TÀI TỬ ĐA CÙNG PHÚ
Cao Bá Quát
Có một người:
Khổ dạng trâm anh; Nết na chương phủ
Hôi miệng sữa, tuổi còn giọt máu, nét hào hoa chừng ná Tân, Dương; Chòm tóc xanh, vừa chấm ngang vai, lời khí nghiệp những so Y, Phó.
Nghiêng gợn sóng vẽ vời điển tích, nét nhạn điểm lăn tăn; Vén bút mây dìu dặt văn chương, vòng thuyền khuyên lỗ trỗ.
Nghiêng cánh nhạn tếch mái rừng Nhan Khổng, chí xông pha nào quản chông gai; Cựa đuôi kình toan vượt bể Trình Chu, tài bay nhẩy ngại chi lao khổ!
Lắc bầu rượu dốc nghiêng non nước xuống, chén tiếu đàm mời mọc Trích Tiên; Hóng túi thơ nong hết gió trăng vào, cơn xướng họa thì thầm lão Đỗ.
Tươi nét mặt thư sinh lồ lộ, bưng mắt trần toan đạp cửa phù đồ; Rửa buồng gan du tử nhơn nhơn, giương tay Tạo ráp xoay cơn khí số.
Tưởng đến khi vinh hưỡng đã am tường; Song nghĩ lại trần ai không đếch chỗ.
Lều nho nhỏ kéo tấm chănh lướp tướp, ngày thê lương hạt nặng giọt mưa sa; Đèn con con gon chiếc chiếu lôi thôi, đêm tịch mịch soi chung vừng nguyệt tỏ.
Áo Trọng Do bạc thếch, dãi xuân thu cho đượm sắc cần lao; Cơm Phiến Mẫu hẩm sì, đói tuế nguyệt phải ngậm ngùi tân khổ.
Gió trăng rơi rụng, để cái quyên gầy; Sương tuyết hắt hiu, làm con nhạn võ.
Túi thanh bạch ngược xuôi miền khách địa, trăm nghìn đường, chỉ nhện dệt thưa mau; Đèn toan hàn thức nhắp mái nam song; dăm ba ngọn, lửa huỳnh khêu nho nhỏ.
Miệng châu quế những rì rầm học vấn, chị chú Tô cẳn nhẳn chỉ hiểm nghèo; Vai tân sài đủng đỉnh ngâm nga, vợ anh Mãi băn khoăn từng kể khó.
Đói rau rừng, thấy thóc Chu mà trả, đá Thủ Dương chơm chởm, xanh mắt Di nằm tốt ngáy o o; Khát nước sông, trông dòng đục không vơ, phao Vị Thủy lênh đênh, bạc đầu Lã ngồi dai ho lụ khụ.
Trông ra nhấp nhố song nhân tình; Ngảnh lại vật vờ mây thế cố.
Ngán nhẽ kẻ tham bề khóa lợi, mũ cánh chuồn đội trên mái tóc, nghiêng mình đứng chực của hầu môn; Quản bao người mang cái giàm danh, áo giới lân trùm dưới cơ phu, mỏi gối qùy mòn sân tướng phủ.
Khéo ứng thù những các quan trên; Xin bái ngảnh cùng anh phường phố.
Khét mùi thế vị chẳng thà không; Thơm nức phương danh nên mới khổ.
Tình uốn éo muốn vạch trời lên hỏi, nào kiếp Chữ Đồng đâu tá, nỡ hoài chi chén ngọc để trần ai; Trí lẳng lơ toan vượt bể đi tu, hỏi quê tiên tử nơi mô, xin lĩnh lấy vân đan làm tế độ.
Bài phú Dương Hùng dù nghiệm tá, thì xin quyết tống bần quỷ ra đến miền Đông Hải, để ta đeo vòng thư kiếm, quyết xoay bạch ốc lại lâu đài; Câu văn Hàn Dũ phỏng thiêng chăng, thì xin quyết tống cùng thần ra đến đất Côn Lôn, để ta gánh vác giang sơn, quyết ném thanh khâm sang cẩm tú.
Nhọc nhằn cơn nhục mát cơn vinh; Cay đắng lúc cùng bù lúc phú.
Vậy có lời nôm dặn bảo thế gian rằng:
Đừng thấy người bạch diện thư sinh; Mà cười rằng "đa cùng tài tử".
Nguồn: Văn Đàn Bảo Giám