Lý Thường Kiệt
Thống lãnh binh quyền, thạo nước cờ
Thi văn tài trí, giỏi quân cơ
Dẹp tan nhiễu loạn, yên cung nội
Phá Tống bình Chiêm,giữ cõi bờ
Vị quốc sá gì thân lão tướng
An dân đâu ngại tóc râu phờ
Tuyên ngôn độc lập đầu tiên định:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư "
QNTH
Lý Thường Kiệt
Thanh đao giữ nước, máu đề cờ
Tiên thủ vi cường đoạt thế cơ
Lửa đốt ba châu sầu mấy quận
Sấm lưu một bản vững đôi bờ
Thành Đồ bắt giặc, gân chưa mỏi
Đất Nghệ trừ yêu, sức chẳng phờ
Sông núi phân ranh đà tỏ rõ
Muôn đời dân Việt sống an cư
Ái Hoa
Tiểu sử Lý Thường Kiệt:
Lý Thường Kiệt, tên Châu Tuấn (có sách nói Ngô Tuấn hoặc nói họ Quách), tên chữ là Thường Kiệt, sinh năm 1019 (theo Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên, dịch giả Ngọc Hồ), người phường Thái Hoà huyện Thọ Xương cạnh tây thành Thăng Long, con Sùng ban Lang tướng, đời đời tập ấm (tức dòng quý tộc). Có công theo vua Lý Thánh Tôn đánh Chiêm thành bắt được vua Chiêm là ChếCủ . Được phong Phụ quốc Thái Uý, Thiên Tử Nghĩa Đệ (tức là em nuôi vua), đổi sang họ vuạ Ông theo phe Ỷ Lan Thứ Phi và Nhân Tôn chống lại Dương Thái Hậu và Lý Đạo Thành nên khi Nhân Tôn tức vị liền thăng chức cho ông và trở thành đại thần trụ cột của triều đình.
Thấy nhà Tống lăm le muốn xâm chiếm nước ta vua sai Ông và Tôn Đản bất ngờ đem quân sang Tàu đánh trước, phá được Ung châu, Liêm châu và Khâm châu, bắt tù và lấy của rất nhiềụ Thái Thú Ung châu cùng vợ con tự đốt chết chứ không hàng.
Nhà Tống cho tướng Quách Quỳ dẫn quân sang báo thù. Hai bên dàn quân đánh nhau ở sông Như Nguyệt. LTK cho người giả thần nhân đọc bài sấm truyền:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư"
dịch nghĩa:
"Núi sông Nam quốc, vua Nam coi
Phân định từ lâu ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm ?
Bây sẽ tan tành chết sạch toi !"
Bài này được coi là Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của nước ta. Quân ta nghe sấm nức lòng đánh giặc. Quân Tống thiệt hại nhiều mà không tiến lên được nên đành chịu hoà. Ta trả tù binh lại cho nhà Tống còn Tàu trả đất lại cho Đại Việt. Từ đó hai nước giữ hoà hiếu . Nhà Tống sợ Đại Việt nên dân ta hưởng thái bình được thời gian lâụ Vua Lý còn cho sứ sang Tàu đòi một số vùng đất Tàu chiếm của ta, nhà Tống cũng trả luôn.
Sau Lý Giác khởi loạn ở Nghệ An, người có yêu thuật, biến cỏ cây thành binh tướng, quan quân đánh dẹp không được. Ông, lúc đó trên 80 tuổi, tình nguyện đi thảo phạt và bình định được chúng.
Ông đặc biệt ghét mê tín dị đoan, trừng trị kẻ ham mê ma quỷ đồng bóng và phù thuỷ rất nặng. Ông mất năm 1106 (sử viết là năm 1105), được phong Việt Quốc Công, vua cho em là LýThường Hiến nối chức.
Đền thờ ông phàm ai cầu gì cũng rất linh ứng. Sử sách cũ thường vẽ ông tay cầm thanh Long Đao, tướng oai phong như Quan Vân Trường. Đời sau còn truyền tụng câu ca dao nói về cuộc chiến tranh Lý-Tống:
"Nực cười châu chấu đá xe
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng"
Ái Hoa
_________________________
Sông rồi cạn, núi rồi mòn
Thân về cát bụi, tình còn hư không