũ quần áo cho vì bọn tôi lười, mặc đồ đến lên mùi mới thôi. Bù lại bọn tôi dựng thêm một nhà tắm, lát lá dừa che bằng vài bố kín đáo, và chịu khó ra giếng xách nước về cho Miên tắm gội. Trước mặt con gái bọn tôi bớt chửi tục, cố tỏ vẻ đạo mạo ra hàng anh lớn.
Bọn tôi cấm em gái Miên xuống Trung Đảo một mình, nhất là vào buổi tối. Đi đâu cũng phải có anh Thịnh hộ tống. Miên phải về nhà trước 8 giờ tối để học Anh văn với anh Thịnh... Nhiều khi tôi tin cô là em gái của mình thật. Có lần cô đi ngang qua trại hàng xóm, một gã đàn ông suồng sã chọc ghẹo: Hủ len à! Nghe được, tôi vác rìu bửa củi chạy qua tính bổ thằng đểu một nhát, nếu không có Phúc và Quang đè ra can ngăn kịp thời.
5.
Chiều ba mươi tết. Tôi ở đảo đã hơn bảy tháng. Lang thang dạo phố cả ngày dưới Trung Đảo không biết làm gì, tôi mua vài trái táo đem về thắp nhang cúng tết, cúng xong, chong đèn học bài lấy hên cho năm mới. Mọi người đều xuống phố đón giao thừa. Lều trại trống hoang. Gió lồng lộng thổi đong đưa mấy chiếc võng trống. Quang và Phúc kéo nhau lên Bắc Đảo uống cà phê. Miên đi thăm ông chú họ ở Trung Đảo. Tự nhiên tôi thấy ghen tương. Thường đi đâu cũng có tôi theo cơ mà. Vì ghen mà tôi đã ở nhà một mình không xuống phố như mọi người. Đọc báo Time cũ để học Anh văn, hoài cũng chán, tôi ra giếng xách nước về tắm giao thừa. Xách mười mấy đôi nước đổ đầy thùng phi vẫn chưa thấy mệt, tôi thích thú nhìn bóng mình chập chờn trên mặt nước, nhìn bắp thịt đang lớn dần trên tay, trên vai, trên ngực. Thành quả những ngày bửa củi đốn cây, bơi lội chuyển củi và lãnh cá từ tàu lương thực, chả bù với lần bị sốt rét ở Thanh niên xung phong phải đưa về bệnh viện hậu cần, ốm tong ốm teo da vàng như nghệ.
Tắm xong, tôi leo lên võng của Phúc nằm châm thuốc hút. Tôi thích võng của Phúc vì nó ở trên cao. Đong đưa võng, ra vẻ thảm thiết tôi hát hết bài này đến bài khác, hết tân nhạc Duy Khánh đến vọng cổ Minh Vương, cho tới khi khàn cả giọng, tôi khóc một mình, lăn ra ngủ lúc nào không hay. Tôi thức giấc, nằm yên. Có bàn tay mềm mại nắm lấy bàn tay tôi. Mái tóc dài lòa xòa trên mặt. Hơi thở thật gần. Ma. Ý nghĩ như làn điện xẹt trong óc. Là người phụ nữ chết trên tàu đêm nọ. Số là khi cô ấy chết, người ta lấy lá cờ trắng thêu chữ thập đỏ quàng xác cô rồi đem ra khơi thủy táng. Nghe nói người xấu số ấy chưa có chồng. Tôi vồ ngay lá cờ đem về giặt nước biển sạch sẽ, dùng làm mền đắp. Hàng xóm đi ngang mỗi đêm thấy tôi phủ lá cờ trắng kín mít, nằm đong đưa kẽo kẹt trên võng, lắc đầu cho tôi là gan lì, không biết sợ ma. Bây giờ tôi mới sợ. Tôi nằm cứng đờ, nghe gió biển ù ù thổi. Đêm ba mươi trời tối lắm.
Một hồi lâu, tôi mới để ý là bàn tay ấy rất mềm mại ấm áp, không lạnh ngắt ma quái như mình đã tưởng tượng. Bàn tay chạy dần từ ngực xuống dưới. Nỗi im lặng kinh hoàng trùm phủ làm tôi sợ hãi, phân vân, phải lâu lắm mới lờ mờ ý thức được mình đang ở trong một giấc mơ. Rồi trong mơ tôi lại thấy mình đang mơ, và hình như đã mơ giấc mơ này nhiều lần. Tôi thấy mình nằm trên một mặt phẳng lãng đãng hương. Màn hương thơm dịu xâm nhập, mơn trớn nhè nhẹ trên da thịt, thổn thức một niềm hạnh phúc râm ran trong cổ. Tôi vẫn nằm im nghe nỗi khoái cảm mơ hồ rủ nhau từ bốn nẻo chân tay, kết tụ vào tâm điểm rồi lại ứa trào ra xâm chiếm toàn thân. Chưa bao giờ tôi thấy thoải mái như vậy, một sự thoải mái kỳ lạ dồn ép suốt những tháng năm, trở về thời điểm mình ý thức được sự hiện hữu của mình. Dường như sự sung sướng thường trực bị đè nén, áp chế trong từng khoảnh khắc, theo từng nhịp điệu của cuộc sống mà bây giờ tôi mới nhận ra.
Một nỗi trống trải dìu dịu, khắc khoải vô cớ cứ bám riết đầu óc, chen lấn với nỗi đau đớn nhè nhẹ, loang rộng ra mãi, miên man xâm nhập từng cơ bắp, đánh bạt mọi cố gắng ý thức ngoại vật. Tôi đang mơ. Không. Tôi không mơ. Tôi còn nghe sóng biển xa xa, tiếng sóng vỗ nhè nhẹ róc rách trên ghềnh đá, tiếng sóng đùa trên cơ thể lăn tăn, kéo mình ra xa tít rồi nhận chìm xuống đáy biển sâu. Từ vực sâu, tung lên, tung lên cao. Những bụi hoa bay. Những bụi hoa bay âm thầm. Không gian trắng xóa. Tôi chới với...
6.
Lúc này tinh thần xuống dốc, buồn và thấy cô đơn kinh khủng, tôi bệnh rất nặng, sốt rét tái phát, thêm kiết lỵ và dị ứng vì ăn đồ biển lâu ngày. Thuốc men thiếu thốn. Công việc làm ăn không suôn sẻ như xưa. Bọn Mã cấm đốn cây. Hôm trước có thằng coi thường lệnh cấm, đi củi, bọn Mã bắt được, nó quỳ lạy trối chết mà chúng vẫn không tha, đánh hội chợ đến gục ngã trên bãi biển. Ngoài ra lớp người tị nạn mới đến không giàu có như lớp cũ. Những con tàu mới đến ngày càng xơ xác tiêu điều rách nát. Mỗi lần xuống bến đón tàu, chúng tôi đều nghe tin những chiếc tàu kém may mắn bị công an bắn chìm, xác chết nổi lềnh bềnh như cá đuối. Thoát được công an lại rơi vào tay hải tặc. Tôi đã thấy những phụ nữ trần truồng đi ngơ ngáo trên bãi biển. Tôi đã thấy những chiếc thuyền đẫm máu với thây ma sình thối. Cái đày đọa triền miên cứ tuôn đổ xuống đầu thuyền nhân khốn khổ. Chúng tôi không nỡ lấy tiền của họ, không lý mình lại bóc lột người mình lần nữa hay sao? Nhiều lúc đem củi cho không mà thôi.
Có khi tôi còn móc túi cho thêm lũ trẻ con nữa. Tuy thất nghiệp, tôi vẫn thích dậy sớm qua Đông Đảo ngắm mặt trời lên, thật đẹp, xong thả mình lội về Nam Đảo. Sáng nay sương mù che kín triền núi phía đông. Sương thật thấp che kín những tàng cây, sà xuống long lanh trên cỏ. Cả vùng biển mênh mông như hòa tan vào màn sương mỏng. Dọ dẫm theo con đường quen thuộc, tôi lần xuống một tảng đá lớn gần mặt nước. Ngồi thừ ra đó, tôi nhìn màn sương mờ mịt, nghe sóng róc rách trên ghềnh đá, nhớ đến sóng vỗ mạn phà Rạch Miễu. Để vượt biên, tôi đón xe đò xuống Mỹ Tho, ở đó chờ vài ngày. Giết thì giờ, tôi xuống phà Rạch Miễu đi qua đi lại, hết Mỹ Tho rồi Bến Tre. Đây là lần thứ hai tôi tới Bến Tre. Trước giải phóng, tôi từng theo nhà trường tới thăm ông đạo Dừa. Sau giải phóng, có người nói ông bị quản thúc đâu đó. Tôi nhớ đến cái bản đồ Việt Nam đúc bằng xi măng trên sàn nhà ông đạo. Chuyện ông sáng đặt giường ngủ ở Hà Nội, trưa Huế, tối Sài gòn, biểu thị ước mơ được thấy quê hương thống nhất.
Nhìn giòng nước đục ngầu sôi cuồn cuộn phía sau cánh quạt của chiếc phà, tôi nhớ đến sông Hương, sông Hàn, nước trong hơn vì ít phù sa. Tôi chưa thấy sông Hồng, không biết nước sông đỏ như thế nào, có đỏ như máu của mười vạn quân Thanh chết chìm trên đường rút chạy? Trong tiếng máy tàu, tôi mơ màng tiếng trống Hà Hồi như những lần nghe trống tan học ở trường làng. Quê hương thống nhất rồi sao tôi lại bỏ ra đi? Hồi mới trốn vùng kinh tế mới về, tôi còn lý tưởng lắm, thường hay tự hỏi mình như thế. Lý tưởng cho đến trước hôm ra đi, hãy còn lải nhải lời hát: "Quê hương ta sao đành bỏ ra đi, đem thân chôn nơi xứ lạ quê người, một đời phụng sự cho ai? Sao đành bỏ ra đi? Bỏ sao đành, Việt Nam?" Tôi phải đi. Muốn sống tự do thì phải ra đi trong cái chết. Câu trả lời như một khẩu hiệu cũ mèm, nhưng không còn câu trả lời nào khác hay hơn thế. Sóng róc rách trên ghềnh đá, sương tan dần nhưng trời vẫn lạnh. Chắc sáng nay không bơi được rồi. Tôi nhón người khỏi tảng đá.
- Thịnh...
Tôi quay lại. Từ trong màn sương, bóng người đàn bà tuột thật nhanh xuống triền dốc. Sợ người ấy té, tôi chồm lên.
- Dì Trang?
Dì Trang theo đà rơi gọn vào vòng tay tôi. Thân thể dì nóng ấm, mềm nhũn trong vòng ôm. Ngực dì chạm sát vào ngực tôi, mềm mại. Tôi nghe hơi thở nóng ấm phà lên mặt. Đặt dì xuống tảng đá, tôi hãy còn bẽn lẽn, má nóng bừng.
- Thịnh qua đây mỗi ngày à?
- Vâng.
- Làm gì?
- Ngồi một mình.
Đứng ưỡn ngực lên, tôi chỉ tay ra ngoài:
- Bữa nay sương xuống hơi nhiều. Mọi khi mặt trời mọc đẹp hơn nhiều. Bữa nào dì qua lại đây coi.
- Thì bữa nay Trang qua đây rồi. Sương mù cũng đẹp lắm Thịnh ạ.
Không trả lời. Tôi vẫn biết dì còn quá trẻ cho tôi gọi là dì. Trang chỉ trên dưới 30 tuổi là cùng. Chuyện chồng dì ngoài 50 lấy được dì ra sao tôi không được rõ. Trang không hề nói cho bọn tôi hay. Họ lấy nhau đã lâu mà vẫn chưa có con cái gì. Tuy dì còn trẻ, bọn tôi vẫn gọi bằng dì vì đã quen kêu chú xưng cháu với ông chồng.
- Thịnh có vẻ thích mặt trời mọc và lặn mỗi ngày, phải không?
- Sao dì biết?
- Biết chớ sao không, Thịnh vẫn thường rủ Miên đi dạo trên biển chờ mặt trời lặn mỗi ngày.
Miên và tôi. Có những buổi chiều chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau từ Trung Đảo về Nam Đảo. Có khi chúng tôi dừng chân nghỉ trên một ghềnh đá để nhìn những cánh chim hải âu bay xa tít chân trời về phía bắc mờ xa khi hoàng hôn tắt dần trên biển. Nhiều lúc nhìn Miên cười nói huyên thuyên, tôi muốn cầm tay em lắm. Nhưng chưa dám... Tôi cười thẹn thùng như con gái. Trang cười lại. Tôi nghĩ dì có nụ cười rất đẹp. Tôi nghĩ đến bà tiên của tôi hôm mới đến đảo. Ngoài kia mặt trời đã lên dần, nóng ấm...
7.
Sóng biển bồng bềnh. Từng thảm bụi vàng óng ánh từ ngoài khơi xô nhau chạy vào bờ. Sóng vỗ rì rào dưới chân những ghềnh đá lớn. Trẻ con chơi đùa trốn tìm, chạy lăn tăn trên bãi cát. Người lớn quây quần kể chuyện. Người ta kể lại, ngày xưa, gần mười tám năm trước, trong số những thuyền nhân đầu tiên đến đảo, có hai anh em nhà kia, một trai và một gái. Cậu con trai vừa trên tuổi đôi mươi, lớn hơn người em gái đôi ba tuổi gì đó. Họ đến ở gần một cặp vợ chồng, chồng già vợ trẻ. Người vợ chưa quá 30 tuổi. Người vợ trẻ và người con trai ấy phải lòng nhau sao đó...
8.
Thời gian và không gian giờ đây lắng đọng lại và hội tụ vào một điểm, bất động. Tôi vẫn đếm khẽ trong đầu: một... hai... Tại sao lại lẩm cẩm như thế. Tôi nhủ thầm. Phải đếm lại từ đầu: một... hai... ba... Mắt tôi dán chặt vào đôi mắt kẻ cầm dao. Đôi mắt không trắng dã như tôi đã nghĩ, mà đỏ ngầu sòng sọc. Tôi nghe mùi rượu nồng nặc thở òa vào mặt. Tôi sợ. Ánh mắt tôi cố tránh tròng mắt không còn nhân tính ấy. Tôi liếc nhìn Miên. Em kinh ngạc, sững sờ. Mắt em long lanh. Nước mắt lưng tròng, nhỏ xuống đôi gò má tái xanh. Không thể chết đêm nay được. Tôi hãy còn quá trẻ. Tôi vung tay...
9.
Tôi vẫn đếm khẽ trong đầu: một... hai... ba... bốn... Không ngủ đêm đó. Hai giờ sáng rồi, chỉ vài tiếng nữa tôi sẽ xuống tàu đi Mersing. Buổi sáng tinh mơ như lần xuống tàu ở Mỹ Tho. Không ai tiễn đưa. Tàu chạy độ nửa tiếng trước khi vào đất liền. Bến tàu Mersing lờ mờ ánh đèn điện. Một chiếc xe buýt nhỏ cũ kỹ đang nổ máy chờ đợi. Khói trắng tuôn ra khỏi ống cuồn cuộn hơi nước đọng trong buổi sáng lạnh lẽo. Chiếc xe chạy ngoằn ngoèo trong đêm tối, qua những màn sương dày đặc, qua những đường sỏi đá gập ghềnh rồi dừng lại ở một khu ngoại ô thành phố Kuala Lumpur khi trời vừa rạng sáng. Trước mắt tôi là một khoảng đất chật hẹp trên sườn đồi. Những cái lều bằng nylon xanh căng san sát trên khoảng đất nhỏ ấy. Người ta chen chúc trên những lối đi chật hẹp. Xuống xe tôi tìm được một người quen xin tạm trú. Đây là trại chuyển tiếp, nơi chúng tôi sẽ qua mọi thủ tục hành chánh trước khi mỗi người mỗi ngã lên đường đi đến những nơi khác.
Buổi sáng thứ sáu, người ta lại lùa chúng tôi lên một chiếc xe buýt cũ kỹ khác. Tôi ngồi nhìn lơ đãng ra ngoài khu trại một lần cuối. Mùa xuân đã đến. Đám hoa dại trên đồi trổ bông vàng tươi đong đưa trong nắng, nổi bật trên những tấm lều xanh phập phồng lên xuống trong gió sớm hiu hiu lành lạnh. Lần tay vào túi áo, tôi định lấy thuốc hút. Không có thuốc. Hôm ra đi vội vã tôi đã bỏ quên gói thuốc. Tôi còn nguyên cây thuốc lá để lại cho lũ bạn, dự định chỉ đem đi gói thuốc lẻ đang hút dở mà thôi. Lại quên. Đang lần mò túi trên rồi túi dưới thì có người quăng một gói thuốc lá chưa khui vào lòng. Quang đứng dưới mặt đường, bộ đồ mới tinh, điển trai, cười hì hà. Hàng ria mép mở rộng ra như đôi cánh chim hải âu, đểu như Omar Sharriff.
- Tao tưởng mày đi rồi.
- Sắp. Mày mới tới? Coi mày bộ đồ mã xịn ghê.
- Mày cũng thế. Chỉ có một bộ cho chuyến đi xa mà. Còn sợ không? Tội nghiệp dì Trang. Trước hôm tao đi còn hỏi thăm mày.
- Còn Miên?
Đưa tay xoa cổ, tôi nghĩ đến Trang. Tôi nghĩ đến Miên. Đêm tiễn đưa, hai người đã khóc vì tôi. Không biết giờ này Trang làm gì? Có qua Đông Đảo ngắm mặt trời lên? Còn Miên, chiều nay em có ra biển một mình ngắm vừng hồng mặt trời đang lặn tắt trên biển, để thấy vắng tôi, để nghĩ đến tôi. Hay nghĩ đến chuyện của tôi và Trang? Xe lăn bánh. Bóng Quang vẫy chào mờ dần sau đám bụi đỏ. Tôi ước gì đó là Miên chứ không là Quang đang vẫy chào từ biệt. Tôi thèm được nhìn Miên lần cuối. Để ôm em vào lòng. Để nghe Miên khóc thủ thỉ trên vai. Để nghe em hát tiếp bài hát dang dở, cho một mình, một mình tôi nghe thôi:
- Mộng về một đêm xuân sang, em thì thầm ngày đó yêu anh...
Tôi vẫn đếm khẽ trong đầu: một... hai... ba... bốn... Không thể chết đêm nay được. Tôi hãy còn quá trẻ. Tôi vung tay. Lưỡi dao lấp loáng cứa sâu thêm vào da thịt. Quay nhìn Miên. Miên ôm mặt òa khóc, chạy biến ra khơi. Ngước mặt nhìn trăng. Trăng treo đỉnh trời. Xoay nhìn sóng biển. Biển đỏ ngầu gào lên tận đỉnh trời nuốt chửng lấy trăng sao. Tôi nghe tiếng Trang gọi tên mình, bồng bềnh trên sóng, vang xa tận chân trời, theo tôi về đến bờ biển quê hương, về đến sông Tiền, sông Hậu, sông Hồng. Tôi đã thấy sông Hồng đỏ thắm. Đỏ thắm... phù sa... xa tít. Thời gian và không gian từ một điểm bất động bắt đầu xoay chuyển. Bỗng nhiên xuất hiện những tiếng xao xác. Những tiếng động không thực, từ đâu đó rất xa, nhưng trong cõi im lìm trắng xóa, nó xói dài như những vết xước gây cảm giác nhói đau trong ngực. Một nỗi sảng khoái dịu dàng chợt vụt qua. Đầu óc tôi minh mẫn lạ thường. Năm... sáu... Thời gian và không gian xoay chuyển cuồng loạn. Bảy... Xoáy tròn. Xoáy tròn vào vực sâu...
- Rồi sao nữa.
Một bé gái đang ngồi xổm cất tiếng hỏi, mắt lấm lét nhìn những cành cây chao động nhè nhẹ quanh miệng giếng. Những nhánh cỏ vươn dậy thành những cánh tay lửa khổng lồ uốn éo. Những gương mặt lẩn khuất sau mỗi nhánh cỏ, ẩn hiện như ú tim. Nó tì hai khuỷu tay lên đầu gối, rụt cổ lại, trông giống con gà tây nó thấy trong cuốn sách hình. Không hiểu sao nó rất thích nghe câu chuyện này, nôn nóng chờ đoạn kết. Nó thích nghe chuyện ma quái huyễn hoặc. Tại sao nó thích? Tuổi thơ của nó có vẻ nhàm chán, bị gò bó trên cái đảo nhỏ này. Tự bản năng, nó cần phải thêu dệt thêm, bù lấp vào những lỗ hổng của trí tưởng tượng đang phát triển. Nó cần một quá khứ để nhìn vào tương lai cho sự phát triển được cân bằng. Tương lai và quá khứ đều mờ mịt với cái đầu óc và tầm mắt bé nhỏ của nó. Nó đã đọc một số truyện kinh dị từ ngoài gửi vào. Chuyện về những tiếng chó tru man dại dưới ánh trăng. Nó cố tưởng tượng ra tiếng chó tru, nhưng chịu. Nó chưa bao giờ nhìn thấy con chó chạy ngoài đường cả.
Thấy ma còn dễ hơn thấy chó. Nó nghĩ thế. Có những buổi tối, nó và lũ bạn rủ nhau đi rình ma ở bãi tro tàn. Có thấy gì đâu, chỉ tiếng gió lùa ào ạt từ ngoài khơi thổi vào như tiếng rên rỉ của những oan hồn thuyền nhân vất vưởng. Biết đâu, bọn trẻ chúng nó là được tái sanh từ những oan hồn xấu số ấy, mong cơ hội thứ hai đến miền đất tự do. Cơ hội ấy lại quá mong manh. Biết đâu phải đợi tái sinh lần nữa, nó mới thoát khỏi hòn đảo và vùng đại dương này. Nó được sanh ra và lớn lên ở đảo. Thời gian chờ đợi đi định cư trở thành diệu vợi. Tám tháng, mười tám tháng, rồi tám năm trôi qua biền biệt. Nó thường nghe nói về một nước Việt Nam nào đó, nhỏ xíu trên bản đồ, với những làng, những xã, những con sông êm đềm uốn quanh. Và huyền thoại về một giòng sông, nước đỏ phù sa, đỏ như màu máu của hàng vạn quân xâm lược chết chìm dưới đáy. Với nó, cái đảo này là làng là xã của nó. Cái giếng này trở thành cái giếng làng, nơi nó thích được nghe những câu chuyện truyền lại từ những người lớn tuổi.
Tám... Tôi không thể chết đêm nay được. Tương lai đang chờ tôi ngày mai. Tôi không thể chết đêm nay được. Tôi hãy còn quá trẻ. Và, vẫn trong sự lặng im lãng đãng, tôi nhận ra những gương mặt quen quen. Tôi mải miết gọi và theo đuổi ai đó, vừa gọi vừa ôm chặt lồng ngực ứ đầy, nghẹt thở. Tôi bỗng thấy mình lơ lửng, chầm chậm rơi trong khoảng không lặng lờ những ánh lửa. Một giòng điện chạy suốt thắt chặt thân thể làm tôi không sao cử động, và trong khoảnh khắc, tôi nhìn thấy cái chết trong nỗi sợ hãi kinh hoàng. Niềm tiếc nuối trào lên, hàng ngàn gương mặt chạy qua, hàng ngàn điều muốn nói thôi thúc mình chống cự quyết liệt, nhưng chân tay dường như bị bó chặt, cảm giác chìm dần chìm dần càng làm tăng thêm nỗi sợ hãi tuyệt vọng cho những nỗ lực bám víu lấy sự sống.
- Rồi sao nữa.
Con bé giục.
- À... một hôm, người chồng già say rượu đã dùng dao cắt cổ người thanh niên, từ mép tai này sang mép tai kia. Người ta kể, đầu gần đứt lìa khỏi cổ, máu tuôn có vòi nhuộm đỏ cả bãi biển, cậu thanh niên ấy chết. Một người bạn can thiệp cũng bị lụi một dao, ruột đổ lòng thòng, chết theo. Người ta đem xác họ thủy táng ngoài khơi phía Mersing.
Chín! Đột nhiên, một luồng sáng xẹt qua. Thở dốc. Một cảm giác yên tâm sung sướng xâm nhập, mách bảo rõ ràng về sự tồn tại của bản thể. Đang sống, và đang nhìn cái sinh thể kia chìm xuống. Dưới kia là vực thẳm. Vực thẳm mông mênh, hun hút những tàn lửa. Cái sinh thể đang chìm xuống ấy là tôi, và như bị thôi miên, tôi nhìn nó chìm xuống với một niềm khao khát đầy khoái cảm. Vươn rộng hai cánh tay, tôi sung sướng đón nhận những cánh hoa tràn ngập trong ánh sáng...
- Ối chào!
Có người kêu lên thảng thốt. Con bé im lặng, không lấy làm lạ cho lắm. Còn nhỏ, nhưng nó dửng dưng về chuyện người ta cãi vã, giết chóc lẫn nhau. Hôm tuần trước, nó đã thấy người ta mổ ruột, đâm họng tự sát để chống lại việc hồi hương. Nó biết máu tuôn có vòi ra sao, ruột đổ lòng thòng như thế nào rồi. Người ta nói đến chuyện đóng cửa trại tị nạn, bỏ rơi thuyền nhân. Thế giới bên ngoài đã nhàm chán chuyện thuyền nhân. Người ta bảo đừng nói đến chuyện thuyền nhân nữa. Cũ lắm rồi. Ngay cả lớp thuyền nhân cũ, có mấy ai còn nghĩ đến những thuyền nhân khốn cùng của ngày hôm nay? Một số thuyền nhân lên đường hồi hương, dù muốn dù không, tự nguyện hay không tự nguyện. Số khác phải chuyển trại, tập trung vào những hòn đảo lớn hơn, tiếp tục cuộc sống mỏi mòn vô vọng. Nó hỏi tiếp, chuyện muốn biết:
- Thế còn con ma?
- Ồ, người ta còn kể cứ nửa khuya trăng tròn, có một người đàn bà xõa tóc đi lang thang từ miệng giếng này, băng qua khu trại cũ phía Nam Đảo, ra đến sườn núi về phía Trung Đảo. Có những đôi tình nhân hò hẹn, còn thấy con ma ấy ở bên kia Đông Đảo những buổi sáng sương mù dày đặc. Gần đây bóng ma ấy thường khóc tỉ tê trên đống tro tàn những đêm trăng sáng. Có người không tin chuyện ma quỷ, cho rằng ấy chỉ là một người đàn bà điên mà thôi.
- Người ấy là ai?
- Không biết, không ai còn nhớ cả. Chỉ biết một trong hai người đàn bà đã nhảy hoặc bị xô xuống giếng này, chết ngộp, ít ngày sau vụ thảm sát ở Nam Đảo. Còn người kia đi định cư ở Mỹ, bây giờ không biết ở đâu. |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Truyện ngắn Việt Nam | |
| |
| | | |
Similar topics | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |