KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN
***
hay Bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật Thích Ca
Dịch và chú thích bởi GS Nguyễn Vĩnh Thượng
-
Đức Phật đang dạy 5 vị đệ tử đầu tiên của Ngài
Lời dịch giả: bài dịch tiếng Việt được căn cứ chính yếu vào bài dịch tiếng Anh của Đại Đức Mahathera Narada trong quyển The Buddha and his Teachings, 1964.
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
Ngài đã thuyết giảng bài Kinh này cho 5 người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước kia là Kondanna (người Trung Hoa phiên âm là Kiều Trần Như), Bhaddiya, Vappa, Mahanama, Asaji tại vườn Lộc Uyển (Deer Park). Bài thuyết Pháp này được ghi lại trong Bộ Kinh Tương Ưng (Samyutta Nikaya) quyển V (Pali edition, p.420).
Tựa Kinh theo tiếng Pali là Dhamma-Cakka-Pavattana Sutta, tiếng Sanskrit là Dharma-Cakra-Pravartana Sutra.
Người Hoa dịch là Kinh Chuyển Pháp Luân.
Dhamma có nghĩa là (Phật) Pháp, lời dạy của Đức Phật.
Cakka có nghĩa là bánh xe, cái dĩa tròn.
Pavattana có nghĩa là chuyển động lăng tròn.
Sutta là quyển Kinh.
Trong tiếng Hán Việt, Pháp Luân ( 法 輪): luân có nghĩa là bánh xe, Pháp Luân có nghĩa là bánh xe (Phật) Pháp (Anh. Dharma Wheel).
Trong tiếng Anh, tựa bài Kinh có rất nhiều lời dịch khác nhau:
-The Setting in Motion of the Wheel of the Dharma Sutra.
-Discourse on Turning the Wheel of Truth.
-Discourse on Turning the Wheel of the Dharma.
Đã có rất nhiều bản dịch “Kinh chuyển Pháp luân” ra tiếng Hoa, Việt, Anh, Pháp … đăng trên Internet.
Để giúp độc giả nhận ra các đoạn mạch của Kinh chuyển Pháp Luân, chúng tôi phân chia bài Kinh này ra nhiều đoạn với những tiểu tựa.
-
I.-Nhập đề
-
Tôi (=Ngài Ananda) nghe như vầy:
Vào một thời nọ, Đức Phật Thích ca ở tại Vườn Lộc Uyển, xứ Isipatana (hiện nay là Sarnath), gần thành Benares.
-
II.-Thân bài
II.A. - Con đường ở giữa:
-
Đức Phật gọi 5 thầy Tỳ Kheo đang ngụ ở nơi ấy, đã từng là bạn đồng tu khổ hạnh với mình trước đây, dạy rằng:
“Này các thầy Tỳ Kheo! Có hai cực đoan (Sa. Antu, Anh. Extreme) mà bậc xuất gia phải tránh:
-Thứ nhất là chìm đắm trong dục lạc (sensual pleasures).
Đó là điều thắp hèn, phàm tục và vô ích.
-Thứ hai là theo lối tu khắc khổ (harsh austerity).
Đó là điều gây khổ sở và vô ích.
Các thầy hãy từ bỏ hai cực đoan ấy.
Như Lai (Tathagata, Đức Phật thường dùng danh từ này để tự xưng mình) đã thấu hiểu rằng Con đường ở giữa (Pa. Majjhima patipada, Anh.
Middle way, Việt-Hán. Trung đạo)
hai cực đoan ấy, tức là không thiên về một bên nào quá đáng mà Như Lai đã áp dụng để phát triển nhản quan, sự hiểu biết phân minh, tiến đến sự an tịnh (Pa. vupasamaya, Anh. peace) đưa đến trí tuệ (Pa. abhinnaya, Anh. knowlegde), giác ngộ (Pa. sambodhaya, Anh. enlightenment/awaking) và niết-bàn (Pa. nibbana, Sa. Nirvana) hay con đường dứt khổ.
-
II.B. - Bát Chánh Đạo:
-
Này các thầy Tỳ Kheo! Phép tu hành theo con đường ở giữa mà Như Lai đã ngộ là sự tu hành để phát triển nhãn quan, tri kiến, đưa đến sự an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và Niết-bàn là gì? – Đó là Bát Chánh Đạo(*1) (Hán-Việt. 八正道, Sa. Ārya 'ṣṭāṅga mārgaḥ, Pi. Ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, Anh. Eightfold path).
Bát Chánh Đạo là con đường có 8 chi nhánh (eightfold) là:
1.-Chánh Kiến (正見, Pa. Samma ditthi, Anh. Right view),
2.-Chánh Tư duy (正思唯, Pa. Samma sathkappa, Anh. Right intention),
3.-Chánh Ngữ ( 正語 , Pa. Samma vaca, Anh. Right speech),
4.-Chánh Nghiệp (. 正業 , Pa. Samma kammanta, Anh. Right action),
5.-Chánh Mạng (正命, Pa. Samma ajiva, Anh. Right Livehood),
6.-Chánh Tinh Tấn (正精進, Pa. Samma Vayama, Anh. Right Effort),
7.-Chánh Niệm (正念, Pa. Samma sati, Anh. Right Mindfulness),
8.-Chánh Định (正定, Pa. Samma Samadhi, Anh. Right Concentration).
II.C. - Tứ Diệu Đế (四妙諦, Sa. Catvāry āryasatyāni, Pi. cattāri ariya-saccāni, Anh. Four Noble Truths), là bốn chân lí cao cả/ cao thượng ; cũng gọi là Tứ thánh đế ( 四聖諦,Four Holy Truths). Đây là trọng tâm của bài thuyết Pháp này.
1. Khổ Đế
Này các thầy Tỳ Kheo! Bây giờ Như Lai giảng về Chân Lý Cao thượng về sự Khổ (Pa. Duḥkhā ryasatya, Anh.the Noble truth of Suffering): Sanh là sự hợp lại của Ngũ Uẩn(*2 ) ( Sa. Pañcaskandha, Pa. Pancu-padanakkhandha, Anh. Five Aggregates), là khổ; Lão/già là khổ, bịnh là khổ, tử/chết là sự tan rã Ngũ Uẩn, là khổ.
Buồn rầu, lo lắng, thất bại, rối loạn tâm thần là khổ.
Sống chung với người mình không ưa thích là khổ, lìa xa người thân yêu là khổ, ước muốn mà không được là khổ.
Nói cách khác, có thân Ngũ Uẩn (five psycho-physical condition groups) là khổ, vì ngũ uẩn là vô thường, biến đổi không ngừng.
2. Tập Đế:
Này các thầy Tỳ Kheo! Đây là Chân Lý Cao thượng về nguyên nhân của khổ đau (Pa.Dukkha samudaya ariya sacca, Anh. Noble Truth of the cause): Chính lòng ham muốn được tái sanh, chìm đắm trong dục lạc, tức là, lòng ham muốn chìm đắm trong khoái cảm dục vọng, ham muốn mọi vật được trường tồn vĩnh cữu, lòng ham muốn trong tâm ý rằng sau cái chết thì không còn gì nữa; đó là nguyên nhân của khổ đau