Bài viết mới | Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 21:37
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:17
KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Thu 21 Nov 2024, 16:45
KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22
Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22
NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20
KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08
Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54
Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10
7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10
Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21
Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13
Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07
Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36
Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09
Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46
Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06
Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04
DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19
Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37
Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17
CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05
Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39
Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41
Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
|
| Những lỗi sai phổ biến khi dùng từ Hán Việt | |
| Tác giả | Thông điệp |
---|
Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Những lỗi sai phổ biến khi dùng từ Hán Việt Thu 18 Aug 2022, 12:00 | |
| Những lỗi sai phổ biến khi dùng từ Hán ViệtLê Thị Bích Hồng Nhiều người dùng chưa nắm được nghĩa từ Hán Việt
Từ Hán Việt là một loại từ đặc biệt trong vốn từ vựng tiếng Việt, là một bộ phận rất quan trọng của kho từ vựng tiếng Việt.
Lớp từ Hán Việt có khối lượng lớn, được sử dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, nghệ thuật...
Tuy nhiên, theo thống kê sơ bộ của khoa ngôn ngữ, có tới 16 hình thức sử dụng sai từ Hán Việt khá phổ biến hiện nay như: sai vì không hiểu gốc Hán Việt, sai vì cố ý sửa gốc của từ, sai vì không hiểu văn phạm giữa Hán Việt và Hán Nôm, sai vì dùng từ thiếu chính xác ngữ cảnh; dùng sai nghĩa từ thuần Việt lại tưởng từ Hán Việt, dùng từ Hán Việt vô nghĩa và lộn xộn, cóp y nguyên tiếng Tàu đang sử dụng và coi đó là từ Hán Việt, đảo ngược ngữ pháp hay cấu trúc từ Hán Việt, đảo từ ghép Hán Việt sai và không đúng cách, thiếu từ cho các thuật ngữ khoa học công nghệ hay chuyển nghĩa từ ngoại ngữ phương Tây sang...Lớp từ Hán Việt thường có sắc thái trang trọng, trong khi lớp từ thuần Việt lại bình dân và sinh động hơn. Nhiều từ Hán Việt đã được Việt hóa thông dụng, có từ đã biến đổi ý nghĩa.
Khi từ gốc Hán được Việt hóa
Nhiều người dùng mượn hình thức ngữ âm của từ Hán rồi thay đổi nghĩa, thu hẹp nghĩa, cho thêm nghĩa mới.
Ví dụ, “phương phi” nghĩa Hán là “hoa cỏ thơm tho”, người Việt hiểu sang “béo tốt”.
Tương tự, “khôi ngô” nghĩa “to lớn, cao to” sang nghĩa “mặt mũi sáng sủa, dễ coi”; “bồi hồi” nghĩa “đi đi lại lại” sang nghĩa “sự xúc động”; “đinh ninh” nghĩa “dặn dò” sang nghĩa “tin chắc, yên chí”; “lang bạt kỳ hồ” nghĩa “lúng túng, quanh quẩn tại chỗ” sang nghĩa “lang thang khắp nơi khắp chốn” (Theo Đặng Đức Siêu, Ngữ văn Hán Nôm)...
Từ “khuyến mãi” nay dùng thành “khuyến mại”. Cụm từ “kích thích nhu cầu tiêu dùng” rút thành “kích cầu” - từ này đang dần được chấp nhận. Từ “yêu cầu” là một động từ. Nhưng hiện từ “yêu cầu” hay được dùng với nghĩa danh từ. Ví dụ: “mục đích yêu cầu”...
Từ “đáo để” trong tiếng Hán có nghĩa là “đến đáy”, nhưng khi đi vào tiếng Việt nó lại có nghĩa là cách cư xử không đẹp, khiến người ta khó gần; hoặc có khi nó được dùng làm tiếng đệm nhằm nhấn mạnh ý nghĩa của tính từ giống như các từ chỉ mức độ “vô cùng”, “rất”, “lắm”... (Theo Hữu Đạt, Sai, đúng trong cách dùng từ Hán Việt và vấn đề "giải pháp").
Trên thực tế, các từ gốc Hán khi du nhập vào tiếng Việt hầu hết đã bị biến đổi do áp lực của cấu trúc tiếng Việt.
Chỉ sau một thời gian, bản chất Hán của các từ này đã bị tiếng Việt đồng hóa để không còn cái vẻ nguyên dạng ban đầu. Hoặc là nó bị biến đổi về ngữ âm, hoặc là nó bị biến đổi về ngữ nghĩa theo cách tri nhận mới của người Việt Nam qua cái vỏ âm thanh ban đầu. Hoặc nhiều tiếng Hán Việt bị hiểu sai; lâu dần, cái nghĩa hiểu sai được phổ biến hơn nghĩa tinh xác và do đó được công nhận là nghĩa đúng (Theo Bùi Đức Tịnh, Ngữ pháp Việt Nam giản dị và thực dụng).
Những lỗi thường gặp
Nhiều trường hợp người sử dụng chưa nắm được nghĩa của từ Hán Việt, khiến từ trở nên vô nghĩa hoặc dẫn đến sai trầm trọng.
- Dùng từ sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt: nhầm lẫn giữa hai từ “khả năng” - năng lực của con người có thể làm được việc gì đó với “khả dĩ”. Từ “quá trình” là đoạn đường đã đi qua: “quá” là đã qua, “trình” là đoạn đường. Nếu viết từ “quá trình” dùng ở thì tương lai “quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi sẽ rất thuận lợi” là sai.
Có thể dùng từ “tiến trình” cho câu trên. Ta có thể viết “hôn lễ” (lễ cưới), “hôn phối” (lấy nhau). Nhưng nếu nói hôn phu, hôn thê, hôn quân lại mang nghĩa là người chồng u mê, người vợ u mê, nhà vua u mê...
- Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm): chữ “góa phụ” trong sách báo chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Tính từ “góa” là tiếng Nôm không thể đặt trước danh từ “phụ”. Nên gọi là gái góa (toàn Nôm), hay “quả phụ” (toàn Hán Việt).
Từ “nữ nhà báo” thường được dùng trên các phương tiện truyền thông. Nhà báo là tiếng Nôm nên phải dùng văn phạm xuôi là “nhà báo nữ”, hoặc dùng ba từ Hán Việt là “nữ ký giả” hay “nữ phóng viên”.
- Lạm dụng và dùng sai từ Hán Việt khá phổ biến khi kết hợp từ “tặc” (ăn cướp) với các từ khác như: tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, đinh tặc... để chỉ những tên ăn trộm.
Cách dùng này sai về ngữ pháp (từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép), sai về nghĩa: tặc (賊) là ăn cướp, đạo (盜) là ăn trộm. Thay vì sính dùng từ Hán Việt, ta có thể nói là: bọn ăn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê...
Hiện từ “đinh tặc” đang được nhiều báo chí dùng với tần suất lớn với nghĩa chỉ bọn rải đinh trên đường, trong khi “đinh tặc” chỉ có nghĩa là bọn ăn cướp đinh, chỉ bọn rải đinh trên đường là sai nghĩa...
- Nhiều từ Hán Việt hiểu sai nên viết sai: từ “tham quan” nghĩa là đi chơi để ngắm cảnh thay thành “thăm quan”; “chấp bút” viết thành “chắp bút”, “lặp lại” viết thành “lập lại”, “trùng lặp” viết thành “trùng lắp”, “hằng ngày” viết thành “hàng ngày”, “thập niên” viết thành “thập kỷ”, “điểm yếu” thành “yếu điểm”...
Tất nhiên, khi xem xét tới tính sai, đúng của việc dùng từ Hán Việt, việc đối chiếu từ nguyên là việc làm có phần cứng nhắc, dễ dẫn đến việc làm mất đi tính năng động của từ Hán Việt với tư cách là một sự sáng tạo rất linh hoạt của người Việt Nam.
Từ Hán Việt tuy có nguồn gốc từ tiếng Hán, nhưng nó đích thị hoàn toàn là của người Việt Nam, được dùng theo cách của người Việt Nam. Nên hiểu đúng và dùng đúng ngữ nghĩa của từ Hán Việt là chúng ta đang góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, bổ sung, làm giàu thêm vốn từ vựng phong phú, nối dài nét đẹp văn hóa và chữ viết của người Việt.
Vai trò của báo chí trong chuẩn hóa và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt có ý nghĩa quan trọng. Bởi tiếng Việt là một trong số gần 50 ngôn ngữ đang được sử dụng rộng rãi nhất trái đất. Không phải tự dưng tiếng Việt có thể tồn tại và phát triển, trong khi đã có hàng ngàn ngôn ngữ và chữ viết của các dân tộc bị hủy diệt theo dòng chảy phát triển của nhân loại.
TS LÊ THỊ BÍCH HỒNG giảng viên cao cấp Trường đại học Sân khấu - điện ảnh Hà Nội
(Tuổi trẻ online) |
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Những lỗi sai phổ biến khi dùng từ Hán Việt Fri 19 Aug 2022, 08:35 | |
| Lỗi dùng từ Hán ViệtĐỗ Thành DươngGD&TĐ - Theo thống kê của nhà nghiên cứu H. Maspéro (1912), số lượng từ Hán Việt (HV) trong từ vựng tiếng Việt chiếm trên 60%. Lớp từ này vốn có sắc thái trang trọng, cổ kính và cô đọng, súc tích về ý nghĩa nên thường được sử dụng trong văn bản nói, văn bản viết và đặc biệt hay xuất hiện trong các các tiêu đề văn bản báo chí.
Từ HV vốn có nguồn gốc từ tiếng Hán, qua quá trình giao thoa ngôn ngữ được đồng hóa khi du nhập vào tiếng Việt, đã bổ sung, làm phong phú thêm từ vựng nước nhà. Và báo chí có vai trò quan trọng trong việc sử dụng chuẩn xác từ HV nhằm góp phần định hướng, cổ xúy cho việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Hầu hết từ HV khi trải qua quá trình du nhập vào từ vựng tiếng Việt đã được Việt hóa về mặt ngữ âm lẫn ngữ nghĩa nên không còn nguyên dạng, do đó nhiều trường hợp nghĩa từ HV bị hiểu nhầm, lâu dần trở thành phổ biến hơn nghĩa gốc. Những lỗi sử dụng sai từ HV phần lớn xuất phát từ hiểu sai nghĩa gốc của các thành tố, người sử dụng chưa nắm được nghĩa của từ tố/ từ HV, khiến từ trở nên vô nghĩa hoặc dẫn đến sai lệch không đáng có, trong không ít trường hợp. Từ Hán Việt dùng chưa đúng nghĩaGiảng đường → bục giảngGần đây có tờ báo đăng bài với tít: “Thầy giáo đành bỏ giảng đường vào Sài Gòn chạy xe ôm để chăm vợ chạy thận”; rồi tiếp thời gian ngắn sau lại đăng thêm bài khác: “Thầy giáo chạy xe ôm trở lại giảng đường”. Mới đọc qua, người đọc ngỡ nhân vật trong bài báo là một giảng viên đại học, hoặc học viên đang theo học hệ đại học vừa làm vừa học, vì từ giảng đường có nghĩa là “Phòng lớn làm nơi giảng dạy ở trường đại học”.
Nhưng đọc kỹ hai bài báo thì được biết, thầy giáo Nguyễn Ngọc Thành là giáo viên đã 17 năm dạy môn Toán ở Trường THCS Ngô Văn Sở, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định có vợ bị bệnh thận, đành phải nghỉ dạy hẳn để đưa vợ vào Sài Gòn chạy thận. Ngoài thời gian chăm sóc vợ, anh Thành chạy GrabBike kiếm tiền trang trải cuộc sống. Sau đó, nhờ sự vận động của báo chí, các mạnh thường quân, anh được lãnh đạo Trường THCS - THPT Hồng Hà mời về dạy lại. Trường hợp này nên thay từ HV “giảng đường” bằng từ “bục giảng” là phù hợp hơn: “Thầy giáo X rời bục giảng, trở lại bục giảng...” cho độc giả khỏi nhầm lẫn thầy giáo nọ quay lại giảng đường/ lớp học để tiếp tục dạy hoặc học đại học.Chính kiến → chủ kiếnTít báo “Người có chính kiến” đã nhầm lẫn dùng từ HV “chính kiến” khi giải thích thêm: “Nêu ý kiến của mình, bảo vệ ý kiến đó đến cùng vì cho là đúng đắn, như thế là người có chính kiến” đồng thời dẫn thêm các ví dụ minh họa: Một sinh viên Điện lực chạy xe ôm Grab, nhặt được của rơi nhất quyết phải trả lại chủ nhân, anh này đã thể hiện chính kiến của mình. Một nông dân học hết lớp 7 sáng chế máy móc nhà nông, bán ra 14 nước, từ chối 2 tỷ đồng tiền bán bản quyền, bỏ nơi làm việc ở nước ngoài với lương 30.000 đô-la một tháng, quyết về nước chế tạo máy phục vụ nông dân nước mình. Đó là người có chính kiến.
Thực ra, chính kiến là danh từ chỉ: “Ý kiến của mỗi người về chính trị, quan điểm chính trị”. Trong trường hợp trên, nó cần được thay thế bởi từ “chủ kiến” với nghĩa là ý kiến của chính mình, không phụ thuộc vào ý kiến người khác.Ốc đảo → hòn đảo/ cù laoTít bài: “Quảng Ngãi: “Sóng ngầm trên ốc đảo giữa dòng Trà Khúc” nhầm lẫn khi dùng từ “ốc đảo” chỉ mảnh đất cạn nằm giữa dòng sông. “Ốc đảo” là khoảng đất có nước và cây cối giữa sa mạc. Trường hợp này nhà báo đã nhầm từ HV “ốc đảo” với từ “đảo”, là khoảng đất lớn có nước bao quanh, ở sông, hồ, biển hoặc đại dương, còn gọi là cù lao. Nên tít trên cần sửa lại cho đúng là “... trên hòn đảo/ cù lao giữa dòng Trà Khúc”.Cổ súy → cổ xuý“Cổ xúy” là từ HV cũ có nghĩa “Đề xướng, cổ động/ Tán dương, tuyên truyền/ Hô hào, động viên” thường bị viết sai chính tả thành cổ súy là tổ hợp từ vô nghĩa, không tồn tại trong tiếng Việt.Nhân hóa → biến/ hóa thànhTít báo “Nhóm bạn trẻ Sài Gòn nhân hóa plastic thành giống loài nguy hại” cũng nhầm lẫn khi dùng từ HV “nhân hóa”. “Nhân hóa” là dạng viết rút gọn của từ nhân cách hoá, là gán cho loài vật hoặc vật vô tri hình dáng, tính cách hoặc ngôn ngữ của con người thật (một biện pháp tu từ trong văn học). Tít báo trên cần thay từ “nhân hóa” bằng từ biến hóa, biến hoặc hóa sẽ chính xác hơn.Kết hợp khập khiễng từ tố Hán Việt với thuần ViệtTâm nhang → tâm hươngTừ “tâm hương” nghĩa là nén hương lòng, chỉ sự thành kính cao độ. Không thể tùy tiện thay từ tố HV “hương” bằng một từ phương ngữ Trung Bộ là “nhang” thành tổ hợp “tâm nhang” khập khiễng được.Thăm quan → tham quanTương tự, “tham quan” có nghĩa gốc là thăm, xem, du lãm; xem thấy tận mắt để mở rộng hiểu biết hoặc học tập kinh nghiệm. Nên không thể dịch từ tố HV “tham” thành từ thuần Việt “thăm” rồi tổ hợp thành “thăm quan” một cách cọc cạch nửa Hán nửa Việt.Độc giả - đọc giảHoặc dịch từ tố “độc” thành “đọc” trong từ “độc giả” với nghĩa người đọc sách, đọc báo; nghĩa hiện nay được mở rộng thêm: Người đọc sách báo, trong quan hệ với tác giả, nhà xuất bản, cơ quan báo chí, thư viện.Chắp bút → chấp bút“Chấp bút” là từ Hán Việt theo nghĩa đen nghĩa là cầm lấy bút để viết, nghĩa bóng là khởi thảo, thực hiện một văn bản theo một đề cương sẵn có; nhầm lẫn từ tố “chấp” Hán Việt với từ thuần Việt “chắp” là không phù hợp.Nhận chức → nhậm chức“Nhậm chức” là nói cách trang trọng về việc chính thức đảm nhận chức vụ/ nhận lãnh công việc được giao phó, trong đó từ tố HV “nhậm” có nghĩa là “nhận” (thuần Việt), bị kết hợp khập khiễng; có lẽ nguyên do là bởi 2 âm Hán và Việt nhậm/ nhận gần nhau, đọc dễ bị nhầm lẫn, như các trường hợp đã dẫn trên: Tham → thăm, độc → đọc, chấp → chắp.Lạm dụng từ Hán ViệtKhiêm tốn → yếu/ kém/ ít“Khiêm tốn” là từ HV có nghĩa tự hạ thấp mình xuống để nhường nhịn người khác, nghĩa hiện đại là có ý thức và thái độ đúng mức trong việc đánh giá bản thân, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình là hơn người: Thái độ khiêm tốn. Lời lẽ khiêm tốn. Đang bị lạm dụng ở dạng đồng nhất, đồng nghĩa lâm thời với các từ yếu, kém, ít... kiểu như: Kết quả học tập rất khiêm tốn; Đồng lương khiêm tốn... là lạm dụng, không phù hợp và thiếu chính xác.Công tác → làm việc/ công việc“Công tác” là từ HV vốn chỉ việc chung của quốc gia/ làm việc chung cho quốc gia; công việc của Nhà nước hoặc của đoàn thể, không đồng nghĩa với từ thuần Việt “làm việc” là việc cụ thể phải bỏ công sức ra để làm. Không phải bất cứ vị doanh nhân, chị nhà buôn nào đi làm việc cũng đều là đi công tác mà có khi họ chỉ đi làm việc riêng của họ thôi, nên khi viết: Bác nông dân đi công tác; Doanh nhân đi công tác... cần phải cân nhắc cho chính xác.Tang thương → tang tócTừ HV “tang thương” vốn là dạng nói tắt của thành ngữ cũ “Tang điền thương hải” (ruộng dâu biến thành biển xanh), chỉ sự thay đổi ở đời. Dù gần đây có thêm nghĩa phái sinh: Tình trạng tiều tụy, khổ sở đến mức gợi sự đau xót, thương tâm, nhưng cũng không nên lạm dụng thay thế hẳn cho từ tang tóc (Ở trong cảnh đau buồn vì có người thân chết), với ngộ nhận cảnh tang thương là cảnh nhà có tang, rất đáng thương, nên hễ khi có người chết thì luôn viết “tang thương”!
(Giáo dục và Thời đại) |
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Những lỗi sai phổ biến khi dùng từ Hán Việt Wed 24 Aug 2022, 07:55 | |
| Những từ dùng sai trong tiếng ViệtBook Hunter: Trong ngôn ngữ giao tiếp và hành chίnh cὐa người Việt chύng ta hiện nay, nhiều từ đᾶ bị sử dụng không chίnh xάc, bị biến nghῖa hoặc ghе́p từ một cάch kệch cỡm. Điều này thể hiện tư duy tᾳm bợ và tinh thần thiếu trάch nhiệm trong sử dụng ngôn từ. Việc đưa ra những khάi niệm không chίnh xάc này tᾳo thành một thόi quen chấp nhận sự mὺ mờ trong định nghῖa từ, dễ gây hiểu lầm và tranh cᾶi, khiến cho vᾰn bἀn kе́m tίnh chίnh xάc. Đây là một bài chύng tôi sưu tầm, liệt kê cάc trường hợp sử dụng từ sai trong tiếng Việt hiện nay.Phiên âm cάc tên riêng nước ngoài ra tiếng Việt. Nguồn: NOP12 Quе́t-Tờn-U-Niền. Nguồn: Việt Nam Những từ dὺng sai trong ngôn ngữ tiếng Việt1. Sai vὶ không hiểu nghῖa gốc Hάn Việt
CHUNG CƯ. Từ kе́p nầy được thành lập theo vᾰn phᾳm Hάn Việt vί tίnh từ đứng trước danh từ cho nên cἀ 2 từ phἀi đều là Hάn Việt. Thế mà từ chung Hάn việt không cό nghῖa là chung chᾳ mà cό nghῖa là cuối cὺng. Vậy chung cư 終居 không phἀi là nσi nhiều người ở chung mà là nσi ở cuối cὺng, tức là mồ chôn hay nghῖa địa. Vậy phἀi đổi từ chung cư thành chύng cư 衆居 thὶ mới ổn.
KHẢ NӐNG. “Khἀ nᾰng” 可 能 là nᾰng lực cὐa con người, cό thể làm được việc gὶ đό. Thế mà người ta đᾶ viết và nόi những câu đᾳi loᾳi thế nầy: Hôm nay, khἀ nᾰng trời không mưa. Khἀ nᾰng con bὸ nầy sẽ chết vὶ bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đάng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đᾶ nhầm lẫn giữa hai từ khἀ nᾰng 可 能 (capacitе́, capable) với khἀ dῖ 可 以 (possibilitе́, possible). Nhưng thôi, chύng ta nên dὺng từ thuần Việt là cό thể, đύng và dễ hiểu, cὸn từ khἀ nᾰng chỉ nên dὺng để nόi về nᾰng lực mà con người mà thôi.
QUÁ TRÌNH. Quά 過 là đᾶ qua, trὶnh 程 là đoᾳn đường. Quά trὶnh là đọan đường đᾶ đi qua. Nόi thế nầy là đύng: “Quά trὶnh thực hiện công việc đᾶ gặp nhiều trở ngᾳi. Nhưng tôi lᾳi thấy trong sάch bάo câu đᾳi loᾳi thế nầy: “Quά trὶnh thực hiện công tάc sắp tới cὐa tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phἀi dὺng chữ tiến trὶnh, đύng cho cἀ 3 thὶ quά khứ, hiện tᾳi và tưσng lai.
HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cἀ những người cό bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hάn, mà lᾳi thίch dὺng tiếng Hάn để tὀ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dὺng sai nghῖa một cάch thực buồn cười. Thί dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hὶnh, truyền thanh và bάo chί nόi “huyền thoᾳi Pele” “huyền thoᾳi Maradona”.. Người cό học nghe thực chướng tai, nhưng người nόi chẳng ngượng miệng chύt nào. Tᾳi sao nghe chướng tai? Huyền 玄 là màu đen, nghῖa bόng là sâu xa, mờ ἀo, không cό thực. Thoᾳi 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoᾳi là câu chuyện mờ mờ ἀo ἀo, không cό thực, do truyền miệng mà ra. Thί dụ chuyện bà Âu Cσ đẻ ra trᾰm trứng, chuyện ông Thάnh Giόng cỡi ngựa sắt đi đάnh giặc Ân là những huyền thoᾳi. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pele cό thiệt 100% sao gọi là huyền. Và 2 càu thὐ đό là con người sao gọi là thoᾳi được. Nếu muốn dὺng chῦ huyền thoᾳi để đề cao 2 cầu thὐ đό thὶ phἀi nόi thế nầy: “Cάi tài cὐa 2 ông nầy tưởng như chỉ cό trong huyền thoᾳi”. Ông bà mὶnh thường nόi: “Dốt thὶ hay nόi chữ”, cό đύng trong trường hợp nầy hay không
HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đᾶ cό nghῖa cὐa chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lу́. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thὶ được. Cὸn nόi hôn phu, hôn thê thὶ cό thể hiểu 昬夫,昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cῦng như nόi hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy.
2. Sai vὶ cố у́ sửa nghῖa gốc Hάn Việt
ĐỘC LẬP. Độc 獨 là riêng một mὶnh, Lập 立 là đứng. Vậy theo nghῖa gốc Hάn Việt, độc lập là đứng riêng rẻ một mὶnh, không đứng chung với ai cἀ. Rō ràng từ nầy là sai nếu dὺng để diễn tἀ tὶnh trᾳng cὐa một quốc gia không lệ thuộc nước khάc. Ngày nay, cάc quốc gia như thế đâu cό đứng riêng một mὶnh mà đều cό liên hệ với nhau trong cάc tổ chức quốc tế. Vậy từ độc lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim, Cụ Dưσng Quἀng Hàm dὺng từ tự chὐ để thay thế từ độc lập. Như thế là rất hay. Cό người bἀo với tôi rằng từ độc lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bὀ được. Tᾳi sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thὶ liên quan đến ngôn cὐa Tàu chứ cό liên quan gὶ đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu dὺng sai thὶ chύng ta đâu cό buộc phἀi theo cάi sai cὐa họ.
PHONG KIẾN. 封建 Phong kiến gồm 2 chữ phong tước 封爵 (ban quan tước) và kiến địa 建地 (ban đất để dựng nước). Phong kiến chỉ chế độ hoàng đế phong tước cho người cό công và cấp cho một vὺng đất rất rộng để thành lập quốc gia, với quân đội, luật lệ và chế độ thuế mά riêng biệt. Chế độ nầy hiện hữu ở đời nhà Chu bên Tàu với nước cὐa thiên tử và nước cὐa cάc chư hầu; từ nhà Tần trở đi thὶ chế độ phong kiến bị bị bᾶi bὀ và được thay bằng chế độ trung ưσng tập quyền. Chế độ phong kiến cῦng tồn tᾳi ở vài nước Âu châu như Phάp, chỉ vào thời Trung cổ mà thôi. Ở Việt Nam không bao giờ cό chế độ phong kiến (fе́odalitе́) mà chỉ cό chế độ quân chὐ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chὐ ở Việt Nam bằng từ phong kiến là sai. Cό tài liệu cὸn bἀo rằng sự cύng tế đὶnh chὺa là tàn tίch cὐa phong kiến thὶ càng sai hσn nữa.
TIÊU CỰC, TÍCH CỰC 消極, 積極 Hiện nay, người ta gάn vào hai từ nầy у́ nghῖa tốt xấu hết sức rō rệt. Hành động nào tốt thὶ được gọi là tίch cực; trάi lᾳi, hành động xấu thὶ gọi là tiêu cực. Thực ra, suy từ nghῖa gốc Hάn Việt thὶ sự gάn е́p như thế là sai. Tich cực, tiêu cực tự nό không cό sẵn tίnh chất tốt hay xấu mà chỉ ấn định cường độ cὐa hành động mà thôi. Thί dụ, trong một đoàn đi làm việc phước thiện thὶ ai tίch cực là tốt và ai tiêu cực là không tốt. Nhưng trong một bọn côn đồ đi tổ chức ᾰn cướp thὶ đứa nào tίch cực lᾳi là đứa xấu nhất. Trong truyện Tam quốc cὐa Tàu, Từ Thứ, mưu sῖ cὐa Lưu Bị bắt buộc phἀi về phục vụ dưới trướng cὐa kẻ thὺ là Tào Thάo. Từ Thứ đᾶ giữ thάi độ tiêu cực nghῖa là không hiến mưu kế gὶ cho Tào Thάo. Thάi độ tiêu cực nầy cὐa Từ Thứ, từ cổ chί kim luôn luôn được khen ngợi; vậy tiêu cực cό xấu đâu.
3. Sai vὶ không phân biệt được tiếng Hάn Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm)
QUỐC GIỖ. Tôi cό đọc được câu nầy: “Ngày giỗ tổ Hὺng vưσng là ngày quốc giỗ”. Nόi như vậy là sai. Giỗ là tiếng Nôm chứ không phἀi là tiếng Hάn Việt nên không thể đặt sau tiếng quốc được. Hᾶy bὀ tiếng ngày quốc giố mà dὺng tiếng thuần Việt là ngày giỗ cἀ nước, vừa đύng, lᾳi vừa dễ hiểu, Nσi tiếng Hάn, ngày giỗ là kỵ nhật 忌日.Ở một vài tỉnh cὐa Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ. Ta nên dứt khoάt chỉ dὺng từ Nôm là ngày giỗ để cho thống nhất toàn quốc.
GÓA PHỤ. Tôi đᾶ gặp vài lần chữ gόa phụ trong sάch vở bάo chί để chỉ người đàn bà cό chồng đᾶ chết. Gọi như thế là sai vὶ tίnh từ gόa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ được. Phἀi gọi người đàn bà gόa (toàn Nôm) hay người quἀ phụ (toàn Hάn Việt) thὶ mới đύng.
ĐỆ NHẤT THÁC. Ở ngō đi vào cὐa một địa điểm du lịch, cό hàng chữ to tướng dὺng để quἀng cάo “Nσi đây cό đệ nhất thάc”. Viết như thế là sai. Đặt 2 chữ đệ nhất (tiếng thêm nghῖa) trước chữ thάc (tiếng chίnh), là theo vᾰn phᾳm Hάn Việt thὶ cἀ hai chữ đều phἀi là tiếng Hάn Việt mới được. Ở đây, tiếng thάc là thuần Nôm, thế là bậy rồi. Không cό tiếng Hάn Việt nào cό nghῖa thάc nước. Thάc theo tiếng Hάn là bộc bố 瀑 布, nhưng đό lᾳi là tiếng Hάn thuần tύy nghῖa là chưa được Việt hόa thành tiếng Hάn Việt nên chưa thể dὺng được. Trong trường hợp nầy, nên viết “Nσi đây cό thάc đẹp nhất”, vừa đύng, vừa dễ hiểu lᾳi vừa hấp dẫn khάch du lịch.
4. Sai vὶ không phân biệt được vᾰn phᾳm Hάn Việt với vᾰn phᾳm Nôm
X QUANG. Mỗi lần cό chuyện phἀi vào bệnh viện là tôi rất khό chịu khi nhὶn thấy cάi bἀng “Phὸng X quang” Tôi khό chịu vὶ cάi chữ X quang nầy phᾳm đến 2 lỗi. Một là lỗi về ngữ phάp và một lỗi vể kiến thức khoa học. Về ngữ phάp, quang là tiếng chίnh, X là tiếng bổ nghῖa. Đặt tiếng bổ nghῖa trước tiếng chίnh thὶ đίch thị sử dụng vᾰn phạm Hάn Việt rồi. Mà muốn dὺng lối vᾰn phạm nầy thὶ cἀ 2 chữ đều phἀi là tiếng Hάn Việt. Ở đây X là một mẫu tự latin thὶ sai quá đi rồi. Về khoa học, quang 光 cό nghῖa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng là tia kίch thίch được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng sάng. Trong chuỗi sόng điện từ, cάc tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhὀ bе́ với độ dài sόng từ 400 nano mе́t đến gần 800 nano mе́t mà thôi. Trong khi đό, tia X (với độ dài sόng từ 0,1 đến 10 nano mе́t) cάch tia sάng khά xa, không kίch thίch được tế bào thị giάc thὶ chắc chᾰn không phἀi là tia sάng rồi. Cho nên dὺng chữ QUANG cho tia X là sai be bе́t về vật lу́ sσ đẳng cὐa lớp 12 trung học. Tôi chẳng hiểu ông “đại giάo sư tiến sῖ” nào đᾶ bày ra cάi tên X QUANG đό. Tᾳi sao không dὺng chữ “TIA X” như trước đây ở miền Nam, vừa hay, vừa đύng, vừa đại chύng, vừa thuần tύy Việt Nam. Không lẽ người ta muốn dὺng chữ “X QUANG” để chứng tὀ ta đây biết “nόi chữ” hay sao?
BÊ TÔNG HÓA con đường. Bê tông là từ phụ, hόa là từ chίnh. Đây cῦng là vᾰn phᾳm Hάn Việt. Để thành lập từ kе́p thὶ cἀ 2 từ đσn đều phἀi tiếng Hάn Việt. Ở đây bê tông lᾳi là tiếng Phάp (bе́ton) phiên âm ra, do đό nόi bê tông hόa là sai. Ngoài ra, nghῖa cῦng sai vὶ từ bê tông hόa được dὺng phἀi được hiểu là con đường đà được biến hόa thành một khối bê tông. Vὶ vậy, không nên nόi bê tông hόa mà nόi một cάch bὶnh thường: trάng bê tông con đường, vừa đύng lᾳi vừa dễ hiểu.
Cὸn một lô HÓA rất bậy bạ trong sάch vở bάo chi, trong chưσng trὶnh truyền thanh, truyền hὶnh như : nghѐo hόa, giàu hόa, no hόa, đόi hόa, khôn hόa, dại hόa, vân vân. Tội nghiệp cho ngôn ngữ Việt Nam!
NỮ NHÀ BÁO Tôi cὸn nhớ, trong chiến tranh I rắc [Iraq], sau khi lίnh Mў bắn nhầm nhân viên tὶnh bάo cὐa Ý bἀo vệ người nữ phόng viên vừa được bọn bắt cόc trἀ tự do, cάc đài truyền hὶnh ở Việt Nam loan tin nhiều lần và nhắc đi nhắc lᾳi nhόm từ nữ nhà bάo. Thực là quά tệ! Nhà bάo là tiếng Nôm nên phἀi dὺng vᾰn phạm xuôi và phải nόi “nhà bάo nữ” Cὸn muốn dὺng vᾰn phạm ngược thὶ phἀi dὺng 3 từ Hάn Việt: “nữ phόng viên” hay “nữ kу́ giἀ”. Ban biên tập cάc đài truyền hὶnh không biết điều nầy sao?
TRIỀU CƯỜNG. Từ lâu rồi, tôi thấy xuất hiện rất thường xuyên hai từ triều cường khi người ta nόi đến thὐy triều trên sông.. Hai chữ nầy cό thể thay đổi vị trί trước sau và cό hai у́ nghῖa khάc nhau. Cường triều 強 潮 gồm tίnh từ đứng trước danh từ thὶ tưσng đưσng với một danh từ và cό nghῖa là con nước lớn (haute marе́e). Triều cường 潮 強 thὶ lᾳi là một mệnh đề gồm một danh từ triều và một động từ cường và cό nghῖa là con nước đang lớn lên (la marе́e monte). Lύc nào cῦng dὺng chữ triều cường thὶ cό thể sai hσn phân nửa trường hợp rồi. Nhưng tại sao không nόi con nước lớn (danh từ) và con nước đang lên (mệnh đề) vừa đύng lᾳi vừa phὺ hợp với trὶnh độ và thόi quen cὐa đại chύng.
HẠT NHÂN. Đây là từ vật lу́ học chỉ cάc hiện tượng xảy ra bên trong cάi lōi hay cái nhân cὐa nguyên tử. Miền Nam trước đây gọi là hᾳch tâm. Hᾳch 核 là cái hạt, tâm 心 là cάi lōi hay cái nhân bên trong . Hᾳch tâm là cái nhân cὐa hạt. Đό là từ ghе́p theo vᾰn phạm Hán Việt vὶ cἀ 2 từ đều là Hán Việt. Bây giờ người ta chuyển sang dὺng 2 từ Nôm thὶ phἀi theo vᾰn phạm nôm và phἀi gọi là “nhân cὐa hạt” hay nhân hạt, cῦng như bên ngoài gọi “vỏ hạt” chứ không thể gọi là “hạt vὀ” được. Gọi phἀn ứng hạt nhân, là sai với vᾰn phạm rồi. Cần phἀi sửa lại: phἀn ứng nhân hạt mới đύng. Tuy nhiên, theo tôi, nên giữ từ phản ứng hạch tâm thὶ hay hσn nhiều. Từ nầy không phải là từ cὐa giới bὶnh dân nên cứ giữ tiếng Hán Việt, không cần chuyển sang tiếng Nôm.
TẶC. Từ Hán Việt nầy đang được dὺng một cάch rất bậy bạ và rất thường xuyên như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên ᾰn trộm. Dὺng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ phάp: một từ đσn thuần Việt không thể ghе́p với một từ đσn Hán Việt để thành một từ kе́p. Thứ hai là sai về nghῖa. Tặc 賊 cό nghῖa là ᾰn cướp, đạo 盜 mới cό nghῖa là ᾰn trộm, thί dụ đạo vᾰn 盜文 là ᾰn trộm vᾰn cὐa người khάc. Tᾳi sao người ta không nόi một cάch giản dị và đύng là: bọn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê. . . Cῦng cần nόi thêm về một từ đang được nhiều bάo đem dὺng. Đό là từ đinh tặc để chỉ bọn rải đinh trên đường phố. Đinh là một từ cό gốc Hάn Việt 釘 nhưng đᾶ được Việt hόa hoàn toàn rồi nên ghе́p với từ tặc thὶ không ổn. Vἀ lᾳi, nόi đinh tặc là sai nghῖa vὶ từ đό cό nghῖa là bọn ᾰn cướp đinh; thôi bὀ từ đό đi và nên nόi một cάch giἀn dị là “bọn rải đinh” thὶ hσn.
Cὸn vô số những từ sai khάc cὺng nguyên nhân trên đây như:
Lớp trưởng, phἀi sửa lại trưởng lớp, Nhόm trưởng, phἀi sửa lại trưởng nhόm Siêu rẻ, phἀi sửa lại rất rẻ Siêu bền, phἀi sửa lại rất bền Vi sόng, phἀi sửa lại vi ba hay sόng ngắn, v.v.
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Những lỗi sai phổ biến khi dùng từ Hán Việt Fri 26 Aug 2022, 07:38 | |
| 5.- Dùng từ vô nghĩa
Bệnh viện DA LIỄU. Lần đầu tiên, thấy bảng chữ nầy, thú thật tôi không hiểu là cái gì. Sau hỏi người bạn bác sĩ mới biết đó là “nhà thương chữa bịnh ngoài da và bệnh hoa liễu”. Trời đất! Da là từ thuần Việt. Hoa liễu là từ Hán Việt, sao lại nhập chung một cách kỳ cục như thế. Xét về nguồn gốc, chữ Hán Hoa liễu 花柳 có nghĩa là ổ điếm chứ không phải là một bịnh. Về sau, người ta dùng nhóm từ kép “bịnh hoa liễu” để chỉ cái bịnh lây qua đường tình dục cho những người hay lui tới các hoa liễu. Dùng riêng chữ hoa liễu cho một bịnh đã là sai rồi. Bỏ luôn chữ hoa, chỉ còn chữ liễu thôi thì càng tệ hơn nữa. Riêng chữ liễu 柳 thì có nghĩa là cây liễu. Bệnh viện da liễu tức là bệnh viện chuyên chữa cho bịnh ở da của cây liễu!!!
ĐẠI TRÀ. Tôi nhớ sau năm 1975, một người bạn dạy sử địa kể rằng, lần đầu tiên đọc sách giáo khoa từ miền Bắc đưa vào gặp câu: “Cây chè được trồng đại trà ở vùng nầy”. Anh ta hơi hoảng vì dạy sử địa bao năm mà bây giờ không hiểu đại trà là gì. Đại là lớn, còn trà là gì? Anh về lật nhiều tự điển kể cả tự điển Hán Việt ra tra thì chẳng thấy chữ đại trà ở đâu cả. Hỏi thăm mãi anh mới rõ trồng đại trà là trồng rộng rãi khắp nơi. Có lẽ ai đó nổi hứng bịa ra từ vô nghĩa đó để thay thế từ dễ hiểu và có sẵn, rồi sau đó những người khác bắt chước nói theo. Ngôn ngữ mà biến chuyển như thế thì cũng đáng buồn.
SỰ CỐ. Lại một từ vô nghĩa nữa nhưng đang được dùng một cách rộng rãi để chỉ một sự rắc rối vừa mới xảy ra. Trong tiếng tiếng Hán Việt có từ kép cố sự 故事 có nghĩa là chuyện cũ chứ làm gì có từ sự cố. Cái nghĩa mà hiện nay người ta gán cho từ vô nghĩa đó thực là lạ lùng, không thể chấp nhận được.
HOÀN CẢNH. Trong một bài báo, người ta viết: “Cô ây sống hoàn cảnh lắm”. Đố các bạn biết người ta muốn nói gì? Xin thưa, muốn nói “Cô ấy đang sống trong hoàn cảnh bi thảm”!!! Các bạn có chịu nổi với cách viết văn như thế đó không?
ĐÔI CÔNG. Kể từ giải túc cầu thế giới tại Nam Phi, đài truyền hình ở Việt Nam bịa ra một từ mới, đó là từ đôi công và rất thường được lặp đi lặp lại. Theo dõi nhiều trận, tôi mới hiểu ý của các ông trời đó muốn nói: 2 đội chơi đôi công nghĩa là cả 2 đội đều chơi tấn công. Đôi là một cặp (tiếng Nôm), công là tấn công (tiếng Hán Việt). Vậy đôi công là một từ bậy bạ do người kém hiểu biết bịa ra mà hiệu quả rõ ràng là làm xấu đi ngôn ngữ của dân tộc mình. Có người nghĩ rằng, cứ bịa ra những từ mới là làm giàu cho ngôn ngữ. Quan niệm như thế là sai; cũng như muốn làm giàu thì kiếm được thực sự nhiều tiền chức không phải cứ nhét vào tủ các thứ giấy tờ bậy bạ mà gọi làm giàu được.
XÂY DỰNG. “Anh Hai tôi quyết định xây dựng với người yêu của mình” Các bạn đừng tưởng rằng 2 người quyết định đi xây nhà để ở nhé. Không, 2 người quyết định làm đám cưới dó. Viết văn như thế thì hết chỗ để phê bình rồi.
6.- Dùng sai nghĩa từ thuần Việt.
NGƯỠNG. Người ít học cũng biết ngưỡng là một giới hạn rất xác định, một gạch ngang rõ nét, và bước qua vạch ngang đó thì mọi việc sẽ thay đổi một cách căn bản. Thí dụ, ngưỡng cửa là một đường ngang, bên trong là phòng, bên ngoài là sân hay mái hiên chứ không còn là phòng nữa. Một thí dụ khác: khi lượng glucose trong máu tăng lên và vượt qua ngưỡng 1% thì đường thoát ra ngoài theo nước tiểu, còn dưới cái ngưỡng đó thì không hề gì. Ngưỡng có nghĩa rõ ràng như thế và học sinh nào cũng biết. Thế mà mổi đêm, trong mục dự báo thời tiết, xướng ngôn viên cứ lải nhải; nhiệt độ đạt ngưỡng từ 32 đô đến 35 độ. Nghe chịu hết nổi. Tôi không trách người xướng ngôn vì bản tin không phải do người xướng ngôn viết mà do các đấng đại trí thức trong ban biên tập viết nên.
KIÊU NGẠO. Có người nhờ tôi giải thích một câu nói trong sách báo nào đó :”Thằng A hay kiêu ngạo người khác.” Tôi không giải thích được vì không rõ câu nầy có nghĩa: “thằng A thường tỏ ra kiêu căng với người khác”, hay là “thằng A thường chế nhạo người khác”. Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều không ổn vì dùng từ kiêu ngạo như thế là sai rồi thì không thể có cách nào giải thích câu nói cho đúng được.
TRAO ĐỔI. Từ nầy có nghĩa là đưa qua đưa lại các vật với nhau. Ngày nay người ta lại dùng từ nầy một cách sai lầm để thay thế cho từ bàn bạc hay thảo luận. Thí dụ: “Để thực hiện chỉ thị, tôi đã trao đổi với đồng chí chử tịch”.
7.- Dùng từ thiếu chính xác
CHẤT LƯỢNG. Chất 質là cái khối chứa bên trong một vật (matière,) lượng 量là tính chất của cái gì có thể cân đo đếm được (quantité). Vậy chất lượng hay khối lượng là cái chất bên trong của một vật có thể đo lường được ( masse). Thí dụ: “khối lượng hay chất lượng của một vất là 1 kilo gramme”. Thế mà ngày nay người ta dung từ chất lượng để chỉ cái tính tốt xấu của một vật, không thể đo đếm được (qualité). Thí dụ: “Chất lượng của nước giải khát nầy kém lắm, uống không ngon má cò có hại cho sức khỏe nữa”.
CẢM GIÁC. 感覺 Đó là sự nhận biết của cơ thể do ngoại giới tác động vào các giác quan của cơ thể. Thí dụ: “Gió về khuya gây cảm giác lạnh. Tiếng đàn gây cảm giác êm đềm”. Ngày nay, người ta thường dùng từ cảm giác thay cho từ cảm nghĩ. Thí dụ: ‘Với tình hình nầy, anh có cảm giác thế nào?”. Thực là sai một cách trầm trọng.
THỐNG NHẤT. Thống nhất 統一 là làm biến mất tình trạng chia rẻ bắng cách gom các thứ về một mối. Ngày nay người ta lại thường dùng từ thống nhất để diễn tả sự đồng ý, cùng chung quan điểm. Thí dụ, người ta đã nói: “Để thực hiện tốt chỉ thị, tôi cần thống nhất đồng chí chủ tịch”. Nói như vậy là sai.
GIẢI PHÓNG. Giải phóng 解放 là một từ thường dùng trong lĩnh vực chính trị để chi công cuộc cởi bỏ áp bức, trói buộc cho con người. Ngày nay, người ta lại dùng một cách sai lầm từ nầy cho vật chất. Thí dụ: người ta nói giải phóng mặt bằng thay cho từ đúng là giải tỏa mặt bằng.
ĐĂNG KÝ. Đăng ký 登記 là chép vào sổ một vật được đưa đến. Thế mà ngày, người ta nói: “Tôi đã đăng ký đi nước ngoài” Nghe như người ta sẽ gói tôi lại rồi đem gởi ra nước ngoài. Với con người, không thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng.
8.- Từ vựng lộn xộn.
LÁI XE. Đó rõ ràng là một động từ, hay đúng hơn là một từ kép gồm một động từ và một túc từ. Tuy nhiên, ngày nay người ta cũng dùng từ nầy để chỉ người lái xe, tức là danh từ. Vì vậy, người ta có thể nói: “Sáng nay, lái xe đang lái xe gặp một lái xe khác cũng lái xe, cả hai lái xe cùng lái xe về nhà.” Thực là buồn cười. Trước đây ở miền Nam, lái xe dứt khoát chỉ là động từ, còn danh từ phải là người lái xe hay muốn nói gọn hơn thì dùng từ phiên âm Quảng Đông (?), tài xế cũng được rõ ràng minh bạch.
YÊU CẦU. Đây là một động từ. Thí dụ: “Tôi yêu cầu anh đi ngay”. Sau 75, tôi gặp ngay trong giáo án (tài liệu chính thức để dạy học) 2 chữ: mục đích và yêu cầu. Động từ yêu cầu đã biến hẳn thành danh từ.
NGHIÊN CỨU SINH. Sinh 生 là tiếng Hán Việt. Dùng làm động từ thì sinh có nghĩa là sống, còn dùng làm danh từ thì sinh có nghĩa là con người đang sống. Thí dụ học sinh là người đi học, giáo sinh là người đi dạy. Nguyên cứu sinh là người đi nghiên cứu. Rõ ràng như vậy, thế mà tôi đã nghe người ta nói và đã thấy người ta viết những câu như “Con tôi được đi nghiên cứu sinh tại Trung quốc” Như thế là nói bậy vì lấy một danh từ làm động từ!
ẤN TƯỢNG. Theo cụ Đào Duy Anh, ấn tượng 印象(impression) là cái hình tượng do ngũ quan cảm xúc mà còn in sâu vào óc. Vậy ấn tượng là một danh từ của tâm lý học. Thế mà ngày nay người ta đem dùng làm tính từ như “cảnh đó rất ấn tượng”, và cả động từ nữa, như “tôi rất ấn tượng cảnh đó”. Hết sức bậy bạ
THẦN TƯỢNG. 神像 Từ nầy có nghĩa là hình tượng cao quý như thần. Vậy đây là danh từ nhưng, cũng như chữ trên đây, thần tượng được dùng như tính từ như “người đó rất thần tượng”, rồi cả động từ nữa “anh có thần tượng đồng chí đó không?”
TRÊN. Rõ ràng đây là một giới từ, bây giờ lại trở thành danh từ. Thí dự: “Cần phải báo cáo cho trên rõ” hay “trên bảo, dưới không nghe”.
LÀM TỐT. Tốt là một tính từ bổ túc nghĩa cho danh từ, như hạnh kiểm tốt, sức khỏe tốt. Ngày nay tốt được dùng làm trạng từ bổ túc nghĩa cho động từ, như làm tốt, học tốt, thay vi nói làm giỏi, học giỏi.
LÃNH ĐẠO. Tôi không tìm thấy chữ nầy trong các tự điển Hán Việt nhưng lại có trong tự điển của Tàu hiện nay 领导 và có nghĩa là điều khiển, hướng dẫn con đường đi. Vậy rõ ràng đây là một động từ. Tuy nhiên ngày nay người ta lại dùng làm danh từ. Thí dụ: “Lãnh đạo đã chỉ thị như thế”
Sự rối loạn về từ vựng trong ngôn ngữ thực là điều rất đáng tiếc. Từ đầu thế kỷ 20, do ảnh hưởng của tiếng Pháp, ngôn ngữ Việt Nam dần dần được minh bạch về từ vựng nên trở nên sáng sủa và rõ nghĩa, nay có biểu hiện rối rắm về từ vựng và trở nên tối tăm, có lẽ do mấy ông đi học bên Tàu về. Tiếng Tàu thì rất lôi thôi về từ vựng, ai cũng rõ điều đó.
9.- Cóp tiếng Tàu đang dùng.
LƯU BAN. Học sinh kém quá không được lên lớp thì gọi là lưu ban. Trong tiếng Tàu hiện nay, ban 班 là lớp học nhưng với tiếng Hán Việt (gốc từ tiếng Tàu đời Đường) thì ban không phải là lớp học mà có nghĩa rất xa lạ (ban phát, hạng thứ, đem quân trở về). Do đó, dùng tiếng lưu ban để nói học sinh không được lên lớp thì không ổn chút nào. Dùng chữ lưu cấp 留級 thì gần đúng nghĩa hơn. Nhưng thôi, lưu ban, lưu cấp làm chi. Mình đã có chữ thuần Việt đã dùng từ lâu là ở lại lớp, rất hay vì phụ huynh học sinh nào cũng hiểu được.
TRANH THỦ. Đây là từ mới được đưa vào Nam sau 1975, và có nghĩa là lợi dụng tình hình để làm được việc gì đó. Thí dụ: “trong chuyến đi tham quan vừa qua, anh ấy đã tranh thủ kiếm chác được chút ít” Tôi đã cố tìm hiểu xuất xứ của từ nầy và nhận ra rằng từ tranh thủ không có trong tiếng Hán Việt nhưng hiện nay đang được dùng bên Tàu.
Việc đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập vào ngôn ngữ Việt Nam là điều không hợp lý vì nó sẽ làm rối rắm ngôn ngữ của mình. Nên nhớ tiếng Hán Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ không phải là tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều với tiếng Tàu đời Đường, về phát âm cũng như về ý nghĩa. Thí dụ, 大家 , tiếng Hán Việt đọc đại gia và có nghĩa là người hay gia đình có vai vế trong xã hội, trong khi đó tiếng Tàu hiện đại đọc là dà jià và có nghĩa là tất cả mọi người. Một thí dụ khác: 東西 tiếng Hán Việt đọc là đông tây và có nghĩa là 2 phương hướng, trong khi tiếng Tàu hiện đại đọc là dòng xì và có nghĩa là hàng hóa. Cho nên tiếng Tàu ngày nay phải được xem là ngoại ngữ đối với ngôn ngữ Việt Nam và không nên nhập một cách bừa bãi vào tiếng Việt.
(Book Hunter)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Những lỗi sai phổ biến khi dùng từ Hán Việt Mon 29 Aug 2022, 07:57 | |
| 10.- Đảo ngược từ kép làm sai nghĩa.
ĐIỂM YẾU Từ kép nầy gồm 2 tiếng đơn ghép theo văn phạm Nôm có nghĩa là cái điểm không mạnh. Có người đem đảo ngược lại thành yếu điểm theo văn phạm Hán Việt thì lại có nghĩa hoàn toàn khác hẳn: điểm rất quan trọng.
THẤP ĐIỂM. Từ nầy thường được dùng sai một cách thực buồn cười. Cao là tiếng Hán đã được Việt hóa, nên có thể dùng theo văn phạm Hán hay Nôm cũng đều có một nghĩa duy nhất là “ở phía bên trên”. Thí dụ: điểm cao và cao điểm cùng một nghĩa. Trong khi đó thấp lại có hai nghĩa khác nhau tùy theo tiếng Hán hay Nôm. Theo tiếng Nôm thì thấp có nghĩa là ở bên dưới, nhưng với tiếng Hán thi thấp có nghĩa là ẩm ướt.. Vì vậy, khi nói điểm thấp thì đó là chỗ ở dưới thấp, nhưng khi đảo lại thành thấp điểm thì có nghĩa là nơi ẩm ướt. Thực là buồn cười khi đọc báo thấy: “giao thông giờ cao điểm, giao thông giờ thấp điểm” hay “dùng điện lúc cao điểm và dùng điện lúc thấp điểm”
11.- Đảo tư kép bừa bãi và không cần thiết.
XA XÓT. Tôi đọc được cách đảo kỳ cục trong một tác phẩm bán rất chạy trong thời gian gần đây. Nguyên câu đã viết là: “…ông Năm xa xót nhìn hai đứa trẻ….”. Đảo từ như thế là bừa bãi, chẳng nhằm lợi ích gì. Với văn vần thì có thể tạm chấp nhận sự đảo từ cho hợp thi luật; nhưng với văn xuôi thì không thể đảo từ một cách bừa bãi được.
Còn rất nhiều từ kép bị đảo xuôi đảo ngược vô tội vạ nữa: Nguy hiểm / hiểm nguy; đơn giản / giản đơn; khai triển / triển khai; từ chối / chối từ; bảo đảm / đảm bảo; bền vững / vững bền; minh chứng / chứng minh; phục hồi / hồi phục; biệt ly / ly biệt; tha thướt / thướt tha; thẩn thờ / thờ thẩn; tranh đấu / đấu tranh; thơ ngây / ngây thơ; xúc cảm / cảm xúc; quang vinh / vinh quang; kinh hoảng / hoảng kinh; ái ân / ân ái …..
Ôi thôi, nhiều quá, quá nhiều, không sao kể hết ngay tức thì được.
Có lẽ trên thế giới, không ngôn ngữ nào có các từ bị đảo ngược lung tung như ngôn ngữ Việt Nam hiện nay.
Cứ cái đà nầy, tôi e có ngày mình sẽ đọc được một câu thế nầy: “Người sĩ-chiến sinh-hi ngoài trận-mặt để vệ-bảo quốc-tổ, dân-nhân ở phương-hậu phải tỏ lòng ân-tri với các hùng-anh sĩ-liệt”!!!
12.- Ghép từ bừa bãi.
KÍCH CẦU. Đó là nhóm từ “kich thích nhu cầu tiêu thụ” được ghép cho ngắn lại làm cho nghĩa trở thành hết sức tối tăm. Nghe từ ghép “kích cầu”, tôi cứ tưởng công việc của mấy ông công chánh đang thực hiên ở dưới sông. Cách ghép nấy nghe rất chướng tai nhưng lại rất phổ biến hiện nay.
GIAO HỢP. Có một chuyện ghép từ rất khôi hài mà người ta thường hay kể lại. Chuyện thế nầy: Đồng chí giám đốc phài một nữ nhân viên qua một xí nghiệp bạn với lời dặn đò cẩn thận: “Cô hãy sang đó và cố gắng thuyết phục cho họ chịu giao hợp nhé”. Ý đồng chí giám đốc muốn nói giao hợp có nghĩa là giao thiệp và hợp tác; không biết cô nữ nhân viên có hiểu đúng ý đồng chí giám đốc hay không?
13.- Dùng từ dao to búa lớn
CHIẾN. Đá bóng chỉ là một trò chơi thể thao thuần túy thế mà các xướng ngôn viên và bình luận viên của chúng ta luôn luôn gọi đó là cuộc chiến. Cuộc chiến thì phải có đổ máu, phải có quyết tâm tiêu diệt kẻ thù hay ít ra làm cho kẻ thù phải khốn đốn. Một hôm đi ngang qua sạp báo tôi thấy một tờ báo chạy một cái tựa rất lớn ở trang nhất: “nội chiến ở bán đảo Ibérique”. Tôi giật mình không hiểu tại sao giữa hai nước anh em Tây ban nha và Bồ đào nha lại nổ ra chiến tranh. Tôi vội vã móc tiền ra mua ngay tờ báo đó rồi chạy nhanh về nhà để đọc. Đọc xong, tôi ngã ngửa, Thì ra, trong một cuộc bốc thăm do FIFA tổ chức, hai đội tuyển bóng tròn của Tân ban nha và Bồ đào nha gặp nhau trong cuộc chơi play-off. Thế mà người ta dám gọi là nội chiến. Xin chào thua cách dùng ngôn từ Việt Nam ngày nay.
CHIẾN ĐẤU. Tôi đã từng nghe nói: “Chúng ta phải cương quyết chiến đấu với tư tưởng sai trái”. Nghe thực đáng sợ.
NGÀI. Đã có lúc, nhân danh lập trường giai cấp, lập trường ta bạn thù, người ta gọi các lãnh tụ của nước tư bản bằng thằng nọ thằng kia. Bây giờ, chúng ta chơi với tư bản thì ai người ta cũng gọi bằng “ngài”. Ngài thủ tướng, ngài đại sứ, ngài nghị sĩ, vân vân. Nghe có vẻ nịnh bợ quá đi thôi.
THAM QUAN. 參觀 Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một công cuộc xem xét, nghiên cứu. Gọi thế mới hách chứ.
NGHIÊN CỨU SINH. Đi học thêm ở ngoại quốc, chuyện quá tầm thường, nhiều khi lợi dụng làm chuyện bậy bạ, lại tự tâng bốc mình là đi nghiên cứu.
14.- Dùng từ Hán Việt thay từ Nôm một cách kỳ cục.
KHẨN TRƯƠNG. Một đồng nghiệp của tôi định cư tại Úc từ năm 1975. Cách đây vài năm, thầy về Việt Nam lần đầu tiên và dùng tàu hỏa ra Hà nội thăm quê. Giữa khuya, tàu đến ga Đồng hới thuộc tỉnh Quảng bình. Đang ngủ say, bỗng thầy giật mình tỉnh dậy vì tiếng loa “… hành khách khẩn trương lên”. Thầy hoảng hồn phóng xuống giường, chạy ra khỏi buồng của toa xe vì tưởng xe trật đường rầy hay có hỏa hoạn xảy ra. Nhưng không, nhân viên trên toa tàu chỉ nhắc nhở hành khách nào xuống tàu ở ga nầy thì nhanh lên, thế thôi! Tội nghiệp, thầy Phụng hoảng hồn cũng phải vì ở miền Nam trước đây, ngươi ta ăn nói một cách giản dị và chỉ hay dùng tiếng Hán Việt trong văn chương và khi có việc nghiêm trọng mà thôi.
BÁO CÁO. Một người bạn đã nói với tôi: “Báo cáo anh, chiều nay tôi phải lên xe về Hà nội”. Tôi nghe chữ báo cáo thì cứ tưởng anh ta đang nói với một vị tư lệnh trên chiến trường.
15.- Thay từ Hán Việt thông dụng bằng từ Nôm bất hợp lý.
MÁY BAY LÊN THẲNG. Cái loại máy bay có thể bay lên mà không cần phi đạo, ngày trước người miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, từ người có học đến người thất học, đều gọi bằng một cái tên rất gọn là trực thăng. Sau 1975, người ta sửa lại là máy bay lên thẳng, không hiểu lý do tại sao.
LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ. Ngày trước miền Nam có một binh chủng đặt tên là Thủy quân lục chiến. Đó gần như là một danh từ riêng. Sau 75 thì sửa lại là lính thủy đánh bộ cho có vẻ nôm na, dù thủy và bộ vẫn là tiếng Hán Việt. Có người bảo rằng cái gì của ta thì dùng tiếng Hán Việt mới bảnh, còn cái gì của kẻ thù thì dùng tiếng Nôm để làm giảm giá trị. Nếu quả đúng như thế thì đó thực là một quan niệm hết sức sai lầm và xúc phạm một cách trầm trọng đến giá trị tiếng thuần Việt của dân tộc mình.
16.- Chưa có được những từ thỏa đáng cho khoa học và kỷ thuật hiện đại.
COMPUTER dịch là máy vi tính là không thỏa đáng. Máy vi tính có nghĩa là máy dùng làm những phép tính rất nhỏ. Chức năng của computer không phải chỉ như thế. Xin để dành cho các nhà chuyên môn về kỷ thuật và các nhà ngôn ngữ nói chuyện với nhau để chọn từ cho chính xác.
INFORMATION TECHNOLOGIE* dịch là tin học, cần xét lại 2 điểm. Thứ nhất, technologie* là một kỹ thuật, dịch bằng một chữ học trơ trọi thì không ổn. Thứ hai, muốn dùng từ kép “tin học” thì 2 từ đơn phải đều là tiếng Hán Việt. Nhưng tin là tiếng Nôm còn tín mới là tiếng Hán Việt.
ON LINE, OFF LINE, dịch là trực tuyến và ngoại tuyến thì e không ổn. Ở tiếng Mỹ, on và off là 2 từ đối nghịch nhau thì dịch sang tiếng Việt cũng cần 2 từ đối nghịch nhau mới được. Cho nên dùng 2 từ trực và ngoại thì chẳng ổn chút nào. Một lần nữa, chúng ta chờ đợi sự bàn bạc giữa các chuyên viên kỹ thuật và ngôn ngữ.
(trich TrieuThanh Magazine)
Book Hunter Club (Nguồn: ngoclinhvugia. Đăng bởi: Hà Thủy Nguyên)
_______
Ghi chú: * INFORMATION TECHNOLOGY mới đúng tiếng Anh, dịch sang tiếng Việt là Kỹ thuật thông tin (TM)
|
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Những lỗi sai phổ biến khi dùng từ Hán Việt | |
| |
| | | |
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |