Đang xem thì mất điện mãi mới có lại. PN xem phim này lâu rồi quên mất nhiều tình tiết. Nhưng phim mà PN xem thì nhân vật Đoàn Dự do Trần Hạo Dân đóng.
Nghe nói Trần Hạo Dân mới đi thẩm mỹ chỉnh sửa dung nhan cho trẻ lại đó tỷ, 5 bó rùi mừ!
Thẩm mỹ không khéo giống bà Thẩm Thuý Hằng thì nguy
có phương pháp thẩm mỹ không cần dao kéo nè tỷ:
Phương Nguyên
Tổng số bài gửi : 4905 Registration date : 23/03/2013
Đang xem thì mất điện mãi mới có lại. PN xem phim này lâu rồi quên mất nhiều tình tiết. Nhưng phim mà PN xem thì nhân vật Đoàn Dự do Trần Hạo Dân đóng.
Nghe nói Trần Hạo Dân mới đi thẩm mỹ chỉnh sửa dung nhan cho trẻ lại đó tỷ, 5 bó rùi mừ!
Thẩm mỹ không khéo giống bà Thẩm Thuý Hằng thì nguy
có phương pháp thẩm mỹ không cần dao kéo nè tỷ:
PP này hay nè TM. Hông đau đỡ tổn thọ
Ai Hoa
Tổng số bài gửi : 10638 Registration date : 23/11/2007
Tiêu đề: Re: Truyện xưa - Ái Hoa Sun 21 Jul 2019, 10:04
Phương Nguyên đã viết:
18.07.2019
Trà Mi đã viết:
Phương Nguyên đã viết:
Trà Mi đã viết:
Phương Nguyên đã viết:
Ai Hoa đã viết:
Trà Mi đã viết:
Phải đoạn này hông tỷ?
Anh chàng này cũng biết lợi dụng quá há!
Đang xem thì mất điện mãi mới có lại. PN xem phim này lâu rồi quên mất nhiều tình tiết. Nhưng phim mà PN xem thì nhân vật Đoàn Dự do Trần Hạo Dân đóng.
Nghe nói Trần Hạo Dân mới đi thẩm mỹ chỉnh sửa dung nhan cho trẻ lại đó tỷ, 5 bó rùi mừ!
Thẩm mỹ không khéo giống bà Thẩm Thuý Hằng thì nguy
có phương pháp thẩm mỹ không cần dao kéo nè tỷ:
PP này hay nè TM. Hông đau đỡ tổn thọ
Còn phương pháp nữa là dùng photoshop!
_________________________
Sông rồi cạn, núi rồi mòn Thân về cát bụi, tình còn hư không
Phương Nguyên
Tổng số bài gửi : 4905 Registration date : 23/03/2013
Tiêu đề: Re: Truyện xưa - Ái Hoa Sun 21 Jul 2019, 11:01
Ai Hoa đã viết:
Phương Nguyên đã viết:
18.07.2019
Trà Mi đã viết:
Phương Nguyên đã viết:
Trà Mi đã viết:
Phương Nguyên đã viết:
Ai Hoa đã viết:
Trà Mi đã viết:
Phải đoạn này hông tỷ?
Anh chàng này cũng biết lợi dụng quá há!
Đang xem thì mất điện mãi mới có lại. PN xem phim này lâu rồi quên mất nhiều tình tiết. Nhưng phim mà PN xem thì nhân vật Đoàn Dự do Trần Hạo Dân đóng.
Nghe nói Trần Hạo Dân mới đi thẩm mỹ chỉnh sửa dung nhan cho trẻ lại đó tỷ, 5 bó rùi mừ!
Thẩm mỹ không khéo giống bà Thẩm Thuý Hằng thì nguy
có phương pháp thẩm mỹ không cần dao kéo nè tỷ:
PP này hay nè TM. Hông đau đỡ tổn thọ
Còn phương pháp nữa là dùng photoshop!
Dùng phương pháp của thầy thì hông đi đóng phim được ạ. Chỉ có thể lừa người ta trên mạng thui
Ai Hoa
Tổng số bài gửi : 10638 Registration date : 23/11/2007
Tiêu đề: Re: Truyện xưa - Ái Hoa Sun 21 Jul 2019, 11:09
Phương Nguyên đã viết:
Ai Hoa đã viết:
Phương Nguyên đã viết:
18.07.2019
Trà Mi đã viết:
Phương Nguyên đã viết:
Trà Mi đã viết:
Phương Nguyên đã viết:
Ai Hoa đã viết:
Trà Mi đã viết:
Phải đoạn này hông tỷ?
Anh chàng này cũng biết lợi dụng quá há!
Đang xem thì mất điện mãi mới có lại. PN xem phim này lâu rồi quên mất nhiều tình tiết. Nhưng phim mà PN xem thì nhân vật Đoàn Dự do Trần Hạo Dân đóng.
Nghe nói Trần Hạo Dân mới đi thẩm mỹ chỉnh sửa dung nhan cho trẻ lại đó tỷ, 5 bó rùi mừ!
Thẩm mỹ không khéo giống bà Thẩm Thuý Hằng thì nguy
có phương pháp thẩm mỹ không cần dao kéo nè tỷ:
PP này hay nè TM. Hông đau đỡ tổn thọ
Còn phương pháp nữa là dùng photoshop!
Dùng phương pháp của thầy thì hông đi đóng phim được ạ. Chỉ có thể lừa người ta trên mạng thui
Phim cũng sửa được dzị? Chỉ có dìa nhà hong lừa được vợ thui!
_________________________
Sông rồi cạn, núi rồi mòn Thân về cát bụi, tình còn hư không
Ai Hoa
Tổng số bài gửi : 10638 Registration date : 23/11/2007
Chỗ Giáng Hương có bức bình phong trắng. Từ thường đề thơ lên trên rằng:
Nhãn để yên hà cước để vân, Thanh quang sái sái bức Tam Thần. Tùng hoa bán lão hương phong động, Môi dẫn Thương Lương điếu đĩnh nhân.
Dịch:
Khói rợp mây che khắp bốn trời, Non Thần trong sáng đó là nơi. Hoa thông theo gió đưa hương ngát, Dắt dẫn thuyền câu khách một người.
II
Thu phong nhất dạ nguyệt man san, Liên quyển hoàng hoa nhập ỷ lan. Tửu lực khốn nhân thi tứ khổ, Ngâm hào túy các bích lang can.
Dịch:
Một đêm gió thổi nguyệt đầy non, Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son. Rượu mệt mê say người nặng trĩu, Mượn đem bút trúc gửi thi hồn.
III
Bảo áp ngưng hàn hoán túc hương, Biệt tài tân phổ lý nghê thường. Từ thành bất cảm cao thanh đạo, Kinh khởi âm lai phong vũ trường.
Dịch:
Đốt lại lò trầm nhóm lại hương, Đắn đo đổi mới khúc nghê thường, Bài thành không dám cất cao tiếng, E gió mưa về ẩm một phương.
IV
Hồng Hà đối khởi Xích thành tiêu, Sáp hán cung tường tỏa tịch liệu, Tinh đẩu nhiễu lan thiên nhất ác, Dạ thâm Tần nữ học xuy tiêu.
Dịch:
Ráng đỏ đùn lên tựa gấm thêu, Cung tường cao vút vắng teo teo, Trăng sao dường mọc quanh bên mái, Tần nữ đêm dài học thổi tiêu. (28)
V
Thương mang vân ngoại đoản trường chu, Mân Quế kiền khôn nhật dạ phù, Nhất điểu mộ xuân phi bất tận, Liên không đạm tảo bích du du.
Dịch:
Ngoài mây thấp thoáng bóng tiên châu, Mận, Quế (29) phương trời ngút tận đâu. Xuân muộn con chim bay lạc lõng, Vòm không quang sạch biếc làu làu.
VI
Khước hàn liêm phóng nguyệt trùng trùng, Khiếp đối suy nhan bả kính dung. Cách trúc hoán lai tiên chẩm mộng, Ngũ canh vô nại viễn sơn chung.
Dịch:
Rèm buông cản lạnh nguyệt linh lung, Gương võ vàng soi luống thẹn thùng. Cách trúc gối tiên vừa khẽ chợp, Non xa đưa rộn tiếng chuông đồng.
VII Phù phù thụy ái nhiễu kim khuê, Phương trượng huề nam Nhược thủy tê. Xướng bãi đà canh thiên dục thự, Hương tâm hà xứ nhất thanh kê.
Dịch:
Khí lành quanh quất phủ buồng xuân, Phương trượng (30) non xa, Nhược thủy (31) gần Dứt tiếng canh đà (32) trời sắp sáng, Lòng quê theo rõi áng mây Tần.
VIII
Yên lam như kế liễu như điền, Tỏa thát tình khuy hải bạc thuyền. Vũ khách khứ thời vô xứ mịch, Bộ hư thanh ngoại bích liên thiên.
Dịch:
Hơi lam: mái tóc, liễu: hoa cài, Thuyền bể xa trông thấp thoáng ngoài. Đạo sĩ một đi tìm khó thấy, Trong không tản mác tiếng ngân dài.
IX
Tứ diện ba đào nhất kế sơn, Dạ lai hà xứ mộng hương quan. Mang mang trần giới hồi đầu viễn, Thân tại hồng vân bích thủy gian.
Dịch:
Sóng nước bao quanh núi một vùng, Mộng về quê cũ lối không thông. Mây vàng nước biếc thân nương đậu, Trần giới xa coi ngút mịt mùng.
X
Đào hoa nhiễu giản xuất Thiên thai, ủy địa tàn hồng bán lục đài. Khước tiếu Lưu lang khinh xuất động, Lâm phong kỷ bả ngọc thư khai.
Dịch: Mặt suối hoa đào lặng lẽ trôi, Rêu trùm sắc thắm uổng pha phôi. Lưu Lang biệt động sao khờ mấy, Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi. (33)
Từ Thức, từ khi bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay mầu biếc. Những đêm gió thổi, những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng, quấy nhiễu khiến không sao ngủ được. Một hôm trông ra bể, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương Nam chàng trỏ bảo Giáng Hương rằng: - Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.
Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng: - Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?
Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ Thức nói: - Tôi xin hẹn trong một thời kỳ bao nhiêu lâu, để về cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà cho yên, sẽ lại đến đây để với nàng cùng già ở chốn làng mây bến nước.
Giáng Hương khóc mà nói: - Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng về nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.
Nàng nhân thưa với phu nhân, phu nhân thở dài nói: - Không ngờ chàng lại mắc mớ vì mối lòng trần như vậy.
Bèn ban cho một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa mà nói: - Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình ngày cũ.
Rồi tràn nước mắt mà chia biệt.
Chàng đi chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc mầu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói: - Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi. (34)
Chàng bấy giờ mới hậm hực bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim loan mà bay mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: "Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên bể dịp khác còn đâu!" mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi sau không biết đi đâu mất.
(Theo Truyền kỳ mạn lục, tác giả: Nguyễn Dữ, bản dịch: Nguyễn Thế Nghi) _____________________ (28) Tần nữ: tức là Lộng Ngọc, con gái Tần Mục Công. (29) Mân, Quế: nguyên chú: Mân thuộc vùng đất Bách Việt giáp với Ngao Sơn biển Đông; Quế là Quế Châu, Quảng Tây. Ngày nay Mân là tỉnh Phúc Kiến. (30) Phương trượng: tăng phòng. Nguyên do là Vương Huyền Sách đời Đường sang sứ Tây vực, vào chỗ ở của nhà sư Duy Ma, thấy căn buồng của sư vuông vắn, mỗi bề mười hốt, bèn gọi là phương trượng. (31) Nhược thủy: theo Sơn hải kinh, là một dòng sông ở vùng cực tây của Trung Quốc, sức nước rất yếu, dù một hạt cải cũng không thể nổi trên mặt nước: tương truyền là nơi tiên ở. (32) Đà: tên một giống cá có chân, dài vài trượng, da bền có thể bưng trống được; tiếng kêu rất vang, mỗi lần kêu rất đúng với một trống canh. (33) Bài thơ này lấy ý từ câu chuyện Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai. Đời Hán, Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào núi hái thuốc. Hai chàng đi mãi lạc vào Thiên Thai, gặp tiên nữ, lấy làm vợ. Được một thời gian, nhớ nhà đòi về, tiên nữ tiễn đưa đến cửa động. Lưu Nguyễn về đến nhà thì đã qua bảy đời, bạn bè họ hàng không còn ai, hai người muốn trở lại nơi cũ nhưng không tìm được lối xưa nữa. Nhà thơ Tào Đường (đời Đường) có năm bài thơ "kể" chuyện này rất được nhiều người ưa thích. (34) Năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh: Diên Ninh là niên hiệu của Lê Nhân Tông từ 1454 đến 1459; năm thứ 5 là: 1458.
_________________________
Sông rồi cạn, núi rồi mòn Thân về cát bụi, tình còn hư không
Trăng
Tổng số bài gửi : 1844 Registration date : 23/04/2014
Chỗ Giáng Hương có bức bình phong trắng. Từ thường đề thơ lên trên rằng:
Nhãn để yên hà cước để vân, Thanh quang sái sái bức Tam Thần. Tùng hoa bán lão hương phong động, Môi dẫn Thương Lương điếu đĩnh nhân.
Dịch:
Khói rợp mây che khắp bốn trời, Non Thần trong sáng đó là nơi. Hoa thông theo gió đưa hương ngát, Dắt dẫn thuyền câu khách một người.
II
Thu phong nhất dạ nguyệt man san, Liên quyển hoàng hoa nhập ỷ lan. Tửu lực khốn nhân thi tứ khổ, Ngâm hào túy các bích lang can.
Dịch:
Một đêm gió thổi nguyệt đầy non, Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son. Rượu mệt mê say người nặng trĩu, Mượn đem bút trúc gửi thi hồn.
III
Bảo áp ngưng hàn hoán túc hương, Biệt tài tân phổ lý nghê thường. Từ thành bất cảm cao thanh đạo, Kinh khởi âm lai phong vũ trường.
Dịch:
Đốt lại lò trầm nhóm lại hương, Đắn đo đổi mới khúc nghê thường, Bài thành không dám cất cao tiếng, E gió mưa về ẩm một phương.
IV
Hồng Hà đối khởi Xích thành tiêu, Sáp hán cung tường tỏa tịch liệu, Tinh đẩu nhiễu lan thiên nhất ác, Dạ thâm Tần nữ học xuy tiêu.
Dịch:
Ráng đỏ đùn lên tựa gấm thêu, Cung tường cao vút vắng teo teo, Trăng sao dường mọc quanh bên mái, Tần nữ đêm dài học thổi tiêu. (28)
V
Thương mang vân ngoại đoản trường chu, Mân Quế kiền khôn nhật dạ phù, Nhất điểu mộ xuân phi bất tận, Liên không đạm tảo bích du du.
Dịch:
Ngoài mây thấp thoáng bóng tiên châu, Mận, Quế (29) phương trời ngút tận đâu. Xuân muộn con chim bay lạc lõng, Vòm không quang sạch biếc làu làu.
VI
Khước hàn liêm phóng nguyệt trùng trùng, Khiếp đối suy nhan bả kính dung. Cách trúc hoán lai tiên chẩm mộng, Ngũ canh vô nại viễn sơn chung.
Dịch:
Rèm buông cản lạnh nguyệt linh lung, Gương võ vàng soi luống thẹn thùng. Cách trúc gối tiên vừa khẽ chợp, Non xa đưa rộn tiếng chuông đồng.
VII Phù phù thụy ái nhiễu kim khuê, Phương trượng huề nam Nhược thủy tê. Xướng bãi đà canh thiên dục thự, Hương tâm hà xứ nhất thanh kê.
Dịch:
Khí lành quanh quất phủ buồng xuân, Phương trượng (30) non xa, Nhược thủy (31) gần Dứt tiếng canh đà (32) trời sắp sáng, Lòng quê theo rõi áng mây Tần.
VIII
Yên lam như kế liễu như điền, Tỏa thát tình khuy hải bạc thuyền. Vũ khách khứ thời vô xứ mịch, Bộ hư thanh ngoại bích liên thiên.
Dịch:
Hơi lam: mái tóc, liễu: hoa cài, Thuyền bể xa trông thấp thoáng ngoài. Đạo sĩ một đi tìm khó thấy, Trong không tản mác tiếng ngân dài.
IX
Tứ diện ba đào nhất kế sơn, Dạ lai hà xứ mộng hương quan. Mang mang trần giới hồi đầu viễn, Thân tại hồng vân bích thủy gian.
Dịch:
Sóng nước bao quanh núi một vùng, Mộng về quê cũ lối không thông. Mây vàng nước biếc thân nương đậu, Trần giới xa coi ngút mịt mùng.
X
Đào hoa nhiễu giản xuất Thiên thai, ủy địa tàn hồng bán lục đài. Khước tiếu Lưu lang khinh xuất động, Lâm phong kỷ bả ngọc thư khai.
Dịch: Mặt suối hoa đào lặng lẽ trôi, Rêu trùm sắc thắm uổng pha phôi. Lưu Lang biệt động sao khờ mấy, Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi. (33)
Từ Thức, từ khi bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay mầu biếc. Những đêm gió thổi, những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng, quấy nhiễu khiến không sao ngủ được. Một hôm trông ra bể, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương Nam chàng trỏ bảo Giáng Hương rằng: - Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.
Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng: - Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?
Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ Thức nói: - Tôi xin hẹn trong một thời kỳ bao nhiêu lâu, để về cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà cho yên, sẽ lại đến đây để với nàng cùng già ở chốn làng mây bến nước.
Giáng Hương khóc mà nói: - Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng về nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.
Nàng nhân thưa với phu nhân, phu nhân thở dài nói: - Không ngờ chàng lại mắc mớ vì mối lòng trần như vậy.
Bèn ban cho một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa mà nói: - Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình ngày cũ.
Rồi tràn nước mắt mà chia biệt.
Chàng đi chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc mầu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói: - Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi. (34)
Chàng bấy giờ mới hậm hực bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim loan mà bay mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: "Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên bể dịp khác còn đâu!" mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi sau không biết đi đâu mất.
(Theo Truyền kỳ mạn lục, tác giả: Nguyễn Dữ, bản dịch: Nguyễn Thế Nghi) _____________________ (28) Tần nữ: tức là Lộng Ngọc, con gái Tần Mục Công. (29) Mân, Quế: nguyên chú: Mân thuộc vùng đất Bách Việt giáp với Ngao Sơn biển Đông; Quế là Quế Châu, Quảng Tây. Ngày nay Mân là tỉnh Phúc Kiến. (30) Phương trượng: tăng phòng. Nguyên do là Vương Huyền Sách đời Đường sang sứ Tây vực, vào chỗ ở của nhà sư Duy Ma, thấy căn buồng của sư vuông vắn, mỗi bề mười hốt, bèn gọi là phương trượng. (31) Nhược thủy: theo Sơn hải kinh, là một dòng sông ở vùng cực tây của Trung Quốc, sức nước rất yếu, dù một hạt cải cũng không thể nổi trên mặt nước: tương truyền là nơi tiên ở. (32) Đà: tên một giống cá có chân, dài vài trượng, da bền có thể bưng trống được; tiếng kêu rất vang, mỗi lần kêu rất đúng với một trống canh. (33) Bài thơ này lấy ý từ câu chuyện Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai. Đời Hán, Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào núi hái thuốc. Hai chàng đi mãi lạc vào Thiên Thai, gặp tiên nữ, lấy làm vợ. Được một thời gian, nhớ nhà đòi về, tiên nữ tiễn đưa đến cửa động. Lưu Nguyễn về đến nhà thì đã qua bảy đời, bạn bè họ hàng không còn ai, hai người muốn trở lại nơi cũ nhưng không tìm được lối xưa nữa. Nhà thơ Tào Đường (đời Đường) có năm bài thơ "kể" chuyện này rất được nhiều người ưa thích. (34) Năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh: Diên Ninh là niên hiệu của Lê Nhân Tông từ 1454 đến 1459; năm thứ 5 là: 1458.
Là vợ chồng mà Từ Thức xưng " tôi " nghe lạnh lùng qúa Thầy ơi
Phương Nguyên
Tổng số bài gửi : 4905 Registration date : 23/03/2013
Chỗ Giáng Hương có bức bình phong trắng. Từ thường đề thơ lên trên rằng:
Nhãn để yên hà cước để vân, Thanh quang sái sái bức Tam Thần. Tùng hoa bán lão hương phong động, Môi dẫn Thương Lương điếu đĩnh nhân.
Dịch:
Khói rợp mây che khắp bốn trời, Non Thần trong sáng đó là nơi. Hoa thông theo gió đưa hương ngát, Dắt dẫn thuyền câu khách một người.
II
Thu phong nhất dạ nguyệt man san, Liên quyển hoàng hoa nhập ỷ lan. Tửu lực khốn nhân thi tứ khổ, Ngâm hào túy các bích lang can.
Dịch:
Một đêm gió thổi nguyệt đầy non, Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son. Rượu mệt mê say người nặng trĩu, Mượn đem bút trúc gửi thi hồn.
III
Bảo áp ngưng hàn hoán túc hương, Biệt tài tân phổ lý nghê thường. Từ thành bất cảm cao thanh đạo, Kinh khởi âm lai phong vũ trường.
Dịch:
Đốt lại lò trầm nhóm lại hương, Đắn đo đổi mới khúc nghê thường, Bài thành không dám cất cao tiếng, E gió mưa về ẩm một phương.
IV
Hồng Hà đối khởi Xích thành tiêu, Sáp hán cung tường tỏa tịch liệu, Tinh đẩu nhiễu lan thiên nhất ác, Dạ thâm Tần nữ học xuy tiêu.
Dịch:
Ráng đỏ đùn lên tựa gấm thêu, Cung tường cao vút vắng teo teo, Trăng sao dường mọc quanh bên mái, Tần nữ đêm dài học thổi tiêu. (28)
V
Thương mang vân ngoại đoản trường chu, Mân Quế kiền khôn nhật dạ phù, Nhất điểu mộ xuân phi bất tận, Liên không đạm tảo bích du du.
Dịch:
Ngoài mây thấp thoáng bóng tiên châu, Mận, Quế (29) phương trời ngút tận đâu. Xuân muộn con chim bay lạc lõng, Vòm không quang sạch biếc làu làu.
VI
Khước hàn liêm phóng nguyệt trùng trùng, Khiếp đối suy nhan bả kính dung. Cách trúc hoán lai tiên chẩm mộng, Ngũ canh vô nại viễn sơn chung.
Dịch:
Rèm buông cản lạnh nguyệt linh lung, Gương võ vàng soi luống thẹn thùng. Cách trúc gối tiên vừa khẽ chợp, Non xa đưa rộn tiếng chuông đồng.
VII Phù phù thụy ái nhiễu kim khuê, Phương trượng huề nam Nhược thủy tê. Xướng bãi đà canh thiên dục thự, Hương tâm hà xứ nhất thanh kê.
Dịch:
Khí lành quanh quất phủ buồng xuân, Phương trượng (30) non xa, Nhược thủy (31) gần Dứt tiếng canh đà (32) trời sắp sáng, Lòng quê theo rõi áng mây Tần.
VIII
Yên lam như kế liễu như điền, Tỏa thát tình khuy hải bạc thuyền. Vũ khách khứ thời vô xứ mịch, Bộ hư thanh ngoại bích liên thiên.
Dịch:
Hơi lam: mái tóc, liễu: hoa cài, Thuyền bể xa trông thấp thoáng ngoài. Đạo sĩ một đi tìm khó thấy, Trong không tản mác tiếng ngân dài.
IX
Tứ diện ba đào nhất kế sơn, Dạ lai hà xứ mộng hương quan. Mang mang trần giới hồi đầu viễn, Thân tại hồng vân bích thủy gian.
Dịch:
Sóng nước bao quanh núi một vùng, Mộng về quê cũ lối không thông. Mây vàng nước biếc thân nương đậu, Trần giới xa coi ngút mịt mùng.
X
Đào hoa nhiễu giản xuất Thiên thai, ủy địa tàn hồng bán lục đài. Khước tiếu Lưu lang khinh xuất động, Lâm phong kỷ bả ngọc thư khai.
Dịch: Mặt suối hoa đào lặng lẽ trôi, Rêu trùm sắc thắm uổng pha phôi. Lưu Lang biệt động sao khờ mấy, Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi. (33)
Từ Thức, từ khi bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay mầu biếc. Những đêm gió thổi, những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng, quấy nhiễu khiến không sao ngủ được. Một hôm trông ra bể, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương Nam chàng trỏ bảo Giáng Hương rằng: - Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.
Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng: - Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?
Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ Thức nói: - Tôi xin hẹn trong một thời kỳ bao nhiêu lâu, để về cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà cho yên, sẽ lại đến đây để với nàng cùng già ở chốn làng mây bến nước.
Giáng Hương khóc mà nói: - Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng về nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.
Nàng nhân thưa với phu nhân, phu nhân thở dài nói: - Không ngờ chàng lại mắc mớ vì mối lòng trần như vậy.
Bèn ban cho một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa mà nói: - Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình ngày cũ.
Rồi tràn nước mắt mà chia biệt.
Chàng đi chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc mầu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói: - Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi. (34)
Chàng bấy giờ mới hậm hực bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim loan mà bay mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: "Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên bể dịp khác còn đâu!" mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi sau không biết đi đâu mất.
(Theo Truyền kỳ mạn lục, tác giả: Nguyễn Dữ, bản dịch: Nguyễn Thế Nghi) _____________________ (28) Tần nữ: tức là Lộng Ngọc, con gái Tần Mục Công. (29) Mân, Quế: nguyên chú: Mân thuộc vùng đất Bách Việt giáp với Ngao Sơn biển Đông; Quế là Quế Châu, Quảng Tây. Ngày nay Mân là tỉnh Phúc Kiến. (30) Phương trượng: tăng phòng. Nguyên do là Vương Huyền Sách đời Đường sang sứ Tây vực, vào chỗ ở của nhà sư Duy Ma, thấy căn buồng của sư vuông vắn, mỗi bề mười hốt, bèn gọi là phương trượng. (31) Nhược thủy: theo Sơn hải kinh, là một dòng sông ở vùng cực tây của Trung Quốc, sức nước rất yếu, dù một hạt cải cũng không thể nổi trên mặt nước: tương truyền là nơi tiên ở. (32) Đà: tên một giống cá có chân, dài vài trượng, da bền có thể bưng trống được; tiếng kêu rất vang, mỗi lần kêu rất đúng với một trống canh. (33) Bài thơ này lấy ý từ câu chuyện Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai. Đời Hán, Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào núi hái thuốc. Hai chàng đi mãi lạc vào Thiên Thai, gặp tiên nữ, lấy làm vợ. Được một thời gian, nhớ nhà đòi về, tiên nữ tiễn đưa đến cửa động. Lưu Nguyễn về đến nhà thì đã qua bảy đời, bạn bè họ hàng không còn ai, hai người muốn trở lại nơi cũ nhưng không tìm được lối xưa nữa. Nhà thơ Tào Đường (đời Đường) có năm bài thơ "kể" chuyện này rất được nhiều người ưa thích. (34) Năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh: Diên Ninh là niên hiệu của Lê Nhân Tông từ 1454 đến 1459; năm thứ 5 là: 1458.
Ông Từ Thức này nói hay thật. Còn hay hơn cả thơ nữa
Ai Hoa
Tổng số bài gửi : 10638 Registration date : 23/11/2007
Chỗ Giáng Hương có bức bình phong trắng. Từ thường đề thơ lên trên rằng:
Nhãn để yên hà cước để vân, Thanh quang sái sái bức Tam Thần. Tùng hoa bán lão hương phong động, Môi dẫn Thương Lương điếu đĩnh nhân.
Dịch:
Khói rợp mây che khắp bốn trời, Non Thần trong sáng đó là nơi. Hoa thông theo gió đưa hương ngát, Dắt dẫn thuyền câu khách một người.
II
Thu phong nhất dạ nguyệt man san, Liên quyển hoàng hoa nhập ỷ lan. Tửu lực khốn nhân thi tứ khổ, Ngâm hào túy các bích lang can.
Dịch:
Một đêm gió thổi nguyệt đầy non, Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son. Rượu mệt mê say người nặng trĩu, Mượn đem bút trúc gửi thi hồn.
III
Bảo áp ngưng hàn hoán túc hương, Biệt tài tân phổ lý nghê thường. Từ thành bất cảm cao thanh đạo, Kinh khởi âm lai phong vũ trường.
Dịch:
Đốt lại lò trầm nhóm lại hương, Đắn đo đổi mới khúc nghê thường, Bài thành không dám cất cao tiếng, E gió mưa về ẩm một phương.
IV
Hồng Hà đối khởi Xích thành tiêu, Sáp hán cung tường tỏa tịch liệu, Tinh đẩu nhiễu lan thiên nhất ác, Dạ thâm Tần nữ học xuy tiêu.
Dịch:
Ráng đỏ đùn lên tựa gấm thêu, Cung tường cao vút vắng teo teo, Trăng sao dường mọc quanh bên mái, Tần nữ đêm dài học thổi tiêu. (28)
V
Thương mang vân ngoại đoản trường chu, Mân Quế kiền khôn nhật dạ phù, Nhất điểu mộ xuân phi bất tận, Liên không đạm tảo bích du du.
Dịch:
Ngoài mây thấp thoáng bóng tiên châu, Mận, Quế (29) phương trời ngút tận đâu. Xuân muộn con chim bay lạc lõng, Vòm không quang sạch biếc làu làu.
VI
Khước hàn liêm phóng nguyệt trùng trùng, Khiếp đối suy nhan bả kính dung. Cách trúc hoán lai tiên chẩm mộng, Ngũ canh vô nại viễn sơn chung.
Dịch:
Rèm buông cản lạnh nguyệt linh lung, Gương võ vàng soi luống thẹn thùng. Cách trúc gối tiên vừa khẽ chợp, Non xa đưa rộn tiếng chuông đồng.
VII Phù phù thụy ái nhiễu kim khuê, Phương trượng huề nam Nhược thủy tê. Xướng bãi đà canh thiên dục thự, Hương tâm hà xứ nhất thanh kê.
Dịch:
Khí lành quanh quất phủ buồng xuân, Phương trượng (30) non xa, Nhược thủy (31) gần Dứt tiếng canh đà (32) trời sắp sáng, Lòng quê theo rõi áng mây Tần.
VIII
Yên lam như kế liễu như điền, Tỏa thát tình khuy hải bạc thuyền. Vũ khách khứ thời vô xứ mịch, Bộ hư thanh ngoại bích liên thiên.
Dịch:
Hơi lam: mái tóc, liễu: hoa cài, Thuyền bể xa trông thấp thoáng ngoài. Đạo sĩ một đi tìm khó thấy, Trong không tản mác tiếng ngân dài.
IX
Tứ diện ba đào nhất kế sơn, Dạ lai hà xứ mộng hương quan. Mang mang trần giới hồi đầu viễn, Thân tại hồng vân bích thủy gian.
Dịch:
Sóng nước bao quanh núi một vùng, Mộng về quê cũ lối không thông. Mây vàng nước biếc thân nương đậu, Trần giới xa coi ngút mịt mùng.
X
Đào hoa nhiễu giản xuất Thiên thai, ủy địa tàn hồng bán lục đài. Khước tiếu Lưu lang khinh xuất động, Lâm phong kỷ bả ngọc thư khai.
Dịch: Mặt suối hoa đào lặng lẽ trôi, Rêu trùm sắc thắm uổng pha phôi. Lưu Lang biệt động sao khờ mấy, Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi. (33)
Từ Thức, từ khi bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay mầu biếc. Những đêm gió thổi, những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng, quấy nhiễu khiến không sao ngủ được. Một hôm trông ra bể, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương Nam chàng trỏ bảo Giáng Hương rằng: - Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.
Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng: - Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?
Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ Thức nói: - Tôi xin hẹn trong một thời kỳ bao nhiêu lâu, để về cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà cho yên, sẽ lại đến đây để với nàng cùng già ở chốn làng mây bến nước.
Giáng Hương khóc mà nói: - Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng về nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.
Nàng nhân thưa với phu nhân, phu nhân thở dài nói: - Không ngờ chàng lại mắc mớ vì mối lòng trần như vậy.
Bèn ban cho một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa mà nói: - Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình ngày cũ.
Rồi tràn nước mắt mà chia biệt.
Chàng đi chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc mầu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói: - Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi. (34)
Chàng bấy giờ mới hậm hực bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim loan mà bay mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: "Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên bể dịp khác còn đâu!" mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi sau không biết đi đâu mất.
(Theo Truyền kỳ mạn lục, tác giả: Nguyễn Dữ, bản dịch: Nguyễn Thế Nghi) _____________________ (28) Tần nữ: tức là Lộng Ngọc, con gái Tần Mục Công. (29) Mân, Quế: nguyên chú: Mân thuộc vùng đất Bách Việt giáp với Ngao Sơn biển Đông; Quế là Quế Châu, Quảng Tây. Ngày nay Mân là tỉnh Phúc Kiến. (30) Phương trượng: tăng phòng. Nguyên do là Vương Huyền Sách đời Đường sang sứ Tây vực, vào chỗ ở của nhà sư Duy Ma, thấy căn buồng của sư vuông vắn, mỗi bề mười hốt, bèn gọi là phương trượng. (31) Nhược thủy: theo Sơn hải kinh, là một dòng sông ở vùng cực tây của Trung Quốc, sức nước rất yếu, dù một hạt cải cũng không thể nổi trên mặt nước: tương truyền là nơi tiên ở. (32) Đà: tên một giống cá có chân, dài vài trượng, da bền có thể bưng trống được; tiếng kêu rất vang, mỗi lần kêu rất đúng với một trống canh. (33) Bài thơ này lấy ý từ câu chuyện Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai. Đời Hán, Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào núi hái thuốc. Hai chàng đi mãi lạc vào Thiên Thai, gặp tiên nữ, lấy làm vợ. Được một thời gian, nhớ nhà đòi về, tiên nữ tiễn đưa đến cửa động. Lưu Nguyễn về đến nhà thì đã qua bảy đời, bạn bè họ hàng không còn ai, hai người muốn trở lại nơi cũ nhưng không tìm được lối xưa nữa. Nhà thơ Tào Đường (đời Đường) có năm bài thơ "kể" chuyện này rất được nhiều người ưa thích. (34) Năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh: Diên Ninh là niên hiệu của Lê Nhân Tông từ 1454 đến 1459; năm thứ 5 là: 1458.
Là vợ chồng mà Từ Thức xưng " tôi " nghe lạnh lùng qúa Thầy ơi
Không xưng tôi thì xưng bằng gì?
_________________________
Sông rồi cạn, núi rồi mòn Thân về cát bụi, tình còn hư không
Ai Hoa
Tổng số bài gửi : 10638 Registration date : 23/11/2007
Chỗ Giáng Hương có bức bình phong trắng. Từ thường đề thơ lên trên rằng:
Nhãn để yên hà cước để vân, Thanh quang sái sái bức Tam Thần. Tùng hoa bán lão hương phong động, Môi dẫn Thương Lương điếu đĩnh nhân.
Dịch:
Khói rợp mây che khắp bốn trời, Non Thần trong sáng đó là nơi. Hoa thông theo gió đưa hương ngát, Dắt dẫn thuyền câu khách một người.
II
Thu phong nhất dạ nguyệt man san, Liên quyển hoàng hoa nhập ỷ lan. Tửu lực khốn nhân thi tứ khổ, Ngâm hào túy các bích lang can.
Dịch:
Một đêm gió thổi nguyệt đầy non, Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son. Rượu mệt mê say người nặng trĩu, Mượn đem bút trúc gửi thi hồn.
III
Bảo áp ngưng hàn hoán túc hương, Biệt tài tân phổ lý nghê thường. Từ thành bất cảm cao thanh đạo, Kinh khởi âm lai phong vũ trường.
Dịch:
Đốt lại lò trầm nhóm lại hương, Đắn đo đổi mới khúc nghê thường, Bài thành không dám cất cao tiếng, E gió mưa về ẩm một phương.
IV
Hồng Hà đối khởi Xích thành tiêu, Sáp hán cung tường tỏa tịch liệu, Tinh đẩu nhiễu lan thiên nhất ác, Dạ thâm Tần nữ học xuy tiêu.
Dịch:
Ráng đỏ đùn lên tựa gấm thêu, Cung tường cao vút vắng teo teo, Trăng sao dường mọc quanh bên mái, Tần nữ đêm dài học thổi tiêu. (28)
V
Thương mang vân ngoại đoản trường chu, Mân Quế kiền khôn nhật dạ phù, Nhất điểu mộ xuân phi bất tận, Liên không đạm tảo bích du du.
Dịch:
Ngoài mây thấp thoáng bóng tiên châu, Mận, Quế (29) phương trời ngút tận đâu. Xuân muộn con chim bay lạc lõng, Vòm không quang sạch biếc làu làu.
VI
Khước hàn liêm phóng nguyệt trùng trùng, Khiếp đối suy nhan bả kính dung. Cách trúc hoán lai tiên chẩm mộng, Ngũ canh vô nại viễn sơn chung.
Dịch:
Rèm buông cản lạnh nguyệt linh lung, Gương võ vàng soi luống thẹn thùng. Cách trúc gối tiên vừa khẽ chợp, Non xa đưa rộn tiếng chuông đồng.
VII Phù phù thụy ái nhiễu kim khuê, Phương trượng huề nam Nhược thủy tê. Xướng bãi đà canh thiên dục thự, Hương tâm hà xứ nhất thanh kê.
Dịch:
Khí lành quanh quất phủ buồng xuân, Phương trượng (30) non xa, Nhược thủy (31) gần Dứt tiếng canh đà (32) trời sắp sáng, Lòng quê theo rõi áng mây Tần.
VIII
Yên lam như kế liễu như điền, Tỏa thát tình khuy hải bạc thuyền. Vũ khách khứ thời vô xứ mịch, Bộ hư thanh ngoại bích liên thiên.
Dịch:
Hơi lam: mái tóc, liễu: hoa cài, Thuyền bể xa trông thấp thoáng ngoài. Đạo sĩ một đi tìm khó thấy, Trong không tản mác tiếng ngân dài.
IX
Tứ diện ba đào nhất kế sơn, Dạ lai hà xứ mộng hương quan. Mang mang trần giới hồi đầu viễn, Thân tại hồng vân bích thủy gian.
Dịch:
Sóng nước bao quanh núi một vùng, Mộng về quê cũ lối không thông. Mây vàng nước biếc thân nương đậu, Trần giới xa coi ngút mịt mùng.
X
Đào hoa nhiễu giản xuất Thiên thai, ủy địa tàn hồng bán lục đài. Khước tiếu Lưu lang khinh xuất động, Lâm phong kỷ bả ngọc thư khai.
Dịch: Mặt suối hoa đào lặng lẽ trôi, Rêu trùm sắc thắm uổng pha phôi. Lưu Lang biệt động sao khờ mấy, Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi. (33)
Từ Thức, từ khi bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay mầu biếc. Những đêm gió thổi, những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng, quấy nhiễu khiến không sao ngủ được. Một hôm trông ra bể, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương Nam chàng trỏ bảo Giáng Hương rằng: - Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.
Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng: - Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?
Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ Thức nói: - Tôi xin hẹn trong một thời kỳ bao nhiêu lâu, để về cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà cho yên, sẽ lại đến đây để với nàng cùng già ở chốn làng mây bến nước.
Giáng Hương khóc mà nói: - Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng về nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.
Nàng nhân thưa với phu nhân, phu nhân thở dài nói: - Không ngờ chàng lại mắc mớ vì mối lòng trần như vậy.
Bèn ban cho một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa mà nói: - Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình ngày cũ.
Rồi tràn nước mắt mà chia biệt.
Chàng đi chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc mầu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói: - Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi. (34)
Chàng bấy giờ mới hậm hực bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim loan mà bay mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: "Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên bể dịp khác còn đâu!" mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi sau không biết đi đâu mất.
(Theo Truyền kỳ mạn lục, tác giả: Nguyễn Dữ, bản dịch: Nguyễn Thế Nghi) _____________________ (28) Tần nữ: tức là Lộng Ngọc, con gái Tần Mục Công. (29) Mân, Quế: nguyên chú: Mân thuộc vùng đất Bách Việt giáp với Ngao Sơn biển Đông; Quế là Quế Châu, Quảng Tây. Ngày nay Mân là tỉnh Phúc Kiến. (30) Phương trượng: tăng phòng. Nguyên do là Vương Huyền Sách đời Đường sang sứ Tây vực, vào chỗ ở của nhà sư Duy Ma, thấy căn buồng của sư vuông vắn, mỗi bề mười hốt, bèn gọi là phương trượng. (31) Nhược thủy: theo Sơn hải kinh, là một dòng sông ở vùng cực tây của Trung Quốc, sức nước rất yếu, dù một hạt cải cũng không thể nổi trên mặt nước: tương truyền là nơi tiên ở. (32) Đà: tên một giống cá có chân, dài vài trượng, da bền có thể bưng trống được; tiếng kêu rất vang, mỗi lần kêu rất đúng với một trống canh. (33) Bài thơ này lấy ý từ câu chuyện Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai. Đời Hán, Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào núi hái thuốc. Hai chàng đi mãi lạc vào Thiên Thai, gặp tiên nữ, lấy làm vợ. Được một thời gian, nhớ nhà đòi về, tiên nữ tiễn đưa đến cửa động. Lưu Nguyễn về đến nhà thì đã qua bảy đời, bạn bè họ hàng không còn ai, hai người muốn trở lại nơi cũ nhưng không tìm được lối xưa nữa. Nhà thơ Tào Đường (đời Đường) có năm bài thơ "kể" chuyện này rất được nhiều người ưa thích. (34) Năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh: Diên Ninh là niên hiệu của Lê Nhân Tông từ 1454 đến 1459; năm thứ 5 là: 1458.
Ông Từ Thức này nói hay thật. Còn hay hơn cả thơ nữa
Dzị mới gọi là xuất khẩu thành thi chứ!
_________________________
Sông rồi cạn, núi rồi mòn Thân về cát bụi, tình còn hư không