Bài viết mới | Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 06:59
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:17
KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Thu 21 Nov 2024, 16:45
KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22
Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22
NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20
KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08
Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54
Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10
7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10
Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21
Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13
Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07
Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36
Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09
Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46
Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06
Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04
DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19
Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37
Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17
CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05
Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39
Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41
Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
|
| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Y Nhi Admin
Tổng số bài gửi : 3173 Registration date : 22/11/2007
| Tiêu đề: Kiều báo thù Sat 01 Dec 2007, 17:05 | |
| Kiều báo thù
Trong quân có lúc vui vầy, 2290. Thong dong mới kể sự ngày hàn vi: Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nời thì xót thương. Tấm thân rày đã nhẹ nhàng, Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong. 2295. Từ Công nghe nói thủy chung, Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang. Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng, Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao . Ba quân chỉ ngọn cờ đào, 2300. Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri, Mấy người phụ bạc xưa kia, Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra . Lại sai lệnh tiễn truyền qua, Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên . 2305. Mụ quản gia, vãi Giác Duyên, Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời . Thệ sư kể hết mọi lời, Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy ! Đạo trời báo phục chỉn ghê, 2310. Khéo thay ! Một mẻ tóm về đầy nơi, Quân trung gươm lớn áo dài, Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi . Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi, Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân. 2315. Trướng hùm mở giữa trung quân, Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi . Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên. Từ rằng: ân, oán hai bên, 2320. Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh Nàng rằng: Nhờ cậy uy linh, Hãy xin báo đáp ân tình cho phu . Báo ân rồi sẽ trả thù. Từ rằng: Việc ấy phó cho mặc nàng. 2325. Cho gươm mời đến Thúc lang, Mặt như chàm đổ, mình giường giẽ run. Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non, Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không? Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng, 2330. Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân? Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân, Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là ! Vợ chàng quỷ quái tinh ma, Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau ! 2335. Kiến bò miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa . Thúc Sinh trông mặt bấy giờ, Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm. Lòng riêng mừng sợ khôn cầm, 2340. Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai . Mụ già, sư trưởng thứ hai, Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên: Dắt tay mở mặt cho nhìn: Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi . 2345. Nhớ khi lỡ bước xẩy vời, Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương. Nghìn vàng gọi chút lễ thường, Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân? Hai người, trông mặt tần ngần, 2350. Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui . Nàng rằng: Xin hãy dốn ngôi, Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù ! Kíp truyền chư tướng hiến phù, Lại đem các tích phạm tù hậu tra . 2355. Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra, Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư . Thoạt trông nàng đã chào thưa: Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây ? Đàn bà dễ có mấy tay, 2360. Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan? Dễ dàng là thói hồng nhan, Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều ! Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu, Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca . 2365. Rằng: Tôi chút dạ đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình, Nghĩ cho khi gác viết kinh, Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo . Lòng riêng riêng những kính yêu; 2370. Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai . Trót lòng gây việc chông gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng? Khen cho: Thật đã nên rằng, Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời, 2375. Tha ra thì cũng may đời, Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen. Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay . Tạ lòng lạy trước sân may, 2380. Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào, Nàng rằng: Lồng lộng trời cao, Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta ? Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà, Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh. 2385. Tú Bà cùng Mã Giám Sinh, Các tên tội ấy đáng tình còn sao ? Lệnh quân truyền xuống nội đao, Thề sao thì lại cứ sao gia hình, Máu rơi thịt nát tan tành, 2390. Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời . Cho hay muôn sự tại trời, Phụ người, chẳng bõ khi người phụ ta ! Mấy người bạc ác tinh ma, Mình làm mình chịu kêu mà ai thương. 2395. Ba quân đông mặt pháp trường, Thanh thiên, bạch nhật rõ ràng cho coi . Việc nàng báo phục vừa rồi, Giác Duyên vội vã gởi lời từ qui . Nàng rằng: Thiên tải nhất thì, 2400. Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn. Rồi đây bèo hợp mây tan, Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu ! Sư rằng: Cũng chẳng bao lâu, Trong năm năm lại gặp nhau đó mà. 2405. Nhớ ngày hành cước phương xa, Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri . Bảo cho hội ngộ chi kỳ, Năm nay là một nữa thì năm năm . Mới hay tiền định chẳng lầm, 2410. Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau . Còn nhiều ân ái với nhau, Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì? Nàng rằng: Tiền định tiên tri, Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai . 2415. Họa bao giờ có gặp người, Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân . Giác Duyên vâng dặn ân cần, Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài . |
| | | Y Nhi Admin
Tổng số bài gửi : 3173 Registration date : 22/11/2007
| Tiêu đề: Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat 01 Dec 2007, 17:05 | |
| 2297. Nghiêm quân: Chỉnh đốn hàng ngũ quân lính.
Tuyển tướng: Lựa chọn tướng tá.
2298. Ruổi sao: Do chữ tinh trì, ý nói đi nhanh như sao đổi ngôi.
2299. Ba quân: Danh từ chỉ chung quân đội. Đời xưa các nước chư hầu có ba quân, mỗi quân 12.500 người. Và các nước thường chia quân đội làm ba bộ phận: trung quân, tả quân, hữu quân; hoặc: trung quân, thượng quân, hạ quân.
2303. Lệnh tiễn: Cờ lệnh có cắm mũi tên sắt của các tướng soái dùng để làm hiệu lệnh hoặc để làm tin.
2307. Thệ sư: Lời tuyên cáo và hiểu dụ quân sĩ trước lúc xuất quân.
2308. Chấp uy: Chấp hành uy lệnh.
2309. Báo phục: Bảo trả lại, ý nói làm ân thì sẽ được trả ân, làm oán thì sẽ có lúc bị người ta trả oán.
2312. Cơ, về: Tên gọi các đơn vị quân lính đời xưa.
Thị lập: Đứng chầu.
Song phi: Dàn làm hai hàng.
2314. Bác đồng: Súng bằng đồng.
2315. Trường hùm: Dịch chữ hổ trướng. Xưa thường dùng da hùm làm thành cái màn lớn để chủ soái họp bàn với các tướng, nên người sau quen dùng chữ "hổ trướng" để chỉ chỗ làm việc của các tướng soái.
Trung quân: Đội quân đóng ở giữa, do chính chủ tướng chỉ huy.
2318. Cửa viên: Viên là cái càng xe. Đời xưa lúc quân đội cắm trại thường dùng xe làm cửa, nên cửa doanh trại của quân đội gọi là "viên môn".
2326. Chàm đổ: Mặt xanh như màu chàm đổ vào.
Giẽ run: Mình run như chim giẻ.
2329. Sâm và Thương: Theo nhận thức của người xưa, thì sao Sâm ở phương tây sao Thương ở phương đông, sao này lặn sao kia mới mọc. Hai sao này không bao giờ gặp nhau, nên người ta dùng để chỉ cảnh xa cách mỗi người một nơi. Đối chiếu thiên vǎn học hiện nay đó là hai sao Orion và Scorpion.
2334. Tục ngữ: Kẻ cắp gặp bà già, ý nói hai kẻ ranh ma quỷ quái lại gặp phải nhau.
2341. Mụ già: Chỉ bà quản gia nhà họ Hoạn.
Sư trưởng: Chỉ Giác Duyên.
2348. Phiếu mẫu: Bà làm nghề giặt sợi ở bến nước. Hàn Tín đời Hán lúc hàn vi được bà Phiếu mẫu đãi một bữa cơm, sau làm đến tước vương, tạ ơn nghìn vàng.
2353. Hiến phù: Dâng nộp những người bắt được.
2354. Hậu tra: Chờ để tra xét.
2377. Tri quá: Biết lỗi, từ mình biết nhận rằng mình có lỗi.
2382. Hại nhân, nhân hại: Làm người thì sẽ bị người làm hại.
2387. Nội đao: Quân đao phủ, chuyên việc chém người.
2395. Pháp trường: Chỗ để hành hình người có tội.
2396. Thanh thiên bạch nhật: Trời xanh ngày trắng, ý nói giữa ban ngày ban mặt, ai cũng được chứng kiến.
2398. Từ qui: Từ giã ra về.
2399. Thiên tải nhất thì: Ngàn năm mới có một dịp. Câu này thường dùng để chỉ dịp may hiếm có.
Bàn hoàn: Đây có nghĩa là gặp gỡ trò chuyện.
2404. Hạc nội: Chim hạc ở ngoài đồng nội. Mây ngàn: Đám mây bay trên rừng núi. ý nói nay đây mai đó, nơi ở không nhất định.
2405. Hành cước: Đi bộ, tiếng nhà Phật, chỉ việc các nhà sư đi vân du.
2406. Tiên tri: Biết trước mọi việc chưa xảy ra.
2407. Hội ngộ chi kỳ: Cái kỳ hẹn gặp gỡ nhau.
2409. Tiền định: Đã định sẵn từ trước.
2416. Chung thân: Trọn đời, ý nói Kiều muốn hỏi số phận của mình suốt đời ra sao. |
| | | Y Nhi Admin
Tổng số bài gửi : 3173 Registration date : 22/11/2007
| Tiêu đề: Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Kiều tự vẫn Sat 01 Dec 2007, 17:06 | |
| Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Kiều tự vẫn
Nàng từ ân oán rạch ròi, 2420. Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng. Tạ ân lạy trước Từ công: Chút thân bồ liễu nào mong có rày ! Trộm nhờ sấm sét ra tay, Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi ! 2425. Chạm xương chép dạ xiết chi, Dễ đem gan óc đền nghì trời mây ! Từ rằng: Quốc sĩ xưa nay, Chọn người tri kỷ một ngày được chăng? Anh hùng tiếng đã gọi rằng, 2430. Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha ! Huống chi việc cũng việc nhà, Lọ là thâm tạ mới là tri ân . Xót nàng còn chút song thân, Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa . 2435. Sao cho muôn dặm một nhà, Cho người thấy mặt là ta cam lòng. Vội truyền sửa tiệc quân trung, Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan. Thừa cơ trúc chẻ ngói tan, 2440. Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài . Triều đình riêng một góc trời, Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà. Đòi phen gió quét mưa sa, Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam . 2445. Phong trần mài một lưỡi gươm, Những loài giá áo túi cơm sá gì ! Nghênh ngang một cõi biên thùy, Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương ! Trước cờ ai dám tranh cường, 2450. Năm năm hùng cứ một phương hải tần. Có quan tổng đốc trọng thần, Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài. Đẩy xe vâng chỉ đặc sai, Tiện nghi bát tiểu việc ngoài đổng nhung. 2455. Biết Từ là đấng anh hùng, Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn. Đóng quân làm chước chiêu an, Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng. Lại riêng một lễ với nàng, 2460. Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân. Tin vào gởi trước trung quân, Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ. Một tay gây dựng cơ đồ, Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành! 2465. Bó thân về với triều đình, Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu? Áo xiêm ràng buộc lấy nhau, Vào luồn ra cúi công hầu mà chi? Sao bằng riêng một biên thùy, 2470. Sức này đã dễ làm gì được nhau? Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai? Nàng thời thật dạ tin người, Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu. 2475. Nghĩ mình mặt nước cánh bèo, Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân. Bằng nay chịu tiếng vương thần, Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì! Công tư vẹn cả hai bề, 2480. Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương. Cũng ngôi mệnh phụ đường đường, Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha. Trên vì nước dưới vì nhà, Một là đắc hiếu hai là đắc trung. 2485. Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng, E dè sóng vỗ hãi hùng cỏ hoa. Nhân khi bàn bạc gần xa, Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào. Rằng: Trong Thánh trạch dồi dào, 2490. Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu. Bình thành công đức bấy lâu, Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao. Ngẫm từ gây việc binh đao, Đống xương Vô định đã cao bằng đầu. 2495. Làm chi để tiếng về sau, Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào! Sao bằng lộc trọng quyền cao, Công danh ai dứt lối nào cho qua? Nghe lời nàng nói mặn mà, 2500. Thế công Từ mới trở ra thế hàng. Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng, Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh. Tin lời thành hạ yêu minh, Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng. 2505. Việc binh bỏ chẳng giữ giàng, Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư. Hồ công quyết kế thừa cơ, Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công. Kéo cờ chiêu phủ tiên phong, 2510. Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau. Từ công hờ hững biết đâu, Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên. Hồ công ám hiệu trận tiền, Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ. 2515. Đương khi bất ý chẳng ngờ, Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn! Tử sinh liều giữa trận tiền, Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân! Khí thiêng khi đã về thần, 2520. Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng! Trơ như đá vững như đồng, Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời. Quan quân truy sát đuổi dài. Ầm ầm sát khí ngất trời ai đang. 2525. Trong hào ngoài lũy tan hoang, Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi. Trong vòng tên đá bời bời, Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ. Khóc rằng: Trí dũng có thừa, 2530. Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này! Mặt nào trông thấy nhau đây? Thà liều sống thác một ngày với nhau! Dòng thu như dội cơn sầu, Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên. 2535. Lạ thay oan khí tương triền! Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra. Quan quân kẻ lại người qua, Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần. Đem vào đến trước trung quân, 2540. Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han. Rằng: Nàng chút phận hồng nhan, Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương! Đã hay thành toán miếu đường, Giúp công cũng có lời nàng mới nên. 2545. Bây giờ sự đã vẹn tuyền, Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào? Nàng càng giọt ngọc tuôn dào, Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng. Rằng: Từ là đấng anh hùng, 2550. Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi! Tin tôi nên quá nghe lời, Đem thân bách chiến làm tôi triều đình. Ngỡ là phu quý phụ vinh, Ai ngờ một phút tan tành thịt xương! 2555. Năm năm trời bể ngang tàng, Đem mình đi bỏ chiến trường như không. Khéo khuyên kể lấy làm công, Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu! Xét mình công ít tội nhiều, 2560. Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi! Xin cho tiện thổ một doi, Gọi là đắp điếm cho người tử sinh. Hồ công nghe nói thương tình, Truyền cho cảo táng di hình bên sông. 2565. Trong quân mở tiệc hạ công, Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan . Bắt nàng thị yến dưới màn, Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu . Một cung gió thảm mưa sầu, 2570. Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay ! Ve ngâm vượn hót nào tày, Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu . Hỏi rằng: Này khúc ở đâu ? Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay ! 2575. Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này, Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ . Cung cầm lựa những ngày xưa, Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây ! Nghe càng đắm ngắm càng say, 2580. Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình ! Dạy rằng: Hương lửa ba sinh, Dây loan xin nối cầm lành cho ai . Thưa rằng: Chút phận lạc loài, Trong mình nghĩ đã có người thác oan . 2585. Còn chi nữa cánh hoa tàn, Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân . Rộng thương còn mảnh hồng quần, Hơi tàn được thấy gốc phần là may ! Hạ công chén đã quá say, 2590. Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra . Nghĩ mình phương diện quốc gia, Quan trên nhắm xuống người ta trông vào . Phải tuồng trăng gió hay sao, Sự này biết tính thế nào được đây ? 2595. Công nha vừa buổi rạng ngày, Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài . Lệnh quan ai dám cãi lời, Ép tình mới gán cho người thổ quan . Ông tơ thực nhẽ đa đoan ! 2600. Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên ? Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền, Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao . Nàng càng ủ liễu phai đào, Trăm phần nào có phần nào phần tươi ? 2605. Đành thân cát lấp sóng vùi, Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh ! Chân trời mặt bể lênh đênh, Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào, Duyên đâu ai dứt tơ đào, 2610. Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay ! Thân sao thân đến thế này ? Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi ! Đã không biết sống là vui, Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương ! 2615. Một mình cay đắng trăm đường, Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi ! Mảnh trăng đã gác non đoài, Một mình luống những đứng ngồi chưa xong . Triều đâu nổi tiếng đùng đùng, 2620. Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền đường. Nhớ lời thần mộng rõ ràng, Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây ! Đạm Tiên nàng nhé có hay ! Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta . 2625. Dưới đèn sẵn bức tiên hoa, Một thiên tuyệt bút gọi là để sau . Cửa bồng vội mở rèm châu, Trời cao sông rộng một màu bao la . Rằng: Từ công hậu đãi ta, 2630. Chút vì việc nước mà ra phụ lòng. Giết chồng mà lại lấy chồng, Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời ? Thôi thì một thác cho rồi, Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông ! 2635. Trông vời con nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang . Thổ quan theo vớt vội vàng, Thời đà đắm ngọc chìm hương mất rồi ! Thương thay cũng một kiếp người, 2640. Hại thay mang lấy sắc tài làm chi ! Những là oan khổ lưu ly, Chờ cho hết kiếp còn gì là thân ! Mười lăm năm bấy nhiêu lần, Làm gương cho khách hồng quần thử soi ! 2645. Đời người đến thế thì thôi, Trong cơ âm cực dương hồi khốn hay . Mấy người hiếu nghĩa xưa nay, Trời làm chi đến lâu ngày càng thương ! Giác Duyên từ tiết giã màng, 2650. Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du. Gặp bà Tam Hợp đạo cô, Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng: Người sao hiếu nghĩa đủ đường, Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi? 2655. Sư rằng: Phúc họa đạo trời, Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra. Có trời mà cũng tại ta, Tu là cõi phúc tình là dây oan. Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan, 2660. Vô duyên là phận hồng nhan đã đành, Lại mang lấy một chữ tình, Khư khư mình buộc lấy mình vào trong. Vậy nên những chốn thong dong, Ở không yên ổn ngồi không vững vàng. 2665. Ma đưa lối quỷ đem đường, Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi. Hết nạn ấy đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Trong vòng giáo dựng gươm trần, 2670. Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi. Giữa dòng nước dẫy sóng dồi, Trước hàm rồng cá gieo mồi thuỷ tinh. Oan kia theo mãi với tình, Một mình mình biết một mình mình hay. 2675. Làm cho sống đọa thác đầy, Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi! Giác Duyên nghe nói rụng rời: Một đời nàng nhé thương ôi còn gì! Sư rằng: Song chẳng hề chi, 2680. Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều. Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều, Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm, Lấy tình thâm trả nghĩa thâm, Bán mình đã động hiếu tâm đến trời! 2685. Hại một người cứu muôn người, Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng. Thửa công đức ấy ai bằng? Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi! Khi nên trời cũng chiều người, 2690. Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau. Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau, Tiền đường thả một bè lau rước người. Trước sau cho vẹn một lời, Duyên ta mà cũng phúc trời chi không! 2695. Giác Duyên nghe nói mừng lòng, Lân la tìm thú bên sông Tiền đường, Đánh tranh chụm nóc thảo đường, Một gian nước biếc mây vàng chia đôi. Thuê năm ngư phủ hai người, 2700. Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông. Một lòng chẳng quảng mấy công, Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần! Kiều từ gieo xuống duềnh ngân, Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi. 2705. Ngư ông kéo lưới vớt người, Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa! Trên mui lướt mướt áo là, Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương. Giác Duyên nhận thật mặt nàng, 2710. Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai. Mơ màng phách quế hồn mai, Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa. Rằng: Tôi đã có lòng chờ, Mất công mười mấy năm thừa ở đây. 2715. Chị sao phận mỏng phúc dày, Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai! Tâm thành đã thấu đến trời, Bán mình là hiếu cứu người là nhân. Một niềm vì nước vì dân, 2720. Âm công cất một đồng cân đã già! Đoạn trường sổ rút tên ra, Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau. Còn nhiều hưởng thụ về lâu, Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào! 2725. Nàng nghe ngơ ngẩn biết sao, Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai. Giật mình thoắt tỉnh giấc mai, Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn. Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên, 2730. Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề. Thấy nhau mừng rỡ trăm bề, Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư. Một nhà chung chạ sớm trưa, Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng. 2735. Bốn bề bát ngát mênh mông, Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau. Nạn xưa trút sạch lầu lầu, Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này. |
| | | Y Nhi Admin
Tổng số bài gửi : 3173 Registration date : 22/11/2007
| Tiêu đề: Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat 01 Dec 2007, 17:07 | |
| 2425. Khắc xương ghi dạ: Do chữ minh tâm khắc cốt: ý nói ơn sâu của Kiều xin ghi vào lòng, khắc vào xương không bao giờ quên.
2426. Nghì trời mây: Ơn nghĩa cao cả như trời mây.
2427. Quốc sĩ: Kẻ sĩ tài giỏi có tiếng trong nước.
2430. Cố ngữ: Lộ kiến bất bình, bạt dao tương trợ, ý nói người anh hùng nghĩa hiệp, giữa đường đi mà thấy điều gì không công bằng thì tuốt gươm ra mà giúp sức cho người bị áp bức. Câu này mượn ý ấy.
2432. Thâm tạ: Tạ ơn một cách sâu sắc.
Tri ân: Biết ơn của người khác đối với mình.
2434. Việt: Một xứ ở Đông nam Trung Quốc;
Tần: Một xứ ở bắc Trung Quốc. Kẻ Việt người Tần có nghĩa là cách biệt xa xôi.
2438. Tẩy oan: Rửa tội oan, ý nói Từ Hải sai mở tiệc để làm hội rửa sạch tội oan cho Kiều.
2440. Bình uy: Uy thế của quân đội. Câu này ý nói: Uy thế của quân Từ Hải từ đó vang dội trong ngoài như sấm dậy.
2444. Huyện thành: Thành trì của một huyện. Câu này ý nói: Quân Từ Hải đánh chiếm được năm huyện phía Nam Trung Quốc.
2446. Giá áo túi cơm: Cái giá để mắc áo, cái túi để đựng cơm ý nói người vô dụng hèn kém.
2448. Cô và quả: Tiếng tự xưng của bọn vua chúa đời xưa. Bá Vương cũng nghĩa như vua chúa. Câu này ý nói: Từ Hải cũng xưng cô xưng quả, làm vương làm bá một phương chứ không kém gì ai.
2449. Tranh cường: Đua tranh về sức mạnh. Câu này ý nói: Trước ngọn cờ của Từ Hải không ai dám chống lại.
2450. Hùng cứ: Lấy sức mạnh mà chiếm giữ.
Hải tần: Đất ven biển.
2452. Kinh luân: Nghĩa đen là quay tơ và bện tơ, người ta thường dùng để nói tài sắp xếp chính sự, kinh bang tế thế.
2453. Đẩy xe: Do chữ thôi cốc (đẩy bánh xe). Đời xưa, khi sai tướng đi đánh giặc, vua thường tự mình đẩy vào xe của viên tướng một cái, để tỏ ý tôn trọng. Câu này ý nói: vua nhà Minh sai Hồ Tôn Hiến đi đánh Từ Hải là một việc rất quan trọng.
2454. Tiện nghi bát tiễu: Tuỳ tiện mà đánh đẹp.
Đổng nhung: Trông coi, đốc suất việc quân.
2457. Chiêu an: Kêu gọi chiêu dụ cho giặc đầu hàng.
2477. Vương thần: Bề tôi của nhà vua.
2478. Thanh vân: Mây xanh, người xưa thường dùng để chỉ con đường công danh.
2481. Mệnh phụ: Vợ các quan to đời xưa, được vua ban sắc mệnh phong cho làm phu nhân.
2484. Đắc hiếu: Tròn đạo hiếu với cha mẹ.
Đắc trung: Tròn đạo trung với vua.
2485. Chiếc bách: Do chữ bách châu có nghĩa là mảnh thuyền, ý nói thân phận lênh đênh.
2491. Bình thành: Do chữ địa bình thiên thành ở Kinh thư, ý nói nhà vua sửa sang việc nước cho trời đất được bằng phẳng.
2494. Vô định: Tên một con sông ở biên thuỳ tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Ngày xưa ở con sông ấy đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh giữa người Hán và người Hồ, làm cho rất nhiều người bị chết.
2496. Hoàng Sào: Một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa cuối đời Đường, đã từng vây hãm kinh đô Trường An, tung hoành trong mười năm trời, sau bị thủ hạ giết chết.
2502. Thúc giáp: Bó áo giáp lại.
Giải binh: Cho quân đội nghỉ ngơi không chiến đấu nữa.
2530. Thành hạ yêu minh: Cùng nhau ăn thề dưới thành để tỏ ý không làm hại nhau và thật thà tuân theo đúng những điều đã ước hẹn.
2506. Vương sư: quân của nhà vua, tức quân của Hồ Tôn Hiến.
2507. Quyết kế thừa cơ: Quyết định cái mưu là nhân cơ hội Từ Hải trễ tràng việc quân để đánh.
2508. Lễ tiên bình hậu: Phía trước thì đàn nghi lễ để chiêu hàng, phía sau thì phục sẵn binh mã để phản công.
Khắc cờ: ấn định kỳ hạn.
Tập công: Đánh úp.
2509. Chiêu phủ: Kêu gọi, vỗ về, để cho quy hàng.
Tiên phong: Toán quân đi trước. Câu này ý nói: Hồ Tôn Hiến lập mưu cho kéo cờ "chiêu phủ" đi trước.
2512. Đại quan lễ phục: ăn bận theo phục sức của vị quan lớn không mặc binh phục.
2529. Trí dũng: Trí khôn và sức mạnh.
2533. Dòng thu: Đây là chỉ nước mắt.
2535. Oan khí tương triền: Cái oan khí ức vấn vít lại với nhau. ý nói: Giữa Từ Hải và Thuý Kiều hình như cùng chung mối uất ức.
2542. Binh cách: Binh là binh khí. Cách là áo giáp và mũ đầu mâu. Người ta thường dùng hai chữ binh cách để chỉ cuộc binh đao chinh chiến.
2543. Thành toán miếu đường: Mưu chước đã sắp đặt sẵn ở nơi tốn miếu triều đường. Câu này ý nói: đành hay triều đình đã cso mưu kế sẵn, nhưng cũng nhờ lời nàng nói giúp mới nên việc.
2552. Bách chiến: Trăm trận đánh, ý nói Từ Hải là một người dạn dày trong chiến trận.
2553. Phu quí phụ vinh: Chồng làm nên quan sang thì vợ cũng được vinh hiển.
2555. Ngang tàng: Cũng cú nghĩa như hiên ngang, ý nói người tung hoành ngang trời dọc đất.
2561. Tiện thổ: Mướng đất xấu.
2564. Cảo táng: Chôn một cách sơ sài, không có khâm liệm quan quách gì. Di hình: Cũng như di hài.
2565. Hạ công: Mừng công ( Thắng trận).
2567. Thị yến: Hầu hạ bên bàn tiệc.
2581. Hương lửa ba sinh: Do chữ tam sinh hương hoả, ý nói duyên nợ vợ chồng từ kiếp xưa để lại.
2582. Dây loan: Chỉ việc nối lại nhân duyên vợ chồng.
2586. Tiểu lân: Tên nàng Phùng Thục Phi, vợ vua Hậu chủ nước Tề, đời Nam Bắc triều. Sau khi nước Tề mất, nàng về tay người khác, nhân lúc dây đàn đứt, nàng làm bài thơ cảm hoài trong đó có câu: Dục trí tâm đoạn tuyệt, ưng khan tất thương huyền. Nghĩa là muốn biết tơ lòng dứt nát, nên xem cái dây trên đầu gối thì rõ. Câu này mượn ýcâu thơ ấy.
2588. Gốc phần: Do chữ phần du.
2591. Phương diện quốc gia: vị quan đảm đang công việc một vùng đất nước.
2596. Công nha: Chỗ làm việc quan, cũng như công môn đườngv.v.
2598. Thổ quan: Cũng như thổ tù, viên quan người ở bản thổ, có thể ở vùng dân tộc ít người.
2609. Tơ đào: Cũng như tơ hồng. Câu này ý nói: Ai đã chia rẽ nhân duyên của mình, đối nghĩa với câu dưới: "Nợ đâu, ai đã giắt vào tận tay?". Nợ đây tức là việc "ép tình mới gán cho người thổ quan".
2619. Triều: Nước thuỷ triều. ở cửa sông Tiền Đường (Trung Quốc) khi triều lên thì có tiếng sóng đùng đùng.
2621. Thần mộng: Lời báo mộng của thần, ý nói lời Đạm Tiên dặn trong chiêm bao, lúc Kiều tự vẫn ở nhà Tú Bà: "Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau".
2626. Tuyệt bút: Bút tích cuối cùng, viết trước khi chết để kể nỗi tâm tình của mình cho người sau biết.
2627. Cửa hồng: Cửa thuyền.
Rèm châu: Rèm có trang sức châu báu, hoặc rèm sơn màu đỏ.
2635. Con nước: Tiếng quen gọi của dân chài lưới để chỉ nước thủy triều lên xuống.
2638. Người xưa thường dùng hai chữ hương ngọc để chỉ phụ nữ.
2646. Âm cực dương hồi: Khi khí âm đến hết mực thì khí dương lạ trở về. Câu này cũng nghĩa như câu bĩ cực thái lai, ý nói con người ta khi vận đen đã hết thì vận đỏ trở lại.
2650. Bầu: Quả bầu khô rút ruột đi để đựng nước.
Níp: Cái tráp đan bằng tre để đựng quần áo sách vở. Hai vật thường dùng của những người đi đường thời xưa.
Vân du: Danh từ nhà Phật, ý nói nhà sư đi lang thang nay đây mai đó như đám mây bay vô định.
2655. Phúc hoạ đạo trời: Nói người ở đời gặp phúc hay gặp hoạ đều do ý trời, không phải ngẫu nhiên.
2668. Thanh lâu: Gái điếm. Thanh y: Gái hầu. Thuý Kiều làm gái điếm một lần ở Lâm Tri, một lần ở Châu Thai và làm gái hầu một lần ở nhà Hoạn bà, một lần ở nhà Hoạn Thư.
2670. Hùm sói: Người xưa thường dùng hai chữ hùm sói để chỉ các tướng giặc. Đây muốn nói Kiều phải sống với bọn ác độc.
2680. Nghiệp duyên: Danh từ nhà Phật có nghĩa là mối duyên nợ do bản thân mình làm nên từ kiếp trước.
2683. Tình thân: Do câu phụ tử tình thân. Câu này ý nói: Thuý Kiều đến bối ơn nghĩa sâu sắc của cha mẹ.
2687. Thửa công đức: Nghĩa là cứ xem như công đức ấy.
2688. Túc khiên: Tội lỗi kiếp trước.
2697. Thảo đường: Nhà lợp bằng gianh, bằng cỏ.
2699. Ngư phủ: Người làm nghề chài lưới.
2703. Duềnh ngân: Dòng nước bạc.
2705. Ngư ông: Ông lão đánh cá, tức "ngư phủ" nói trên.
2711. Phách quế hồn mai: Do chữ quế phách mai hồn. Hai chữ "quế mai" ở đây dùng cho đẹp lời văn.
2720. Âm công: Công đức cứu người làm ngấm ngầm, không ai biết.
2732. Thảo lưu: Nhà tranh cũng nghĩa như thảo đường. |
| | | Y Nhi Admin
Tổng số bài gửi : 3173 Registration date : 22/11/2007
| Tiêu đề: Kim Trọng đi tìm Kiều Sat 01 Dec 2007, 17:07 | |
| Kim Trọng đi tìm Kiều
Nỗi nàng tai nạn đã đầy, 2740. Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương. Từ ngày muôn dặm phù tang, Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà. Vội sang vườn Thúy dò la, Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa. 2745. Đầy vườn cỏ mọc lau thưa, Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời. Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Xập xè én liệng lầu không, 2750. Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày. Cuối tường gai góc mọc đầy, Đi về này những lối này năm xưa. Chung quanh lặng ngắt như tờ, Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai? 2755. Láng giềng có kẻ sang chơi, Lân la sẽ hỏi một hai sự tình. Hỏi ông ông mắc tụng đình, Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha. Hỏi nhà nhà đã dời xa, 2760. Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân. Đều là sa sút khó khăn, May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi. Điều đâu sét đánh lưng trời, Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao! 2765. Vội han di trú nơi cao, Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi. Nhà tranh vách đất tả tơi, Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa. Một sân đất cỏ dầm mưa, 2770. Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường! Đánh liều lên tiếng ngoài tường, Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra. Dắt tay vội rước vào nhà, Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay. 2775. Khóc than kể hết niềm tây: Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa? Kiều nhi phận mỏng như tờ, Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng! Gặp cơn gia biến lạ dường, 2780. Bán mình nó phải tìm đường cứu cha. Dùng dằng khi bước chân ra, Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần. Trót lời hẹn với lang quân, Mượn con em nó Thúy Vân thay lời. 2785. Gọi là trả chút nghĩa người, Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên! Kiếp này duyên đã phụ duyên, Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh. Mấy lời ký chú đinh ninh, 2790. Ghi lòng để dạ cất mình ra đi. Phận sao bạc bấy Kiều nhi! Chàng Kim về đó con thì đi đâu? Ông bà càng nói càng đau, Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa. 2795. Vật mình vẫy gió tuôn mưa, Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai! Đau đòi đoạn ngất đòi thôi, Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê. Thấy chàng đau nỗi biệt ly, 2800. Nhẫn ngừng ông mới vỗ về giải khuyên: Bây giờ ván đã đóng thuyền, Đã đành phận bạc khôn đền tình chung! Quá thương chút nghĩa đèo bòng, Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao? 2805. Dỗ dành khuyên giải trăm chiều, Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền. Thề xưa giở đến kim hoàn, Của xưa lại giở đến đàn với hương. Sinh càng trông thấy càng thương. 2810. Gan càng tức tối ruột càng xót xa. Rằng: Tôi trót quá chân ra, Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo. Cùng nhau thề thốt đã nhiều, Những điều vàng đá phải điều nói không! 2815. Chưa chăn gối cũng vợ chồng, Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang? Bao nhiêu của mấy ngày đàng, Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi! Nỗi thương nói chẳng hết lời, 2820. Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra. Vội về sửa chốn vườn hoa, Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang. Thần hôn chăm chút lễ thường, Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa. 2825. Đinh ninh mài lệ chép thơ, Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe. Biết bao công mướn của thuê, Lâm thanh mấy độ đi về dặm khơi. Người một nơi hỏi một nơi, 2830. Mênh mông nào biết bể trời nơi nao? Sinh càng thảm thiết khát khao, Như nung gan sắt như bào lòng son. Ruột tằm ngày một héo don, Tuyết sương ngày một hao mòn hình ve. 2835. Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê, Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao. Xuân huyên lo sợ biết bao, Quá ra khi đến thế nào mà hay! Vội vàng sắm sửa chọn ngày, 2840. Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng. Người yểu điệu kẻ văn chương, Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì, Tuy rằng vui chữ vu quy, Vui nào đã cất sầu kia được nào! 2845. Khi ăn ở lúc ra vào, Càng âu duyên mới càng dào tình xưa . Nỗi nàng nhớ đến bao giờ, Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng. Có khi vắng vẻ thư phòng, 2850. Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa . Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ, Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm. Dường như bên nóc trước thềm, Tiếng kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng, 2855. Bởi lòng tạc đá ghi vàng, Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây . Những là phiền muộn đêm ngày, Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần? Chế khoa gặp hội trường văn . 2860. Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày . Cửa trời rộng mở đường mây, Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần. Chàng Vương nhớ đến xa gần, Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền. 2865. Tình xưa ân trả nghĩa đền, Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần. Kim từ nhẹ bước thanh vân, Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương . Ấy ai dặn ngọc thề vàng, 2870. Bây giờ kim mã ngọc đường với ai ? Ngọn bèo chân sóng lạc loài, Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly . Vâng ra ngoại nhậm Lâm truy, Quan san nghìn dặm thê nhi một đoàn. 2875. Cầm đường ngày tháng thanh nhàn, Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao . Phòng xuân trướng rủ hoa đào, Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng. Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng, 2880. Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi . Họ Lâm thanh với Lâm truy, Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm. Trong cơ thanh khí tương tầm, Ở đây hoặc có giai âm chăng là? 2885. Thăng đường chàng mới hỏi tra, Họ Đô có kẻ lại già thưa lên: Sự này đã ngoại mười niên, Tôi đà biết mặt biết tên rành rành. Tú bà cùng Mã Giám sinh, 2890. Đi mua người ở Bắc kinh đưa về. Thúy Kiều tài sắc ai bì, Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ . Kiên trinh chẳng phải gan vừa, Liều mình thế ấy phải lừa thế kia . 2895. Phong trần chịu đã ê chề, Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang . Phải tay vợ cả phũ phàng, Bắt về Vô tích toan đường bẻ hoa . Rứt mình nàng phải trốn ra, 2900. Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia . Thoắt buôn về thoắt bán đi, Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi! Bỗng đâu lại gặp một người, Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh . 2905. Trong tay mười vạn tinh binh, Kéo về đóng chật một thành Lâm truy . Tóc tơ các tích mọi khi, Oán thì trả oán ân thì trả ân . Đã nên có nghĩa có nhân, 2910. Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen . Chưa từng được họ được tên, Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường. Nghe lời đô nói rõ ràng, Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc sinh . 2915. Nỗi nàng hỏi hết phân minh, Chồng con đâu tá tính danh là gì? Thúc rằng: Gặp buổi loạn ly, Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ . Đại vương tên Hải họ Từ, 2920. Đánh quen trăm trận sức dư muôn ngườị Gặp nàng khi ở châu Thai, Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên . Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên, Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng. 2925. Đại quân đồn đóng cõi đông, Về sau chẳng biết vân mồng làm sao . Nghe tường ngành ngọn tiêu hao, Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ. Xót thay chiếc lá bơ vơ, 2930. Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong ? Hoa trôi nước chảy xuôi dòng, Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan! Lời xưa đã lỗi muôn vàn, Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây, 2935. Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây, Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi ? Bình bồng còn chút xa xôi, Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an ! Rắp mong treo ấn từ quan, 2940. Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha . Dấn mình trong án can qua, Vào sinh ra tử họa là thấy nhau . Nghĩ điều trời thẳm vực sâu, Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn! 2945. Những là nấn ná đợi tin, Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dờỉ Năm mây bỗng thấy chiếu trời, Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành. Kim thì cải nhậm Nam bình, 2950. Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu dương. Sắm xanh xe ngựa vội vàng, Hai nhà cùng thuận một đường phó quan . Xảy nghe thế giặc đã tan, Sóng êm Phúc kiến lửa tàn Chiếc giang . 2955. Được tin Kim mới rủ Vương, Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa . Hàng Châu đến đó bây giờ, Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành. Rằng: Ngày hôm nọ giao binh, 2960. Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền. Nàng Kiều công cả chẳng đền, Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù. Nàng đà gieo ngọc trầm châu, Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan! 2965. Thương ôi! không hợp mà tan, Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng! Chiêu hồn thiết vị lễ thường, Giải oan lập một đàn tràng bên sông. Ngọn triều non bạc trùng trùng, 2970. Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo. Tình thâm bể thảm lạ điều, Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào? |
| | | Y Nhi Admin
Tổng số bài gửi : 3173 Registration date : 22/11/2007
| Tiêu đề: Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat 01 Dec 2007, 17:08 | |
| 2741. Phù tang: Phù trì đám tang, cũng nghĩa như hộ tang. 2743. Vườn Thuý: Chính nghĩa là cái vườn có hiên "Lãm Thuý" chỗ Kim Trọng trọ học lúc trước. Nhưng ở đây chỉ nơi hai người đi về tình tự lúc trước.
2748. Thôi Hộ đời Đường, nhân tiết Thanh minh, đi đến nơi kỳ ngộ, tìm người con gái đã gặp gỡ năm trước thì chỉ thấy cửa đóng, người đi đâu vắng, nhân đó mà làm bài thơ, trong có câu: nhân diện bất tri hà xứ khứ, đào hoa y cự tiểu đông phong. Nghĩa là: mặt người không biết đi đằng nào, hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ. Cây này dùng câu ý thơ ấy để nói không thấy bóng dánh nàng Kiều ở đâu, chỉ thấy hoa đào vẫn cười với gió đông như nǎm xưa mà thôi.
2757. Tụng đình: Sân kiện, nơi xử kiện. ở đây dùng với nghĩa việc chỉ kiện cáo.
2765. Di trú: Dời đi ở chỗ khác.
2779. Gia biến: Tai biến của gia đình.
2783. Lang quân: Tiếng dùng để chỉ người chồng trẻ và chỉ những người trai trẻ nói chung.
1788. Lai sinh: Kiếp sau. Câu này ý nói: nếu như chết mà thiêng thì kiếp sau xin đền bù lại.
2789. Ký chú đinh ninh: Ghi chú, dặn dò cặn kẽ.
2801. Ván đã đóng thuyền: ý nói Thuý Kiều bây giờ đã về tay người khác.
2807. Kim hoàn: Vòng vàng, vật Kim Trọng đưa cho Thuý Kiều làm tin lúc mới gặp nhau (Câu 318: Xuyến vàng đi chiếc, khăn là một vuông).
2824. Dưỡng thân: Nuôi cha mẹ. Câu này ý nói: Kim Trọng thay Kiều phụng dưỡng vợ chồng Vương ông như cha mẹ mình.
2828. Lâm thanh: Mã Giám Sinh nói dối là quê ở đó, nên Kim Trọng mới sai người đến đây hỏi thăm tin Kiều.
2859. Chế khoa: Khoa thi do ý vua mà mở ra, khác với khoa thi thường lệ.
2860. Bảng xuân: Do chữ xuân bảng, bảng thi về mùa xuân. Chiếm bảng xuân tức là thi đỗ.
2861. Cửa trời: Do chữ thiên môn, tức là cửa nhà vua.
Đường mây: Do chữ vân lộ hay thanh vân lộ, ý nói đường công danh, sĩ hoạn.
2862. Ngõ hạnh: Tức Hạnh Viên ở kinh đô Tràng An. Đời nhà Đường các tân khoa tiến sĩ được dự tiệc và xem hoa ở đây.
Dặm phần: Do chữ phần du mà ra, ý nói quê nhà. Xem chú thích 2235. Cây này tả cảnh vinh hoa của Kim, Vương khi thi đỗ và về vinh qui.
2864. Chu tuyền (hay chu toàn): Làm cho được tròn vẹn. Câu này ý nói: Vương quan làm rể họ Chung.
2870. Ngọc đường: Đời Tống Thái Tồng, vua đề ở dinh Hàn Lâm ba chữ Ngọc đường thự. Đời sau bèn dùng những chữ Kim mã ngọc đường để nói chung cảnh quan gia phú quý.
2873. Ngoại nhậm: Làm quan ở cõi ngoài (không phải ở huyện nhà).
2874. Thê nhi: Vợ con.
2875. Phụ tử Tiện đời Xuân thu, làm quan huyện, thường hay gảy đàn, người sau bèn gọi đinh quan huyện là cầm đường.
2876. Triệu Biên đời Tống, đi làm quan, chỉ đem theo một con hạc và một cây đàn, tổ ra người liêm khiết cao thượng.
2883. Thanh khí: Câu này ý nói: Thuý Vân, Thuý Kiều là hai chị em ruột, cho nên dễ cảm thông với nhau.
2884. Giai âm: Tin tốt.
2885. Thăng đường: Ra ngồi làm việc ở công đường.
2893. Kiên trinh: Kiên quyết giữ gìn trinh tiết.
2894. Liều mình: Chỉ việc Thuý Kiều tự vẫn lúc mới đến nhà Tú Bà.
Phải lừa chỉ việc sợ bị Sở Khanh lừa đưa đi trốn.
2907. Tóc tơ: Kẽ tóc chân tơ, ý nói hỏi rất tỷ mỷ.
2922. Thiên tài: Tài trời phú cho.
2924. Động địa kinh thiên: Sôi trời nổi đất.
2926. Vân mồng: Tiếng cổ, nghĩa là tin tức, manh mối.
2927. Tiên hao: Cùng nghĩa với tăm hơi, tin tức.
2937. Bình: Bèo, Bồng: Cỏ bồng. Hai vật này thường hay trôi nổi theo nước và gió. ở đây để chỉ tấm thân phiêu bạt của Kiều.
2938. Đỉnh chung: Đỉnh: Cái vạc để nấu thức ăn. Chung: Cái chuông để đánh báo hiệu giờ ăn. Đỉnh chung ở đây dùng để chỉ cảnh vinh hiển phú quý.
2939. Treo ấn từ quan: Treo trả cái ấn tại công đường mà bỏ về, không làm quan nữa.
2944. Năm mấy: Do chữ Ngũ vân, ý nói tờ chiếu có vẽ mây năm sắc; chiếu trời là chiếu nhà vua.
2948. Khâm ban: Chữ khâm, nguyên có nghĩa là kính, sau được dùng để chỉ nhà vua. Ví dụ: như nói khâm sai, khâm định...
Sắc chí: Tờ sắc ban bố mệnh lệnh của nhà vua.
2949. Cải nhậm: Đổi đi làm nơi khác. Nam - bình: Tên huyện, thuộc tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc), ở phía trên sông Tiền Đường và Hàng Châu.
2950. Châu Dương: Tức Dương Châu, tên phủ thuộc tỉnh Giang Tồ (Trung Quốc), ở phía trên sông Tiền Đường và Hàng Châu.
2952. Phó quan: Đi đến chỗ làm quan, đi nhậm chức.
2954. Phúc Kiến, Chiết Giang: Hai tỉnh phía đông nam Trung Quốc, nơi cát cứ cũ của Từ Hải.
2957. Hàng Châu: Tên phủ, nay là thủ phủ tỉnh Chiết Giang.
2960. Thất cơ: Để lỡ cơ mưu, làm sai quân cơ, tức là bị mắc mưu địch.
Thu linh: thu khí thiêng, ý nói chết.
2962. Thổ tù: Người tù trưởng ở địa phương, cùng như chữ Thổ quan.
2963. Ngọc và châu: Thường được dùng để chỉ cái đẹp, cái quý giá:
"Gieo ngọc trầm châu" ở đây chỉ việc Thuý Kiều trầm mình.
2967. Chiêu hồn: Gọi hồn.
Thiết vị: Đặt bài vị viết tên hiệu người chết mà thờ cúng.
Đàn tràng: Đàn làm lễ giải oan.
2970. Cánh hồng: Cánh chim hồng. Cũng hiểu là phong thái nhẹ nhàng của cô gái đẹp.
2972. Tinh vệ: Tên một loài chim nhỏ, sống ở bãi bể. Theo sách Thuật dị ký: Xưa con gái vua Viêm đế chết đuối ở biển, hồn hoá thành con chim tinh vệ, hàng ngày ngậm đá ở núi Tây Sơn vứt xuống biển để hòng lấp biển. ở đây ví Thuý Kiều trầm mình nên mượn điểm ấy. |
| | | Y Nhi Admin
Tổng số bài gửi : 3173 Registration date : 22/11/2007
| Tiêu đề: Kiều - Kim Trọng đoàn tụ Sat 01 Dec 2007, 17:08 | |
| Kiều - Kim Trọng đoàn tụ
Cơ duyên đâu bỗng lạ sao, Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi. 2975. Trông lên linh vị chữ bài, Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta? Với nàng thân thích gần xa, Người còn sao bỗng làm ma khóc người? Nghe tin ngơ ngác rụng rời, 2980. Xúm quanh kể lể rộn lời hỏi tra: Này chồng này mẹ này cha, Này là em ruột này là em dâu. Thật tin nghe đã bấy lâu, Pháp sư dạy thế sự đâu lạ thường! 2985. Sư rằng: Nhân quả với nàng, Lâm truy buổi trước Tiền đường buổi sau. Khi nàng gieo ngọc trầm châu, Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về, Cùng nhau nương cửa bồ đề, 2990. Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa. Phật tiền ngày bạc lân la, Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây. Nghe tin nở mặt nở mày, Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng? 2995. Từ phen chiếc lá lìa rừng, Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây. Rõ ràng hoa rụng hương bay, Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi. Minh dương đôi ngả chắc rồi, 3000. Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên! Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên, Bộ hành một lũ theo liền một khi. Bẻ lau vạch cỏ tìm đi, Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần. 3005. Quanh co theo dải giang tân, Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường. Giác Duyên lên tiếng gọi nàng, Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra. Trông xem đủ mặt một nhà: 3010. Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi. Hai em phương trưởng hòa hai, Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa! Tưởng bây giờ là bao giờ, Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao! 3015. Giọt châu thánh thót quẹn bào, Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình! Huyên già dưới gối gieo mình, Khóc than mình kể sự tình đầu đuôi: Từ con lưu lạc quê người, 3020. Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm! Tính rằng sông nước cát lầm, Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây! Ông bà trông mặt cầm tay, Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra. 3025. Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa, Mười phần xuân có gầy ba bốn phần. Nỗi mừng biết lấy chi cân? Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu! Hai em hỏi trước han sau, 3030. Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi. Quây nhau lạy trước Phật đài, Tái sinh trần tạ lòng người từ bi. Kiệu hoa giục giã tức thì, Vương ông dạy rước cùng về một nơi. 3035. Nàng rằng: Chút phận hoa rơi, Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay. Tính rằng mặt nước chân mây, Lòng nào còn tưởng có rày nữa không? Được rày tái thế tương phùng. 3040. Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay! Đã đem mình bỏ am mây, Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừạ Mùi thiền đã bén muối dưa, Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng. 3045. Sự đời đã tắt lửa lòng, Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! Dở dang nào có hay gì, Đã tu tu trót quá thì thì thôi! Trùng sinh ân nặng bể trời, 3050. Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi? Ông rằng: Bỉ thử nhất thì, Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền. Phải điều cầu Phật cầu Tiên, Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây? 3055. Độ sinh nhờ đức cao dày, Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung. Nghe lời nàng cũng chiều lòng, Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra. Một nhà về đến quan nha, 3060. Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy. Tàng tàng chén cúc dở say, Đứng lên Vân mới giãi bày một hai . Rằng: Trong tác hợp cơ trời . Hai bên gặp gỡ một lời kết giao . 3065. Gặp cơn bình địa ba đào, Vậy đem duyên chị buộc vào cho em . Cũng là phận cải duyên kim, Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao ? Những là rày ước mai ao, 3070. Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình ! Bây giờ gương vỡ lại lành, Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi . Còn duyên may lại còn người, Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa . 3075. Quả mai ba bảy đương vừa, Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì. Dứt lời nàng vội gạt đi: Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ? Một lời tuy có ước xưa, 3080. Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều . Nói càng hổ thẹn trăm chiều, Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi ! Chàng rằng: Nói cũng lạ đời, Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao ? 3085. Một lời đã trót thâm giao, Dưới dày có đất trên cao có trời ! Dẫu rằng vật đổi sao dời, Tử sinh phải giữ lấy lời tử sinh ! Duyên kia có phụ chi tình, 3090. Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai ? Nàng rằng: Gia thất duyên hài, Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng. Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng, Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương . 3095. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng, Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa . Thiếp từ ngộ biến đến giờ. Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa . Bấy chầy gió táp mưa sa . 3100. Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn. Còn chi là cái hồng nhan, Đã xong thân thế còn toan nỗi nào ? Nghĩ mình chẳng hổ mình sao, Dám đem trần cấu dự vào bố kinh ! 3105. Đã hay chàng nặng vì tình, Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru ! Từ rày khép cửa phòng thu, Chẳng tu thì cũng như tu mới là ! Chàng dù nghĩ đến tình xa, 3110. Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ. Nói chi kết tóc xe tơ, Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời ! Chàng rằng: Khéo nói nên lời, Mà trong lẽ phải có người có ta ! 3115. Xưa nay trong đạo đàn bà, Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường, Có khi biến có khi thường, Có quyền nào phải một đường chấp kinh . Như nàng lấy hiếu làm trinh, 3120. Bụi nào cho đục được mình ấy vay ? Trời còn để có hôm nay, Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời . Hoa tàn mà lại thêm tươi, Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa . 3125. Có điều chi nữa mà ngờ, Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu ! Nghe chàng nói đã hết điều, Hai thân thì cũng quyết theo một bài . Hết lời khôn lẽ chối lời, 3130. Cúi đầu nàng những vắn dài thở than . Nhà vừa mở tiệc đoàn viên, Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là. Cùng nhau giao bái một nhà, Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi . 3135. Động phòng dìu dặt chén mồi, Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa . Những từ sen ngó đào tơ, Mười lăm năm mới bây giờ là đây ! Tình duyên ấy hợp tan này, 3140. Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao . Canh khuya bức gấm rủ thao, Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân . Tình nhân lại gặp tình nhân, Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình. 3145. Nàng rằng: Phận thiếp đã đành, Có làm chi nữa cái mình bỏ đi ! Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi, Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may . Riêng lòng đã thẹn lắm thay, 3150. Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi ! Những như âu yếm vành ngoài, Còn toan mở mặt với người cho qua . Lại như những thói người ta, Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa . 3155. Khéo là giở nhuốc bày trò, Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi ! Người yêu ta xấu với người, Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau ! Cửa nhà dù tính về sau, 3160. Thì còn em đó lọ cầu chị đây . Chữ trinh còn một chút này, Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan ! Còn nhiều ân ái chan chan, Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi ? 3165. Chàng rằng: Gắn bó một lời, Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau . Xót người lưu lạc bấy lâu, Tưởng thề thốt nặng nên đau đớn nhiều ! Thương nhau sinh tử đã liều, 3170. Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình. Chừng xuân tơ liễu còn xanh, Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân . Gương trong chẳng chút bụi trần, Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm ! 3175. Bấy lâu đáy bể mò kim, Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa ? Ai ngờ lại họp một nhà, Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm ! Nghe lời sửa áo cài trâm, 3180. Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng: Thân tàn gạn đục khơi trong, Là nhờ quân tử khác lòng người ta . Mấy lời tâm phúc ruột rà, Tương tri dường ấy mới là tương tri ! 3185. Chở che đùm bọc thiếu chi, Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay ! Thoắt thôi tay lại cầm tay, Càng yêu vì nết càng say vì tình. Thêm nến giá nối hương bình, 3190. Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan . Tình xưa lai láng khôn hàn, Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa . Nàng rằng: Vì mấy đường tơ, Lầm người cho đến bây giờ mới thôi ! 3195. Ăn năn thì sự đã rồi ! Nể lòng người cũ vâng lời một phen. Phím đàn dìu dặt tay tiên, Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa . Khúc đâu đầm ấm dương hòa, 3200. Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh . Khúc đâu êm ái xuân tình, Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên? Trong sao châu nhỏ duềnh quyên, Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông ! 3205. Lọt tai nghe suốt năm cung, Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao . Chàng rằng: Phổ ấy tay nào, Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy ? Tẻ vui bởi tại lòng này, 3210. Hay là khổ tận đến ngày cam lai ? Nàng rằng: Ví chút nghề chơi, Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu ! Một phen tri kỷ cùng nhau, Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa . 3215. Chuyện trò chưa cạn tóc tơ, Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông . Tình riêng chàng lại nói sòng, Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao . Cho hay thục nữ chí cao, 3220. Phải người tối mận sớm đào như ai ? Hai tình vẹn vẽ hòa hai, Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ . Khi chén rượu khi cuộc cờ, Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên . 3225. Ba sinh đã phỉ mười nguyền, Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy. Nhớ lời lập một am mây, Khiến người thân thích rước thầy Giác Duyên . Đến nơi đóng cửa cài then, 3230. Rêu trùm kẻ ngạch cỏ len mái nhà, Sư đà hái thuốc phương xa, Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu ? Nặng vì chút nghĩa bấy lâu, Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai . 3235. Một nhà phúc lộc gồm hai, Nghàn năm dằng dặc quan giai lần lần. Thừa gia chẳng hết nàng Vân, Một cây cù mộc một sân quế hòe . Phong lưu phú quý ai bì, 3240. Vườn xuân một cửa để bia muôn đời Ngẫm hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao. 3245. Có đâu thiên vị người nào, Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai, Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ tai một vần. Đã mang lấy nghiệp vào thân, 3250. Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Lời quê chắp nhặt dông dài, Mua vui cũng được một vài trống canh.
|
| | | Y Nhi Admin
Tổng số bài gửi : 3173 Registration date : 22/11/2007
| Tiêu đề: Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du Sat 01 Dec 2007, 17:09 | |
| 2973. Cơ. Cơ trời. Duyên: duyên may. Câu này ý nói: Cơ trời xui khiến, duyên số lạ lùng.
2975. Linh vị: Bài vị thờ linh hồn người chết.
2984. Pháp sư: Tiếng đồn xưng những tăng ni, đạo sĩ cấp trên.
2985. Nhân quả: ở đây có nghĩa như là nhân duyên, duyên nợ.
2989. Cửa bồ đề: Cửa Phật.
2990. Thảo am: Chùa lợp tranh.
2991. Phật tiền: Trước bàn thờ Phật.
2999. Minh dương: Cõi tối và cõi sáng, tức âm phủ và dương gian.
3000. Cửu nguyên: Tên một xứ ở tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc) đời Xuân Thu là chỗ chôn các quan khánh và đại phu nhà Tần, người sau bèn dùng chữ cửu nguyên để chỉ mộ địa nói chung.
3005. Giang tân: Ven sông;
3011. Phương trưởng: Khôn lớn và trưởng thành.
3020. Trần tạ: Bày tỏ lòng tạ ơn.
Từ bi: Thương người, chữ của nhà Phật.
3039. Tái thế tương phùng: Gặp nhau ở đời thứ hai, ý nói thân Kiều như chết đi sống lại để gặp gỡ gia đình.
3049. Trùng sinh: Đẻ lại lần thứ hai, ý nói làm cho mình sống lại. Chỉ vào ơn của Giác duyên.
3051. Bỉ thứ nhất thì: Do câu Bỉ nhất thì, thử nhất thì ý nói xưa kia là một thì, bây giờ là một thì, hoàn cảnh khác nhau không thể câu nệ được.
3052. Tòng quyền: Theo quyền biến, ý nói phải thay đổi việc làm cho thích nghi, không thể nhất nhất giữ đạo thường được.
3056. Lập am: Dựng chùa, ý nói sẽ làm ngôi chùa riêng, mời Giác Duyên về ở chung.
3063. Tác hợp: Do chữ Kinh thi: Thiên tác chỉ hợp, ý nói duyên trời xui khiến cho Kim Trọng, Thuý Kiều gặp gỡ và kết hợp với nhau.
3065. Bình địa ba đào:Ý nói những sự bất trắc trong đời người, chẳng khác gì đất bằng lại nổi sóng.
3068. Tục ngữ: Máu chảy ruột mềm, ý nói giữa bà con ruột thịt có sự tương quan mật thiết, như máu với ruột, hễ máu chảy thì ruột mềm.
3071. Gương vỡ lại lành: Dịch chữ Phá kính trùng viên. Nguyên đời Trần (Trung Quốc) Từ Đức Ngôn lấy Lạc Xương công chúa. Khi biết nước nhà sắp bị diệt, vợ chồng thế nào cũng bị phân ly, bèn đập vỡ cái gương, mỗi người giữ một nửa, dùng làm của tin để tìm gặp nhau, sau quả nhiên hai người lại nối được tình nghĩa vợ chồng. Câu này dùng điển ấy.
3075: Kinh Thi: Phiếu hữ mai, kỳ thực nhất hề... Phiếu hữu mai, kỳ thực tam hề...(Mơ rụng xuống, quả còn bảy phần..., mơ rụng xuống, quả còn ba phần) ý nói tiết xuân đã muộn nên kíp lo liệu việc hôn nhân. ở đây Thuý Vân muốn nói Kiều vẫn còn vừa tuổi đi lấy chồng.
3085: Thâm giao: Giao ước với nhau một cách ân cần, cốt thiết.
3087: Vật đổi sao dời: ý nói mọi việc trên đời đều thay đổi.
3088: Câu thơ này ý nói: trước khi đã có lời thề sống chết với nhau thì dù sống, dù chết cũng phải giữ lấy lời thề ấy.
3091: Gia thất: Tả truyện có câu: Nam hữu thất, nữ hữu gia. Nghĩa là con trai có vợ, con gái có chồng. Gia thất duyên hài: Đẹp duyên vợ chồng.
3094: Câu này ý nói: Con gái lấy chồng phải như là hoa còn phong nhị, vầng trăng chưa khuyết ý nói trinh tiết còn nguyên vẹn.
3096: Đuốc hoa: Câu này ý nói: Nếu trinh tiết còn nguyên thì đêm hợp hôn mới không hổ thẹn.
3097: Ngộ biến: Gặp phải tai biến.
3104: Trần cấu: Bụi nhơ.
3110: Cầm sắt: Kinh thi: Thê tử hảo hợp như cổ sắt cầm. (Vợ con hoà hợp như gảy đàn sắt, đàn cầm). Người sau bèn dùng hai chữ cầm sắt để chỉ tình vợ chồng.
Cầm cờ: Khi bầu bạn gặp nhau thường gảy đàn, đánh cờ làm vui, cho nên người ta thường dùng hai chữ cầm kỳ để chỉ tình bạn hữu. Câu này ý nói: Nên đem tình vợ chồng đổi làm tình bầu bạn.
3118: Quyền: Quyền biến, nghĩa là theo hoàn cảnh mà thay đổi các xử sự. Chấp kinh: Giữ theo đạo thường, lê thường.
3126: Chàng Tiêu: Do chữ Tiêu Lang, tiếng xưng hô của người con gái đối với tình nhân. Tình sử chép: Thôi Giao, đời Đường, có người yêu bị người ta bắt bán cho quan Liên suý. Chàng buồn rầu làm bài thơ, trong có câu: Hầu môn nhất nhập thâm tự hải, tòng thử Tiêu làng thị lộ thân (Cửa hầu vào rồi thấy sâu như biển, từ đấy chàng Tiêu là người khách qua đường). Câu này ý nói: Nỡ nào lại hững hờ không nhận người yêu cũ hay sao.
3140: Câu này ý nói: Kim Trọng, Thuý Kiều cùng nhau kể lể những chuyện buồn, chuyện vui mãi cho đến khi đêm đã khuya, trăng đã cao.
3148: Xướng tuỳ: Do câu Phu xướng phụ tuỳ (Chồng xướng vợ nghe theo). Đấy dùng để thay cho chữ phu phụ (vợ chồng).
3160: Câu này ý nói: Nếu Kim Trọng nghĩ đến việc sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường về sau thì đã có Thuý Vân.
3161: Kiều ngầm ý nói rằng: Nàng sở dĩ bị cảnh ong qua bướm lại là do hàon cảnh bắt buộc, chứ tâm hồn nàng thì vẫn trong trắng. Chữ Trinh đây hiểu về phương diện tinh thần chứ không phải về thể xác.
3175: Đáy bề mò kim: Dịch câu Hải đề lao châm, ý nói làm một việc rất khó khăn, mất nhiều công phu.
3176: Câu này ý nói: Bấy lâu đi tìm nàng là đeo đuổi lời thề vàng đá, không phải là tìm thú trăng hoa.
3180: Cao thâm: Cao sâu, ý nói Kiều cảm tạ cái nghĩa cao ơn sâu của Kim Trọng.
3199: Dương hoà: Khí dương đầm ấm của mùa xuân.
3200: Hồ điệp: Con bướm.
Trang sinh: Tức Trang Chu, hay Trang Tử. đời Chiến Quốc. Xưa Trang Chu nằm chiêm bao thấy mình hoá thành con bướm tung bay nhởn nhơ, tỉnh dậy bàng hoàng tự hỏi: Không hiểu ta hoá thành bướm, hay chính bướm đương hoá thành ta. ở đây nói khúc đàn tiêu dao, phiêu dật.
3202: Thục đế: Vua nước Thục.
Đỗ quyên: Con chim quốc. Tương truyền xưa vua nước Thục buồn vì mất nước, chết hoá thành con chim đỗ quyên, tiếng kêu ai oán.
3203: Duềnh quyên: Vũng nước biển sáng đẹp.
3204: Lam Điền: Tên một hòn núi ở tỉnh Thiểm Tây, chỗ sản sinh nhiều ngọc quí.
3210: Khổ tận cam lai: Đắng hết ngọt đến, ý nói vận khổ đã qua, vận sướng bắt đầu tới.
3219: Thục nữ chí cao: Người con gái hiền thục có tâm chí cao thượng.
3220: Sớm mận tối đào: Sớm ấp mận, tối ôm đào, ý nói người trăng gió, tình yêu không chuyên nhất. Xem chú thích 1289.
3236: Quan giai: Cấp bậc quan lại, ý nói Kim Trọng làm quan được lần lần thăng chức.
3237: Thừa gia: Đảm đương việc nhà, cũng có nghĩa là sang dòng nối dõi tông đường.
3238: Cù mộc: Chỉ vợ cả. Xem chú thích 902.
Quế hoè: Xưa họ Đậu, đời Tống, có năm người con trai đều hiển đạt, Vương Đạo có câu thơ khen: Đan quế ngũ chi phương (Quế đỏ năm cành thơm). Xem thêm điển Vương Hữu. Câu này dẫn mấy điển ấy để nói Kim Trọng có đông con cháu hiển đạt sau này. |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Truyện Kiều - Nguyễn Du | |
| |
| | | |
Similar topics | |
|
Trang 3 trong tổng số 3 trang | Chuyển đến trang : 1, 2, 3 | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |