Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 06:59

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:17

KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Thu 21 Nov 2024, 16:45

KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30

SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22

Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22

NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20

KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08

Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54

Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10

7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10

Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13

Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07

Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36

Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09

Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46

Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06

Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04

DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19

Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37

Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34

TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17

CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05

Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04

Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39

Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41

Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Chuyện Cổ Tích PG

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3 ... 6, 7, 8 ... 10, 11, 12  Next
Tác giảThông điệp
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11370
Registration date : 08/08/2009

Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chuyện Cổ Tích PG   Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 I_icon13Mon 02 Aug 2010, 19:36

Kaludayin thỉnh Phật về thăm vua Suddhodana[18]

Từ ngày đức Phật thành đạo dưới cội Bồ-đề tại Bodhgaya, và thuyết pháp lần đầu tiên tại vườn Lộc-Uyển ở Isipatana, tiếng tăm của ngài càng ngày càng loan rộng và truyền đến tai vua Suddhodana (Tịnh Phạn) ở Kapilavastu. Nhà vua và hoàng tộc rất vui mừng, lòng thương nhớ thái tử Siddhattha lại càng gia tăng. Vua Suddhodana chín lần sai sứ đi thỉnh thái tử Siddhattha về triều.

Nhưng tất cả chín vị sứ thần, sau khi nghe Phật thuyết pháp, đều xin xuất gia và đắc quả A-la-hán. Khi đã đắc quả A-la-hán rồi, các ngài không còn thiết tha đến việc trần gian nên không nghĩ đến sứ mạng thỉnh Phật về Kapilavastu nữa.

Sau chín lần thất vọng, lần này vua Suddhodana cẩn thận dặn dò vị trung thần Kaludayin (Kala-Udayin), vốn sanh cùng ngày và là bạn thân của thái tử Siddhattha thuở nhỏ, phải ghi nhớ sứ mạng không được sơ xuất. Ông Kaludayin cam kết làm tròn sứ mạng nhưng xin một điều kiện là vua cho phép ông xuất gia theo Phật. Công chúa Yasodhara xin phép vua cho Channa (Xa-nặc) đi theo để nhắc nhở ông Kaludayin.

Kaludayin và Channa đến Venuvana (Trúc-Lâm) khoảng một tháng sau ngày khai mạc mùa an cư kiết hạ. Kaludayin và Channa rất sung sướng khi gặp đức Phật trước am của ngài. Ðức Phật hỏi thăm về phụ vương, hoàng hậu, Yasodhara, Nanda, Sundari Nanda, Rahula và tất cả những người thân thuộc.

Kaludayin và cả Channa đã trở thành những người già dặn. Kaludayin đang giữ chức vụ quan trọng trong triều và đã trở nên một trong những người phụ tá thân tín của vua Suddhodana. Theo lời Kaludayin thì sức khỏe của vua đã có phần suy giảm, nhưng ngài vẫn còn sáng suốt mặc dù đã 78 tuổi, và hiện nay có nhiều người phụ tá giỏi trong công việc triều chính.

Hoàng hậu Gotami đã 77 tuổi, vẫn còn tráng kiện. Hoàng tử Nanda đã 35 tuổi, nhỏ hơn Phật một tuổi, có đầy đủ 30 tướng tốt, chỉ kém Phật hai tướng bạch hào (lông mày trắng và dài) và trái tai hơi ngắn. Hoàng tử Nanda đã đính ước với một tiểu thư con nhà dòng dõi tên Janapada Kalyani. Sundari Nanda, em gái Phật, đã trở nên một thiếu nữ kiều diễm.

Từ ngày Phật xuất gia, phu nhân Yasodhara không còn trang điểm như xưa nữa, bà ăn mặc rất giản dị, bà vẫn tiếp tục công việc giúp đỡ người nghèo khổ và trẻ em bệnh hoạn. Nghe nói Phật ăn chay mỗi ngày một bữa, bà cũng ăn theo như vậy.

Rahula đã trở thành một cậu bé bảy tuổi, xinh đẹp, khỏe mạnh, hai mắt đen láy, thông minh và quả cảm, rất được ông bà nội yêu quý. Cuối cùng Kaludayin hỏi Phật chừng nào có thể trở về quê hương, tất cả mọi người đang mòn mỏi mong chờ được gặp lại ngài. Ðức Phật đáp:

- Sau mùa an cư kiết hạ này Như Lai sẽ trở về. Bây giờ đang mùa mưa, đi xa bất tiện. Hơn nữa Giáo đoàn khất sĩ vừa mới thành lập, đang cần sự có mặt của Như-Lai để giáo hóa họ. Kaludayin và Channa hãy ở lại đây chơi độ một tháng rồi sẽ trở về báo tin cho phụ vương ta hay.

Kaludayin và Channa lưu lại tinh xá Venuvana như những người khách. Họ làm quen với các vị khất sĩ, quan sát nếp sống thanh tịnh an lạc của người xuất gia, làm quen với giáo lý tỉnh thức và giải thoát. Kaludayin ngày nào cũng tìm cách gần gũi Phật.

Ông nhận thấy Phật lúc nào cũng có vẻ thảnh thơi nhàn hạ, dường như ngài không còn mong muốn hay tìm cầu một cái gì nữa. Phật như một con cá thảnh thơi trong nước, như một đám mây lơ lửng trên không, hoàn toàn an trú trong hiện tại.

Ði, đứng, nằm, ngồi, mỗi cử động đều bộc lộ tinh thần thong dong tự tại, hầu như không còn gì có thể ràng buộc hay làm ngài xao động nữa. Kaludayin bỗng ước ao được sống đời sống thanh tịnh của kẻ xuất gia dưới sự hướng dẫn của Phật. Sau khi được nghe vài thời pháp, ông ngỏ ý xin xuất gia và được Phật chấp thuận.

Channa (Xa-nặc) là một người hầu cận rất trung thành. Thấy Kaludayin xuất gia, ông cũng muốn được xuất gia. Nhưng ông nghĩ rằng ông không thể xuất gia nếu không được phép của lệnh bà Yasodhara trước. Vì vậy ông tự bảo phải chờ đến khi Phật trở về Kapilavastu đã.

Phật độ ông Dighanakha[19]

Một hôm, trong mùa an cư tại Venuvana, đại đức Sariputta và Moggallana đưa du sĩ Dighanakha (Trường-Trảo Phạm-Chí) đến gặp Phật. Du sĩ Dighanakha là cậu ruột của đại đức Sariputta. Ông không phải là đệ tử của đạo sư Sanjaya nhưng cũng là một đạo sĩ rất nổi tiếng. Nghe Sariputta và Moggallana xuất gia theo Phật, ông tìm đến hỏi thăm về giáo pháp của đức Thế-Tôn. Hai vị đại đức liền đưa ông đến trực tiếp gặp Phật.

Dighanakha hỏi:
- Thưa sa-môn Gotama, ngài dạy giáo pháp gì? Chủ thuyết của ngài ra sao? Riêng tôi, tôi không thích một chủ trương hay lý thuyết nào hết, vì tôi không tin một chủ trương hay lý thuyết nào hết.

- Vậy, Phật đáp, ông có thích cái chủ trương "không thích" của ông không? Ông có tin cái chủ trương "không tin" của ông không?

- Thưa sa-môn Gotama, việc tôi thích hay không thích, tin hay không tin, không quan hệ gì. Tôi chỉ xin ngài nói cho tôi biết chủ thuyết của ngài.

- Một khi đã bị kẹt vào một chủ thuyết rồi thì người ta mất hết tự do tư tưởng. Người đó trở nên độc đoán, cho rằng chỉ có chủ thuyết của mình mới là chân lý, còn tất cả những chủ thuyết khác đều là tà đạo. Những tranh chấp và cãi cọ phát sinh từ thái độ cố chấp này có thể kéo dài bất tận, làm mất rất nhiều thì giờ và có thể gây ra xung đột, chiến tranh. Do đó "kiến thủ" là trở ngại lớn lao nhất trên đường tu học.

- Kiến thủ là gì?
- Kiến là nhận thức, là quan điểm. Thủ là sự cố chấp. Kiến thủ là cố chấp vào một nhận thức, một quan điểm. Cố chấp như vậy là bị kẹt. Vì bị kẹt cho nên cánh cửa chân lý không còn cơ hội mở ra cho mình nữa.

Này ông bạn, để tôi kể cho ông bạn nghe câu chuyện này.
Có một người lái buôn góa vợ kia đang sống với một đứa con trai tám tuổi. Anh ta rất cưng chiều con, xem đứa nhỏ là lẽ sống của đời mình.

Một bữa nọ, trong khi anh ta đi bổ hàng vắng nhà, kẻ cướp đến đốt xóm, cướp bóc và bắt đứa con của anh đi theo. Khi về tới nơi, anh ta thấy thi hài một em bé cháy đen nằm bên căn nhà đã cháy rụi của mình. Anh ta tin ngay rằng con mình đã chết.

Anh ta khóc lóc, làm lễ hỏa thiêu thân xác đứa bé, rồi để tro vào một cái túi gấm, đi đâu cũng mang theo bên mình. Mấy tháng sau, đứa con của anh ta thoát được tay kẻ cướp và tìm về nhà cũ lúc nửa đêm. Nó gõ cửa đòi vào. Lúc ấy anh ta đang ôm cái túi gấm đựng tro, than khóc một mình.

Anh ta không chịu ra mở cửa, cứ đinh ninh là con mình đã chết thật rồi, và đứa trẻ đang gõ cửa là một đứa trẻ hàng xóm mất dạy nào đó đến trêu chọc anh. Ðứa bé kêu mãi không được, tưởng là cha mình đã dời nhà đi nơi khác, nên thất thểu ra đi ... Và người cha khốn khổ kia vĩnh viễn mất đứa con yêu duy nhất.

Này ông bạn, nếu ta cố chấp vào một chủ nghĩa hay một chủ thuyết và cho đó là chân lý tuyệt đối, ta sẽ lâm vào tình trạng của người cha trẻ kia. Lúc ấy, nếu chân lý có tới gõ cửa tìm ta, ta cũng sẽ từ chối không mở cửa.

Dighanakha hỏi:
- Vậy giáo pháp của ngài dạy có phải là một chủ nghĩa hay một chủ thuyết không? Cố chấp vào nó có phải là kiến thủ không?

- Giáo pháp của tôi chỉ dạy không phải là một chủ nghĩa hay một chủ thuyết. Nó không do công phu suy luận của trí năng như những chủ thuyết về bản chất của vũ trụ, cho rằng bản chất ấy là lửa, là nước, là đất, là gió hay là thần linh; hoặc cho rằng vũ trụ là hữu hạn, là vô hạn, là hữu biên, là vô biên, v.v...

Không, giáo pháp tôi dạy không phải là một chủ thuyết xây dựng trên sự suy-luận của trí năng. Giáo pháp tôi dạy là do kinh nghiệm thực chứng. Những gì tôi nói ra đều do tôi đã thực chứng. Và ông bạn cũng có thể kiểm chứng lại bằng kinh nghiệm thực chứng của chính ông bạn. Tôi nói vạn vật là vô thường, không có tự ngã. Ðiều này tôi đã chứng nghiệm và các bạn cũng có thể chứng nghiệm.

Tôi nói vạn vật nương vào nhau mà sinh khởi, tồn tại và hoại diệt, chứ không phải xuất phát từ một nguyên nhân đầu tiên nào hết. Ðiều này tôi cũng đã chứng nghiệm và các bạn cũng có thể chứng nghiệm. Tôi nói quán chiếu để nhận thức rõ ràng về vô thường, vô ngã và duyên sinh có thể đưa chúng ta đến giải thoát và an lạc.

Ðiều này tôi cũng đã chứng nghiệm và các bạn cũng có thể chứng nghiệm. Những điều tôi nói không có mục đích thuyết minh về vũ trụ mà chỉ có mục đích hướng dẫn sự thực tập để chứng nghiệm thực tại. Lời nói không diễn tả được thực tại. Chỉ có kinh nghiệm trực tiếp mới giúp ta nhận thức đúng thực tại.

- Hay lắm, hay lắm, sa-môn Gotama! Nhưng nếu có người cho rằng giáo pháp của ngài là một chủ thuyết thì sao?

- Này Dighanakha, câu hỏi của ông hay lắm. Giáo pháp của tôi không phải là một chủ thuyết do trí năng tạo ra, nhưng sau này, và ngay cả bây giờ, đã có những người xem giáo pháp ấy như một chủ thuyết. Tôi cần xác định rõ: Giáo pháp của tôi là một phương tiện đi vào thực tại, chứ không phải để mô tả thực tại.

Cũng như ngón tay chỉ mặt trăng. Phải nương ngón tay để thấy mặt trăng, chứ ngón tay không phải là mặt trăng. Giáo pháp của tôi là để thực tập, thực hành để đi đến thực chứng, chứ không phải để tôn thờ, hoặc để bàn luận và ca ngợi.

Giáo pháp của tôi là chiếc bè đưa người qua sông mê bể khổ,

đến bờ giác ngộ giải thoát. Khi đến bờ rồi thì chiếc bè đó trở thành vô dụng.
- Xin đức Thế-Tôn chỉ bày cho tôi con đường vượt qua những cảm thọ sầu khổ.
- Này Dighanakha, ông hãy nghe kỹ. Cảm thọ có ba loại: cảm thọ dễ chịu (lạc thọ), cảm thọ khó chịu (khổ thọ) và cảm thọ trung tính (xả thọ).

Cả ba loại cảm thọ đều có gốc rễ hoặc trong thân thể, hoặc trong tâm ý và nhận thức. Các cảm thọ đều có sinh có diệt như bất cứ hiện tượng tâm lý hay vật lý nào. Phương pháp tôi chỉ bày là phương pháp quán chiếu. Quán chiếu để thấy rõ bản chất và nguồn gốc của các cảm thọ, dù là lạc thọ, khổ thọ hay xả thọ.

Một khi đã nhận thức rõ ràng bản chất và nguồn gốc của các cảm thọ là vô thường, vô ngã, duyên sinh, không thật, thì các cảm thọ lần hồi sẽ mất tác dụng của chúng.
Cảm thọ đau khổ của con người đều bắt nguồn từ nhận thức sai lầm về thực tại. Một khi vô minh đã diệt, giác ngộ hiện tiền, thì mọi đau khổ đều tan biến. Ðiều này chỉ có thể đạt được bằng cách thực hành thiền quán chứ không thể nhờ cầu nguyện và cúng tế[20].

Trong khi Phật giảng cho du sĩ Dighanakha thì các vị Sariputta, Moggallana, Nagasamala, Kaludayin và Channa đều có mặt. Nhưng đại đức Sariputta là người thấu hiểu sâu sắc nhất. Ngài thấy tâm trí sáng lên, liền đắc quả A-la-hán. Không ngăn được xúc cảm, ngài chấp tay sụp xuống lạy Phật.

Ðại đức Moggallana và du sĩ Dighanakha cũng sụp xuống đảnh lễ Phật. Dighanakha xin được xuất gia theo Phật. Kaludayin và Channa được chứng kiến cảnh này cũng rất xúc động, lòng thành kính và tin tưởng đối với Phật càng gia tăng.

Vài hôm sau hoàng hậu Videhi đưa thực phẩm đến Venuvana cúng dường. Bà đem theo một cây bông sứ để trồng bên cạnh am của Phật. Hoàng hậu nhớ mãi câu chuyện tiền thân về cây bông sứ mà Phật đã kể cho trẻ em nghe trong đền vua.
Dư luận chống đối Phật tại Rajagriha[21]

Phật đến Rajagriha (Vương Xá) chưa đầy một năm mà danh tiếng ngài đã vang dội gần xa với sự thành lập tinh xá Venuvana (Veluvana,Trúc Lâm), sự quy y Tam Bảo của vua Bimbisara, sự xuất gia của ba anh em ông Uruvela Kassapa, của Sariputta (Xá Lợi Phất), Moggallana (Mục Kiền Liên) và rất nhiều thanh niên trai tráng trong vùng.

Lục sư ngoại đạo mất sự ủng hộ của vua và quần chúng, bắt đầu chỉ trích và nói xấu Giáo đoàn khất sĩ: Sa môn Gotama đã mê hoặc quần chúng bằng một giáo pháp xa lạ làm cho cha mất con, không người nối dõi, vợ mất chồng, phải sống cô đơn, gia đình tan rã, ruộng vườn thiếu người canh tác. Những người chống đối, mỗi khi gặp các khất sĩ, họ đọc lên bài vè sau đây:

Sa-môn Gotama
Ðến thủ đô Magadha
Lấy hết đệ tử của Sanjaya
Rồi sắp đến phiên ai nữa?

Các vị khất sĩ mỗi khi vào thành khất thực, nghe dư luận nói xấu trên và nghe đọc bài vè, lấy làm khó chịu, về bạch lại với Phật, xin Phật có biện pháp đối phó. Ðức Phật bảo:
- Này các vị khất sĩ, các thầy chớ buồn phiền về những dư luận đó. Chỉ trong vòng bảy ngày những dư luận đó sẽ im bặt. Nếu có ai đọc bài vè trên thì các vị hãy đọc bài kệ sau đây:

Thánh nhân Giác ngộ ra đời
Dạy Pháp cao thượng cho người;
Ai dám xầm xì chế nhạo
Thánh nhân truyền dạy Luật Trời?

Quả nhiên sau bảy ngày, dư luận trên không còn nữa. Nhưng nhóm Lục sư ngoại đạo lần lượt rời thủ đô Rajagriha xứ Magadha, dời đến thủ đô Sravasti xứ Kosala, mong tìm được sự ủng hộ của vua Pasenadi và dân chúng nơi đó.
Dân chúng Vesali cầu Phật đến trừ bệnh dịch tả[22]

Năm nay xứ Vajji bị mất mùa, tại thủ đô Vesali nạn đói lan tràn làm hằng ngàn người chết, phần lớn thuộc các gia đình nghèo khó, nên người ta chỉ bó xác để vào bãi tha ma hoặc thả xuống sông.

Do đó bệnh dịch tả lại hoành hành làm cho người lớn và trẻ em không kể giàu nghèo đều chết như rạ. Những ông thầy thuốc giỏi nhất trong xứ Vajji đã chịu bó tay. Các thầy bà-la-môn đã thiết lập nhiều lễ đàn để cúng tế và cầu nguyện, nhưng cũng không đem lại kết quả nào.

Cuối cùng dân chúng nghĩ đến việc đi cầu cứu với Phật hiện đang nhập hạ tại Venuvana. Vương tử Mahali Licchavi được đề cử mang nhiều tặng phẩm quý báu đến tận Rajagriha, vào triều kiến vua Bimbisara để xin phép thỉnh Phật về Vesali, hy vọng đạo đức cao cả của đức Thế Tôn có thể biến đổi được thiên tai.

Vua bảo phái đoàn sứ giả nên đến thẳng tinh xá Venuvana gặp Phật. Khi biết Phật đã nhận lời, vua Bimbisara, hoàng hậu Videhi, các vị đại thần và dân chúng tiễn đưa Phật thật long trọng đến tận bờ sông Ganga[23]. Bên kia sông, dân chúng Vesali cũng đã tụ tập đông nghịt để nghênh đón. Họ lập lễ đài, treo cờ, kết hoa đầy cả bờ sông.

Khi thuyền của Phật qua tới, dân chúng hò reo vang dậy, lễ nhạc trổi lên vang lừng. Chính quyền và dân chúng đón tiếp Phật như một vị cứu tinh của họ. Phật vừa đặt chân lên đất liền thì sấm chớp bỗng nổi dậy và một trận mưa ào ạt đổ xuống. Ðây là trận mưa đầu tiên sau nhiều tháng hạn hán.

Dân chúng mừng rỡ, nhảy múa, reo mừng ca hát ngay dưới cơn mưa. Cơn mưa đã đem lại sự mát mẻ và hy vọng cho cả xứ: cơn mưa làm cho ruộng vườn tươi tốt, đất đai được tẩy sạch mọi ô nhiễm bệnh tật. Phật và giáo đoàn khất sĩ được rước về công viên lớn tại trung tâm thủ đô Vesali.

Nhiều túp lều khang trang đã được dựng lên trong công viên. Qua hôm sau Phật lên pháp đàn giảng về Tam Bảo[24] (Tri-ratana) như ba hòn ngọc quý của tất cả mọi người; người quy y Tam Bảo và hành trì năm giới sẽ được chư thiên có cảm tình và phò trợ, do đó có thể tránh được nhiều bệnh khổ. Sau thời pháp, Phật đi viếng những nơi bệnh dịch hoành hành nặng nhất trong thành phố.

Ðến nơi nào Phật cũng chỉ dẫn cho dân chúng biết cách ăn ở cho hợp vệ sinh, cách phòng ngừa bệnh và cách sống đạo đức nương theo Tam Bảo và Chánh Pháp.

Vài ngày sau, Phật nói kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bản Nguyện Công ÐứcỂ, nhắc lại 12 nguyện lớn của Phật Dược Sư nhằm giải trừ các bệnh khổ cho chúng sanh, khiến cho chúng sanh được đầy đủ các căn, và dẫn dắt chúng sanh vào đường giải thoát; đức Phật chỉ cách thiết đàn, lễ bái, cúng dường, tụng niệm kinh Dược Sư để tiêu trừ bệnh khổ.

Sau hai tuần lễ, bệnh dịch đã giảm bớt nhiều. Phật và giáo đoàn lại được các Vương tử Licchavi và dân chúng đưa qua sông Ganga một cách hết sức long trọng, và được vua Bimbisara cùng đoàn tùy tùng rước về tinh xá Venuvana. Trong thời gian hai tuần tại Vesali, đức Phật đã độ được 84.000 người đắc quả Dự-lưu (Tu-đà-hoàn).
Ambapali và Jivaka gặp Phật[25]

Vào đầu tháng mười năm 588 trước tây lịch, khi mùa an cư gần mãn, có một thiếu phụ rất đẹp đến Venuvana (Trúc Lâm) xin gặp Phật. Nàng đi xe song mã màu trắng, cả hai con ngựa cũng màu trắng. Thiếu phụ bước xuống xe với một thiếu niên độ mười lăm tuổi.

Nàng trang sức cực kỳ lộng lẫy với dáng điệu rất quý phái. Một tu sĩ trẻ tuổi đưa nàng từ cổng tinh xá đến trước am Phật. Gặp lúc Phật đang đi thiền hành, vị tu sĩ mời thiếu phụ và cậu con trai ngồi xuống hai cái ghế tre đặt trước sân.

Một lát sau Phật về tới, cùng với Sariputta, Kaludayin và thầy thị giả Nagasamala. Thiếu phụ và cậu con trai đứng dậy vái chào. Ðức Phật mời hai người ngồi xuống, rồi tự mình ngồi vào chiếc ghế thứ ba được đặt sẵn.

Mặc dù đã quen sống trong triều nội, Kaludayin chưa bao giờ thấy một người đàn bà xinh đẹp lộng lẫy và duyên dáng như thế. Thầy mới xuất gia được một tháng nên rất bỡ ngỡ, không biết nhìn ngắm một người đàn bà đẹp như vậy có đúng phép không.

Thầy thị giả Nagasamala cũng có phản ứng như thế. Cả hai thầy đều nhìn xuống đất. Chỉ có Phật và Sariputta nhìn thẳng vào mặt thiếu phụ mà thôi. Sariputta nhìn thiếu phụ rồi quay sang nhìn Phật. Thầy thấy sắc diện Phật hiền lành trong sáng như mặt trăng rằm. Hào quang tự tại và an lạc của Phật thấm vào lòng thầy.

Ambapali cũng đang nhìn Phật. Bà chưa thấy ai nhìn bà như vậy bao giờ. Từ trước đến nay mỗi khi có một người đàn ông hay một thanh niên nhìn bà, bà đều thấy trong ánh mắt người đó một thoáng bối rối, một thoáng mơ ước, hoặc một dự tính chiếm hữu. Phật đang nhìn bà như nhìn một đám mây, một dòng sông hay một đóa hoa.

Hình như ngài thấy được những cảm nghĩ sâu kín trong tâm hồn bà. Ambapali chắp tay bạch:

- Con là Ambapali, và đây là con trai của con tên Jivaka (Kỳ-Bà), năm nay mười lăm tuổi. Cháu đang học nghề y tại thủ đô Rajagriha. Con đã được nghe nói về thầy và con rất ao ước cháu được có duyên lành tới học hỏi cùng thầy.
- Tốt lắm, vậy mỗi khi rỗi rảnh cháu cứ tự tiện tới Venuvana để học hỏi với quý thầy.

Rồi Phật hỏi thăm Jivaka về chuyện học vấn và đời sống của chàng. Jivaka trả lời rất lễ phép, gọn ghẽ, rõ ràng. Cùng cha khác mẹ với thái tử Ajatasattu, nhưng chàng trông có vẻ thông minh và đức độ hơn. Sau vài câu chuyện với Phật, Jivaka bỗng thấy có cảm tình sâu đậm với ông thầy tu này. Chàng tự hứa khi học xong nghề thuốc chàng sẽ đến ở gần bên Phật.

Ambapali đã tưởng rằng Phật chỉ là một đạo sư nổi tiếng như những đạo sư nổi tiếng khác mà bà đã từng gặp. Nhưng không, bà chưa từng gặp một đạo sư nào như Phật. Bà chưa thấy ai có tư cách đáng kính phục và quý mến như Phật.

Qua cái nhìn dịu hiền và từ ái của Phật, bà có cảm tưởng như ngài đã thấu hiểu tất cả những tâm sự khổ đau thầm kín của bà, bà không cần phải nói ra. Ðược gần Phật, bà cảm thấy vơi bớt rất nhiều nỗi khổ. Một giọt nước mắt ứa ra trên khóe mi, bà nói:

- Lạy thầy, đời con khổ lắm. Tuy rằng con không thiếu thốn gì về phương diện vật chất, nhưng con chưa bao giờ có được một niềm tin. Hôm nay là ngày sung sướng nhất của đời con.

Ambapali năm nay độ 32 tuổi. Nàng là một ca nhi già giặn, tài ba, sắc sảo, nhưng nàng không hát cho bất cứ ai. Những người mà nàng nhận thấy thiếu phong độ và tư cách thì dù có trả bao nhiêu tiền nàng cũng từ chối. Từ năm 16 tuổi, nàng đã gặp một cuộc tình duyên trắc trở.

Sau đó nàng gặp vua Bimbisara khi còn là thái tử. Triều đình không muốn hoàng gia công nhận Jivaka là con của thái tử nên loan tin Jivaka là con hoang mà thái tử bắt gặp trong một cái thúng để bên vệ đường. Ðiều này đã làm cho Ambapali đau khổ. Nỗi khổ càng tăng với lòng ganh ghét và thù hận. Nàng quý tự do như bảo vật duy nhất còn lại trong đời nàng. Cho nên từ ấy đến nay chưa ai trói buộc được nàng.

Phật bảo Ambapali:

- Nhan sắc cũng chịu luật sinh diệt và cũng sẽ tàn phai theo thời gian như bao nhiêu hiện tượng khác. Của cải và sự giàu sang cũng vậy. Chỉ có niềm an lạc và cái tự do do công phu thiền định và quán chiếu đem tới mới là hạnh phúc chân thật mà thôi. Này Ambapali, đã đến lúc bà phải tập sống đời sống tỉnh thức an lạc.

Phải quý trọng từng giây phút còn lại của đời mình, đừng lãng phí đời bà trong sự vui chơi để tìm quên lãng. Ðiều này rất quan trọng cho hạnh phúc của bà và của Jivaka.

Rồi Phật dạy cho Ambapali cách tổ chức lại cuộc sống hằng ngày, cách hành trì năm giới, cách thở, cách ngồi thiền, cách sử dụng thì giờ, cách cúng dường và làm việc phước thiện. Ambapali sung sướng ngồi nghe những lời dạy quý báu của Phật. Cuối cùng, trước khi từ giã Phật, bà nói:

- Tại ngoại ô thành Vesali, con có một vườn xoài rất mát mẻ và thanh tịnh ở làng Amvara. Con mong thầy và chư vị khất sĩ, trên đường đi hoằng hóa, có dịp ghé nơi ấy nghỉ ngơi. Ðiều đó sẽ là một vinh hạnh lớn cho con và cho Jivaka. Kính xin đức từ bi hoan hỷ nhận lời.

Phật mỉm cười nhận lời. Bà Ambapali đi rồi, thầy Kaludayin xin phép được ngồi xuống bên Phật. Thầy thị giả mời đại đức Sariputta ngồi trên chiếc ghế còn lại, còn thầy thì khoanh tay đứng hầu sau lưng Phật. Một số khất sĩ đang đi thiền hành gần đấy, thấy khung cảnh ấm cúng cũng ghé vào. Ðại đức Sariputta mỉm cười nhìn Kaludayin và thầy thị giả Nagasamala rồi hỏi Phật:

- Thưa Thế-Tôn, người xuất gia nên có thái độ nào đối với phái nữ? Sắc đẹp của phái nữ có phải là một trở ngại cho công phu tu tập không?

Phật nhìn Nagasamala và các vị khất sĩ trẻ, đáp:

- Này các thầy, tự tính của vạn vật không có đẹp xấu. Ðẹp xấu là do cảm thọ hay nhận thức của mỗi người tùy nghiệp riêng của mình mà phát sanh. Do nhãn căn tiếp xúc với sắc trần mà sanh ra nhãn thức.

Nhãn thức tùy nghiệp của mỗi người mà sanh ra cảm thọ dễ chịu hay khó chịu. Cảm thọ dễ chịu sanh ra ý niệm đẹp, Cảm thọ khó chịu sanh ra ý niệm xấu. Một nghệ sĩ và một nông dân chất phát có quan niệm khác nhau về đẹp và xấu. Do đó, tùy theo quan niệm của mỗi người mà một dòng sông, một đám mây, một chiếc lá, một bông hoa, một tia nắng sớm, một buổi chiều vàng có vẻ đẹp khác nhau.

Nhưng không có cái đẹp nào có thể trói buộc và làm mất ý chí của nam nhi bằng cái đẹp của người phụ nữ. Tham đắm vào nữ sắc thường làm mất chí nguyện và sự nghiệp lớn lao của nam giới. Vì vậy Như Lai muốn căn dặn quý thầy hãy rất cẩn thận đối với nữ sắc.

Ðối với những người đã đạt đạo, đã tự giải thoát ra khỏi sự khống chế của cảm thọ, ái dục và ý thức, đã vượt ra ngoài những ý niệm đối đãi đẹp/xấu, hay/dở, phải/quấy thì mọi việc đều được dễ dàng, mỗi lời nói, cử chỉ, hành động đều hợp chánh pháp.

Nhưng đối với những người tu hành chưa đủ công phu, quán chiếu chưa được thuần thục, định huệ chưa đủ sức mạnh, thì Như Lai khuyên họ không nên gần gũi nữ sắc, mà phải để hết thì giờ vào việc học hỏi và thiền tập. Chỉ có cái đẹp của tâm giải thoát và lòng từ bi là cái đẹp vĩnh cửu mang đến cho ta niềm an lạc chân thật.
Kaludayin, Nagasamala và các vị tỳ kheo có mặt đều rất sung sướng được nghe lời Phật dạy.

Khi mùa an cư hoàn mãn, vào ngày trăng tròn tháng mười dương lịch, Phật bảo Kaludayin và Channa về Kapilavastu trước để báo tin cho vua Suddhodana và Yasodhara hay ngày Phật trở về.




[/color][/color]


Được sửa bởi mytutru ngày Mon 02 Aug 2010, 19:48; sửa lần 2.
Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11370
Registration date : 08/08/2009

Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chuyện Cổ Tích PG   Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 I_icon13Mon 02 Aug 2010, 19:46

Phật về Kapilavastu, ngụ tại vườn Nigrodha[26]

Về đến Kapilavastu, Kaludayin vào cung báo tin ngày về của Phật cho vua Suddhodana, hoàng hậu Pajapati và Yasodhara. Rồi thầy lại một mình ôm bát ra đi trở về hướng đông nam để đón Phật. Thầy áp dụng phép khất thực của giáo đoàn khất sĩ, ngày đi đêm nghỉ, chỉ dừng lại các thôn xóm vào giờ khất thực mà thôi. Tới đâu thầy cũng báo tin là thái tử Siddhattha xuất gia thành đạo sắp trở về.

Ði được chín hôm thì thầy gặp Phật và đoàn khất sĩ. Mừng rỡ, thầy gia nhập phái đoàn và cùng đi về Kapilavastu. Chỉ có đại đức Sariputta và khoảng ba trăm khất sĩ theo Phật, còn những vị khác ở lại Venuvana với đại đức Moggallana, Kondanna và Uruvela Kassapa. Ðức Phật và giáo đoàn đi đến đâu cũng được dân chúng tiếp đón niềm nở.

Sau 60 ngày đường, ngày đi đêm nghỉ, đức Phật và giáo đoàn về đến Kapilavastu, ngụ tại công viên Nigrodha (Ni-câu-đà) ngoài cổng thành phía nam. Sáng hôm sau, Phật và tăng đoàn ôm bát vào kinh thành khất thực. Cảnh tượng ba trăm vị khất sĩ khoác áo cà-sa vàng, tay ôm bình bát, lặng lẽ trang nghiêm đi khất thực trong thành phố đã gây một ấn tượng lớn trong lòng người thủ đô.

Chẳng mấy chốc tin này được báo vào hoàng cung. Vua Suddhodana, hoàng hậu Pajapati và công chúa Yasodhara được báo rằng thái tử Siddhattha hiện đang đi xin ăn trong thành với hằng trăm khất sĩ khác. Vua truyền đánh xe đưa ngài đi gặp thái tử.

Hoàng hậu và hai mẹ con Rahula hồi hộp ngồi chờ trong cung. Xa giá vừa đến cổng thành phía nam thì gặp đoàn khất sĩ. Vị võ quan hầu cận bên vua nhận ngay ra thái tử.

- Tâu bệ hạ, vị khất sĩ đi đầu kia đúng là thái tử.

Vua chợt nhận ra con mình. Dáng điệu của Phật uy nghi, từ tốn, đang ôm bình bát đứng trước một căn nhà nghèo nàn. Ngài đứng trang nghiêm, lặng lẽ, làm như việc xin ăn là việc quan trọng nhất trong đời. Một thiếu phụ ăn mặc xềnh xoàng từ trong nhà bước ra, tay cầm một củ khoai, quỳ xuống lễ dưới chân Phật rồi kính cẩn đặt củ khoai vào trong bình bát. Ðức Phật kính cẩn nghiêng mình đáp lễ, rồi lặng lẽ từ giã, bước sang ngôi nhà bên cạnh.

Vua bước xuống xe đi thẳng về phía Phật. Ðức Phật cũng vừa nhận thấy nhà vua. Ðôi mắt nhìn nhau đầy tình thương trìu mến. Nhà vua không dằn được xúc động, gọi: - Siddhattha! - Phụ vương!

Phật trao bình bát cho thầy thị giả, rồi nắm lấy hai tay vua cha trong tay mình. Hai giọt nước mắt từ từ lăn xuống trên đôi má nhăn nheo của vua. Ðức Phật nhìn vua với đôi mắt dịu dàng, đầm ấm để an ủi người. Vua biết rằng Siddhattha bây giờ không còn là một đông cung thái tử nữa mà là một sa-môn, một đạo sư tên tuổi với hằng ngàn đệ tử. Nhà vua muốn ôm Phật vào lòng, nhưng biết làm như vậy không ổn.

Cuối cùng vua chấp tay nghiêng mình đảnh lễ Phật theo thể thức của một vị quốc vương làm lễ một vị đạo sĩ. Vị võ quan hầu cận cũng bắt chước vua chấp tay nghiêng mình đảnh lễ Phật. Ðức Phật đáp lễ rồi quay sang nói với đại đức Sariputta:

- Thầy hãy tiếp tục hướng dẫn tăng đoàn đi khất thực, rồi trở về công viên Nigrodha thọ thực và an nghỉ. Như Lai và Nagasamala vào thăm hoàng gia, thọ ngọ trai tại đó và chiều nay chúng tôi sẽ trở về với quý thầy.

Ðại đức Sariputta nhận lệnh xong, nghiêng mình đảnh lễ vua và Phật rồi lui gót. Vua nhìn Phật nói với vẻ trách móc:

- Ta tưởng con về tới là vào cung ngay để thăm cha mẹ vợ con rồi ăn cơm luôn. Sao con không về thẳng hoàng cung mà lại đi khất thực ngoài phố?
- Thưa phụ vương, con đâu có đi một mình. Còn có cả giáo đoàn khất sĩ theo con, con có trách nhiệm hướng dẫn nơi ăn chốn ở và sinh hoạt của giáo đoàn.

- Nhưng sao con làm mất mặt hoàng gia như thế? Sao con lại phải xin ăn tại những nhà nghèo hèn như thế? Dòng họ Sakya từ đời vua Maha-Sammata (Ðại Mao Thảo) đến nay có ai làm như thế đâu!?

- Thưa phụ vương, dòng họ vua chúa thì không ai làm như thế, nhưng chư Phật và dòng họ khất sĩ từ đời Phật Dipankara (Nhiên-Ðăng) đến đời Phật Kassapa (Ca-Diếp) thì ai cũng làm như thế. Thưa phụ vương, đi khất thực là một phép tu nhằm thực hiện tinh thần khiêm cung và bình đẳng.

Khi con nhận một củ khoai của một gia đình nghèo khổ, con cũng phải có thái độ cung kính như khi con nhận một món ăn sang trọng do một vị đế vương cúng dường, vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng đạt tới giải thoát và giác ngộ.

Trong xã hội có nhiều sự chênh lệch về tài sản và quyền thế. Trong giáo pháp mà con tìm ra thì mọi người đều bình đẳng vì đều có đầy đủ khả năng giác ngộ thành Phật.

Thưa phụ vương, đúng vậy, chính phụ vương cũng có đầy đủ khả năng giác ngộ thành Phật, con mong phụ vương từ nay dõng mãnh thực hành lối sống thanh tịnh của thánh nhân. Bất cứ ai sống đời đạo đức thánh thiện sẽ được nhiều hạnh phúc ngay trong đời này và cả đời sau nữa[27].

Nghe Phật nói xong, vua Suddhodana liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Vua ngạc nhiên và vui mừng nhận ra con mình bây giờ đã trở nên một vị lãnh đạo tinh thần đáng kính. Hai cha con lặng lẽ đi bên nhau trở về hoàng cung.

Trong khi ấy hoàng hậu Gotami, công chúa Yasodhara, công chúa Sundari Nanda và Rahula đang đứng trên lầu cao nhìn xuống, thấy tất cả những gì đang xảy ra. Khi vua và Phật gần đến hoàng cung, Yasodhara, một tay nắm lấy tay con, một tay chỉ Phật và bảo:

- Này Rahula, con có thấy ông thầy tu đang đi bên cạnh ông nội đó không?
- Dạ, con có thấy.
- Người ấy là cha của con đó. Con chạy xuống chào cha con đi. Cha con có gia tài quý báu lắm. Con xuống hỏi cha xin gia tài của con đi.

Rahula nghe lời mẹ chạy xuống lầu, băng qua sân chầu, chạy đến cổng hoàng cung, nắm lấy tay Phật, vừa thở vừa nói:

- Ông thầy tu ơi, mẹ con bảo xuống hỏi ông xin gia tài. Gia tài của con đâu, ông đưa cho con đi.
Ðức Phật ngồi xuống ôm Rahula vào lòng, nói:
- Gia tài của con hả? Ðược rồi, thông thả rồi cha sẽ trao cho.
Ðức Phật, tay trái nắm tay Rahula, tay phải cầm tay vua cha, cả ba người tiến vào hoàng cung.
Hoàng hậu Gotami lên tiếng bảo Yasodhara và Sundari Nanda cùng xuống sân chầu đón vua và Phật. Yasodhara thưa:

- Thưa mẫu hậu, thái tử ra đi giữa đêm khuya không một lời từ giã con. Suốt bảy năm nay cũng không hề có nhắn tin tức gì về cho con. Mọi tin tức về thái tử đều do con thăm dò mà biết. Vậy bây giờ thái tử về đây, nếu còn thương nghĩ đến con thì hãy vào cung tìm con.

Hoàng hậu Gotami tìm lời an ủi Yasodhara rồi bảo Sundari Nanda cùng mình xuống sân chầu. Vừa tới sân chầu, thấy vua và Phật đi vào vườn thượng uyển, hai người cùng đi theo vào.

Trời bắt đầu mùa nắng ấm. Trong vườn thượng, trăm hoa đua nhau khoe sắc. Chim chóc líu lo trên cành. Cảnh vật thật vui tươi mừng ngày đoàn tụ. Vừa thấy hoàng hậu Gotami và Sundari Nanda bước đến, Phật chào hỏi:

- Thưa mẹ! Em Sundari! Còn Yasodhara và em Nanda đâu?
- Em con đang đi tập võ, chắc nó cũng sắp về tới. Còn Yasodhara thì phiền trách con ra đi không một lời từ giã nó, và suốt bảy năm nay con không hề có tin tức gì về thăm nó. Nó nói nếu con còn nghĩ đến nó thì hãy vào cung mà gặp. Tội nghiệp!

Yasodhara là một người đàn bà rất can đảm. Sau khi con đi, có nhiều hoàng thân quý tộc dòng Kshatriya[28] ngắm nghé đến hỏi nhưng nó đều từ chối. Khi nghe tin con sống đời tu sĩ thì nó cũng cổi hết vòng vàng châu báu và đắp y vàng.

Nó thường theo dõi tin tức con và rất đau buồn trong thời gian con tu khổ hạnh tại Uruvela. Khi được biết con chỉ ăn mỗi ngày một bữa, nó cũng ăn mỗi ngày một bữa; khi được biết con không nằm giường cao, nó cũng nằm dưới thấp. Yasodhara quả là một thiếu phụ đáng thương, tiết hạnh vẹn toàn[29].

- Thưa mẹ, con biết. Mẹ và Yasodhara là hai người phụ-nữ can đảm và đức hạnh. Chốc nữa con sẽ vào thăm Yasodhara. Chà em Sundari Nanda chóng lớn quá!
- Siddhattha, vua nói, con hãy kể lại cho mọi người nghe về những năm con đi tìm thầy học đạo, tu khổ hạnh và thành đạo như thế nào. Ai cũng mong muốn biết rõ con sống như thế nào trong bảy năm qua.

Vâng lời vua, Phật bắt đầu kể sơ lược lúc ngài rời hoàng thành ra đi, lúc học với đạo sư Alara Kalama và đạo sư Uddaka Ramaputta, lúc tu khổ hạnh tại Uruvela với năm anh em ông Kondanna, lúc ngài thành đạo dưới cội cây Pippala (cây Bồ-đề), lúc ngài chuyển Pháp-luân tại Isipatana, lúc ngài gặp lại vua Bimbisara và được vua tổ chức một buổi cúng dường vĩ đại và tặng ngự-uyển Venuvana để làm tinh xá tu học cho tăng đoàn.

Tiếng Phật đầm ấm. Ngài kể khái quát những gì đã xảy ra, và nhân cơ hội này ngài gieo những hạt giống chánh pháp vào lòng những người thân đang lắng nghe. Ðức Phật vừa kể xong thì nhà vua đắc quả Tư-đà-hàm (Sakadagami) và hoàng hậu Maha Pajapati đắc quả Tu-đà-hoàn (Sotapanna). Nanda, em cùng cha khác mẹ với Phật cũng vừa về tới. Ðức Phật nhìn Nanda bảo:

- Em về rồi đó à! Chà, trông em lúc nào cũng vui tươi và khoẻ mạnh. Em đã đính hôn rồi phải không? Bao giờ thì làm lễ cưới?
- Dạ, mọi người chờ anh về vài hôm sẽ làm lễ cưới. Em trông anh cũng khác xưa lắm.
- Phải đãy, hoàng hậu Gotami nói, Cha con chờ con về để làm lễ tấn phong Nanda làm thái tử cùng một lúc với lễ cưới Janapada-Kalyani làm vợ.

Hoàng hậu Gotami bảo Nanda nên chắp tay xá Phật theo cách lễ một đạo sĩ. Nanda vui vẻ làm theo. Theo lệnh của hoàng hậu Gotami, bữa ăn chay thịnh soạn được dọn ra ngay trong vườn thượng vào đầu giờ ngọ. Vua hỏi:

- Hồi nãy hai thầy đã khất thực được những gì rồi?
- Dạ, con mới được có một củ khoai. Còn thầy Nagasamala thì chưa được gì hết.
- Vậy để ta cúng dường hai thầy.

Vua đứng dậy để sớt thức ăn vào bát cho Phật và thầy Nagasamala. Ðức Phật, thầy Kaludayin và thầy Nagasamala chú nguyện xong, mọi người thọ thực trong im lặng giữa tiếng chim hót líu lo trên cành.

Cơm nước xong, hoàng hậu Pajapati Gotami khuyên Phật nên vào cung thăm Yasodhara. Ðức Phật cùng thầy Kaludayin và thầy thị giả Nagasamala đến phòng Yasodhara. Ðức Phật ngồi vào chỗ đã dọn sẵn cho ngài. Ngài nói với mọi người hãy để công chúa đảnh lễ theo ý thích, không nên nói gì. Công chúa Yasodhara và các thị nữ đều mặc y-phục màu vàng, đến đảnh lễ dưới chân Phật.

Xong, công chúa cung kính ngồi lại một bên, hai giọt lệ chảy dài trên má. Ðức Phật khen ngợi đức hạnh của bà và thuật lại câu chuyện Canda-kinnara Jataka[30] về mối liên hệ giữa ngài và công chúa trong nhiều tiền kiếp, và nhắc lại lời hứa của công chúa trong một kiếp quá khứ, lúc hai người mang bảy hoa sen cúng đức Phật Dipankara (Nhiên Ðăng).

Trong kiếp ấy công chúa hứa với Sumedha (tiền thân đức Phật) rằng nếu nàng được kết duyên với Sumedha thì khi chàng muốn xuất gia, nàng sẽ hết lòng giúp đỡ chứ không cản trở. Nhờ thần lực của đức Phật, Yasodhara nhớ lại rõ ràng lời hứa của mình, không còn buồn phiền nữa.

Ðức Phật, Yasodhara, thầy Kaludayin và thầy Nagasamala trở ra vườn thượng gặp lại vua và hoàng hậu. Mọi người lại có dịp hỏi Phật những điều họ còn chưa hiểu rõ về cuộc sống của Phật và giáo lý của ngài. Cuối cùng, hoàng hậu Pajapati Gotami khuyên Phật về ngụ trong hoàng cung, nhưng Phật bảo ngài phải cùng ở bên cạnh giáo đoàn khất sĩ tại công viên Nigrodha, và như vậy tiện hơn.

Vua hỏi thăm Phật về cách thức sửa sang và xây cất thêm trong vườn Nigrodha để tăng đoàn có đủ tiện nghi, và ngài cũng có ý tổ chức một đại lễ cúng dường như vua Bimbisara ở nước Magadha để tất cả triều thần, nhân sĩ và đại chúng được nghe Phật giảng bày giáo pháp. Ðức Phật đồng ý.

Mặt trời đã xế bóng. Ðức Phật đứng lên từ giã để trở về công viên Nigrodha. Vua truyền đem xe tứ mã ra đưa Phật đi, nhưng ngài từ chối, bảo rằng tất cả khất sĩ đều đã lập hạnh chỉ đi bộ mà thôi.

Vua Suddhodana ra lệnh cho dân chúng treo cờ, kết hoa để làm lễ tấn phong Thái-tử và lễ cưới cho Nanda, đồng thời rước Phật và giáo đoàn đến hoàng cung thọ trai. Công viên Nigrodha được sửa sang để có đủ tiện nghi về vệ sinh, thời tiết và sinh hoạt cho giáo đoàn. Dân chúng và một số nhân sĩ đã bắt đầu lui tới công viên để cúng dường, giúp các công tác xây dựng, và học hỏi giáo lý.

Thái tử Nanda đã đến thăm Phật được hai lần vào buổi chiều, và đã nghe Phật giảng dạy cho những điều căn bản trong giáo lý giác ngộ và giải thoát. Nanda rất thương kính Phật, và cảm thấy thích nếp sống an vui thanh tịnh của các vị khất sĩ. Nhưng khi về đến cung điện, được ở bên cạnh công chúa Janapada Kalyani đáng yêu đáng quý thì không còn ý nghĩ xuất gia nữa. Chàng rất phân vân tự hỏi không biết nên chọn con đường nào.

Ðến ngày đại lễ, cả thủ đô tưng bừng náo nhiệt, treo cờ, kết hoa, y phục đủ màu rực rỡ. Người ta vui vẻ, nô nức tập họp dọc theo hai bên đường mà Phật và giáo đoàn sẽ đi qua từ công viên Nigrodha đến hoàng thành. Ai cũng muốn nhìn thấy Phật.

Trong hoàng cung hằng ngàn tân khách gồm các nhân sĩ chính trị, văn hóa, tôn giáo đã tề tựu đầy đủ. Hoàng hậu Gotami và Yasodhara đích thân điều khiển cuộc tiếp đãi. Mọi người đều trang phục lộng lẫy.

Ðức Phật và ba trăm khất sĩ mặc áo cà-sa vàng, tay ôm bình bát, im lặng, trang nghiêm, bước từng bước khoan thai, tiến dần đến cổng thành mở rộng. Vua Suddhodana và các đại thần ra tận cổng thành đón Phật. Khi đức Phật sắp đến cổng thành thì các vị cao niên ngã-mạn dòng Sakya bảo nhau:

- Vị sa-môn kia chẳng qua chỉ vào hàng con cháu của chúng ta thôi. Vậy hãy để bọn trẻ tuổi chào đón đạo sĩ, chúng ta đã già rồi, cứ ngồi yên một chỗ cũng được.

Ðức Phật biết được, e rằng sự cống cao ngã mạn trước một vị Phật sẽ làm cho các vị ấy mất nhiều phước đức và không còn đủ sáng suốt và chú tâm để nghe Phật giảng giáo lý cao thượng.

Ðức Phật bèn dùng thần thông Yamaka Patihariya[31], bay lên giữa lừng trời, nửa thân phún ra lửa cùng một lúc nửa thân kia phún ra nước từ các lỗ chân lông, rồi ngài từ từ đi trên cầu vòng năm màu đến cổng thành đáp xuống cùng một lúc với đám mưa phùn nhẹ nhàng mát mẻ.

Vua Suddhodana kính cẩn chấp tay đảnh lễ Phật và thầm nhủ rằng đây là lần thứ ba[32] cha đảnh lễ con. Tất cả các vị hoàng thân, lòng ngã mạn tiêu tan, đều noi gương vua, cung kính đến lễ Phật.

Sau lễ tấn phong Thái-tử và lễ cưới của Nanda và Janapada-Kalyani, vua Suddhodana thỉnh Phật đến ngồi trên một bành ghế cao đã dọn sẵn. Khi Phật và các vị khất sĩ đã an tọa, vua ra hiệu cho các người hầu mang thức ăn ra cúng dường.

Chính tay vua sớt thức ăn vào bát của Phật và thầy Sariputta. Trong khi hoàng hậu và Yasodhara hướng dẫn quân hầu thừa tiếp các vị khất sĩ và quan khách, trong đó có nhiều đạo sĩ Bà-la-môn, các du sĩ và cả các tu sĩ khổ hạnh. Tất cả đều thọ trai trong im lặng.

Khi mọi người đã thọ trai xong, bát của Phật và chư vị khất sĩ được quân hầu rửa, lau và giao trả lại cho từng người. Vua Suddhodana đứng dậy chấp tay thỉnh Phật thuyết pháp. Ðức Phật ngồi im lặng một lát để quán chiếu tâm ý của đại chúng.

Rồi ngài bắt đầu nói kinh Vessantara Jataka[33], thuật lại nhân duyên đời trước lúc Phật làm vua Vessantara (Hộ-Minh), thác sanh về cõi trời Tusita (Ðâu-suất) rồi giáng sanh tại Kapilavastu.

Kế đó đức Phật nói sơ lược về ý chí tìm đạo, kinh nghiệm học đạo và tu tập của mình. Rồi ngài khai thị cho đại chúng về tính cách vô thường, vô ngã và duyên sinh của vạn vật. Khi thấy đại chúng đã tiếp nhận được quan niệm mới mẻ này rồi, ngài giảng tiếp về Tứ Diệu Ðế: nhận thức sự có mặt của đau khổ trong cuộc sống, chỉ rõ nguyên nhân của đau khổ là vô minh và tham ái, chỉ rõ sự hiện hữu của cảnh giới an lạc niết bàn, và con đường tu tập để diệt khổ hầu tiến tới cảnh giới an lạc niết-bàn.

Ðó là con đường tỉnh thức, giác ngộ và giải thoát, đưa đến hạnh-phúc chân thật. Ðức Phật xác nhận rằng những điều ngài vừa trình bày đều do ngài thực chứng khi ngài đạt được túc-mạng-minh, thiên-nhãn-minh và lậu-tận-minh trong đêm thành đạo dưới cội bồ-đề.
Ðó là những thực tại do ngài trực nhận bằng tam minh của trí bát-nhã, chứ không phải do óc suy luận. Ðể kết thúc, đức Phật nói tiếp:

- Thưa Ðại vương và quý vị, tất cả mọi khổ đau của ta đều bắt nguồn từ vô minh, cố chấp, tham ái. Muốn thoát khỏi khổ đau phải diệt trừ vô minh, cố chấp và tham ái bằng cách dùng trí tuệ quán chiếu muôn vật đúng như thật.

Người chưa đủ trí tuệ phải thực tập từ từ bằng phép quán hơi thở (anapana-sati), minh sát tuệ (vipassana), phải trì giới để ba nghiệp thân miệng ý được thanh tịnh; nhờ ba nghiệp thanh tịnh nên tâm ý được định; nhờ tâm ý định nên trí tuệ phát sanh; nhờ trí tuệ phát sanh nên vô minh, cố chấp, tham ái không còn; đau khổ do đó cũng chấm dứt.

Thưa quý vị, quán chiếu và giới, định, huệ là con đường duy nhất đưa tới giải thoát và hạnh-phúc chân thật (niết-bàn).
Khi đức Phật chấm dứt pháp thoại, một số người đã chứng được quả Tu-đà-hoàn (Sotapanna), trong đó có công chúa Yasodhara, hoàng hậu Maha-Pajapati chứng quả Tư-đà-hàm (Sakadagami),riêng vua Suddhodana đắc quả A-na-hàm (Anagami).

Sau buổi thuyết pháp đó, có rất nhiều người tới công viên Nigrodha xin xuất gia hoặc thọ trì năm giới của người cư sĩ. Nhiều thanh niên trong dòng họ Sakya cũng đến xin xuất gia. Yasodhara cũng thường đi chung với hoàng hậu Pajapati và Rahula đến thăm Phật, cúng dường chư tăng và nghe thuyết pháp.
Nanda xuất gia[34]

Nửa tháng sau, vua Suddhodana thỉnh Phật tới thọ trai trong hoàng cung để vua và hoàng gia lại có cơ duyên được nghe Phật thuyết pháp. Lần này vua chỉ mời Phật, thầy Sariputta, thầy Kaludayin và thầy Nagasamala. Trong không khí gia đình, sau bữa ngọ trai, Phật đã giảng dạy về cách quán niệm hơi thở, quán chiếu các cảm thọ của 6 căn (mắt, tai mũi, lưỡi, thân, ý), phương pháp thiền hành và thiền tọa.

Ngài chú trọng đến cách thức quán chiếu để vượt qua những phiền muộn, nóng giận trong đời sống hằng ngày. Ngài chỉ cách duy trì chánh niệm và an trú trong chánh niệm. Yasodhara, Rahula, Nanda và Sundari Nanda đều có mặt trong buổi thuyết pháp này. Rahula rất thích ở bên cạnh thầy Sariputta và nắm lấy tay thầy.

Khi Phật ra về, mọi người đưa ngài ra đến cổng phía nam. Ðức Phật trao bình bát của ngài cho Nanda cầm, chấp tay xá chào vua Suddhodana và từ giã mọi người. Nanda đứng ôm bát, chờ Phật chào xong thì trả bát lại. Nhưng Phật không lấy bát lại mà lặng thinh, trang nghiêm, thong thả, nhìn thẳng xuống đất phía trước mặt, bước lần về tu viện Nigrodha. Nanda không dám quấy rầy, lặng yên ôm bát theo sau.

Về tới tu viện, Phật bảo Nanda ở lại chơi và sinh hoạt năm bảy hôm tại đây. Vừa thương vừa kính Phật, Nanda vâng lời. Thấy nếp sống ở đây rất thanh tịnh và thoải mái, vị thái tử trẻ đem lòng mến mộ. Một hôm Phật hỏi Nanda có muốn xuất gia theo Phật tu học một thời gian không. Nanda đáp có.

Phật bảo thầy Sariputta làm lễ xuất gia cho Nanda. Nanda vì quá nể Phật nên chịu lễ xuất gia, nhưng trong lòng vẫn thương nhớ người vợ đẹp mới cưới là Janapada Kalyani[35].

Việc xuất gia của Nanda đã được Phật thảo luận trước với vua Suddhodana. Vua đồng ý với Phật rằng tuy Nanda rất thông minh và hiền lành nhưng thiếu tánh cương quyết cần có của một nhà lãnh đạo. Phật đề nghị với vua cho Nanda đi theo tu học và gần gũi với Phật một thời gian để Phật rèn luyện cho chàng những đức tính cần thiết. Nhà vua đồng ý.
Rahula xuất gia[36]

Rahula thấy chú là Nanda được xuất gia ở suốt ngày với Phật thì thích lắm. Rahula xin mẹ được xuất gia như chú Nanda, nhưng bà bảo cậu còn nhỏ lắm, chừng nào lớn bằng chú Nanda bấy giờ mới xuất gia được.

Một hôm tăng đoàn khất thực gần hoàng cung. Ysodhara và Rahula đứng trên lầu trông thấy. Rahula xin phép được xuống thăm Phật. Cậu chạy ra cửa hoàng cung, đến nắm tay Phật. Cậu rất sung sướng đi bên cạnh Phật, cậu nói:

- Thầy ơi! Ðược đi bên cạnh thầy con cảm thấy mát mẻ dễ chịu lắm.
Một lát sau, cậu hỏi:
- Thầy ơi! Gia tài của con đâu?

Phật đáp:
- Về đến tinh xá thầy sẽ trao cho con.

Ðến tinh xá Nigrodha, Rahula được xếp ngồi bên cạnh Phật và đại đức Sariputta. Cậu thấy chú Nanda ngồi ở đàng xa. Thầy Sariputta chia phần ăn cho Rahula và dạy cậu cách ngồi ăn trong im lặng. Lần đầu tiên Rahula rất ngạc nhiên thấy rằng ăn trong im lặng làm cậu có cơ hội thưởng thức mùi vị của từng món ăn. Ăn xong cậu được đại đức Sariputta dắt về phòng mình nghỉ. Rahula nói với đại đức

Sariputta là cậu muốn được ở lại tinh xá như chú Nanda. Ðại đức Sariputta bảo muốn ở luôn tại tinh xá thì phải xuất gia, nhưng phải đến hai mươi tuổi mới xuất gia được. Rahula nũng-nịu nắm tay thầy Sariputta nói "Con muốn xuất gia bây giờ hà!". Ðại đức Sariputta dắt Rahula đến bạch Phật ý muốn xuất gia của Rahula. Phật bảo:

- Vậy thầy hãy làm lễ nhập chúng cho cháu tập sự xuất gia, thọ giới khu-ô sa-di[37]. Chừng đến hai mươi tuổi sẽ thọ giới tỳ-kheo.
Thầy Sariputta xuống tóc cho Rahula và cho cậu thọ tam quy và bốn giới: không giết hại, không trộm cắp, không nói dối, không uống rượu. Thầy dạy cho Rahula cách khoác y và ôm bát.

Rahula được lệnh ở bên cạnh thầy Sariputta, trong lúc ngủ cũng như trong lúc đi khất thực, để học hỏi và thực tập nếp sống khất-sĩ. Ngoài bữa ăn ngọ, Rahula được ăn thêm một lần nữa vào buổi chiều. Trong các giờ ngồi thiền, Rahula có nhiệm vụ đuổi quạ một cách êm thắm để giữ yên tĩnh cho các thầy.

Ðược tin Rahula xuất gia, vua Suddhodana, hoàng-hậu Gotami và bà Yasodhara đến tinh xá Nigrodha. Phật ra cổng đón tiếp, có cả Nanda và Rahula đi theo. Rahula muốn chạy đến gặp mẹ, nhưng thầy Sariputta bảo chú phải thong thả đi chứ không được chạy. Yasodhara ôm con vào lòng, nước mắt ràn-rụa. Vua Suddhodana xá Phật, rồi nói với giọng trách móc:

- Thế Tôn, trẫm đã đau xót vô cùng khi thái-tử bỏ nhà đi xuất gia. Rồi mới đây Nanda cũng bỏ trẫm. Trong lúc tuổi già, trẫm nay đã 78 tuổi rồi, ngai vàng hiện không còn ai kế nghiệp, chỉ còn Rahula là nguồn an-ủi duy nhất. Bây giờ Thế Tôn lại khuyến dụ Rahula xuất gia làm khất sĩ. Nó còn nhỏ quá, chỉ mới bảy tuổi, trẫm sợ nó không kham nỗi lối sống rày đây mai đó không nhà cửa.

Thế Tôn cũng nên nghĩ đến nỗi khổ của mẹ nó là Yasodhara. Ðối với người tại gia, tình cha con, tình mẹ con, tình ông cháu rất nặng. Niềm đau xa cách cũng như dao cắt vào da. Cắt vào da xong, lại cắt sâu vào thịt. Cắt sâu vào thịt rồi, lại cắt luôn vào xương vào tủy. Niềm đau khổ không sao tả hết được. Xin Thế Tôn và các Ðại đức từ nay đừng nhận cho người còn nhỏ tuổi xuất gia nếu không có sự ưng thuận của cha mẹ chúng.

Ðức Phật quay lại nói với thầy Sariputta và các đại-đức bên cạnh:
- Từ nay trở đi, các thầy không nên chấp nhận cho trẻ em xuất gia nếu không có sự đồng ý của phụ huynh các em. Xin đại đức ghi vào quy chế như vậy.

Rồi đức Phật tìm lời an ủi vua, hoàng hậu Gotami và Yasodhara. Ngài thuyết pháp cho các vị đó rõ thêm sự thực về vô thường và vô ngã. Ngài nói đến công phu tu tập tinh tiến hằng ngày như là cửa ngõ duy nhất để tự giải thoát ra khỏi mọi đau khổ. Ngài nói Nanda và Rahula đang thực hành nếp sống theo chánh pháp để đạt đến hạnh-phúc chân thật không thể nghĩ bàn.

Ðó là một điều may mắn và tốt đẹp đáng được khuyến khích. Ngài khuyên đức vua, hoàng-hậu và Yasodhara cũng nên tinh tiến tu tập đạo giải thoát trong nếp sống tỉnh thức hằng ngày. Có quen với nếp sống tỉnh thức thì sau khi qua đời mới còn đủ sáng suốt để gặp lại nhau, nếu không lo tu tập ngay bây giờ thì sau này mù mù mịt mịt, còn gì là tình nghĩa mẹ con, vợ chồng, ông cháu nữa.

Phật thuyết pháp lần thứ ba trong hoàng cung Kapilavastu[38]

Thấm thoát mà giáo đoàn đã ở lại Kapilavastu gần sáu tháng. Số người đến xin xuất gia với Phật hoặc với các vị khất sĩ lớn đã lên tới gần năm trăm vị. Số cư sĩ tại gia thì đông quá không thể đếm xiết. Vua Suddhodana đã dâng cúng cho giáo đoàn một cơ sở mới để có đủ chỗ trú ngụ cho các tu sĩ.

Ðó là cung điện mùa hè ngày xưa của thái-tử Siddhattha, có vườn cây rộng mát nằm về phía bắc Kapilavastu. Ðại đức Sariputta đưa vài trăm vị khất sĩ về tu viện này. Tăng đoàn đặt được cơ sở vững chắc cho sự hành đạo tại vương quốc Sakya.

Trước khi đức Phật trở về tinh xá Venuvana cho kịp mùa an cư như đã hứa với vua Bimbisara và tăng đoàn tại đó, vua Suddhodana thỉnh Phật vào cung để cúng dường và nghe pháp. Cả hoàng tộc và triều đình đều đến tham dự.
Trong buổi thuyết pháp này, đức Phật nói về đạo-đức và chính-trị:

- Thưa quý vị, đạo-đức là ngọn hải-đăng soi sáng cho con thuyền chính-trị. Người làm chính-trị nên nương theo đạo-đức để thực hiện công bằng xã-hội, đem lại hòa bình và hạnh-phúc cho mọi người dân. Người làm chính-trị phải biết tu dưỡng bản thân, dùng lòng từ bi bác ái tổ-chức guồng máy chính-trị và kinh-tế.

Không nên sống đời giàu sang thái quá, không nên mải mê thụ hưởng dục lạc, nên dành nhiều thì giờ lo việc ích nước lợi dân và khuyến khích dân chúng sống đời đạo-đức, giữ gìn 5 giới ...

Vua Suddhodana (Tịnh-Phạn) và quần thần chăm chú lắng nghe. Hoàng thúc Dhotodana (Hộc-Phạn), chú ruột của Phật, nói:

- Con đường đức trị mà Thế Tôn vừa nêu ra thật đẹp đẽ. Nhưng có lẽ ở đây chỉ có Thế Tôn mới có đủ tư cách và đức độ để thực hiện mà thôi. Vậy Thế Tôn nên ở lại Kapilavastu để kế nghiệp hoàng huynh Suddhodana, giữ lấy giềng mối chính-trị tại vương quốc Sakya này hầu tạo an lạc và hạnh phúc cho muôn dân.

- Tuổi trẫm đã cao, vua Suddhodana nói, nếu Thế Tôn chịu ở lại thì trẫm sẽ thoái vị ngay. Với đạo-đức, uy-tín và tài trí của Thế Tôn, trẫm tin chắc là quốc dân sẽ hoàn toàn ủng-hộ, và chẳng bao lâu vương quốc sẽ trở nên giàu mạnh, lẫy lừng.

- Tâu phụ vương và hoàng thúc, đức Phật mỉm cười đáp, con đã xuất gia, giờ đây con không còn là người của một gia đình, của một dòng họ hay của một tổ quốc nữa. Hiện nay gia đình của con là nhân loại, nhà cửa của con là trời đất, địa vị của con là một khất sĩ sống nhờ vào hột cơm bố-thí của mọi người.

Con đường mà con đã chọn là con đường của người tu sĩ chứ không phải con đường của nhà chính trị. Con nghĩ là con sẽ phụng sự hữu ích hơn cho nhân loại và chúng sanh với tư cách của một tu sĩ.

Hoàng hậu Gotami và Yasodhara chăm chú cúi mặt ngồi nghe với hai dòng nước mắt chạy dài trên má.
Ðức Phật tiếp tục thuyết giảng về tam quy, ngũ giới và cách thức hành trì năm giới trong phạm vi gia đình và xã hội để đem lại đời sống an lành cho mọi người.


Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11370
Registration date : 08/08/2009

Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chuyện Cổ Tích PG   Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 I_icon13Mon 02 Aug 2010, 20:04


Phật đến thành-phố Anupiya thuộc xứ Malla[39]

(Ananda, Anuruddha[40], Bhaddiya, Bhagu, Devadatta, Kimbila[41] và Upali xuất gia)

Ðức Phật rời Kapilavastu đi về phía tây nam với một trăm hai mươi khất sĩ, đến thành phố Anupiya[42] thuộc xứ Malla, tạm trú trong một vườn xoài bên bờ sông Anoma. Ði theo Phật còn có các đại đức Sariputta, Kaludayin, Nanda và chú sa-di Rahula.

Lúc Phật còn ở tinh xá Nigrodha thuộc ngoại ô Kapilavastu, nhiều thanh niên trong hoàng tộc đã đến xin xuất gia, phần nhiều thuộc những gia đình có từ ba người con trai trở lên. Sau khi Phật rời Kapilavastu độ một tuần, có hai anh em ruột tên Mahanama và Anuruddha, con của hoàng thúc Sukkodana (Bạch-Phạn), cũng muốn xin xuất gia.

Thấy nhiều bạn hữu của mình trong hoàng tộc đã đi xuất gia với Phật, Mahanama cũng muốn được đi xuất gia. Chàng bàn với em:

- Này Anuruddha, nhà ta chưa có ai xuất gia theo Phật cả, vậy một trong hai anh em mình nên có một đứa đi xuất gia.
- Thân em ốm yếu hơn anh, chắc em không kham nổi đời sống khất sĩ, vậy anh đi xuất gia đi.

- Ðược rồi, vậy phần em ở lại nhà lo việc ruộng vườn nhé!
- Lo việc ruộng vườn là làm sao?
- Là phải trông nom việc cày bừa, trồng trọt, gặt hái, vân vân cho đúng mùa màng thời tiết để thu hoạch được nhiều hoa lợi cho gia đình.
- Thôi thôi, những việc đó em hoàn toàn mù tịt. Ðể em đi xuất gia làm khất sĩ có vẻ khoẻ hơn.
- Em muốn đi xuất gia cũng được. Tùy ý em chọn lựa.
Anuruddha liền đến xin phép mẹ đi xuất gia, bà nói:
- Chừng nào bạn của con là Bhaddiya[43] đi xuất gia thì mẹ sẽ đồng ý cho con đi xuất gia.

Bà nói vậy vì bà nghĩ rằng Bhaddiya là người có chức vị cao, danh vọng và quyền hành lớn, chắc không thể bỏ đi tu. Anuruddha nghe mẹ nói liền tìm tới Bhaddiya hiện đang trấn thủ các tỉnh miền bắc vương quốc Sakya. Dưới quyền chàng có nhiều đội binh. Dinh thự của chàng có lính gác bốn phía. Kẻ hầu người hạ tấp nập. Bhaddiya tiếp Anuruddha như một thượng khách. Anuruddha bảo bạn:

- Tôi muốn đi xuất gia theo học với Phật, nhưng không đi được cũng tại vì anh.
- Tại sao vì tôi mà anh không xuất gia được? Bhaddiya cười hỏi. Tôi cấm anh xuất gia hồi nào? Trái lại tôi sẽ làm đủ mọi cách cho anh xuất gia nữa là khác.

Anuruddha kể lại đầu đuôi câu chuyện, rồi nói tiếp:
- Anh vừa hứa với tôi là anh sẽ làm đủ mọi cách cho tôi được xuất gia. Nhưng chỉ có cách duy nhất là anh cùng đi xuất gia với tôi.

Bhaddiya bối rối, thấy mình sơ ý bị kẹt lời hứa. Không phải chàng không hâm mộ Phật với đạo lý giác ngộ giải thoát của người. Chàng cũng có ý định xuất gia, nhưng không phải ngay bây giờ. Chàng nói:

- Bảy năm nữa tôi sẽ đi xuất gia. Anh cứ yên chí đợi tôi.
- Bảy năm nữa thì lâu quá. Biết tôi có còn sống đến lúc ấy hay không?
- Sao anh bi quan quá vậy? Bhaddiya cười nói. Nhưng thôi, tôi cũng chìu ý anh. Vậy anh hãy đợi tôi ba năm nữa.
- Ba năm cũng còn lâu!
- Thôi thì bảy tháng. Tôi còn phải thu xếp gia đình, xin từ chức và bàn giao quyền hành lại cho người khác.
- Ðã xuất gia thì cần gì phải sắp đặt lâu như thế. Xuất gia là từ bỏ tất cả để đi theo con đường xuất trần siêu thoát. Ðợi lâu như thế lỡ anh đổi ý thì sao?

- Anh đã nói vậy thì bảy hôm nữa tôi sẽ đi với anh. Thôi, anh yên chí về đi.
Anuruddha mừng rỡ về báo cho mẹ và anh biết tin. Bà mẹ không ngờ quan tổng trấn Bhaddiya lại chịu bỏ chức tước, danh vọng một cách dễ dàng như thế. Bà chợt ý thức được tầm cao siêu của đạo lý giải thoát và bằng lòng cho con xuất gia.

Anuruddha rủ thêm được một số bạn hữu nữa cùng đi xuất gia, gồm có Ananda, Bhagu, Devadatta và Kimbila. Ananda là con của hoàng thúc Amitodana (Cam-Lộ-Phạn).

Devadatta là con của vua Suppabuddha (Thiện-Giác) và hoàng hậu Amita. Suppabuddha là anh ruột của Maha Maya và Pajapati Gotami. Amita là em gái của vua Suddhodana. Devadatta cũng là em trai của Yasodhara.

Trong số sáu vị vương tử sắp xuất gia thì cao niên nhất là Bhaddiya, lớn hơn đức Phật vài tuổi, nhỏ nhất là Ananda mới được mười tám tuổi, được phép cha là hoàng thúc Amitodana cho xuất gia.

Sáu vị vương tử đi bằng xe tứ mã đến sát biên giới xứ Malla thì xuống xe, cho xe trở về, rồi cùng nhau đi bộ đến Anupiya, cách biên giới không xa. Anuruddha đề nghị mọi người cởi bỏ hết đồ trang sức quý giá, chỉ ăn mặc thật đơn giản trước khi qua biên giới.

Mọi người tán thành. Họ cởi những xâu chuỗi ngọc và những chiếc vòng bằng vàng bằng bạc ra gói lại trong một cái áo. Khi vừa đến một làng nhỏ thì họ gặp một tiệm hớt tóc nghèo nàn. Anh thợ hớt tóc là một thanh niên trạc tuổi họ, mặt mày khôi ngô nhưng ăn mặc rách rưới.

Anuruddha ghé vào quán hỏi thăm đường đi đến thành phố Anupiya. Anh thợ hớt tóc cho biết tên anh là Upali và tình nguyện dắt sáu người khách lạ đi một đoạn đường sang biên giới.

Upali đưa các vương tử qua khỏi biên giới xứ Malla, chỉ đường đi Anupiya, rồi vái chào các vương tử để trở về. Anuruddha cám ơn Upali và trao cho Upali cái áo gói đầy châu báu trong đó. Chàng nói:

- Này Upali, chúng tôi muốn theo Phật xuất gia. Chúng tôi không cần dùng những thứ trang sức châu báu này nữa. Chúng tôi tặng lại anh. Từng ấy châu báu vàng bạc đủ để anh sống sung sướng suốt đời.

Các vương tử từ giã Upali rồi lên đường. Anh thợ hớt tóc mở chiếc áo ra. Vàng ngọc làm anh ta lóe mắt. Anh không tin đây là sự thật. Bỗng nhiên anh cảm thấy lo sợ, anh cảm thấy mất hết sự an ổn thảnh thơi hằng ngày. Anh sợ kẻ tham biết được sẽ giết anh để cướp đoạt.

Anh sợ quan quân biết được sẽ cho anh là kẻ trộm cắp. Upali suy nghĩ. Anh thấy các vương tử giàu sang đến thế, quyền hành như thế mà vẫn bỏ hết để đi xuất gia, thì chắc việc xuất gia phải có cái gì quý báu hơn giàu sang danh vọng. Anh chợt có ý nghĩ liệng bỏ gói châu báu để đi theo các vị vương tử.

Anh treo gói châu báu lên một cành cây gần đó, thầm nhủ rằng ai là người đầu tiên thấy gói châu báu này thì gói châu báu này sẽ thuộc về người ấy. Rồi anh lật đật chạy theo các vương tử.

Các vương tử ngạc nhiên thấy Upali chạy theo vừa tới. Devadatta hỏi:
- Upali, anh chạy theo chúng tôi làm chi? Bọc châu báu anh để đâu?

Upali thở hổn hển, rồi kể lại câu chuyện. Anh ta nói đã treo gói châu báu lên một cành cây, vì khi cầm gói châu báu ấy trên tay anh cảm thấy lo sợ cho tánh mạng, tâm không an. Anh xin các vị vương tử cho phép anh cùng đi theo đến Anupiya để xin xuất gia với Phật. Devadatta cười ha hả: - Anh mà cũng muốn đi xuất gia như chúng tôi à?

Nhưng Anuruddha và Bhaddiya tán thành ngay: - Hay lắm, như vậy chúng ta cùng đi. Có anh dẫn đường càng dễ dàng cho chúng tôi.

Phật và tăng đoàn đang cư trú trong một vườn xoài bên bờ sông Anoma, cách thành phố Anupiya chừng hai cây số về phía đông nam. Bảy người tìm tới nơi xin gặp Phật. Bhaddiya thay mặt cả nhóm trình lên Phật ý nguyện của họ xin được xuất gia. Phật im lặng chấp thuận. Bhaddiya nói:

- Chúng con xin Thế Tôn cho Upali được xuất gia trước. Như vậy chúng con phải xem Upali như một sư huynh để trừ ý niệm phân biệt kỳ thị còn sót lại trong lòng chúng con.

Ðức Phật khen ngợi cả bảy người, rồi cho Upali xuất gia trước, sau đến sáu vị vương tử. Ananda tuy mới mười tám tuổi cũng được xuất gia, nhưng chỉ thọ giới sa-di[44] và học theo hạnh khất-sĩ. Ðúng hai mươi tuổi chàng mới được thọ giới khất-sĩ. Lúc bấy giờ Ananda là người trẻ nhất trong tăng đoàn, trừ Rahula.

Ba hôm sau, Phật và tăng đoàn rời Anupiya, hướng về Vesali, cách Kapilavastu khoảng 220 km về phía đông nam. Ðến Vesali, Phật lưu lại tinh xá Mahavana (Ðại Lâm) ba hôm, rồi lại lên đường đi về hướng nam đến tinh xá Venuvana
(Trúc Lâm), cách Vesali khoảng 110 km.

6 - Hạ thứ 3 tại Venuvana (năm -587)

Em bé cúng bánh bằng đất vào bát Phật

Ðức Phật về đến Venuvana (Trúc Lâm). Các đại đức Uruvela Kassapa, Moggallana, Kondanna và gần sáu trăm vị tỳ-kheo đều vui mừng tiếp rước. Vua Bimbisara lập tức tới thăm Phật. Không khí Trúc Lâm rất vui tươi và sống động.

Mùa mưa gần tới, đại đức Kondanna và Uruvela Kassapa đã chuẩn bị đầy đủ để đại chúng có thể an cư tu học. Ðây là mùa an cư thứ ba từ ngày Phật thành đạo tại Bodh-Gaya. Mùa an cư thứ nhất tại Isipatana (Sarnath, Lộc Uyển). Mùa an cư thứ hai và thứ ba, Phật ở tại Venuvana.

Trước mùa an cư, một hôm Phật đang đi khất thực trong thành Rajagriha, có một em bé đang chơi lấy đất làm bánh bên vệ đường, em vui vẻ trịnh trọng cầm một cái bánh bằng đất cúng dường vào bát của Phật. Ðức Phật mỉm cười khen ngợi em bé và thọ ký em bé sẽ tái sanh làm vua Asoka sau này[45].

Ngoại đạo đào hầm lửa hại Phật[46]

Ngoại đạo sư Purana Kassapa (Phú-Lan-Na Ca-Diếp) lập mưu với một tín đồ ở Rajagriha, đào một hầm bẩy trước cửa nhà, dưới hầm để than cháy đỏ, trên miệng hầm dùng cây cỏ ngụy trang, rồi thỉnh Phật đến nhà thọ trai. Ðức Phật nhận lời. Khi Phật và thánh chúng đến nơi thì hầm lửa biến thành một hồ sen vô cùng đẹp đẻ thơm tho, những hoa sen to lớn nhô lên thành một cái cầu cho Phật và thánh chúng đi qua.

Maha Kassapa (Ma-ha Ca-Diếp) xuất gia[47]

Trong mùa an cư năm ấy có nhiều vị xin xuất gia. Trong số đó có một nhân tài lỗi lạc là Maha Kassapa (Ðại Ca-Diếp).

Maha-Kassapa khoảng cùng một tuổi với Phật, tên thật là Pippalayana (Tất-Bát-La-Da-Na) vì mẹ ngài sanh ngài dưới cội cây Pippala (Tất-bát-la), quê ở làng Mahatistha, ngoại ô thành Vương-xá (Rajagriha), thuộc gia đình trưởng giả giàu có lớn, dòng Bà-la-môn. Cha tên Ẩm-Trạch (Ni-Câu-Lư-Ðà-Kiệt-Ba), mẹ tên Hương-Chí. Thuở bé, ngài đã rất thông minh, dung nghi trang nhã, toàn thân màu vàng, tỏa ánh sáng rất xa. Có thầy xem tướng nói:

"Ðứa bé này đời trước có phước đức lớn, chắc sau này sẽ xuất gia." Cha mẹ ngài nghe nói lo sợ, cùng bàn với nhau sẽ cưới vợ cho ngài sớm.

Vừa lớn lên, cha mẹ liền lo chọn người lập gia thất, nhưng ngài một mực từ chối. Sau cùng, bất đắc dĩ ngài nói: "Có người con gái nào thân đồng màu sắc như con, con mới ưng." Ðến năm 607 trước tây lịch, ngài phải vâng lời cha mẹ, lập gia đình với bà Bhadra Kapilani (Diệu-Hiền), quê ở Vesali, cũng có thân hình màu vàng tỏa sáng như ngài.

Nhưng cả hai người đều không thích việc ân ái vợ chồng, chỉ thích sống đời phạm hạnh, thanh tịnh. Tuy là vợ chồng nhưng suốt 18 năm hai người vẫn ngủ giường riêng, không hề chung chăn gối.

Năm -589, một buổi sáng nọ, khi thức giấc, Maha Kassapa thấy bà Bhadra Kapilani đang ngủ say, một cánh tay buông thỏng từ trên giường xuống gần tới mặt đất. Một con rắn độc đen xì đang trườn qua dưới gầm giường, gần cánh tay.

Maha Kassapa nín thở nhè nhẹ bước đến cầm tay bà kéo lên giường. Bà giật mình thức dậy trách ông có ý không tốt. Ông liền chỉ con rắn đang bò ra khỏi nhà. Cả hai người cùng ngồi chiêm nghiệm về tính cách vô thường của cuộc đời. Bà khuyên ông nên tức tốc đi tìm thầy học đạo. Ông rời nhà đi tìm thầy đúng vào ngày đức Phật vừa thành đạo.

Một hôm, vào năm -587, vừa trông thấy Phật giữa đường, gần tinh xá Venuvana (Trúc Lâm), ngài liền bước đến trước Phật đảnh lễ, xin xuất gia. Hai người vừa gặp nhau liền nhận ra duyên thầy trò. Chỉ 8 ngày sau khi xuất gia, ngài chứng quả A-la-hán.

Trong hàng đệ tử Phật, ngài nổi tiếng tu hạnh đầu-đà[48] đệ nhất, và được xếp vào hàng thứ ba trong mười đệ tử lớn của Phật, sau ngài Sariputta (Xá-Lợi-Phất) và ngài Moggallana (Mục-Kiền-Liên). Ðến năm -585, sau khi đức Phật cho phép hoàng hậu Pajapati Gotami xuất gia và thành lập Ni bộ, bà Bhadra Kapilani cũng xin xuất gia, về sau cũng đắc quả A-la-hán.

Bhaddiya ngộ đạo[49]

Ðại đức Bhaddiya tu học rất tinh tấn. Ông theo gương đại đức Maha Kassapa, chỉ cư trú dưới gốc cây, không cần am thất. Ông học tập rất chuyên cần và sử dụng phần lớn thì giờ của ông vào việc thực tập thiền quán. Một hôm, trong lúc ngồi thiền dưới một cội cây, bỗng ông cảm nhận được một niềm vui sướng khó tả. Ông thốt lên:

- Ôi, hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc!
Lúc ấy trời đã khuya. Có một vị khất sĩ ngồi thiền cách ông không xa nghe được tiếng ấy. Sáng hôm sau vị này tới gặp Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn, hồi khuya, trong lúc thiền tập, con có nghe thầy Bhaddiya thốt lên hai lần "Ôi, hạnh phúc!". Con nghĩ là thầy hối tiếc nếp sống giàu sang danh vọng khi còn làm tổng trấn. Con xin trình bày để Thế Tôn biết và định liệu.

Phật gật đầu. Trưa hôm ấy, sau giờ thọ trai và thuyết pháp, Phật gọi đại đức Bhaddiya đến hỏi:
- Hồi khuya này, trong lúc thiền tọa, thầy có thốt lên "Ôi, hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc!". Có đúng thế không?

- Bạch Thế Tôn, quả thật con có thốt lên những tiếng đó.
- Thầy hãy nói cho đại chúng nghe tại sao.

- Bạch Thế Tôn, ngày trước làm tổng trấn, con sống trong giàu sang phú quý và có nhiều quyền lực. Ði đâu con cũng có một đội binh theo hầu cận và bảo vệ. Dinh phủ của con luôn luôn có binh lính canh gác ngày đêm, bên trong cũng như bên ngoài. Vậy mà lúc nào con cũng lo lắng, cảm thấy thiếu an ninh.

Bây giờ đi một mình trong rừng, ngồi một mình dưới cội cây trong đêm vắng, vậy mà con không hề có cảm tưởng nghi ngại và sợ hãi. Con cảm thấy một nguồn thảnh thơi an lạc chưa từng có.

Thưa Thế Tôn, đời sống xuất gia thật là thoải mái đối với con. Con không sợ ai, con không sợ mất gì, con không có gì để sợ mất. Trong khi thiền định đêm qua con nhận thức rõ niềm thảnh thơi vui thú đó nên con buột miệng kêu lên "Ôi, hạnh phúc!" làm kinh động đến Thế Tôn và các bạn đồng tu. Con xin thành tâm sám hối.

- Hay lắm, Bhaddiya. Thầy đang đi những bước vững chãi trên con đường tự tại, vô úy. Niềm an lạc của thầy đến cả chư thiên còn mong ước, huống chi người đời.
Phật độ ông Sudatta Anathapindika (Cấp-cô-độc)[50]

Mùa an cư thứ ba vừa chấm dứt được ba hôm thì có một thương gia trẻ rất giàu có, tên Sudatta (Tu-Ðạt-Ða), từ thủ đô Sravasti xứ Kosala đến thủ đô Rajagriha xứ Magadha buôn bán. Như mọi lần trước, ông tới tạm trú tại nhà người anh vợ là trưởng giả Santana (San-Ðà-Na).

Thay vì được tiếp đón niềm nở như mọi khi, lần này ông Santana mãi lo chỉ huy gia nhân dọn dẹp nhà cửa, nấu nướng các thứ rất bận rộn, để chuẩn bị một bữa tiệc lớn. Sudatta hỏi ra mới biết ngày hôm sau trong nhà có thỉnh Phật và chư tăng đến thọ trai, hiện Phật đang ngụ trong cụm rừng Sitavana gần đó.

Ông Santana nói sơ cho ông biết là nhờ thường đến tinh xá Venuvana nghe pháp nên ông hiểu rằng Phật là đấng Giác-ngộ, đạo Phật là đạo Từ Bi nhằm giải thoát chúng sanh khỏi cảnh đau khổ luân hồi nhờ các phép thiền quán và nhờ tu tập giới, định, huệ.

Ông Sudatta là người đã sẵn có thiện tâm rất lớn, thường đem tiền của ra giúp đỡ vô số những người nghèo khổ nên được mệnh danh là Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Do đó vừa nghe nói qua về đấng Giác-ngộ là trong lòng ông đã chớm nở một hứng thú lạ thường, ông hết lòng mong mỏi được gặp Phật.

Vì trong lòng quá nôn nao mong gặp Phật nên đêm đó ông không ngủ được yên giấc. Ông đã giựt mình thức dậy hai lần, tưởng trời đã sáng. Ðến lần thứ ba ông quyết định thức dậy thay y phục, đi lần đến rừng Sitavana để gặp Phật. Nửa đường bỗng nhiên ông nhận thấy thân ông phát ra ánh sáng. Ông đâm ra sợ hãi, muốn quay trở về, tức thì ánh sáng biến mất. Rồi có tiếng của vua trời Ðế-thích (Sakka Indra) khuyến khích ông như sau:

- Hàng trăm thớt tượng hay, cả trăm ngựa giỏi, hàng trăm cỗ xe, cả trăm ngàn thị nữ đeo đầy vòng vàng cũng không bằng một phần nhỏ của một bước đi trong lúc này. Hãy tiến bước! Hãy mạnh dạn đi tới! Tiếp tục đi có lợi hơn trở về.[51]

Ðược khích lệ, trưởng giả Sudatta hết sợ, can đảm bước tới, đức tin trở lại trong sạch. Ánh sáng từ thân ông lại phát sanh. Ông sợ. Ánh sáng mất. Vua trời Ðế-thích lại khuyến khích. Sau lần thứ ba, ông đến rừng Sitavana, nhằm lúc Phật đang đi kinh hành. Bỗng Sudatta nghe gọi tên mình, ông nhìn thấy dạng một người đang đi tới. Ông tin chắc đó là đức Phật. Ông chắp tay đảnh lễ và hỏi:

- Thế Tôn thức dậy sớm quá. Thế Tôn có yên vui không?

- Chắc chắn lúc nào cũng yên vui, đức Phật đáp. Vì trong lòng một vị A-la-hán, mọi thứ lửa đều được dập tắt. Không còn vướng víu dục vọng. Hoàn toàn mát mẻ. Ðã dứt trừ mọi mầm giống sanh tử. Cắt đứt mọi ràng buộc phiền toái. Chế ngự mọi đau khổ và phiền não. Một vị A-la-hán luôn luôn được an tịnh và vắng lặng. Vì tâm đã thành tựu hòa bình tịch tịnh.

Sau khi nghe bài pháp trên, ông Sudatta đắc quả Tu-đà-hoàn (Sotapanna).
Ông sụp xuống lễ dưới chân Phật và thỉnh nguyện:

- Bạch đức Thế Tôn, dân chúng nước Kosala chúng con chưa có cơ duyên được gặp Phật và giáo đoàn để được nghe giáo pháp giác ngộ giải thoát. Con cầu xin Thế Tôn chấp nhận lời mời của con về cư trú tại quê con là thủ đô Sravasti[52] trong một thời gian.

Con sẽ cố gắng thu xếp để Thế Tôn và giáo đoàn có nơi an trú hành đạo thuận lợi theo sự chỉ dạy của ngài. Kính xin Thế Tôn rủ lòng thương xót dân chúng xứ Kosala.

- Như Lai thương xót tất cả chúng sinh. Ông hãy tùy nghi tìm nơi yên tĩnh, rộng rãi, ở ngoài thành phố nhưng không xa lắm để các khất sĩ dễ dàng vào thành khất thực và dân chúng dễ đến nơi nghe pháp.

Ông Sudatta vâng dạ và đảnh lễ tạ ơn.

Trưa hôm đó, sau lễ trai tăng và sau thời pháp của đức Phật, ông Sudatta xin Phật cử một đại đức có nhiều kinh nghiệm, theo ông về Sravasti để chỉ dẫn cách kiến lập tinh xá. Ðức Phật chỉ định đại đức Sariputta.

Sudatta và Sariputta đi Sravasti [53]

Một tuần lễ sau, Sudatta đến tinh xá Venuvana từ giã Phật và tăng đoàn, đồng thời rước đại đức Sariputta cùng lên đường về thủ đô Sravasti.

Hai người đi về phương bắc, đến thị trấn Pataliputta (hiện nay là Patna), vượt sông Hằng (Ganga), đến thành phố Vesali. Tại đây hai người được bà Ambapali rước về nghỉ ngơi tại vườn xoài trong hai hôm.

Ðại đức Sariputta cho bà biết , theo dự trù thì khoảng sáu tháng nữa Phật và giáo đoàn sẽ đi hoằng pháp tại xứ Kosala, trên đường đi chắc chắn sẽ ghé qua Vesali. Ambapali rất vui mừng, bà mời Phật và giáo đoàn khi đi ngang qua Vesali ghé nghỉ nơi vườn xoài của bà vài hôm.

Từ giã bà Ambapali, hai người đi về phía tây bắc. Từ Rajagriha đến Sravasti phải đi trên 435 km. Ðây là lần đầu tiên ông Sudatta đi bộ trên một quãng đường dài như thế, vì ông phải cùng đi bộ với đại đức Sariputta.

Ði đến đâu ông cũng loan báo trong vòng sáu tháng nữa Phật và giáo đoàn sẽ đi qua, mọi người nên chuẩn bị đón tiếp đấng Giác ngộ trọn lành, ngài sẽ giảng dạy giáo lý giải thoát khỏi mọi khổ đau sinh tử, để về cõi niết-bàn an lạc thanh tịnh.

Ông Sudatta (Tu-Ðạt-Ða) là trưởng giả Cấp-cô-độc (Anathapindika), là người phú hộ giàu lòng từ ái, đã cứu giúp vô số kẻ nghèo khó nên ai cũng biết tiếng, và ông nói gì người ta cũng tin.

Ai nghe nói cũng ao ước được trông thấy Phật và nghe giáo pháp của ngài. Mỗi buổi sáng, khi đại đức Sariputta vào thôn xóm khất thực thì ông Sudatta đi theo để nói cho dân chúng nghe về đức Phật và giáo đoàn khất sĩ.

Ði như thế được non một tháng thì hai người về tới Sravasti. Ðại đức Sariputta được Sudatta mời về nhà riêng để cúng dường. Ông ân cần giới thiệu đại đức với mọi người trong gia đình và xin đại đức thuyết pháp cho mọi người nghe.

Thân phụ, thân mẫu và vợ ông là Punnalakkhana đều phát tâm xin thọ tam quy ngũ giới. Vợ chồng ông có bốn người con, ba gái và một trai út, tên là Subhadha chị, Subhadha em, Sumagadha và Kala.

Mỗi buổi sáng đại đức Sariputta đi khất thực trong thủ đô Sravasti. Chiều và tối thầy về cư trú trong một khu rừng thưa gần bờ sông Aciravati, hiện nay là sông Rapti (Rapati). Trong khi đó Sudatta đi tìm nơi có thể làm tinh xá cho Phật và giáo đoàn cư trú, thuận tiện cho việc hoằng pháp.

Ðồng thời hai người cũng báo cho dân chúng biết đức Phật và giáo đoàn sắp đến Sravasti trong vài tháng nữa.

Sudatta mua vườn của thái-tử Jeta[54]

Sudatta đã đi xem nhiều nơi nhưng chưa có nơi nào đẹp đẽ và thanh tịnh bằng khu lâm viên của thái tử Jeta (Kỳ Ðà), rộng độ 50 mẫu tây, nằm sát phía nam thủ đô Sravasti. Sudatta tìm đến dinh thái tử Jeta xin gặp. Lúc ấy trong dinh thái tử đang có một vị quan văn quen biết với Sudatta.

Sau khi chào hỏi, vị quan văn giới thiệu Sudatta với thái tử. Sudatta trình bày ước vọng của mình xin thái tử nhường lại cho ông khu vườn của thái tử để làm cơ sở tu học và hoằng pháp cho đức Phật và tăng đoàn. Thái tử Jeta vừa được hai mươi tuổi và vừa được vua cha Pasenadi (Ba-Tư-Nặc) ban khu vườn ấy cho chàng năm ngoái. Thái tử nhìn vị quan văn rồi nhìn Sudatta nói:

- Khu vườn này của phụ vương vừa ban cho tôi. Nó quý như vàng. Nếu ông trải vàng đầy khắp vườn thì tôi sẽ nhường lại cho ông.

Thái tử Jeta nói nửa đùa nửa thật, tin rằng không ai có thể mua như vậy. Ông Sudatta cũng biết ý thái tử không muốn bán. Nhưng ông đã đến đây với quyết tâm mua cho được khu vườn rộng rãi mát mẻ với địa thế hiếm có này để cúng dường tam bảo và để dân chúng xứ ông có phương tiện học đạo lý cao thượng hiếm có. Ông liền đáp:

- Thưa thái tử, tôi đồng ý mua theo điều kiện của thái tử vừa nêu ra. Bắt đầu ngày mai tôi sẽ cho chở vàng tới.
Thái tử giật mình, nói:
- Tôi nói đùa thôi mà. Tôi không bán khu vườn đó đâu. Ông đừng chở vàng tới.

- Thưa thái tử, tôi đến đây với ý định xin mua khu vườn kia để cúng dường đức Phật Sakyamuni (Thích-Ca Mâu-Ni) là bậc Ðại Giác-ngộ, là một thánh nhơn hiếm có trên đời. Khu vườn sẽ được tu bổ lại để làm nơi hoằng pháp của đức Phật, làm nơi tu học cho hằng ngàn tăng sĩ, và sẽ là nơi tất cả mọi người ở Sravasti có thể đến học hỏi giáo lý cao thượng giải thoát khỏi cảnh đau khổ luân hồi ở cõi đời này.

Tôi đã từng được nghe đức Phật thuyết pháp tại Sitavana gần thủ đô Rajagriha. Tôi tin rằng sự ích lợi mà đức Phật và tăng đoàn sẽ mang đến cho dân chúng nơi đây còn quý hơn số vàng mà tôi phải bỏ ra gấp bội. Vì đại sự nhân duyên vừa nêu ra, tôi xin thái tử hãy giữ lời hứa do chính tự ý ngài đưa ra.

- Thưa thái tử, vị quan văn nói nhỏ với thái tử, ngài đã lỡ đưa ra giá cả rồi. Bây giờ người mua đã đồng ý thì ngài không thể không bán. Hơn nữa với giá đó chắc hoàng thượng cũng không thể trách thái tử được.

Khi ông Sudatta đã trải vàng khắp cả vườn, chỉ còn lại nơi các gốc cây, không biết làm sao. Ông hỏi ý thái tử. Thái tử đáp:

- Ông đã vì đức Phật, vì tăng đoàn, vì dân chúng, vì giáo lý cao thượng mà bỏ ra từng ấy vàng, thật đáng phục. Vậy phần còn lại là phần của tôi đóng góp vào, ông khỏi phải lo nữa. Cứ xem như ông cúng đất, còn tôi cúng tất cả các cây trong vườn để lập tinh xá cho đức Phật.

Từ đó khu vườn này được gọi là ‘’Kỳ-Ðà thọ Cấp-Cô-Ðộc viên ‘’, hay gọi tắt là Jetavana (vườn Kỳ-Ðà, Kỳ viên). Ngày nay khu vườn này có tên là Saheth.

Ông Sudatta rất vui mừng, tán thán công đức của thái tử, và mời thái tử qua hôm sau cùng đưa đại đức Sariputta đến viếng Jetavana. Thái tử dắt đại đức Sariputta và ông Sudatta đi xem khắp nơi trong lâm viên. Ba người hoạch định sơ lược cách kiến lập am thất, giảng đường, giếng nước, nhà tắm, lối đi, cổng vào, vân vân ...

Nhân dịp này thái tử cũng được biết qua về sinh hoạt của giáo đoàn và đạo lý giác ngộ giải thoát của đức Phật. Ông Sudatta yêu cầu đại đức Sariputta cư trú ngay tại Jetavana để tiện việc hướng dẫn và điều động việc xây dựng tinh xá.

Tin ông Sudatta trải vàng mua đất và thái từ Jeta cúng dường tất cả cây trong lâm viên để làm tinh xá cho Phật lần hồi loan rộng khắp thủ đô Sravasti. Dân chúng hiếu kỳ đến xem được đại đức Sariputta thuyết pháp cho nghe. Nhiều người tình nguyện đến làm công quả, góp phần kiến lập tinh xá.

Bốn tháng sau, công cuộc xây cất đã gần hoàn thành. Ðại đức Sariputta bắt đầu lên đường trở về Rajagriha đón Phật.

Phật thọ trai tại vườn xoài của bà Ambapali tại Vesali[55]

Khi đại đức Sariputta về đến Vesali (Tỳ-xá-ly), thầy thấy rất nhiều bóng dáng áo vàng trong thành phố. Hỏi ra thầy biết Phật và trên năm trăm vị khất sĩ đã tới đó mấy hôm và hiện đang tạm trú tại Mahavana

(Ðại Lâm, Rừng Lớn). Ðại đức lập tức đến Mahavana tìm Phật.

Thầy tường trình việc ông Sudatta trải vàng mua đất và thái tử Jeta cúng dường cây để lập tinh xá; công tác tu bổ đến nay đã gần hoàn tất, và thầy về đây để rước Phật đến Sravasti (Xá-vệ).

Phật cho thầy biết bà Ambapali vừa đến đây thỉnh Phật và tăng đoàn ngày mai đến thọ trai tại vườn xoài của bà; đại đức Kondanna và Uruvela Kassapa đã lớn tuổi, không thể đi xa, nên tình nguyện ở lại Venuvana để hướng dẫn đại chúng tu học và hành đạo tại Magadha; ngày mai dự lễ trai tăng tại vườn xoài của bà Ambapali; ngày mốt hai trăm vị tỳ-kheo sẽ ở lại Mahavana hành đạo, còn ba trăm vị sẽ theo Phật và thầy Sariputta đi Kosala.

Hôm qua, sau khi tới Mahavana thỉnh Phật, trên đường về, bà Ambapali gặp các vương tử Licchavi (Lê-xa-tử) ở giữa đường. Vesali là thủ đô xứ Vajji (Bạt-kỳ). Các vương tử hỏi bà đi đâu. Bà trả lời là vừa đến Mahavana (Ðại Lâm) thỉnh Phật và tăng đoàn ngày mai đến dùng cơm trưa tại vườn xoài của bà. Các vương tử bảo bà nên hủy bỏ việc mời Phật để mời họ:

- Nếu nàng chịu mời chúng tôi, chúng tôi sẽ trả giá bữa cơm ngày mai là một trăm ngàn đồng tiền vàng.
- Quý vị chưa biết đức Phật nên mới nói thế, Ambapali đáp. Ðức Phật là bậc Giác-ngộ, là một thánh nhân hiếm có trên đời.

Tôi đã mời Phật và giáo đoàn ngày mai rồi thì dù quý vị có cho tôi cả thành Vesali này tôi cũng không thể thay đổi ý kiến. Tuy nhiên, tiện đây tôi xin mời quý vị đến dự lễ và nghe Phật thuyết pháp. Thôi, xin quý vị hãy tránh đường cho tôi về nhà sớm để lo cuộc đón tiếp ngày mai.

Các vương tử Licchavi tránh đường cho bà đi; rồi họ rủ nhau đến Mahavana để xem đức Phật là người thế nào mà bà Ambapali kính trọng đến thế. Ðến nơi, họ đậu xe ở ven rừng rồi đi bộ vào. Ðức Phật biết các vương tử Licchavi là những thanh niên có nhiều hạt giống từ-bi và trí-tuệ.

Ngài mời họ ngồi, rồi kể cho họ nghe chuyện ngài phát tâm xuất gia tu học và thành đạo như thế nào, và giáo lý diệt khổ mà ngài đã phát minh ra sao.

Các vương tử Licchavi được biết đức Phật cũng thuộc giai cấp kshatriya (chiến sĩ, vua chúa) như họ, ngài là một thái tử đã vì đại nguyện cứu khổ cho chúng sanh nên xuất gia tu học, nay đã thành đạo, ngài đang đi khắp nơi truyền bá giáo lý cao thượng của ngài, chẳng những có khả năng cứu khổ cho con người hiện đời này mà còn có thể giúp họ thoát ra khỏi vòng luân hồi để vào cõi niết-bàn an lạc tịch tịnh.

Các vương tử sụp xuống đảnh lễ Phật, xin ngài nhận họ làm đệ tử tại gia, rồi thỉnh Phật ngày mốt đến thọ trai tại nhà họ. Ðức Phật mỉm cười nhận lời.

Tại lễ cúng dường trai tăng tổ chức tại vườn xoài, bà Ambapali đã mời các thân hữu của bà và một số các vương tử Licchavi đến nghe Phật thuyết pháp về Tứ-diệu-đế và Tứ-niệm-xứ.

Phật thọ trai tại cung điện các Vương-tử Licchavi[56]

Qua ngày hôm sau, đức Phật với trên một trăm vị khất-sĩ tới dự lễ trai tăng tại cung điện của các vương tử Licchavi (Lê-xa-tử). Buổi lễ được tổ chức thật long trọng. Các thức ăn chay được chuẩn bị rất chu đáo và đặc biệt. Thọ trai xong, Phật giảng cho mọi người nghe giáo lý duyên sinh, hạnh không phóng-dật (trụy-lạc) và Bát Chánh Ðạo.

Do vô minh mà muôn vật nương nhau sinh khởi theo bốn giai đoạn thành, trụ, hoại, không, tạo ra biết bao nghiệp báo thiện, ác dắt dẫn chúng sinh vào vòng luân hồi sinh tử đầy đau khổ.

Muốn thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử đầy đau khổ đó trước hết phải tu hạnh không phóng-dật, tức không sống buông thả theo dục vọng, kế đến phải thực hành Bát Chánh Ðạo (Bát Thánh Ðạo), tức là đi theo con đường của tám sự hành trì chân chánh của thánh nhân:

Phần Ghi Chú:

1- Chánh kiến: Thấy biết sự vật đúng theo thật tánh.
2- Chánh tư duy: Suy nghĩ cặn kẻ để hiểu rõ chân lý, để biết cách hành động lợi mình, lợi người.
3- Chánh ngữ: Nói lời nhu hòa đúng sự thật, có lợi ích cho người nghe.
4- Chánh nghiệp: Làm việc gì cũng chính đáng, lợi mình, lợi người.

5- Chánh mạng: Hành nghề sinh sống vừa phải, không cầu lợi nhiều, không làm hại sinh mạng, tài sản kẻ khác.
6- Chánh tinh-tấn: Siêng năng làm điều thiện.
7- Chánh niệm: Luôn luôn nhớ các điều lành phải làm, nhớ tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tâm luôn vắng lặng thanh tịnh.
8- Chánh định: Thực hành thiền định để giữ tâm luôn luôn vắng lặng thanh tịnh, không loạn động trước ngoại cảnh.

Sau khi nghe Phật thuyết pháp, mười hai vị vương tử xin xuất gia theo Phật. Trong số đó có Otthaddha và Sunakkhatta[57] là hai vị vương tử có ảnh hưởng lớn trong bộ tộc Licchavi.
Các vương tử thỉnh Phật và giáo đoàn sang năm về an cư tại Vesali. Họ hứa sẽ xây cất giảng đường, am thất vân vân để biến Mahavana thành một tinh xá đầy đủ tiện nghi cho giáo đoàn tu học và hành đạo.

Bà Ambapali, có mặt hôm ấy, cũng ngỏ ý cúng dường khu vườn xoài của bà cho giáo đoàn khất sĩ. Phật đều hoan hỷ chấp thuận.

Sariputta rước Phật đi Sravasti[58]

Sáng hôm sau, đức Phật, đại đức Sariputta và giáo đoàn lên đường đi về thủ đô Sravasti của xứ Kosala. Ðường về Sravasti đối với đại đức Sariputta đã trở nên quen thuộc. Trên con đường này thầy và cư-sĩ Sudatta Anathapindika đã gây được niềm tin nơi dân chúng đối với Phật và giáo đoàn. Lần này Phật và giáo đoàn đi tới đâu đều được dân chúng tiếp đón niềm nở.

Trên tả ngạn sông Aciravati có nhiều khu rừng mát mẻ cho Phật và giáo đoàn nghỉ ngơi mỗi tối. Ðoàn người chia làm ba nhóm. Nhóm của Phật đi đầu có thầy Sariputta hướng dẫn. Nhóm thứ hai do đại đức Assaji cầm đầu. Nhóm thứ ba có đại đức Moggallana trông nom.

Các đoàn khất sĩ đi rất trang nghiêm, khi khất thực cũng như lúc đi trên đường dài. Dân chúng các thôn xóm ven sông thỉnh thoảng được nghe pháp thoại của Phật hoặc của các thầy cả nói sau giờ cơm trưa tại một khu rừng hay trên một bờ sông mát mẻ.

Từ Vesali đến Sravasti độ 340 km. Giáo đoàn đi độ một tháng thì đến nơi. Cư sĩ Anathapindika và thái-tử Jeta ra tận ngoài thành đón Phật và tăng đoàn đến ngay tinh xá Jetavana (Kỳ Viên). Thấy tinh xá là một khu vườn rộng rãi, mát mẻ, yên tĩnh, được tu bổ khéo léo, đức Phật rất hoan hỷ ngỏ lời khen ngợi.

Sudatta rất sung sướng bạch Phật là nhờ ý-kiến và sự trông nom xây cất của đại đức Sariputta và thái tử Jeta mới được như thế. Nhờ địa thế rộng-rãi, mát-mẻ, yên tĩnh nhưng không quá xa đô thị, nhờ ông Sudatta và thái tử Jeta hết lòng giúp đỡ về tài chánh và nhân công, và nhờ rút kinh nghiệm tại tinh-xá Venuvana

(Trúc-Lâm) nên đại-đức Sariputta đã kiến tạo Jetavana thành một tinh-xá vô cùng lý tưởng cho giáo đoàn từ một đến hai ngàn khất sĩ.

Có am riêng của Phật (Gandha kuti), 80 am dành cho các khất sĩ lớn tuổi, nhiều dãy phòng trống trải cho các khất sĩ trẻ, ba bốn giếng nước lớn và một giảng đường rộng lớn có nhiều tầng. Jetavana được xem là cơ-sở quan trọng nhứt của đức Phật, và ngài đã nhập hạ tại đây khoảng 25 lần trong suốt 45 năm hoằng dương chánh pháp.

Chú tiểu Rahula năm nay được chín tuổi. Theo nguyên tắc chú phải thân cận với đại đức Sariputta để học hỏi với thầy. Nhưng sáu tháng nay vì thầy Sariputta vắng mặt nên chú đã được giao lại cho đại đức Moggallana. Tới tinh xá Jetavana, chú lại được theo hầu thầy Sariputta như cũ.

Thái tử Jeta và cư sĩ Sudatta thiết lễ cúng dường tại tinh xá, ngay sau ngày Phật và giáo đoàn tới Sravasti. Dân chúng quanh vùng được mời tới để nghe Phật thuyết pháp. Ðã nghe nói tới Phật từ nhiều tháng rồi, nên hôm ấy dân chúng thủ-đô đến tinh xá rất đông.

Sau bữa ngọ trai, Phật giảng về Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo: Trước hết phải nhận thức rõ ràng những nỗi khổ trong đời sống hằng ngày; kế đến phải tìm hiểu các nguyên nhân gần và xa của những nỗi khổ đó; rồi đức Phật chỉ cách diệt khổ bằng tám hành động chơn chánh để đạt đến hạnh-phúc chân-thật và trường cửu của cảnh giới niết-bàn vô lậu, thanh-tịnh.

Trong số người nghe hôm ấy có hoàng-hậu Mallika, phu nhân của vua Pasenadi xứ Kosala, và công chúa Vajiri do thái tử Jeta mời đến. Công chúa Vajiri mới lên mười sáu tuổi.

Nghe thuyết pháp xong, thái tử và công chúa đều muốn xin quy-y tam bảo; nhưng hoàng hậu bảo nên chờ có sự đồng ý của vua trước đã. Hoàng hậu Mallika biết là trong tương lai thế nào vua Pasenadi (Prasenajit, Ba-tư-nặc) cũng có cảm tình với Phật. Em gái của vua là hoàng hậu Videhi của vua Bimbisara (Tần-bà-ta-la hay Bình-sa vương) xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) đã quy-y với Phật từ ba năm nay.

Trong số những người đến nghe Phật thuyết pháp hôm ấy có nhiều nhân vật quan trọng thuộc các giáo phái đang thịnh hành tại Sravasti. Họ đến vì tò mò hơn là học hỏi. Có người nghe Phật xong chợt thấy tâm hồn cởi mở. Có người nghe xong thì thấy Phật là một thế lực chống đối đáng ngại.

Nhưng ai nấy đều công nhận rằng sự xuất hiện của Phật tại thành Sravasti là một biến cố rất trọng đại trong lịch-sử tư tưởng và tôn giáo tại vương quốc Kosala (Kiều-tát-la).

Sau khi lễ cúng dường và thuyết pháp đã hoàn mãn, cư sĩ Sudatta cung kính đảnh lễ Phật và bạch rằng:
- Bạch Thế-tôn, thái tử Jeta, con và gia-đình con cùng với tất cả bạn hữu kính dâng tinh xá Jetavana này lên Phật và giáo đoàn. Kính mong Thế-tôn hoan hỷ chấp nhận.
- Này Sudatta, công đức của quý vị thật là to lớn. Tinh xá Jetavana rất thuận lợi cho việc tu học và hoằng pháp. Quý vị đã hết lòng hộ trì chánh pháp thì từ nay quý vị cũng nên cố gắng tinh tấn trên đường tu tập giải thoát.

Sáng hôm sau, Phật và giáo đoàn ôm bát vào thành khất thực. Ðại đức Sariputta chia các vị khất sĩ thành hai mươi nhóm, mỗi nhóm mười lăm người, chia nhau đi vào các khu phố theo đúng phép khất thực. Sau đó tập họp về tinh xá trước giờ ngọ để chia nhau thức ăn và thọ trai.

Cứ bảy hôm lại có một buổi thuyết pháp của Phật tại Jetavana. Dân chúng đến nghe rất đông. Trong vòng mười hôm, vua Pasenadi, tuy chưa hề nghe Phật thuyết pháp, nhưng cũng đã nhiều lần nghe hoàng hậu và triều thần tán dương giáo lý cao thượng của Phật.

Theo lời thái tử Jeta thì Phật chỉ mới 39 tuổi, cùng một tuổi với vua Pasenadi. Nhà vua không tin một người trẻ tuổi như vậy mà có thể có đức độ và hiểu biết hơn các đạo sư cao niên danh tiếng hiện thời như Purana Kassapa, Makkhali Gosaleiputta, Sanjaya Belatthiputta, Ajita Kesakambala, Pakudha Kaccana, Nigantha Nataputta (các lục sư ngoại đạo).

Lòng vua nửa tin nửa ngờ. Vua nghĩ thầm khi có cơ hội ta sẽ đến gặp Phật để tìm hiểu trực tiếp con người mà cả hoàng hậu Mallika và thái tử Jeta đều tỏ lòng cảm mến và kính phục.
=========
[1] Theo quyển Geography of Early Buddhism thì Trúc-Lâm là Veluvana. Nhưng theo tài liệu chính thức của Bộ Du Lịch Ấn năm 1999 thì Trúc Lâm là Venuvana.
[2] Hạ (vassa) gồm 3 tháng mưa nhiều ở Ấn-độ, từ ngày trăng tròn tháng 7 đến ngày trăng tròn tháng 10 dương lịch, Ðức Phật và chư Tăng ở lại một nơi để tích cực tu tập.

[3] Xem Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng Kinh 187, 1428; Samyutta-nikaya / Maha-vagga; Lalitavistara.
[4] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 149-152; Samyutta-nikaya / Maha-vagga; Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng Kinh 186, 187, 1428.

[5] Theo Buddhist Legends, quyển I, trang 197.
[6] Ông Punna Mantaniputta (Phú-Lâu-Na Mãn-Từ-Tử) còn gọi là Purana Maitrayaniputra (Phú-Lâu-Na Di-Ða-La-Ni-Tử) là con một vị Quốc-sư ở triều vua Suddhodana. Ông cùng một tuổi với Phật.

Có thuyết cho rằng sau khi Thái-tử Siddhattha xuất gia thì ông Punna cùng 29 người bạn cũng xuất gia, vào núi Himalaya tu học, chứng được tứ thiền và ngũ thông, dùng thiên-nhãn thấy Phật thuyết pháp tại Lộc-Uyển, liền cùng các bạn bay đến nơi, đảnh lễ Phật, xin thọ giới tỳ-kheo, chẳng bao lâu đắc quả A-la-hán.

[7] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 153-165; The Life of The Buddha của A. Foucher trang 158-161; Samyutta-nikaya / Maha-vagga; Lalitavistara; Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng Kinh 187, 190, 1428.
[8] Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là ngũ ấm hay ngũ uẩn.
[9] Hai kinh đầu tiên là kinh Chuyển Pháp Luân và kinh Vô Ngã Tướng.

[10] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 166; Samyutta-nikaya / Maha-vagga; Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng Kinh 186, 190.
[11] Ðời sống phạm hạnh: Ðời sống trong sạch, thanh tịnh, tự lợi, lợi tha, tự giác, giác tha, xa lìa ái dục và phiền não.

[12] Vua Bimbisara được 31 tuổi, nhỏ hơn đức Phật 5 tuổi.
[13] Ajatasattu vừa được 4 tuổi, nhỏ hơn Rahula 2 tuổi..
[14] Theo Samyutta-nikaya / Maha-vagga; xem The Life of The Buddha của A. Foucher, trang 164-170.

[15] Theo kinh Lăng-Nghiêm, quyển 5, thì ông Sariputta và ông Moggallana đang đi ngoài đường nghe ba anh em ông Uruvela Kassapa bàn luận về lý nhân duyên của Phật giảng, hai ông liền ngộ đạo.
[16] Bài kệ bằng chữ Hán như sau:
"Chư pháp tùng duyên sanh,
"Diệt, tùng nhân duyên diệt.
"Ngã, Phật, Ðại sa-môn,
"Từng ưng như thị thuyết.

[17] Lúc bấy giờ ba tháng an-cư (vassa) bắt đầu từ ngày trăng tròn tháng 7 đến ngày trăng tròn tháng 10 dương lịch. Mười hai tháng của Ấn-độ lúc đó tương đương với 12 tháng dương lịch ngày nay.
[18] Xem Samyutta: Maha-vagga; Ðại Chánh TTÐTKinh 186: Phật thuyết Phổ Diệu Kinh; Ðại Chánh TTÐT Kinh 157: Phương Quảng Ðại Trang Nghiêm Kinh; Lalitavistara; Theragatha 527-536.
[19] Xem Majjhima-nikaya 74: Dighanakha-sutta; Ðại Chánh TTÐT Kinh 584: Trường Trảo Phạm Chí Thỉnh Vấn Kinh.

[20] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 198-201; Majjhima-nikaya 74: Dighanakha-sutta.
[21] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 202; The Life of The Buddha của A. Foucher, trang 171-172.
[22] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 550; Buddhist Legends, quyển III, trang 168-176; Mahavastu.

[23] Sông Ganga nơi đây là ranh giới giữa hai xứ Magadha và Vajji.
[24] Khuddaka-nikaya / Khuddaka-patha / Ratana-sutta (kinh Tam Bảo).
[25] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 203-207; Majjhima-nikaya 55: Jivaka-sutta; Tạp A-Hàm 622.

[26] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 208-222; Buddhist Legends, quyển I, trang 217-220; Buddhist Legends, quyển II, trang 2-3; Ðại Chánh TTÐT Kinh 187: Phương Quảng Ðại Trang Nghiêm Kinh.
[27] Xem kinh Pháp-Cú, bài 168.
[28] Xã-hội nước Ấn lúc bấy giờ có 5 giai cấp:

1- Brahmana, Bà-la-môn, dòng tu-sĩ, dòng thánh.
2- Kshatriya, Sát-đế-lợi, dòng vua chúa, dòng tướng.
3- Vaisya, Phệ-xá, dòng thương gia, trưởng giả.
4- Sudra, Thủ-đà-la, dòng làm ruộng, tiểu công nghệ.
5- Candala, Chiên-đà-la, dòng nô-lệ, hạ tiện.
[29] Xem Mahavastu, II 234.
[30] Xem kinh Jataka (Bổn Sanh, Túc Sanh Truyện), số 485, iv. 282-288: Canda Kinnara.

1 Yamaka Patihariya là phép thần thông mà chỉ một vị Phật mới có. Xem bản chú giải Patisambhidamagga,I,125; Túc-Sanh-Truyện (Jataka) tập VI, trang 479, số 56; Dhammapadattha katha tập III, trang 163-164; Mahavastu III 115.

[32] Vua Suddhodana đảnh lễ Phật lần thứ nhứt khi thấy hoàng tử, lúc mới sanh, gác chân lên đầu tóc đạo sĩ Asita; lần thứ nhì trong lễ hạ điền, khi thấy thái tử ngồi thiền định dưới gốc cây nigrodha.

[33] Xem kinh Jataka 547: vi. 479-593.
[34] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 229-230; The Life of Buddha as Legend and History, trang 101; The Buddha and His Teachings, trang 139-140.
[35] Xem The Buddha and his teachings,trang 139-140; Buddha and the Gospel of Buddhism,trang 41; Buddhist Legends, quyển I, trang 218-219.

[36] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 230-233; The Buddha and His Teachings, trang 128-130; The Life of Buddha as Legend and History, trang 101-102; Tứ Phần Luật; Ðại Chánh TTÐT Kinh 1428.
[37] Khu-ô sa-di là hàng sa-di từ 7 đến 13 tuổi, lo việc đuổi quạ trong lúc các vị khất sĩ ngồi thiền.
[38] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 233-236.

[39] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 237-243; The Life of Buddha as Legend and History, trang 102-103; Buddhist Legends, quyển III, trang 276-270.
[40] Anuruddha : A-Na-Luật, A-Nậu-Lâu-Ðà. (Xem phần Phụ Ðính: 10 đệ tử lớn của Phật: Anuruddha)

[41] Kimbila : Kim-Tỳ-La, Khâm-Bà-La.
[42] Trong tuần lễ đầu tiên khi mới xuất gia thái tử Siddhattha cũng đã ở tại đây.
[43] Bhaddiya (Bạt-Ðề) là con của Dhotodana (Hộc-Phạn). Dhotodana là em của vua Tịnh-Phạn.
[44] Sa-di (samanera), sa-di-ni (samaneri) là ngườI tập sự xuất gia nam và nữ.

Sa-di phải thọ 10 giới: 1-Không sát sanh; 2-Không trộm cắp; 3-Không dâm dục; 4-Không nói dối; 5-Không uống rượu; 6-Không ngồi ghế cao, nằm giường rộng; 7-Không xức nước hoa, đeo đồ trang sức; 8-Không múa hát xướng ca, không xem,

không nghe; 9-Không cầm giữ tiền bạc và vật quý giá; 10-Không ăn phi thời.
[45] Xem The Life of The Buddha của A. Foucher, trang 186.
[46] Xem The Life of The Buddha của A. Foucher, trang 188.

[47] Theo kinh Buddhacarita của Tổ Asvaghosa; xem The Life of The Buddha của A. Foucher, trang 170-171.
[48] Ðầu-đà (dhuta): khổ hạnh vừa phải, thiểu dục tri túc.
[49] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 242-243; Ðại Chánh TTÐT Kinh 1428: Tứ Phần Luật.

[50] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 104; Buddha and the Gospel of Buddhism, trang 43; Ðường Xưa Mây Trắng, trang 245-250.
[51] Xem The Buddha and His Teaching, trang 164-166.
[52] Sravasti hay Savatthi hiện nay là thành phố Saheth-Maheth thuộc tiểu bang Uttar-Pradesh.
[53] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 248-249.

[54] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 251-253; Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng Kinh 1428: Tứ Phần Luật.
[55] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 253-255.
[56] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 255-256.
[57] Không nên lầm với Sunakkhatta (Thiện-Tinh) là con của thái tử Siddhattha với một thứ phi.
[58] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 257.
=

Hết Trang 4
Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11370
Registration date : 08/08/2009

Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chuyện Cổ Tích PG   Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 I_icon13Tue 03 Aug 2010, 18:47

[color=purple]
TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT THÍCH CA (trang 5)

Soạn giả: Minh-Thiện Trần-Hữu-Danh
Với sự khuyến khích và giúp đỡ của hiền nội:
Diệu-Xuân Nguyễn-thị Bạch-Mai

=
7- Hạ thứ 4 tại Jetavana (năm -586)

Mùa mưa sắp tới. Phật quyết định cùng đại chúng an cư tại tinh xá Jetavana (Kỳ viên, hay Kỳ-đà thọ Cấp-cô-độc viên) như đã hứa với ông Anathapindika (Sudatta). Ðã có kinh nghiệm trong hai mùa hạ trước tại Venuvana (Trúc-Lâm), năm nay đại đức Sariputta phụ tá cho Phật tổ chức kiết hạ rất dễ dàng và chu đáo. Số người mới xuất gia tại Sravasti đã lên tới 60 vị.

Ông Sudatta và các bạn hữu của ông rất sốt sắng trong việc tổ chức, cúng dường thực phẩm và bảo trợ cho các sinh hoạt tu học tại tinh xá.

Trước ngày nhập hạ, trong lúc Phật đi khất thực trong thành Sravasti, đến trước một nhà khá giả, chủ nhà đi vắng, một con chó trắng chồm tới sủa dữ dội. Ðức Phật nhìn thẳng vào con chó bảo:- Thôi, nín đi!

Con chó bỗng tỏ vẻ sợ sệt, cúp tai, cúi đầu, cong đuôi vào giữa hai chân, từ từ đi vào trước cửa nhà nằm xuống. Khi ông chủ nhà tên Suka trở về, thấy con chó buồn bã nằm co ro bèn hỏi người làm công: - Sao con chó hôm nay có vẻ buốn bã, sợ sệt vậy?

- Thưa ông, hồi nãy có sa môn Gotama đứng trước nhà khất thực, nó chồm ra sủa dữ dội, bị sa môn Gotama quở, nó vào nằm yên đó đến bây giờ.
Suka tức giận tìm đến tinh xá Jetavana hỏi Phật đã làm gì đến đổi con chó buồn
bã bỏ ăn, nằm yên một chỗ.

Phật bảo: - Con chó đó kiếp trước là cha của ông. Trước khi chết không kịp chỉ cho ông chỗ dấu hũ vàng, nên ông ta tiếc của tái sanh làm con chó thường nằm chỗ dấu hũ vàng để giữ. Ông hãy đến chỗ đó đào lên lấy thì nó sẽ hết buồn.
Suka nghe nói, trở về nhà đào được hũ vàng. Ông ta vô cùng mừng rỡ, thỉnh Phật và thánh chúng đến nhà cúng dường trai tăng[1].

Phật dạy có bảy hạng vợ trên thế gian[2]

Một hôm, ông Sudatta thỉnh Phật đến nhà thọ trai. Trong khi đức Phật và ông Sudatta đang đàm đạo ở phòng khách thì bỗng nghe có tiếng ồn ào phía nhà sau. Phật hỏi có chuyện gì. Ông Sudatta thưa:

- Bạch Thế Tôn, đó là Sujata, dâu của con. Vợ chồng đứa con trai út duy nhất của con là Kala vẫn còn sống chung nhà với con. Vợ nó là con nhà giàu có, quen tánh rầy la tôi tớ, mà cũng không biết kính nể người trưởng thượng, không để ý đến lời khuyên dạy của chồng và của cha mẹ chồng.
Hôm nay biết có Thế Tôn đến nhà mà nó cũng không kiêng nể gì cả. Chúng con xin Thế Tôn tha lỗi cho.

Ðức Phật cho gọi cô dâu ra và giảng cho nghe một bài pháp về bảy hạng vợ trong xã hội. Ðức Phật nói:
- Xã hội ngày nay thường không biết đến vai trò quan trọng của người phụ nữ trong gia đình. Thật ra một gia đình có được hạnh phúc hay không phần lớn là do tánh tình, cách cư xử khéo léo và tính đảm đang của người nội tướng.
Nếu ai để ý quan sát sẽ thấy có bảy hạng người vợ như sau:

1)- Người đàn bà không có lòng trắc ẩn, tâm hồn thấp hèn, không ngó ngàng chăm sóc chồng con, không ôn hòa nhã nhặn, ưa thích làm chuyện ngang bướng, hư thân trắc nết. Ðó là người vợ sát nhân (Vadhakabhariya).

2)- Người đàn bà hay trộm cắp của chồng. Hay dấu tiền của chồng làm ra để xài riêng. Ðó là người vợ trộm cắp (Corabhariya).
3)- Người đàn bà làm biếng, tham ăn, cả ngày không làm gì, thích ngồi lê đôi mách và hay la lối gắt gỏng, không để ý đến công lao khó nhọc của chồng. Ðó là người vợ như bà chủ (Ayyabhariya).

4)- Người đàn bà thương chồng như mẹ hiền thương con, trông nom săn sóc từng ly từng tí. Ðó là người vợ như mẹ (Matubhariya).
5)- Người đàn bà kính nể chồng như em gái kính nể anh, tánh ôn hòa và hết lòng phục vụ. Ðó là người vợ như em gái (Bhaginibhariya).

6)- Người đàn bà duyên dáng, dịu hiền, vui vẻ, hân hoan mỗi khi thấy chồng như gặp lại người bạn thân lâu ngày xa cách. Ðó là người vợ như bạn thân (Sakhibhariya).
7)- Người đàn bà dù bị roi vọt cũng không sợ hãi, oán trách, im lặng chịu đựng và luôn luôn vâng lời chồng. Ðó là người vợ như tớ gái (Dasibhariya).
Này Sujata, đó là bảy hạng vợ. Vậy con hãy xét xem con thuộc về hạng nào?
- Bạch Thế Tôn, xin ngài hãy nghĩ rằng kể từ nay con thuộc về hạng vợ như tớ gái.

Phật dạy có thương là có khổ[3]

Một buổi chiều nọ, có một người đàn ông trẻ, mặt mũi bơ phờ hốc hác vì đứa con trai duy nhất của ông ta vừa mới chết. Suốt mấy ngày liền ông ta cứ ra bãi tha ma kêu khóc "Con ơi! Bây giờ con ở đâu?". Nhiều người thấy ông ta đau khổ như vậy mới bảo ông ta hãy đến gặp Phật tại tinh xá Jetavana. Sau khi nghe ông ta kể lể,

đức Phật mở lời khuyên:- Này ông bạn, đời là như thế. Hễ có thương là có khổ.
- Thầy nói sai rồi, ông ta phản đối ngay. Thương chỉ đem lại cho người ta niềm vui và hạnh phúc mà thôi. Chỉ có cái chết mới đem đến sự đau khổ.

Nói xong, ông ta bất mãn đứng dậy bỏ đi, không để cho Phật có cơ hội giải thích thêm. Ông ta thất vọng, đi lang thang một hồi thì gặp một toán người đang xúm nhau đánh bạc. Ông ta ngồi xuống tham dự và nhân tiện kể lại cho họ nghe về cuộc gặp gỡ vừa rồi với Phật.
Mấy người kia đều đồng ý: " Tình thương không thể mang đến sầu khổ và thất vọng. Tình thương chỉ mang đến niềm vui và hạnh phúc mà thôi. Anh nói đúng đấy. Ông sa-môn Gotama kia nói sai rồi."

Câu chuyện này được truyền ra, chẳng mấy chốc đã trở nên đề tài bàn tán sôi nổi của những giáo phái ở Sravasti. Nhiều vị lãnh tụ giáo phái cũng cho rằng Phật có quan niệm sai lầm về tình thương. Câu chuyện truyền đến tai vua Pasenadi[4].

Chiều hôm ấy, trong bữa cơm gia đình, vua nói với hoàng hậu:
- Cái ông sa-môn mà người ta gọi là Phật ấy có thể không phải là người giỏi.
- Tại sao hoàng thượng nói như vậy? Hoàng hậu hỏi. Ai chê sa-môn Gotama?
- Sáng nay ta có nghe các quan trong triều bàn tán về sa-môn Gotama. Họ nói rằng theo sa-môn Gotama thì càng thương nhiều càng đau khổ nhiều.

- Nếu sa-môn Gotama đã nói như thế thì chắc đó là sự thật.
- Hoàng hậu không nên nói như thế. Mình phải biết suy xét chứ. Ðừng làm như một em bé học trò, hễ thầy giáo nói gì cũng cho là đúng.
Hoàng hậu im lặng.
Sáng hôm sau bà nhờ một người tâm phúc tên Nalijangha tới gặp Phật hỏi xem có phải ngài đã nói rằng "Thương là nguồn gốc của đau khổ và thất vọng" không? Nếu có thì xin Phật giải nghĩa thêm cho rõ ràng, rồi ráng ghi nhớ hết những điều Phật dạy để về thuật lại cho bà nghe.

Nalijangha đến gặp Phật, được Phật xác nhận và kể cho nghe hai câu chuyện sau đây chứng tỏ rằng thương đi liền với khổ:
- Tại Sravasti này, gần đây có một thiếu nữ vừa mất mẹ. Cô ta đau khổ quá đến phát điên, cả ngày đi lang thang ngoài đường, gặp ai cũng hỏi "Mẹ tôi đâu? Mẹ tôi đâu?".
Cũng tại Sravasti, cách nay không lâu, có hai thanh niên nam nữ yêu nhau, nhưng gia đình người con gái lại ép gả nàng cho một chàng trai mà cô ta không yêu. Do đó mà hai người yêu nhau phải rủ nhau tự tử, nghĩ rằng chỉ có cái chết mới kết hợp họ với nhau được.
Này Nalijangha, Như-lai nói thương là khổ là vì khi thương, người ta thường bám víu vào một người hay một vật gì. Trong khi ở cõi đời này vạn vật đều vô thường, có sanh phải có tử, có hợp phải có tan, không ai tránh khỏi.

Nalijangha về thuật lại cho hoàng hậu Mallika nghe. Một hôm, nhân lúc vua Pasenadi rảnh rỗi, hoàng hậu hỏi vua:
- Bệ hạ nghĩ thế nào? Công chúa Vajiri có phải là người mà bệ hạ thương yêu và cưng chìu nhất hay không?
- Ðúng như vậy, ta thương yêu và cưng chìu con gái ta nhất.
- Vậy nếu có gì không may xảy ra cho Vajiri thì bệ hạ có lo lắng, sầu khổ và thất vọng không?
Vua pasenadi giật mình, im lặng. Vua thấy rằng trong tình thương đã có sẵn những mầm mống của lo lắng, sầu khổ và thất vọng. Vua tự nhiên mất hết an lạc, lẩm bẩm:
- Hôm nào có dịp ta sẽ đến viếng sa-môn Gotama.

Phật độ vua Pasenadi[5]

Một hôm vua Pasenadi đi một mình đến thăm Phật, không có hoàng hậu và công chúa đi theo. Ngài để xe và thị vệ ngoài cổng tinh xá Jetavana rồi đi bộ vào một mình. Một khất sĩ đưa vua đến gặp Phật trước am lá của người. Sau khi chào hỏi và an vị, vua vào đề ngay:
- Thưa sa-môn Gotama, người ta thường ca ngợi ngài là Phật, là đã đạt tới quả vị giác ngộ cao nhất. Trẫm băn khoăn tự hỏi: Tuổi đời ngài còn ít, ngài mới xuất gia chỉ độ mười năm, thế mà sao ngài lại đạt tới thành quả đó được? Trẫm đã nghe nói đến những vị đạo cao đức trọng như Purana Kassapa, Makkhali Gosaleiputta, Nigantha Nataputta,
Sanjaya Belatthiputta vân vân. Những vị này đều là những người tu lâu năm, tuổi tác đã cao, tại sao họ không tự nhận họ là bậc giác ngộ hoàn toàn? Lại còn những vị như Pakudha Kaccana và Ajita Kesakambala nữa. Ngài có nghe nói đến những vị ấy không?
- Thưa Ðại vương, Phật ôn-tồn đáp, tôi có nghe nói tới các vị ấy và có vị tôi đã từng được gặp. Thưa Ðại vương, sự giác ngộ không tùy thuộc vào tuổi tác và số năm tu học. Có những cái bé nhỏ mà ta không nên khinh thường như một vị vương tử bé, một con rắn con, một đốm lửa nhỏ và một nhà tu trẻ.

Vị vương tử bé cũng có thể có vương tính của một đức vua. Một con rắn con cũng có thể làm ta mất mạng trong chốc lát. Một đốm lửa nhỏ cũng có thể thiêu rụi một khu rừng hay một thành phố.
Một nhà tu trẻ cũng có thể đạt tới quả vị giác ngộ hoàn toàn. Ðại vương, người khôn ngoan không bao giờ khinh thường một vương tử bé, một con rắn con, một đốm lửa nhỏ, một nhà tu trẻ.

Vua Pasenadi nhìn Phật kinh ngạc. Ðức Phật đã thốt những lời nói trên một cách hồn nhiên, từ tốn, không một chút mặc cảm. Vua bắt đầu có đức tin nơi Phật. Ông hỏi tiếp:
- Sa-môn Gotama, có người nói rằng ngài chủ trương không nên thương yêu. Vì càng thương yêu càng có nhiều lo lắng, sầu khổ và thất vọng. Trẫm nghĩ rằng điều đó có thể đúng, nhưng lòng trẫm vẫn không yên. Trẫm nghĩ nếu không có thương yêu thì cuộc đời sẽ khô khan và vô vị lắm. Xin ngài giải dùm chỗ nghi này cho trẫm.
- Ðại vương, lành thay, câu hỏi của ngài giúp tôi có dịp khai sáng yếu nghĩa cho mọi người hiểu rõ ý tôi. Cuộc đời rất cần đến tình thương, nhưng không phải thứ tình thương dựa trên căn bản dục vọng, đam mê và vướng mắc, mà là thứ tình thương rộng lớn, bình đẳng, không phân biệt gọi là lòng từ-bi. Từ (maitri) là ban vui, bi (karuna) là cứu khổ.

Lòng từ-bi không chấp có người ban, có người nhận, nên không bị vướng mắc vào cạm bẫy của tham, sân, si. Vì không bị vướng mắc vào ngã, nhơn, nên không mang đến lo lắng, sầu khổ và thất vọng.

Người có tâm từ bi sẵn sàng ban vui, cứu khổ cho tất cả loài hữu tình, không phân biệt kẻ đó có phải là cha mẹ hay anh em gì của mình không. Ðại vương, ngài là bậc lãnh đạo của một quốc gia, nếu ngài phát tâm từ bi thì dân chúng cả nước đều được ân triêm công đức.

- Trẫm có một gia đình để coi sóc, một vương quốc để chăm lo. Nếu trẫm không thương yêu gia đình của trẫm và thần dân trong xứ của trẫm thì làm sao trẫm có thể coi sóc và chăm lo cho họ được?
- Ðại vương, tôi không có ý nói đại vương không nên yêu thương thái tử Jeta và công chúa Vajiri, tôi chỉ khuyên đại vương nên yêu thương tất cả mọi người như ngài đã yêu thương thái tử và công chúa.

Tình thương bình đẳng, không phân biệt, chính là lòng từ bi. Tình thương bám víu và lựa chọn gây nên sự bất công và chia rẽ, oán hận và chiến tranh. Chỉ có lòng từ bi mới thật sự mang đến an vui và thanh bình cho mọi người.

- Thật là kỳ diệu! Nhưng làm sao mình có thể bày tỏ tình thương của mình đối với một người nếu mình không chứng tỏ cho họ thấy mình quan tâm lo lắng cho họ hơn những người khác?
- Ðại vương, mỗi người đều có nỗi khổ và ước vọng riêng. Tìm cách thỏa mãn những ước vọng chánh đáng của họ là "Từ ", tìm cách làm vơi nỗi khổ của họ là "Bi ". Lòng ban vui, cứu khổ bình đẳng đối với tất cả mọi người. Chỉ cần gặp duyên thuận lợi là hành động. Ngài nên ban vui, cứu khổ tùy duyên chứ không nên tùy người.
- Thật là kỳ diệu! Thưa sa-môn Gotama. Giáo lý về Từ Bi của ngài vừa giảng nói thật là kỳ diệu và thâm sâu. Trẫm cần có thì giờ suy nghĩ để chiêm nghiệm và thấm nhuần hai chữ Từ Bi. Trẫm xin cám ơn và từ giã ngài. Hôm khác trẫm sẽ đến đây để học hỏi về giáo lý giác ngộ và giải thoát của ngài.

Chiều hôm ấy, hoàng hậu Mallika và công chúa Vajiri đột nhiên thấy vua trở nên rất ngọt ngào và thầm lặng. Hoàng hậu và công chúa biết đó là hiệu quả của cuộc gặp gỡ giữa vua và Phật.

Hạ thứ 4 có trên 150 thanh-niên xuất gia[6]

Cuộc viếng thăm của vua Pasenadi tại tinh xá Jetavana đã được nhiều người bàn tán và đã đem lại ảnh hưởng không nhỏ cho giáo đoàn khất sĩ tại thủ đô Sravasti. Một số các lãnh tụ giáo phái, lâu nay đã từng được vua kính nể và bảo trợ, bắt đầu có mặc cảm là bị bỏ rơi. Họ nhìn tinh xá Jetavana với con mắt không có thiện cảm.

Tuy nhiên giới trí thức và tuổi trẻ tìm đến tinh xá Jetavana càng lúc càng đông. Ngay trong mùa an cư thứ tư này có trên 150 thanh niên xin xuất gia và đã được thầy Sariputta cho làm lễ xuống tóc. Ðại chúng tu học rất tinh tấn trong ba tháng an cư này. Cứ bảy hôm một lần, tại tu viện có tổ chức thuyết pháp.

Thấy vua Pasenadi chuyên cần đến tinh xá cúng dường và nghe thuyết pháp, một số quan chức trong triều cũng bắt chước vua.

Mùa an cư được kết thúc bằng một lễ cúng dường lớn. Vua và triều thần đã nghe theo lời Phật tổ chức một pháp hội cúng dường thực phẩm, y bát và đồ dùng thường nhật cho giới xuất gia, chẩn tế cho những gia đình nghèo khổ. Sau khi lễ này hoàn mãn, vua Pasenadi và hoàng hậu Mallika đều xin quy y tam bảo, làm đệ tử tại gia của Phật.

Phật cho người gánh phân tên Sunita xuất gia[7]

Sau mùa an cư, Phật và giáo đoàn chia nhau đi hành hóa tại các vùng lân cận thủ đô Sravasti. Một hôm, trong khi đi khất thực ở một xóm ven đô, cạnh bờ sông Aciravati, Phật gặp một người gánh phân tên Sunita.

Thấy Phật và đoàn khất sĩ đang trang nghiêm, tề chỉnh đi tới, Sunita lúng túng. Anh ta biết mình đang ăn mặc dơ dáy, hôi hám, lại đang gánh hai thùng phân người.
Anh ta vội vã lẫn tránh xuống bờ sông. Ðức Phật biết đây là người có nhiều căn lành nên ngài cũng đi xuống bờ sông để đón đường Sunita. Thấy thế, thầy Sariputta cũng rời hàng ngũ đi theo Phật. Thầy Meghiya, thị giả của Phật, cũng vội bước theo. Các vị khất sĩ khác thấy lạ cũng dừng chân, đứng im lặng trong hàng, đưa mắt quan sát.

Sunita luống cuống. Chàng đặt gánh phân xuống, dáo dác nhìn. Phía trên đường, các vị khất sĩ mặc áo cà-sa vàng rực đang đứng thành hàng dài. Phía bờ sông, ba vị sa-môn dung nhan tươi sáng đang tiến về phía chàng. Chẳng biết tránh đi đâu, Sunita liền lội xuống nước, định đi ra xa để tránh.

Theo phong tục lúc bấy giờ, Sunita biết rằng người thuộc giai cấp hạ tiện như chàng không có quyền đến gần các tu sĩ và các quan chức. Nhưng khi chàng đi cách bờ được bốn năm thước, mực nước vừa tới đầu gối, thì đức Phật đã đến mé nước, đứng nhìn chàng như muốn hỏi điều gì. Sunita vội chấp tay xá Phật. Phật ôn tồn bảo:
- Anh lên đây cho tôi hỏi thăm chút việc.
- Kính lạy ngài, con không dám. Con là giới hạ tiện, con không dám đến gần ngài, con sợ làm ô uế ngài.
- Chúng tôi là người xuất gia tu hành. Chúng tôi chỉ sợ tham dục, sân hận và si mê làm ô uế tâm của chúng tôi thôi. Anh đừng ngại, hãy đến đây cho tôi hỏi thăm chút việc. Anh tên gì?
- Dạ, con tên Sunita. Xin ngài muốn hỏi việc gì cứ nói. Con không dám đến gần ngài.
- Này Sunita, hãy chăm chú nghe đây. Nước các sông Ganga, sông Yamuna, sông Aciravati, sông Mahi, sông Rohini, vân vân ... một khi đã chảy ra biển rồi thì đều trở thành nước biển, cùng một vị mặn như nhau.

Cũng thế, bất cứ người thuộc giai cấp nào, dù sang hay hèn, một khi đã xuất gia tu học, quyết tâm xa lìa tham dục, sân hận, si mê, quyết thực hành một lối sống trong sạch, thanh cao, giác ngộ, thì cũng đều có giá trị ngang nhau. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Người nào quyết tâm tu tập đạo lý cao thượng đều có thể trở thành thánh nhân.
Này Sunita, anh có muốn gia nhập giáo đoàn khất sĩ không?

- Kính bạch ngài, Sunita ấp úng, con không dám ... con không dám ... Dạ, nếu ngài cho phép thì ... thì con rất sung sướng. Dạ, con rất sung sướng nếu được ngài cho phép con gia nhập giáo đoàn khất sĩ. Con xin đem hết lòng thành kính làm theo những điều ngài chỉ dạy.

Nói xong, Sunita xá lia lịa. Ðức Phật bảo Sunita hãy tắm rửa sạch sẽ rồi lên bờ, ngài sẽ cho xuất gia. Rồi ngài dạy thầy thị giả Meghiya đến gặp thầy Ananda xin một áo cà-sa mang xuống bờ sông. Khi thầy thị giả mang áo cà-sa đến nơi thì Sunita cũng vừa tắm xong.
Ðức Phật làm lễ xuất gia cho Sunita ngay tại bờ sông, rồi giao cho đại đức Sariputta đưa vị khất sĩ mới về tinh xá Jetavana, trong khi Phật và giáo đoàn tiếp tục đi khất thực.

Tất cả những gì xảy ra bên bờ sông hôm ấy đã được dân chúng địa phương chứng kiến. Tin Phật thâu nhận Sunita vào giáo đoàn khất sĩ bắt đầu được loan truyền trong thủ đô, gây xúc động mạnh.

Các nhân sĩ và giáo sĩ đều tỏ ý không tán thành việc làm táo bạo đó. Các vị đại đức lớn Sariputta, Moggallana, Mahakassapa, Anuruddha báo cáo với Phật về những dư luận không tốt để xin có biện pháp đối phó. Phật dạy:

- Như Lai đã từng nói với các thầy "Nếu các thầy tinh tấn tu tập theo giáo pháp của Như Lai thì chắc chắn các thầy cũng sẽ thành tựu đạo quả như Như Lai vậy."

Các thầy nghĩ sao? Nếu Sunita tinh tấn tu tập theo giáo pháp của Như Lai thì Sunita có thể thành tựu đạo quả chăng?
- Bạch Thế Tôn, nếu Sunita tinh tấn tu tập theo giáo pháp của Như Lai thì chắc chắn sớm muộn gì cũng sẽ thành đạo quả.

- Ðúng vậy. Này các thầy, việc quan trọng là cứu giúp một chúng sanh thoát khỏi cảnh khổ triền miên trong sanh tử luân hồi.
Các thầy hãy cố gắng chỉ dẫn cho Sunita tinh tấn tu tập đúng theo Chánh pháp. Một khi Sunita đã thu hoạch được kết quả tốt thì tự nhiên dư luận kia sẽ ngừng bặt.

Lại nữa, này các thầy, Như Lai đã từng khuyên các thầy nên thực hành tâm bình đẳng trong lúc đi khất thực, thì việc thu nhận tu sĩ mới vào giáo đoàn cũng phải được thực hiện với tâm bình đẳng.

Lại nữa, này các thầy, việc thu nhận Sunita vào giáo đoàn còn là một tiếng chuông cảnh tỉnh các giới thượng lưu về bất công xã hội gây ra do tâm cố chấp phân biệt giai cấp hiện nay. Nếu chúng ta không làm thì còn ai có thể làm. Các thầy cứ nhẫn nhục và tinh tiến thì mọi việc sẽ ổn thỏa. Các vị đại đệ tử Phật đều hoan hỷ phụng hành.

Vua Pasenadi và tỳ-kheo Sunita[8]

Chừng một tháng sau, tin đồn về người gánh phân tên Sunita được Phật thu nhận vào giáo đoàn, đến tai vua Pasenadi. Một số các vị lãnh đạo các giáo phái tại thủ đô đã đến xin yết kiến vua để phản đối việc này, vì trái với phong tục cổ truyền xưa nay trong xứ.
Hơn nữa, theo thông lệ tôn kính các tu sĩ, thì vua Pasenadi sẽ phải đối xử như thế nào cho hợp lẽ khi đứng trước tỳ-kheo Sunita? Nhà vua cũng cảm thấy hoang mang không ít.

Một hôm vua bảo xa giá đưa ngài tới tinh xá Jetavana. Xe ngừng trước cổng, vua một mình đi bộ vào. Vua Pasenadi đã quen đường lối trong tinh xá nên ngài cứ đi thẳng tới am của Phật, không cần hỏi thăm. Thỉnh thoảng gặp vài vị tỳ kheo đi tới, vua đều đứng lại chấp tay xá chào.

Các vị khất sĩ cũng đứng lại chấp tay đáp lễ. Vua nhận thấy vị nào cũng có dáng điệu trầm lặng, thong dong, nhàn nhã, đáng tôn kính. Nửa đường vào tịnh thất của Phật, vua gặp một vị khất sĩ đang ngồi thuyết pháp dưới một gốc cây, xung quanh có vài vị khất sĩ trẻ và độ mười người cư sĩ áo trắng đang ngồi chăm chỉ lắng nghe.
Vị khất sĩ đang ngồi thuyết pháp, tuổi chưa tới bốn mươi nhưng phong thái trang nghiêm, sáng rỡ. Vua đứng ngắm nhìn cảnh tượng đẹp đẽ này, lắng nghe trong giây lát, rồi lại tiếp tục đi về phía am Phật.
Ðến trước am, vua đã thấy Phật đứng sẵn trước cửa tự bao giờ. Sau khi chào hỏi, vua mở lời:
- Thưa Thế Tôn, vị khất sĩ đang thuyết pháp dưới cội cây đàng kia là ai mà có phong thái trang nghiêm đáng kính như vậy?
- Thưa Ðại vương, đó là tỳ kheo Sunita. Thầy mới xuất gia cách nay trên một tháng nhưng thầy tu học rất tinh tấn. Thầy rất chất phát, thành thật, lại thông minh và có chí lớn. Với đà này thì chỉ cần vài năm nữa thầy có thể đi hoằng hóa bất cứ nơi nào.
- Thưa Thế Tôn, người ấy có phải là ... có phải là tên Sunita gánh phân mướn?
- Thưa Ðại vương, đúng vậy. Vì nghiệp ác đời trước nên Sunita phải sanh vào dòng hạ tiện, làm nghề gánh phân. Nhưng Sunita cũng đã trồng nhiều căn lành nên kiếp này học đạo lý rất nhanh.

Thưa Ðại vương, chúng sanh nào cũng có Phật tánh, có khả năng giác ngộ thành Phật. Người mê lầm chỉ thấy đời hiện tại, sanh tâm phân biệt, khen chê, kỳ thị, làm cho tâm mê lầm càng thêm dầy đặc.

Người giác ngộ biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chỉ do nghiệp thiện ác mà tạm thời có sai biệt, nên phát tâm bình đẳng và đại bi, tạo nhân duyên thuận lợi cho chúng sanh sớm được thức tỉnh, thoát khỏi cảnh đau khổ luân hồi.
- Thật là tuyệt diệu, thưa Thế Tôn.

Với tâm bình đẳng, đại bi, với giáo lý cao thượng, ngài đã độ cho Sunita thoát khỏi dòng hạ tiện, không còn bị khinh khi, kỳ thị. Hôm nay ngài lại độ trẫm thoát khỏi tri kiến mê lầm của người thế tục, phát tâm bình đẳng, đại bi để theo giáo lý cao thượng.
Trẫm như người ngủ mê vừa mới tỉnh, như người đi lạc trong rừng vừa tìm được lối ra. Trẫm nguyện từ nay cho đến trọn đời sẽ hết lòng yểm trợ Chánh Pháp.

Kể từ hôm đó tin đồn về người gánh phân tên Sunita xuất gia được kèm theo tin vua Pasenadi trở thành đệ tử trung kiên của Phật. Các cuộc bàn tán phản đối dịu dần khi mọi người nhận thấy hạnh nhẫn nhục và tinh tấn của vị tỳ kheo mới.

Phật đưa tỳ-kheo Nanda lên cung trời Ðao-Lợi[9]

Một hôm, Phật được thầy thị giả Meghiya cho biết là đại đức Nanda, em cùng cha khác mẹ với Phật, không được thoải mái trong đời sống xuất gia. Thầy Nanda cảm thấy ân hận đã rời xa người vợ mỹ miều mới cưới là công nương Janapada Kalyani, thầy tâm sự:

- Sư huynh biết không, tôi còn nhớ hôm tôi cầm bình bát theo Phật từ đền vua về tinh xá Nigrodha, công nương Janapada Kalyani đã bước đến nói thật nhỏ nhẹ vào tai tôi "Ðiện hạ đi mau về nhé, em chờ điện hạ. Ðừng đi lâu, em buồn, em nhớ!" Thế mà bây giờ đã hơn một năm tôi xa nàng.

Tôi cảm thấy ân hận đã bỏ lại người vợ mới cưới trẻ đẹp, dịu hiền, để nàng phải sầu muộn trông chờ, tuyệt vọng. Tôi nay tuy đã thọ lễ xuất gia để sống đời đạo hạnh cao thượng, nhưng mỗi khi nghĩ đến nàng thì tôi cảm thấy rất ân hận, không còn chịu nỗi nữa. Tôi có ý định từ bỏ những giới luật thanh cao này, xin Thế Tôn cho tôi trở về đời sống của người cư sĩ tại gia để được gần nàng.

Chiều hôm sau, Phật gọi Nanda cùng đi thiền hành. Ngài hỏi đại đức Nanda có quả thật đã nói như thế không. Ðại đức Nanda nhìn nhận tinh thần của mình suy nhược vì lo ngại cho vị tân nương đang đau khổ mong chờ mình. Phật bảo:

- Này Nanda, cuộc đời là đau khổ, nào ai tránh khỏi. Nếu có em ở bên cạnh thì Kalyani cũng lại đau khổ vì nguyên nhân khác thôi, như ghen tương, lo lắng, bệnh hoạn, già yếu, vân vân ...

Chỉ có người giác ngộ, biết sống đời tỉnh thức trong thiền định và thanh tịnh mới có được sự an lạc nội tâm, không tùy thuộc ngoại cảnh. Sau khi trút bỏ thân này, ít ra cũng được sanh về cõi trời Ðao-Lợi (Tavatimsa) để hưởng đầy đủ lạc thú. Em có muốn đi xem cảnh trời Ðao-Lợi để thấy chúng sanh nơi đó sinh sống như thế nào không?
- Thưa Thế Tôn, em muốn lắm. Nhưng đi bằng cách nào?
- Em cứ ngồi thiền định bên cạnh ta, ta sẽ đưa em đi.

Ðức Phật tìm nơi thanh vắng, hai người cùng ngồi thiền định dưới một cội cây cổ thụ.
Ðức Phật dùng thần lực đưa Nanda vào cung trời Tavatimsa. Trên đường đi, ngang qua một khu rừng vừa bị hỏa hoạn, Nanda thấy một con khỉ cái, bị cháy tai, cháy mũi, cháy đuôi, đang cố bám lấy thân cây trụi lá.
Khi đến cảnh trời, Nanda bỗng cảm thấy hân hoan sung sướng lạ lùng.

Mọi vật nơi đây đều tươi đẹp, sáng rỡ: các tiên nữ xinh đẹp đang múa hát trong những cung điện nguy nga tráng lệ, cảnh vật đều mang sắc thái an lạc, thanh tịnh, gợi trong tâm Nanda một niềm vui khó tả.

Nanda quên mất cảnh hạ giới, quên luôn người vợ mới cưới, chàng như bị thôi miên trước khung cảnh lộng lẫy trang nghiêm cõi trời. Ðức Phật lên tiếng:
- Này Nanda, em thấy các tiên nữ nơi đây và công nương Janapada Kalyani ai đẹp hơn?
- Bạch Thế Tôn, nếu so với các tiên nữ nơi đây thì Kalyani chẳng khác nào con khỉ cái bị cháy đang cố bám lấy thân cây khi nãy.

- Này Nanda, vậy em hãy hăng hái, cố gắng lên. Như Lai bảo đảm rằng nếu em tinh tấn thực hành giáo pháp của Như Lai thì sau khi mạng chung, em sẽ được tái sanh đến đây sống chung với các tiên nữ này.

Như một đứa trẻ được khuyến khích, đại đức Nanda bạch:
- Thưa Thế Tôn, đệ tử nguyện sẽ cố gắng tu tập giáo lý cao thượng để được sanh về cõi trời Tavatimsa này.

Khi các vị tỳ kheo biết đại đức Nanda cố gắng sống đời đạo hạnh thanh cao, và siêng năng tu tập thiền định chỉ vì mong được sanh về cõi trời Tavatimsa để sống chung với các tiên nữ thì chế nhạo đại đức là người "làm thuê" để mong được Phật thưởng công theo lời cam kết.

Ðại đức Nanda tỉnh ngộ mục tiêu thấp hèn của mình, lấy làm hổ thẹn, gạt bỏ tư tưởng xấu, tận lực cố gắng tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A-la-hán.
Ðại đức đến bạch với Phật: - Bạch đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn hãy hủy bỏ lời hứa là nếu đệ tử cố gắng tu tập sẽ được sanh về cõi trời Tavatimsa sống chung với các tiên nữ.

- Này Nanda, chừng nào tâm thầy được hoàn toàn thanh tịnh, không còn vướng chút bợn nhơ nào nơi trần thế, lúc ấy Như Lai sẽ hủy bỏ lời hứa.
Khi có vài vị tỳ kheo tỏ vẻ hoài nghi về thành quả tu tập của đại đức Nanda, đức Phật nói:
- Trước kia Nanda như một mái nhà dột nát, nhưng ngày nay thầy ấy như một mái tranh dày. Nước mưa không thể lọt qua được lớp tranh dày của một mái nhà lợp kín. Cũng thế, dục vọng không thể thấm vào tâm thuần thục đã được phát triển đầy đủ.[10]

Trong hàng đệ tử của Phật, đại đức Nanda nổi tiếng là người tự kiểm soát chặt chẽ nhất.
Theo kinh Theragatha, chính đại đức Nanda đã thốt ra những lời sau đây:
- Có một thuở, tôi vừa nhẹ dạ vừa nông cạn. Tâm trí tôi chỉ chăm chú vào lòng can đảm bộc lộ ra ngoài. Quả tôi thật nhẹ dạ và nông nổi. Tất cả ngày tháng của tôi bị phung phí tiêu hao trong nhục dục, phóng đãng, si tình.

Nhưng nhờ sự khéo léo và lòng từ bi quảng đại của đức Thế Tôn, nguyên là dòng dõi hoàng tộc, tôi có diễm phúc được đưa vào đời sống thanh cao với những tư tưởng sâu xa thâm diệu. Và từ ao tù vô tận của đời sống, tâm tôi được vớt lên và cứu thoát.[11]

8- Hạ thứ 5 tại Mahavana, thuộc Vesali (năm -585)


Tinh xá Jetavana đã tạo được nề nếp tu học vững chãi với trên 500 vị khất sĩ. Thể theo lời hứa với các vị vương tử Licchavi, đức Phật rời Sravasti trở về Vesali để chuẩn bị mùa an cư thứ năm tại Mahavana (Ðại Lâm).

Nơi đây đã được các vương tử Licchavi chỉnh trang thành tinh xá gồm có một tòa giảng đường rộng lớn hai tầng, nóc nhọn, gọi là giảng đường Kutagara (Trùng Các), và một số các tăng đường rải rác trong rừng. Hầu hết cây trong rừng này đều thuộc loại cây sala (Shorea robusta).
Phật về đến Vesali không bao lâu thì nghe xảy ra cuộc tranh chấp giữa hai xứ Sakya và Koliya về nước sông Rohini ở ranh giới hai xứ.

Tranh chấp giữa hai nước Sakya và Koliya[12]

Trước mùa an cư bốn tháng, tức vào tháng Jetthamula, bỗng xảy ra sự xích mích giữa hai xứ Sakya và Koliya về dòng sông Rohini, ranh giới giữa hai xứ. Sakya là quê nội của Phật. Koliya là quê ngoại của Phật và cũng là quê hương của công chúa Yasodhara.
Số là năm ấy trời hạn hán, không có mưa, nên mực nước sông Rohini rất thấp, không đủ cho nông dân hai bên bờ sông dùng. Ðại diện nông dân bên xứ Koliya bảo:
- Nước sông Rohini năm nay ít quá, không đủ cho cả hai bên dùng. Nhưng lúa phía chúng tôi sắp chín rồi. Vậy quý vị hãy để cho chúng tôi dùng nước trước, đến khi lúa chín rồi sẽ tới phiên quý vị.
- Lúa bên phía chúng tôi cũng đang lúc cần nước. Ðợi đến khi lúa bên phía quý vị chín rồi thì lúa phía chúng tôi đã quá mất sức, lúc ấy nước sông cũng đã cạn. Chúng tôi sẽ phải đi qua đó xin ăn thôi. Hãy để chúng tôi dùng nước trước rồi quý vị hãy dùng sau.
Lời qua tiếng lại một hồi đi đến chỗ nặng lời:
- Chúng bây có đói thì kéo nhau về Kapilavastu mà xin ăn. Ðồ quân gì mà anh chị em lấy nhau như chó[13].
- Chúng bây nói ai là chó? Chúng bây là quân cùi hủi sống trong rừng như thú vật[14].
Từ thương thuyết đến tranh cãi nặng lời, rồi đến đắm đá. Cuối cùng binh đội hai nước dàn trận hai bên bờ sông. Tình thế trở nên gay cấn, sắp xảy ra chiến tranh.

Ðức Phật đang ngụ tại giảng đường Trùng-Các (Kutagara) ờ Ðại Lâm (Mahavana), hay tin, vội tức tốc đến nơi để dàn xếp cuộc tranh chấp. Hỏi các vị tướng chỉ huy quân đội hai bên thì họ nói rằng phía bên kia khinh người, xâm phạm ranh giới và tài sản bên này.
Không ai nói đến lý do thật sự của cuộc tranh chấp. Mãi đến khi Phật nói chuyện với các nông dân chất phác mới biết nguyên nhân chính là do thiếu nước tưới vào ruộng rẫy hai bên bờ sông.

Nhờ có thân tình với cả hai bên, đức Phật sắp xếp cuộc gặp gỡ giữa các vương tử đại diện cho hai xứ Sakya và Koliya để thảo luận và tìm biện pháp hòa giải. Phật nói:
- Này quý vị vương tử, sở dĩ nước sông Rohini năm nay yếu kém là vì trời ít mưa. Vài tháng nữa, đến mùa mưa, mực nước sông sẽ trở lại như cũ thì cả dân chúng hai bên bờ sông đều có đủ nước dùng.

Nếu để xảy ra chiến tranh thì chẳng những binh lính hai bên phải chết hoặc bị tàn phế thảm thương mà dân chúng và ruộng vườn của cả hai bên cũng sẽ bị thiệt hại không thể lường trước được.
Này quý vị, quý vị thử nghĩ xem mạng sống của quý vị, của binh lính, của dân chúng là quan trọng hay nước sông Rohini và ruộng vườn là quan trọng?
- Bạch Thế Tôn, mạng sống của con người tất nhiên đáng quý trọng hơn.

- Ðúng thế! Vậy Như Lai khuyên quý vị nên tìm biện pháp hòa giải để tạm thời chia nước sông Rohini ra đồng đều cho dân chúng hai bên bờ sông đều có nước dùng tạm. Chiến tranh thường chỉ gây chết chóc, hận thù, chứ không bao giờ mang đến một giải pháp tốt đẹp, kể cả đối với người thắng trận.

Này quý vị, chúng ta sẽ được hạnh phúc bằng cách gạt bỏ hận thù khi sống giữa đám người thù hận (Pháp Cú, bài 197); chúng ta sẽ được hạnh phúc nếu biết sống lành mạnh giữa đám người bệnh tật (Pháp Cú, bài 198); chúng ta sẽ được hạnh phúc nếu biết sống thanh tịnh giữa đám người đầy tham vọng (Pháp Cú, bài 199).

Thắng lợi sinh thù oán, thất bại chịu khổ đau, người không tranh thắng bại, sống an lành hạnh phúc (Pháp Cú, bài 201).

Nghe xong, 250 vương tử xứ Sakya và 250 vương tử xứ Koliya xin xuất gia theo Phật. Do sự can thiệp của Phật mà hai bên đã đi tới một sự thỏa thuận về vấn đề phân chia nước tưới cho dân chúng hai bên bờ sông Rohini trong khi chờ đợi mùa mưa tới.
Các vị vương tử rút binh về triều, thuật lại lời Phật giảng hòa cho vua Suddhodana, vua Suppabuddha, triều thần và vợ con của họ nghe. Hai xứ Sakya và Koliya tái lập bang giao thân tình như cũ.

Vua Suddhodana băng-hà[15] (năm -585)


Năm nay Phật được 39 tuổi. Khi mùa an cư thứ năm tại Vesali vừa chấm dứt thì có tin từ Kapilavastu báo quốc vương Suddhodana bệnh nặng.
Năm nay nhà vua được 81 tuổi. Chính vua đã sai đại thần Mahanama, con hoàng thân Sukkodana (Bạch Phạn vương) đi thỉnh Phật về cung để vua được thấy mặt lần cuối cùng.

Thành Kapilavastu cách thành Vesali độ 220 km về phía tây bắc.


Mahanama yêu cầu Phật dùng xe ngựa đi cho nhanh hầu về kịp trước giờ vua băng hà. Phật nhận lời và bảo Anuruddha, Nanda, Ananda và Rahula cùng đi. Mọi người lên xe đi ngay trưa hôm ấy. Các vương tử Licchavi và bà Ambapali cũng không hay kịp để tiễn đưa.

Chỉ có các vị khất sĩ tiễn Phật ra cổng tinh xá Kutagara (Trùng Các). Sau khi Phật đi rồi, trên hai trăm vị khất sĩ, phần lớn thuộc dòng Sakya, cũng lên đường đi Kapilavastu, hướng tây bắc. Họ muốn có mặt bên cạnh Phật trong lễ trà tỳ của vua Suddhodana.
Về đến Kapilavastu, Phật đi ngay vào hoàng cung. Hoàng hậu Maha-Pajapati đưa ngài đến ngay bên giường bệnh. Vua Suddhodana nhìn thấy Phật thì xúc động mạnh, miệng mỉm cười thỏa mãn, hai giọt nước mắt từ từ lăn trên đôi má nhăn nheo. Ðức Phật lấy khăn lau nước mắt cho vua, rồi cầm lấy tay vua cha thông thả nói:
- Thưa phụ vương con đã về đây. Xin phụ vương hãy an lòng. Suốt đời phụ vương đã lo lắng cho hoàng tộc, cho thần dân xứ Sakya được ấm no hạnh phúc. Giờ đây phụ vương không còn gì phải lo lắng nữa. Phụ vương nên mỉm cười vì đã làm tròn trách nhiệm của một quốc vương theo khả năng mình.

Bây giờ điều quan trọng là phụ vương nên giữ thân tâm an tịnh bằng cách quán niệm hơi thở. Phụ vương thở đi. Hít hơi vào thật nhẹ và dài, thở hơi ra thật nhẹ và dài cho đến khi tâm phụ vương được nhẹ nhàng thanh thoát, không còn lo nghĩ đến việc gì khác ngoài hơi thở.

Nhà vua thực hành trong giây lát, vẻ mặt ngài trở nên bình thản, vua nói:
- Bây giờ ta đã thấy được cuộc đời là vô thường. Tám mươi năm qua mau như giấc mộng. Càng nhiều danh vọng càng khổ tâm nhọc trí. Hạnh phúc có lẽ chỉ đến trong một cuộc sống thanh nhàn, bình dị và tự do.

- Thưa phụ vương, đúng vậy, Phật nói. Nhưng bây giờ cũng chưa phải là trễ. Phụ vương có thể bắt đầu cuộc sống thanh nhàn, bình dị và tự do ngay từ bây giờ. Thưa phụ vương, thân người tuy có trẻ có già, vọng tâm con người tuy từng giây phút biến đổi, sanh diệt không ngừng, nhưng chơn tâm của phụ vương vẫn luôn luôn thường trụ, bất biến, là nguồn an lạc vô tận.

Một khi phụ vương đã nhận thức rõ thân thể và tâm thức đều vô thường, đều là nguồn gốc của đau khổ, đáng được xả bỏ không có gì luyến tiếc; lúc bấy giờ trí huệ bát-nhã sẽ bừng sáng đưa phụ vương trở về bản tâm chân thật, thanh tịnh, nhiệm mầu, thánh thiện của phụ vương ....

Ðức Phật tiếp tục giảng về vạn vật vô thường và về các đức tính thường, lạc, ngã, tịnh của chơn tâm mà mọi người đều có, rồi khuyên vua nên an trụ tâm vào đó. Vua Suddhodana lắng nghe, tâm thức cởi mở. Nghe xong, vua được thân tâm an lạc, đắc quả A-la-hán. Vua nói:
- Trẫm biết sanh, già, bệnh, chết là lẽ thường. Trẫm không còn luyến tiếc gì ở thế gian này nữa. Hôm nay, nhân có đủ mặt mọi người ở đây, xin Thế Tôn và các quan đại thần sắp xếp việc cử người thay thế trẫm để trị nước.

Nếu trước đây trẫm có làm điều gì lầm lỗi khiến các khanh phiền lòng, trước khi nhắm mắt, trẫm muốn các khanh hãy tha thứ cho trẫm.

Ðức Phật xin phép vua được qua phòng bên với các vương tử để nghị sự. Trong phòng chỉ còn lại hoàng hậu Pajapati ngồi lại bên cạnh giường để chăm sóc cho vua. Nét mặt vua rất bình thản.

Sau khi thương nghị, mọi người đều chấp thuận đề nghị của Phật để cho Mahanama, con trưởng nam của hoàng thân Sukkodana (Bạch Phạn vương) lên ngôi kế vị vua Suddhodana.

Khi mọi người trở vào phòng trình quyết nghị này, vua Suddhodana hoan hỷ mỉm cười khuyên mọi người nên giúp đỡ Mahanama hoàn thành sứ mệnh, nhất là trong giai đoạn đầu. Nói xong, vua bình thản nhắm mắt trong sự an lạc.

Ðức Phật khuyên mọi người nên ra ngoài để vua được an nghỉ. Vua Suddhodana nằm yên, an hưởng hạnh phúc giải thoát trong bảy ngày rồi băng hà.

Hoàng-hậu Pajapati Gotami xin xuất gia[16]

Sau lễ trà tỳ vua Suddhodana là lễ đăng quang của Mahanama. Phật và giáo đoàn ở lại Kapilavastu ba tháng tại tinh xá Nigrodha (Ni-câu-đà) để hoằng hóa. Một hôm bà Maha-Pajapati Gotami đến tinh xá cúng dường một số áo cà-sa cho Phật và các đại đệ tử, rồi bà xin được xuất gia làm một nữ khất sĩ. Bà nói:

- Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn chấp thuận cho nữ giới được xuất gia, từ bỏ nếp sống gia đình để khép mình vào đời sống không nhà cửa, trong khuôn khổ của giáo pháp và giới luật mà đức Thế Tôn đã công bố, thì trong thiên hạ sẽ có thêm rất nhiều người được thừa hưởng ân huệ của đức Thế Tôn.

Như hiện nay, phu nhân của các vương tử đã qua đời hoặc đã xuất gia, và tôi đang sống cuộc đời buồn thảm trong nội cung, rất mong muốn được sống cuộc đời cao thượng của kẻ xuất gia. Kính xin Thế Tôn hoan hỷ chấp thuận.

Ðức Phật lặng thinh. Một lát sau người nói:
- Không được đâu, lệnh bà Gotami.
Lần thứ nhì và lần thứ ba, bà Maha-Pajapati Gotami lập lại lời thỉnh cầu, nhưng đức Phật vẫn không chấp thuận. Bà trở về cung than thở với lệnh bà Yasodhara.

Mấy hôm sau Phật lên đường trở về Vesali. Tới Vesali, Phật cư trú tại tinh xá Mahavana (Ðại Lâm). Ở lại Kapilavastu, bà Pajapati Gotami không nản chí trước lời từ chối của đức Phật. Ðược biết 250 phu nhân xứ Sakya và 250 phu nhân xứ Koliya có chồng đi xuất gia sau khi nghe Phật thuyết pháp tại bờ sông Rohini cũng đồng ý nguyện như bà, bà triệu tập tất cả 500 vị ấy lại và nói:

- Chính đức Thế Tôn đã nói, theo tinh thần đạo lý tỉnh thức, mọi người đều bình đẳng, vì ai cũng có khả năng giác ngộ và giải thoát. Thế Tôn đã nhận vào giáo đoàn cao quý những người thuộc giai cấp hạ tịện thì không lý nào người lại không cho nữ giới xuất gia.

Nếu chúng ta chứng tỏ quyết tâm của chúng ta bằng cách tự ý xuống tóc, cởi bỏ tất cả đồ trang sức, khoác y vàng lên người, sống đời khất sĩ không nhà cửa, đi bộ đến Vesali để xin xuất gia, thì tôi tin rằng Thế Tôn sẽ chấp thuận.

Mọi người trong phiên họp đều phấn khởi khi nghe bà Gotami nói. Họ tôn bà làm vị lãnh đạo để thực hiện ý nguyện xuất gia, vì ai cũng biết bà là người không thối tâm bất cứ trước một trở lực nào. Bà quay sang khuyên Yasodhara:
- Này Gopa, con hãy thông thả chờ, đừng đi theo ta trong chuyến này. Không có con, mọi việc sẽ có thể dễ dàng hơn. Chừng nào ta thành công, con sẽ xuất gia sau.
Hoàng-hậu Pajapati cùng 500 nương-tử xuất gia tại Vesali[17]

Ðộ một tháng sau, vào đầu năm 584 trước tây lịch, tại tinh xá Mahavana ở Vesali, vào sáng sớm, trong lúc đi ra hồ lấy nước, đại đức Ananda trông thấy lệnh bà Gotami và một số đông phụ nữ mặc áo vàng, xuống tóc, đi chân không, đang xúm xít đứng trước giảng đường Kutagara. Vô cùng ngạc nhiên, đại đức đến trước lệnh bà Gotami hỏi:
- Thưa lệnh bà, sao lệnh bà lại đứng đây vào sáng tinh sương như thế này? Sao chân lệnh bà sưng trầy và chảy máu như vậy? Và các công nương này cũng thế nữa...
- Ðại đức Ananda, tôi và 500 công nương này muốn từ bỏ đời sống cô đơn buồn chán ở nội cung nên đã tự xuống tóc, bỏ hết đồ trang sức, từ bỏ hết mọi tiện nghi vật chất, chỉ mong được sống đời thanh nhàn cao thượng của kẻ xuất gia.

Chúng tôi đã tập sống đời khất sĩ, xin ăn, ngủ dưới gốc cây, trong khi đi chân không từ Kapilavastu đến đây. Chúng tôi muốn chứng tỏ rằng chúng tôi cũng có thể sống cuộc đời không nhà cửa của người khất sĩ. Xin đại đức hoan hỷ bạch Phật cho phép chúng tôi được xuất gia.

- Lệnh bà và các công nương hãy đứng chờ đây. Tôi sẽ vào bạch đức Thế Tôn. Tôi hứa sẽ làm hết sức tôi.
Ðại đức Ananda vào đến am Phật gặp lúc Phật vừa xả thiền đứng dậy, đang mặc áo, sắp đi thiền hành với thầy thị giả Nagita. Ananda bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn, xin ngài hãy nhìn kia, lệnh bà Pajapati Gotami và 500 công nương đang đứng trước giảng đường, chân sưng vù vì đi chân không từ Kapilavastu đến đây, mình mẩy lấm lem đầy cát bụi và trông có vẻ âu sầu phiền muộn.

Xin đức Thế Tôn hoan hỷ chấp thuận cho hàng phụ nữ được từ bỏ đời sống gia đình, khép mình vào nếp sống không nhà cửa, trong khuôn khổ của Giáo pháp và Giới luật mà Thế Tôn đã công bố. Bạch đức Thế Tôn, sẽ là một đại hạnh cho nữ giới nếu hàng phụ nữ được phép từ bỏ nếp sống gia đình để thực hành đời sống cao thượng của hàng khất sĩ không nhà cửa.

- Ðủ rồi, Ananda, Như Lai không thể chấp thuận cho hàng phụ nữ xuất gia.
Lần thứ nhì và lần thứ ba đại đức Ananda cố xin, nhưng đức Phật một mực chối từ. Sau một lúc trầm ngâm suy nghĩ, đại đức Ananda lại kính cẩn bạch:

- Bạch đức Thế Tôn, người phụ nữ có khả năng thành tựu đạo quả Tu-đà-hoàn (Sotapanna), Tư-đà-hàm (Sakadagami), A-na-hàm (Anagami) và A-la-hán (Arahat) không, nếu họ tu tập đúng theo Giáo pháp và Giới luật mà đức Thế Tôn đã công bố?
- Này Ananda, Phật đáp, bất cứ ai tu tập đúng theo Giáo pháp và Giới luật của giáo đoàn khất sĩ đều có thể thành tựu các thánh quả như sau:

Quả vị thứ nhất là Tu-đà-hoàn (Sotapanna): Nhờ quán Tứ đế nên kiến đạo , nhờ kiến đạo nên biết cách đoạn trừ phiền não, tâm lần hồi được thanh tịnh và bắt đầu nhập vào dòng thánh, xả bỏ ân ái, chẳng bận trần duyên, kiên trì trai giới, giữ thân miệng ý thanh tịnh, chứng quả Dự-lưu. Người chứng quả này đã thành tựu hai khâu đầu của Bát Chánh Ðạo là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy.

Quả vị thứ nhì là Tư-đà-hàm (Sakadagami): Ðã đoạn trừ gần hết 3 kiết sử là dâm, nộ, si, chỉ còn mỏng nhẹ, thân được oai nghi, động ít tĩnh nhiều, tâm được nhẹ nhàng thanh tịnh, chẳng vướng sáu trần, chứng quả Nhất-lai, chỉ còn tái sanh một lần nữa ở cõi người, sau đó sẽ sanh lên các cõi trời. Người chứng quả này đã thành tựu bốn khâu đầu của Bát Chánh Ðạo là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp.

Quả vị thứ ba là A-na-hàm (Anagami): Ðã đoạn trừ hết tận gốc rễ các phiền não là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, tà kiến, biên kiến, đoạn kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, ba nghiệp (thân, khẩu, ý) và sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều thanh tịnh, chứng quả Bất-hoàn, không còn tái sanh vào các cõi Dục nữa mà sẽ sanh về các cõi Sắc và Vô-sắc.

Người chứng quả này đã thành tựu sáu khâu đầu của Bát Chánh Ðạo là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Ngiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn.

Quả vị thứ tư là A-la-hán (Arahat): Ðã đoạn trừ hết tất cả phiền não, được lậu-tận-trí (trí bát-nhã), thành bậc vô-học[18], chứng quả Vô-sanh[19], tâm luôn luôn an lạc thanh tịnh, có đầy đủ thiện phương tiện để chỉ dạy chúng sanh, xứng đáng nhận lãnh mọi sự cúng dường của các cõi trời và người. Người chứng quả này đã đi hết con đường Bát Chánh, từ Chánh Kiến đến Chánh niệm và Chánh Ðịnh.

Ðược khích lệ bằng câu trả lời thuận lợi ấy, đại đức Ananda tha thiết thỉnh cầu đức Phật một lần nữa:
- Bạch đức Thế Tôn, như vậy là hàng phụ nữ nếu được phép xuất gia tu hành cũng có thể chứng quả thánh!? Bạch đức Thế Tôn, lệnh bà Maha Pajapati Gotami năm nay đã 81 tuổi, bà đã có rất nhiều công nuôi dưỡng đức Thế Tôn. Bà đã trông nom, chăm sóc, bồng bế ngài trong lòng thay lệnh bà Maha Maya.

Ðể chứng tỏ phái nữ cũng có thể sống đời khất sĩ không nhà cửa, bà và 500 công nương dòng Sakya và Koliya đã tự xuống tóc, vất bỏ tất cả đồ trang sức, đi chân không, ngủ dưới gốc cây, khất thực để ăn, từ Kapilavastu đến đây. Xin đức Thế Tôn từ bi chấp thuận cho lệnh bà và các công nương được xuất gia trong giáo pháp của Thế Tôn.
Nữ giới từ nay cũng sẽ có nơi nương tựa, tu tập theo Chánh pháp để được giải thoát khỏi cảnh đau khổ luân hồi. Bạch đức Thế Tôn, xin ngài rộng mở cánh cửa từ bi cho lệnh bà và các công nương.

Ðức Phật lặng thinh. Một lát sau, ngài bảo thầy thị giả Nagita đi mời các đại đức Sariputta, Moggallana, Anuruddha, Bhaddiya, Kimbila và Maha Kassapa đến thảo luận. Sau khi hội ý với các đại đệ tử, đức Phật bảo:

- Này Ananda, thầy hãy đến báo cho lệnh bà Maha Pajapati biết là nếu lệnh bà và các công nương chấp thuận triệt để tuân theo " Tám điều cung kính " sau đây thì Như Lai sẽ đồng ý cho thành lập Giáo-hội Tỳ-kheo-ni. Tám điều cung kính (Bát

Kính Pháp, Garudhamma) của Giáo-hội Tỳ-kheo-ni là:
1- Tỳ-kheo-ni, dù tuổi đời lớn, tuổi hạ cao, cũng phải luôn luôn cung kính chào hỏi một tỳ-kheo.
2- Tỳ-kheo-ni không thể nhập hạ (Vassa) nơi nào không có tỳ-kheo.
3- Cứ mỗi tháng hai kỳ, chúng tỳ-kheo-ni phải cử người đi thỉnh tỳ-kheo chỉ định ngày bố-tát[20] (Uposatha) và giờ thăm viếng, giáo huấn và khích lệ việc tu học của ni chúng.
4- Lúc mãn hạ, tỳ-kheo-ni phải thọ lễ tự-tứ (pavarana) chánh thức ra hạ trước mặt những vị tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni khác (để kiểm thảo xem trong ba điều thấy, nghe và hoài nghi, mình có lầm lỗi điểm nào không).

5- Tỳ-kheo-ni đã phạm trọng giới phải chịu phạt Manatta[21] trước chư tăng và chư ni.
6- Thức-xoa-ma-na (sikkhamana[22]) đã thọ trì 8 giới trong thời gian hai năm, có thể thọ cụ-túc giới tỳ-kheo-ni trước chư tăng và chư ni.
7- Bất luận trong trường hợp nào, tỳ-kheo-ni không có quyền khiển trách hay nặng lời với tỳ-kheo (bhikkhu, bhiksu).
8- Tỳ-kheo không được sám hối với tỳ-kheo-ni (bhikkhuni, bhiksuni), nhưng tỳ-kheo-ni có thể sám hối với những vị tỳ-kheo.

Những giới luật trên đây phải được tôn trọng trọn đời, phải được kính nể và không được đổi thay, xê dịch.
Khi đại đức Ananda trở ra thì mặt trời lên đã cao. Bà Pajapati và 500 công nương vẫn kiên nhẫn đứng chờ. Sau khi nghe kể lại lời Phật và nội dung "Bát Kính Pháp", bà Pajapati nói:
- Ðại đức Ananda, xin đại đức bạch với đức Thế Tôn rằng: Khi một cô gái xinh đẹp và trẻ trung mới tắm gội bằng nước thơm mà có người mang tới cho một vành hoa, kết bằng hoa sen hay hoa hồng thơm ngát, thì cô gái ấy sẽ sung sướng đưa hai tay đón nhận rồi để lên đầu mình.

Cũng thế, tôi rất sung sướng chấp nhận "Bát Kính Pháp" và sẽ tôn trọng "Bát Kính Pháp" suốt đời, nếu tôi được phép xuất gia.
Rồi bà quay sang nói với các công nương: - Các em, các cháu đừng e ngại. Ðiều quan trọng nhất là chúng ta được xuất gia làm nữ khất sĩ (khikkhuni, bhiksuni).

Những điều trong "Bát Kính Pháp" không phải là những trở ngại cho sự tu học của chúng ta, mà chính là cửa ngõ để chúng ta đi vào giáo pháp cao thượng.

Ðại đức Ananda hoan hỷ vào báo tin này với Phật. Chiều hôm đó 501 người nữ đầu tiên được làm lễ xuất gia thọ giới sa-di-ni (samaneri). Bà Maha Pajapati Gotami được cử làm ni trưởng[23]. Bà Ambapali xin dâng cúng vườn xoài của bà để làm tinh xá cho ni chúng.

Ðại đức Sariputta được Phật ủy thác việc chỉ dạy những phép tắc hành trì sơ đẳng trong đời sống xuất gia cho các vị sa-di-ni.

Qua hôm sau, Phật bảo:- Này Ananda, nếu nữ giới không được chấp thuận thoát ly thế tục để khép mình vào nếp sống không nhà cửa trong khuôn khổ của Giáo pháp và Giới luật mà Như Lai đã công bố thì đời sống xuất gia và Giáo pháp cao siêu sẽ tồn tại lâu đến 1000 năm. Nhưng nay nữ giới đã được phép sống đời không nhà cửa thì đời sống xuất gia và

Giáo pháp cao siêu chỉ còn tồn tại 500 năm thôi.[24] Rồi đức Phật nói thêm:
- Này Ananda, trong nhà nào có đông phụ nữ và ít nam giới thì trộm cướp sẽ dễ lọt vào. Cũng thế, trong bất luận Giáo pháp và Giới luật nào, nếu hàng phụ nữ được phép từ bỏ thế gian để sống đời không nhà cửa thì đời sống thiêng liêng sẽ không tồn tại lâu dài.

Cũng như người kia đấp bờ đê bên cạnh hồ nước rộng lớn để chận nước khỏi tràn qua, Như Lai lo ngăn chận trước bằng cách ban hành Bát Kính Pháp cho các tỳ-kheo-ni, buộc phải giữ nguyên vẹn trọn đời.

Tám hôm sau, nữ khất sĩ Maha Pajapati tới xin tham vấn Phật. Bà thưa:
- Bạch Thế Tôn, tôi nay tuổi đã cao, xin Thế Tôn từ bi chỉ dạy cho tôi pháp môn tu nào có thể giúp tôi tiến mau trên đường giải thoát.

- Này Gotami, trong đời sống hằng ngày, người tu phải nhận thức rõ ràng rằng những điều nào dẫn đến khát vọng, không dẫn đến an vui; đến sự ngã mạn, không đến sự tôn kính; muốn nhiều, không muốn ít; thích cảnh phồn hoa đô thị,

không ưa ẩn dật; dã dượi, không cố gắng; khó được thoả mãn, không có đức tri túc; những điều đó chắc chắn không phải thuộc Chánh Pháp (Dhamma), không phải thuộc Giới Luật (Vinaya), không phải là giáo huấn của đức Ðạo sư.

[25] Nên biết rõ những điều nào nên tránh, những điều nào nên làm. Ngoài ra phải tinh tấn thực hành pháp quán niệm hơi thở (Anapana-sati), pháp quán Tứ Niệm Xứ[26] (Cattaro sati-patthanani) để đạt được những đức tánh vừa kể.

Bà Maha Pajapati lạy tạ lui ra. Bà tinh tấn thực tập những điều Phật dạy. Ít lâu sau bà đắc quả A-la-hán. Năm trăm công nương dòng Sakya và Koliya cùng xuất gia với bà, về sau cũng đều đắc quả A-la-hán.

Từ ngày có ni chúng, giáo đoàn khất sĩ của Phật bắt đầu được gọi là giáo đoàn tứ chúng, gồm có: tỳ-kheo (bhikkhu, bhiksu), tỳ-kheo-ni (bhikkhuni, bhiksuni), thiện nam[27] (upasaka), tín nữ[28] (upasika).

Ni trưởng Maha Pajapati, sau khi nghiên cứu kỹ, đã trình Phật về y phục của ni chúng và được Phật chấp thuận. Một bộ y phục của tỳ kheo gồm có:
- một tấm an-đà-hội (antaravasaka), tức là quần dưới.
- một tấm uất-đa-la-tăng (uttarasangha) là áo mặc bên trên.

- một tấm tăng-già-lê (sanghati) là áo khoác bên ngoài.
Ngoài ba tấm trên, tỳ-kheo-ni được phép có thêm:
- một samkaksika để thắt ngang hông.
- một kusulaka dùng như một chiếc váy.

Ngoài ba bộ y như trên và một bình bát, các khất sĩ còn có quyền có một cái quạt để quạt muỗi và che đầu khi trời nắng, một cái vợt vải lọc nước uống, một cây kim, một ít chỉ, một cái tăm xỉa răng, một con dao để cạo râu tóc mỗi tháng hai lần.

Cuộc đời đau khổ của ni-sư Uppalavanna[29]

Một hôm, lúc đi ngang qua một công viên trong thành Vesali, đại đức Moggallana gặp một thiếu phụ nhan sắc mặn mà đứng chận đường đại đức, liếc mắt lả lơi có ý trêu chọc. Ðó là Uppalavanna, một hoa khôi trong giới kỹ nữ.

Người đời gọi cô là Liên Hoa Sắc (Uppalavanna), họ cho cô có sắc đẹp tươi mát như một hoa sen màu xanh. Ðại đức Moggallana nhìn thẳng vào mặt người phụ nữ này và biết ngay đây là một người đàn bà có nhiều u-uẩn khổ đau. Ðại đức nói:

- Cô tuy có hình dáng xinh đẹp, bề ngoài trang phục lộng lẫy, nhưng tôi biết tâm hồn cô chứa đầy mặc cảm khổ đau. Nghiệp chướng của cô nặng nề lắm và càng ngày cô càng sa vào con đường lầy lội. Cô nên thức tỉnh càng sớm càng hay.

Uppalavanna hoảng kinh, thấy vị khất sĩ này nhìn thấu nội tâm mình. Nhưng cô cố giữ vẻ mặt bình thản, mỉm cười nói:
- Có thể là thầy nói đúng. Nhưng tôi không còn con đường nào khác hơn.

- Tại sao cô lại bi quan như thế? Dù quá khứ có sao đi nữa, ta vẫn có thể chuyển hướng để xây dựng một tương lai tươi sáng hơn. Áo quần dơ bẩn thì ta dùng nước sông để giặt giũ. Thân thể dơ bẩn thì ta tắm gội.

Tâm tư vẩn đục và chán chường thì ta dùng giáo pháp cao thượng để tu sửa. Phật dạy "Ai cũng có khả năng giác ngộ và giải thoát. Ai cũng có khả năng thành Phật. Chỉ cần biết tu tập đúng Chánh Pháp."
Uppalavanna lấy khăn chậm nước mắt, thổn thức nói:
- Nhưng cuộc đời của con dẫy đầy trái ngang và tội lỗi. Con e Phật cũng không cứu được con nữa là thầy.

- Không sao đâu. Cô cứ kể tự sự cho tôi nghe thử xem.
Uppalavanna kể lại rằng nàng là con gái của một gia đình giàu có ở thủ đô Rajagriha. Nàng lấy chồng năm mười sáu tuổi. Sau ngày cha chồng mất, mẹ chồng của nàng lại ăn nằm với chính chồng của nàng.

Lúc đó Uppalavanna đã sinh được một đứa con gái. Chứng kiến cảnh loạn luân ấy, cô bỏ nhà ra đi, bỏ luôn cả đứa con gái lại. Mấy năm sau cô gặp một thương gia ở Benares và được ông này cưới làm vợ.

Một thời gian sau, nghe nói chồng cô có mua một nàng hầu đem giấu trong một ngôi nhà ở ngoại ô thành phố. Cô tìm đến đánh ghen, mới phát giác ra đó chính là con gái năm xưa của cô.

Ðau xót vô cùng, cô lại bỏ nhà ra đi, đem lòng thù hận cả trời đất và con người. Cô không còn tin ai, thương ai được nữa. Ðến thủ đô Vesali, cô theo nghề kỹ nữ, chỉ cần tiền bạc, trang sức lộng lẫy và các thú vui vật chất.

Ðạo đức đối với cô chỉ là ảo tưởng, giả dối, không có nghĩa chân thật. Ð
Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11370
Registration date : 08/08/2009

Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chuyện Cổ Tích PG   Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 I_icon13Tue 03 Aug 2010, 19:32

Ðạo đức đối với cô chỉ là ảo tưởng, giả dối, không có nghĩa chân thật.

Ðối với cô, bộ áo cà-sa chỉ là một lớp đạo đức giả dối che đậy những dục vọng đê hèn của con người. Ðể chứng minh điều đó cô mới tỏ vẻ khêu gợi, trêu chọc đại đức Moggallana.
Nói tới đó, Liên Hoa Sắc úp mặt vào hai bàn tay thổn thức khóc. Ðợi Uppalavanna khóc xong, đại đức Moggallana mới bắt đầu khuyên nhủ cô nên hỷ xả những chuyện đã qua và bắt đầu tập sống một cuộc đời cao thượng vừa lợi ích cho mình vừa lợi ích cho người khác.

Rồi thầy đưa cô Uppalavanna về gặp Phật. Phật an ủi Uppalavanna và cho phép cô đến ni viện tập sự tu học dưới sự hướng dẫn của ni sư Pajapati Gotami.
Uppalavanna được giao trách nhiệm đóng cửa, mở cửa và quét dọn giảng đường.

Một hôm, vừa thắp ngọn nến trong giảng đường, Uppalavanna chợt chăm chú đứng nhìn sửng ngọn nến bập bùng cháy, bổng phát tâm quán hỏa đại, một lúc sau liền chứng quả A-la-hán và đắc ngũ thông.

Chẳng bao lâu, Uppalavanna đã trở nên một sư cô gương mẫu, nổi tiếng là vị tỳ-kheo-ni thần thông đệ nhất. Ðến khi Devadatta phản nghịch muốn gia hại đức Phật, Uppalavanna đến núi Gaya-sisa trách mắng, bị Devadatta nổi giận đánh vào đầu mà chết.
_______________________________________
[1] Xem The Life of The Buddha của A. Foucher, trang 186-187; theo kinh Mahavibhanga.
[2] Xem Anguttara-nikaya, quyển IV, trang 91-93.
[3] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 260-262; Majjhima-nikaya 87: Piyajatika sutta; Trung A-Hàm 216: kinh Ái Sinh.
[4] Vua Pasenadi Kosala là con của vua Maha Kosala (Buddhist Legends, quyển III, trang 63).
[5] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 263-270; Khuddaka-nikaya: Metta sutta, Udana, Sutta-nipata.
[6] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 271.
[7] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 272-275; Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng Kinh: 190 Phật Bổn Hạnh Tập Kinh, 187 Phương Quảng Ðại Trang Nghiêm Kinh; Lalitavistara.
[8] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 275-277.
[9] Xem Jataka 182, II 92-94; Udana, III 2; Ðường Xưa Mây Trắng, trang 278-280; The Buddha and his Teachings, trang 140-143; Buddhist Legends, quyển I, trang 220-223.
[10] Pháp Cú kinh (Dhammapada), bài 13, 14.
[11] Psalms of the Brethren (Theragatha), bài 127.
[12] Xem Buddha and the Gospel of Buddhism, trang 44-45; Buddhist Legends, quyển III, trang 70-72.
[13] Xem phần Lai Lịch Họ Gotama và Bộ Tộc Sakya trong sách này.

[14] Xem phần Lai Lịch Họ Gotama và Bộ Tộc Sakya trong sách này.
[15] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 281-284.
[16] Xem Cullavagga 10; Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng Kinh 1428; Anguttara-nikaya VII,51 và VIII,53.
[17] Xem Cullavagga 10; Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng Kinh 1428 và 1421; Trung A-Hàm 116: Cừu Ðàm Di Kinh; Trung A-Hàm 130: Giáo Ðàm Di Kinh; Anguttara Nikaya, IV 274; Vinaya, II 253.
[18] Bậc vô học: Bậc thánh nhân đã đạt được vô-sư-trí nên không còn phải học gì nữa.
[19] Quả vô sanh: Nhờ đã sạch nghiệp nên không còn bị nghiệp báo thiện ác dẫn đi tái sanh nữa.
[20] Bố tát (Uposatha) là pháp tụng giới mỗi nữa tháng của tăng ni.

[21] Manatta (Ma-na-đỏa, biến tịnh, chiết phục cống cao): Phương pháp diệt tội và sám hối của một vị tăng hay ni khi phạm trọng tội Xả-đọa hoặc Tăng-tàn. Vị tăng phạm tội phải phát lồ sám hối trong vòng 6 ngày đêm, làm các việc nặng nhọc thay cho chúng tăng như quét dọn tháp, tăng phòng, cầu tiêu, nhà tắm, ... vừa chí thành sám hối, vừa làm cho chúng tăng hoan-hỷ.

[22] Sikkhamana (Thức-xoa-ma-na, Thức-xoa-ma-ni), trong 2 năm trước khi thọ giới Cụ-túc, phải tu học 4 giới căn bản (dâm, sát, đạo, vọng) và 6 pháp (Tâm ô-nhiễm đụng chạm người nam, Trộm cắp vặt, Giết hại súc sanh, Tiểu vọng ngữ, Ăn phi thời, Uống rượu). Samaneri (sa-di-ni) thấp hơn Sikkhamana.

[23] Sau khi bà Pajapati qua đời, Phật chỉ định bà Khema và bà Uppalavanna làm Ni-trưởng của Giáo-hội Tỳ-kheo-ni.
[24] Xem Gradual Sayings (Anguttara Nikaya), IV 184.

[25] Vinaya Text, III, 329-330; Gradual Sayings (Anguttara Nikaya), IV, 186-187.
[26] Tứ Niệm Xứ = Quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã.
[27] Thiện nam còn được gọi là cận sự nam, nam cư-sĩ hay ưu-bà-tắc (upasaka).
[28] Tín nữ còn được gọi là cận sự nữ, nữ cư-sĩ hay ưu-bà-di (upasika).

[29] Xem: Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng Kinh 1428; Tạp A-Hàm 12, 23, 45; Tăng Nhất A-Hàm 3, 4, 28; Tỳ-ni Mẫu 5; Ðại Bảo Tích; Luật Tứ Phần 6, 12; Hữu Bộ Tỳ-nại-da 10, 30; Luận Ðại Trí Ðộ 13, 14. Cũng nên xem Buddhist Legends, quyển II, trang 127.

Hết Trang 5
Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11370
Registration date : 08/08/2009

Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chuyện Cổ Tích PG   Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 I_icon13Sat 07 Aug 2010, 16:28


TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT THÍCH CA (trang 6)
[Soạn giả: Minh-Thiện Trần-Hữu-Danh
Với sự khuyến khích và giúp đỡ của hiền nội:
Diệu-Xuân Nguyễn-thị Bạch-Mai
=


H- TỪ HẠ THỨ 6 ÐẾN HẠ THỨ 20

Ðây là thời kỳ tu chỉnh và hoàn bị Giáo-Hội Tăng-Già bằng cách thành lập nhiều tinh-xá tu học cho tăng ni, đặt ra các điều luật và thành lập Giới Bổn, giảng dạy giáo lý căn bản về Tứ Diệu Ðế, 12 Nhân Duyên, bổn phận và trách nhiệm của người cư sĩ tại gia, cách sống hạnh phúc ngay hiện đời này.

1- Hạ thứ 6 tại Jetavana (năm -584)

Theo quyển The Buddha and his Teachings của Narada thì Phật nhập hạ thứ 6 tại đồi Mankula, gần thủ đô Kosambi[1] của xứ Vatsa. Trong hạ này đức Phật dùng thần thông Yamaka Patihariya bay lên không trung, biến ra nhiều thân, mỗi thân đều ngồi trên hoa sen ngàn cánh, có lửa và nước đồng thời từ các lỗ chơn lông phún ra, để khắc phục ngoại đạo.

Ðây là lần thứ hai. Lần thứ nhứt Phật cũng dùng thần thông này tại Kapilavastu để trừ tánh ngã mạn của các hoàng thân Sakya.
Theo quyển Buddha and the Gospel of Buddhism của Ananda K. Coomaraswamy thì Phật nhập hạ thứ 6 tại Jetavana ở thủ đô Sravasti.

Phật độ bà Khema ở Rajagriha[2]

Ðức Phật từ Vesali đến Rajagriha (Vương xá) độ bà Khema, thứ hậu của vua Bimbisara. Bà Khema rất đẹp, rất thông minh, nhưng lại rất tự phụ về sắc đẹp của mình. Vì nghe nói Phật dạy mọi người không nên quý trọng sắc đẹp nên bà không bao giờ đến nghe Phật thuyết pháp.

Một hôm, vua Bimbisara bày mưu đưa bà đến nghe Phật thuyết pháp tại tinh xá Venuvana. Trong khi đang thuyết pháp, đức Phật dùng thần thông cho bà thấy một thiên nữ tuyệt đẹp đang đứng hầu quạt cho Phật. Bà Khema như bị thôi miên bởi sắc đẹp của thiên nữ, bà không để ý gì đến lời nói của Phật,

bà cảm thấy thiên nữ này còn đẹp hơn mình gắp bội. Nhưng được một lúc, bà lại thấy thiên nữ này từ từ biến dạng từ sắc đẹp tươi mát của tuổi trẻ đến vẻ đẹp sắc sảo của tuổi trung niên, rồi lần hồi già nua xấu xí, rồi bổng ngã xuống chết, thịt xương rục rã. Bà Khema giật mình hoảng sợ liền quỳ xuống hỏi Phật về hiện tượng kỳ lạ này. Ðức Phật nói:

- Này Khema, bà không nên nghĩ rằng sắc đẹp của bà là chắc thật, còn mãi. Bà cũng không nên nghĩ rằng điều bà vừa nhìn thấy chỉ là ảo ảnh. Trái lại, sắc đẹp của bà chỉ là ảo ảnh biến dạng từng giờ từng phút, nay còn mai mất; trong khi đó sanh già bệnh chết mới là điều chắc thật, không ai tránh khỏi.
Rồi đức Phật nhân đó giảng cho bà nghe về vô thường, vô ngã và Tứ Diệu Ðế. Nghe xong, bà liền đắc quả Tu-đà-hoàn, xin được xuất gia. Ít lâu sau, bà đắc quả A-la-hán và trở thành một tỳ-kheo-ni xuất sắc trong Giáo hội.

Ðại đức Pindola Bharadvaja biểu diễn thần thông[3]

Trong lúc Phật còn ở tại Rajagriha, có một thương gia giàu có mướn thợ khéo dùng khúc gỗ chiên đàn đỏ thật quý của mình tiện thành một bình bát rất đẹp. Ông treo bình bát này lên một ngọn tre cao cắm trên nóc nhà, rồi tuyên bố:
- Nếu có vị nào ở thế gian này là A-la-hán, xin hãy bay lên lấy cái bát này xuống mà dùng
Ông làm như thế vì ông không tin có ai thật sự là A-la-hán, và ông cũng mong được gặp một vị A-la-hán thật sự để chiêm báy, tôn làm sư phụ. Các ngoại đạo sư thấy thế bảo:
- Không nên làm như thế. Hãy đem cái bát ấy xuống đây cho tôi dùng.
- Xin ngài hãy bay lên đó lấy xuống mà dùng.
Ðến ngày thứ sáu, ngoại đạo sư Nathaputta bảo các đệ tử:

- Các ngươi hãy bảo nhà trưởng giả đó như vầy Cái bát đó đúng là vật nên trao cho sư phụ chúng tôi dùng. Không nên bảo sư phụ chúng tôi bay lên đó để lấy một vật không xứng đáng như thế. Hãy trao cái bát đó cho chúng tôi.
- Vị nào bay lên đó được thì cái bát thuộc về người ấy.

Nathaputta lại bảo các đệ tử:
- Ta sẽ đưa tay chân như sắp bay lên, nhưng các ngươi phải chạy đến ôm ta đè xuống đất, rồi nói như vầy Sư phụ làm gì thế? Không nên biểu lộ thần thông của bậc A-la-hán cho nhiều người thấy chỉ vì một cái chén gỗ như thế.
Rồi Nathaputta đến nói với ông trưởng giả:

- Này ông trường giả, hãy trao cái bát ấy cho tôi. Ðừng bảo tôi phải bay lên để lấy một vật không xứng đáng gì hết.
- Xin ngài hãy bay lên đó mà lấy.
- Thôi được, này các đệ tử, hãy ra đây xem ta bay lên lấy bát đây!
Nói xong, Nathaputta đưa tay lên trời như định bay lên. Các đệ tử vội chạy đến ôm ông ta, đè xuống đất, la lớn:

- Sư phụ, sư phụ, làm gì thế? Không nên biểu lộ thần thông của bậc A-la-hán cho nhiều người thấy chỉ vì một cái chén gỗ như thế.
Ông Nathaputta đứng lên nói với ông trưởng giả:
- Này ông trưởng giả, các đệ tử của tôi không cho tôi bay lên. Vậy ông hãy lấy cái bát xuống trao cho tôi đi.

- Xin ngài hãy bay lên đó mà lấy.
Ðến ngày thứ bảy, ông trưởng giả đứng nhìn cái bát, nói với những người xung quanh:
- Ðến hôm nay tôi biết chắc rằng ở thế gian này không có ai là A-la-hán cả.
Trong lúc đó đại đức Moggallana và đại đức Pindola Bharadvaja đang đi khất thực qua đó, nghe được. Ðại đức Moggallana bảo:
- Này Pindola, sư huynh hãy bay lên lấy cái bác đó xuống đi, để cho họ thấy rằng trong hàng đệ tử Phật cũng có nhiều vị A-la-hán.

- Sư huynh là bậc thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử Phật. Vậy sư huynh hãy bay lên lấy cái bát đó đi. Tôi sẽ bay theo yểm trợ.
- Không cần. Sư huynh bay lên lấy một mình được rồi. Bay lên đi!

Ðại đức Pindola liền nhập định Thần Thông, cất mình lên không trung, bay bảy vòng xung quanh thành Rajagriha cho mọi người nhìn thấy, rồi bay đến nóc nhà ông trưởng giả, lấy cái bát bằng gỗ chiên đàn đỏ đang treo trên ngọn tre, đáp xuống sân trước nhà.

Ông trưởng giả sụp xuống lạy lia lịa, rồi bảo gia nhân mang thức ăn quý giá ra cúng dường vào bát của đại đức Pindola và đại đức Moggallana. Hai đại đức im lặng, từ tốn, đi trở về tinh xá Jetavana. Dân chúng vỗ tay hoan hô nhiệt liệt.
Chiều hôm đó đức Phật gọi đại đức Pindola đến quở:
- Này Bharadvaja, sự phô trương thần thông của thầy không làm cho người ngoại đạo hiểu Chánh Pháp, cũng không lợi ích gì cho người đang tu học Giải Thoát.
Từ nay, ngoài thần thông thuyết pháp, các thầy không được biểu diễn thần thông trước công chúng một cách vô ích như thế nữa và cũng không được dùng bát bằng gỗ.
Nói xong Phật bảo đập vỡ cái bát gỗ chiên đàn đỏ ra dùng làm gỗ trầm hương.
Các ngoại đạo nghe được tin này, tuyên truyền với dân chúng:
- Ðệ tử của Gotama bay lên lấy bát là làm tầm bậy nên bị thầy quở là phải. Ðó là lý do vì sao chúng tôi đã từ chối không làm việc ấy.

Chúng tôi chỉ biểu diễn thần thông trong trường hợp sa môn Gotama dám đứng ra so tài với chúng tôi thôi. Nhưng chắc ông ta không dám đâu.
Vua Bimbisara nghe được chuyện này, đến hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn, có phải ngài cấm các đệ tử biểu diễn thần thông không?
- Thưa Ðại Vương, đúng vậy.
- Vậy Thế Tôn nghĩ sao khi các ngoại đạo thách Thế Tôn so tài thần thông với họ?
- Nếu họ muốn so tài thần thông, tôi sẽ không từ chối.
- Như vậy Thế Tôn không tôn trọng giới điều mà Thế Tôn đã lập ra cho các đệ tử sao?
- Thưa Ðại Vương, tôi xin hỏi Ðại Vương như vầy: Ðại Vương có một vườn xoài. Ðại Vương ra lệnh cấm không cho dân chúng vào đó hái xoài ăn. Vậy Ðại Vương có vào đó hái xoài ăn không?
- Tôi được quyền ăn xoài trong vườn của tôi, nhưng người khác không được quyền ăn.
- Cũng thế, thưa Ðại Vương, tôi được quyền biểu diễn thần thông nhưng các đệ tử tôi không được làm việc này.

- Vậy Thế Tôn định chừng nào sẽ biểu diễn thần thông và tại đâu?
- Thưa Ðại Vương tôi sẽ biểu diễn thần thông v ngày trăng tròn tháng Asalhi, tức còn bốn tháng nữa, gần Sravasti, nơi cây xoài Ganda.

Ðức Phật biểu diễn đại thần thông tại Sravasti[4]

Sau đó đức Phật đến Sravasti nhập hạ thứ 6 tại Jetavana.
Nhắc lại khi lục sư ngoại đạo tại Rajagriha mất lần đồ chúng và sự ủng hộ của vua Bimbisara. Họ kéo nhau đến thủ đô Sravasti, mong tìm được sự ủng hộ nhiệt thành của vua Pasenadi và dân chúng xứ Kosala.

Nhưng năm nay Phật cũng đến Sravasti nhập hạ tại tinh xá Jetavana. Lục sư ngoại đạo vào triều kiến vua Pasenadi, bài bác giáo pháp của Phật và thách thức Phật thi đua thần thông. Họ nghĩ rằng Phật đã cấm đệ tử biểu diễn thần thông trước công chúng thì chắc ngài sẽ không nhận thi đua.

Mặt khác, họ cho người đi nhổ hết những cây xoài lớn nhỏ ở xung quanh thủ đô Sravasti ném vào rừng. Họ nghĩ rằng đức Phật đã nói sẽ biểu diễn thần thông dưới gốc cây xoài Ganda thì ngài không thể biểu diễn thần thông nơi nào không có cây xoài.
Ðến ngày trăng tròn tháng Asalhi, ông Ganda, người giữ vườn của vua Pasenadi lượm được một trái xoài to lớn chín mùi rất thơm ngon.

Ông định đem trái xoài đó dâng cho vua. Nhưng ông nghĩ: Nếu dâng trái xoài này cho vua thì chỉ có thể được vua thưởng từ 8 đến 16 quan tiền chỉ đủ sống vài tháng là cùng, chi bằng mang đến cúng dường Phật thì có thể được phước báo vô lượng trong đời này và cả đời sau nữa.

Ông Ganda bèn cầm trái xoài đi về hướng tinh xá Jetavana. Nhưng nửa đường thì gặp Phật. Ông bèn bước đến

đảnh lễ rổi dâng trái xoài cho Phật. Ðức Phật đưa bát ra nhận rồi trao lại cho đại đức Ananda. Ðại đức Ananda lột vỏ rồi vắt nước xoài vào bát cho Phật dùng. Ðức Phật bảo ông Ganda:

- Này Ganda, ông hãy đào đất và trồng cái hột xoài này ngay tại đây.
Khi ông Ganda trồng hột xoài vừa xong, đức Phật dùng nước rửa tay ngay trên chỗ trồng hột xoài.

Tức thì một cây xoài mộc lên, thân cây chẳng mấy chốc to bằng bắp chân, chia làm 5 nhánh, một nhánh thẳng đứng ở giữa và bốn nhánh ở bốn phía, rồi trổ hoa trái đầy cành, trái chín vô cùng thơm ngon.

Vua Pasenadi được báo tin liền cho quân lính đến canh giữ cây xoài đó, và đặt tên cho cây xoài đó là cây xoài Ganda. Ðức Phật bảo cho mọi người biết chiều hôm sau ngài sẽ thị hiện thần thông nơi đây.

Ðược tin này, tối hôm đó các ngoại đạo sư từng tuyên bố sẽ thi đua thần thông với Phật đều tìm cách rút lui êm, rời khỏi Sravasti. Chẳng may đạo sư Purana Kassapa gặp một tín đồ trung thành của mình hỏi:

- Thưa đạo sư, thầy đi đâu đó, con mong ngày mai được xem thầy so tài thần thông với sa-môn Gotama tại cây xoài Ganda.
- Ta có việc phải đi gắp. Rất tiếc ta không thể dự cuộc thi tài đó được.
- Ủa! Thầy đã từng tuyên bố sẽ thi đua thần thông với sa-môn Gotama mà, bây giờ thầy lại định trốn tránh sao?

- Ta có việc cần phải đi gắp. Ngươi muốn xem biểu diễn thần thông thì cứ đến đó mà xem.
Nói xong ngoại đạo sư Purana Kassapa xấu hổ bỏ đi, rồi nhảy xuống sông tự tử.
Chiều ngày hôm sau, đức Phật tạo một đường kinh hành bằng ngọc (cầu vòng năm màu) trên không trung, từ đông sang tây. Dân chúng thấy lạ đổ xô ra đường đứng xem đông vô số.

Khi đức Phật vừa bước ra thì có một tín nữ tên Gharani, một thiện nam tên Culla Anathapindika, một sa-di-ni vừa mới bảy tuổi tên Cira, sa-di Cunda, sư cô Uppalavanna và đại đức Moggallana lần lượt bước đến xin biểu diễn thần thông thay Phật, nhưng Phật đều từ chối. Ðức Phật nói:

- Này Moggallana, này quý vị, đây không phải là việc của quý vị. Ðây là trách nhiệm nặng nề của Như Lai, Như Lai phải làm cho trọn vẹn. Không ai có thể lảnh trách nhiệm nặng nề này thay thế Như Lai được.

Nói xong, đức Phật bước lên cầu vòng, đi tới đi lui thuyết pháp, khắp thân mình và thất khiếu vừa phun ra lửa vừa phun ra nước, làm tỏa ra ánh sáng sáu màu chiếu đến cõi trời Phạm Thiên.

Ðồng thời một hóa thân Phật cũng xuất hiện trên cầu vòng, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc ngồi, khi thì hỏi, khi thì đáp, cùng với Phật vừa thể hiện thần thông vừa thuyết giảng Chánh Pháp cho công chúng nghe. Nghe xong một số đông người đắc quả Tu-đà-hoàn (Dự-lưu).

Dân chúng Sravasti được chứng kiến một cảnh tượng không thể nghĩ bàn. Hiện nay có tháp Gandhabba Rukkamula, gần Jetavana, kỷ niệm nơi này.
Sau khi thực hiện thần thông Yamaka Patihariya tại Sravasti, đức Phật đi một mình đến làng Samkassa, thuộc vùng thượng lưu sông Ganga, ẩn cư nhập hạ.

Còn Tiếp

Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11370
Registration date : 08/08/2009

Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chuyện Cổ Tích PG   Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 I_icon13Sat 07 Aug 2010, 16:41


2- Hạ thứ 7 tại làng Samkassa (năm -583)

Năm 583 trước tây lịch, Phật được 41 tuổi. Vào mùa an cư, ngài ở ẩn ba tháng trên núi gần làng Samkassa (Sankissa), thuộc vùng thượng lưu sông Ganga.

Ðức Phật thuyết pháp tại cung trời Ðao-Lợi[5]

Trong thời gian ẩn cư trong vùng núi Samkassa, đức Phật lên cung trời Ðao-Lợi (Tavatimsa) thuyết Vi-diệu-pháp (Abhidhamma) cho thiên chúng và bà Maha Maya nghe. Các vị khất sĩ không biết Phật hiện đang ở đâu, đến hỏi đại đức Moggallana. Ðại đức Moggallana tuy biết nhưng bảo đến hỏi đại đức Anuruddha. Ðại đức Anuruddha nói:

- Ðức Thế Tôn hiện đang ngự trên ngai vàng dưới cây San-hô ở cung trời Ðao-Lợi, thuyết Vi-diệu-pháp cho thiên chúng và mẹ ngài là bà Maha Maya nghe.
- Chừng nào ngài sẽ trở về với chúng ta?
- Sau khi mãn hạ.
Trong khi đó, ở cung trời Ðao-Lợi, đức Phật ngồi trên ngai vàng dưới cây San-hô, bên tay phải có thánh mẫu Maha Maya và Yakkha Indaka, bên tay trái có Ankura, xung quanh có vô số thiên chúng từ mười phương tựu đến nghe pháp. Indaka và Ankura vừa được tái sanh đến trời Ðao-Lợi không bao lâu. Ðức Phật bắt đầu chỉ cách cúng dường như thế nào để được nhiều phước báo. Ðức Phật nói:

- Này Ankura, ông Indaka chỉ cúng dường một muỗng thức ăn của mình cho đại đức Anuruddha mà được tái sanh về trời Ðao-Lợi, trong khi đó ông bố thí vô số thực phẩm trong mười ngàn năm và gần đây cúng dường rất nhiều cho Giáo Ðoàn Khất Sĩ mới được tái sanh về trời Ðao-Lợi. Tại sao vậy?
Ví như người nông dân gieo giống phải chọn đất tốt mới thu hoạch được nhiều hoa lợi.

Còn ông, vì không biết chọn người để cúng dường nên việc cúng dường của ông không được nhiều lợi lạc.
Rồi đức Phật nói kệ:
Làm nông dân gieo giống
Nên chọn đất phì nhiêu.
Làm thiện tín cúng dường
Nên chọn người hiền đức.

Cỏ dại hại ruộng đất,
Tham sân si hại người.
Cúng dường bậc thánh nhân,
Sẽ được nhiều quả tốt. (Kinh Pháp Cú, bài 356, 357, 358, 359)

Sau đó đức Phật giảng Vi-diệu-pháp (Abhidhamma) và nói kinh Ðịa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện cho thiên chúng và thánh mẫu Maha Maya nghe liên tục trong ba tháng. Khi đức Phật nghỉ mệt hoặc thọ thực thì có Hóa Thân Phật thay thế thuyết pháp. Sau khi nghe pháp, thánh mẫu Maya đắc quả Tu-đà-hoàn (Sotapanna).

Mỗi ngày đại đức Sariputta lên trời Ðao-Lợi nghe Phật thuyết pháp, rồi trở về địa cầu tóm tắt bài pháp cho ngài Maha Kassapa và đại chúng nghe. Về sau, trong kỳ kiết tập kinh điển lần thứ nhứt, chính ngài Maha Kassapa đã tuyên đọc lại Vi-diệu-pháp làm thành Tạng Luận gồm bảy tập, còn lưu truyền đến ngày nay.

Sau ba tháng, khi đức Phật từ cung trời Ðao-Lợi (Tavatimsa) trở về làng Samkassa thì có vua trời Brahma (Phạm-Thiên) bên phải, vua trời Sakka Indra (Ðế-Thích) bên trái, tiển đưa ngài xuống bằng ba cầu thang báu bằng vàng, bằng bạc và bằng thất bảo, từ đỉnh núi Tu-di (Sineru) đến cổng làng Samkassa.

Có vô số chư thiên rải hoa tấu nhạc cúng dường. Về đến cổng làng Samkassa có đại đức Moggallana, sư cô Uppalavanna là hai đệ tử thần thông đệ nhất đến trước, đại đức Sariputta và đông đão các vị khất sĩ khác đến sau đón tiếp Phật.
Sư cô Uppalavanna vui mừng bước đến đảnh lễ Phật và nói:
- Bạch Thế Tôn, đệ tử là Uppalavanna, người đầu tiên đến nghinh đón Thế Tôn, xin Thế Tôn chứng minh cho.
Ðức Phật mỉm cười nói:
- Này Uppalavanna, người nghinh đón Như Lai trước nhất chẳng phải là sư cô đâu.
Uppalavanna lấy làm lạ hỏi:
- Bạch Thế Tôn, nếu chẳng phải con vậy là ai?
Ðức Phật nhìn các đệ tử, ôn tồn nói:

- Cám ơn quý vị khất sĩ đã từ xa xôi đến đây tiếp đón Như-Lai, nhưng người gặp Như-Lai trước nhất chính là Subhuti (Tu Bồ Ðề). Thầy Subhuti hiện đang quán Tánh Không của các pháp và thực hành Tâm Không trong hang núi ở Griddhakuta, do đó thầy mới là người thấy Phật trước nhất.

Vào thế kỷ thứ ba trước tây lịch, vua Asoka có dựng một trụ đá kỷ niệm nơi Phật thị hiện thần thông Giáng Trần tại cổng làng Samkassa (Sankissa, Samkasya). Trên đầu trụ đá có tượng một con voi.

Pho tượng Phật đầu tiên

Vì vắng mặt Phật quá lâu nên vua Udayana (Udena, Ưu-Ðiền) tại thủ đô Kosambi[6] (Kiều-thường-di), xứ Vatsa (Bạt-ta), buồn khổ sanh bệnh. Các quan đại thần thuê thợ điêu khắc giỏi dùng gỗ chiên đàn ở núi Ngưu-đầu khắc một tượng thật giống Phật, cao năm thước, dâng lên vua. Vua liền hết bệnh. Ðó là pho tượng Phật Thích-Ca Mâu-ni đầu tiên trong lịch sử[7].

Ðức Phật có thấy pho tượng này và tỏ lời ngợi khen công đức tạc tượng. Tương truyền về sau khuôn tượng Phật này có được truyền đến Trung-Hoa vào thời Tam Quốc, và sau đó cũng có truyền đến Nhật-Bản[8].

Làm sao trở thành Sakka, vua Trời Ðao-Lợi?[9]


Ông Mahali[10], một vương tử Lichavi ở thủ đô Vesali, một hôm, nhân nghe Phật ca ngợi sự vẻ vang của vua Trời Ðao-Lợi là Sakka , bèn hỏi:
- Bạch Thế Tôn, ngài có quen biết hoặc có bao giờ gặp mặt vua Trời Ðao-Lợi là Sakka không?
- Này Mahali, dĩ nhiên Như Lai có gặp mặt và biết rõ về Sakka.
- Bạch Thế Tôn, do những phẩm hạnh và thiện nghiệp nào mà Sakka được trở thành vua Trời Ðao-Lợi?

- Này Mahali, trước khi tái sanh làm vua Trời Ðao-Lợi, Sakka là hoàng tử Magha ở xứ Magadha, có biệt danh là Maghava. Hoàng tử Magha thường thực hành hạnh bố thí (pure danam adasi) nên có biệt danh là Purindada. Magha cũng thường xuyên cúng dường thực phẩm đều đặn (sakkaccham) cho chư tăng nên có biệt danh là Sakka.

Magha cũng đã cúng dường một chổ ở (avasatham) nên có biệt danh là Vasava. Magha rất thông minh có thể nghĩ đến một nghìn việc (sahassam attham) cùng một lúc nên có biệt danh là Sahassakkha. Sakka có vợ là A-tu-la (Asura) tên Sujata nên có biệt danh là Sujampati. Sakka lãnh đạo chư thiên ở cung trời Ðao-Lợi
(Tavatimsa) nên có biệt danh là Ðế Thích (Indra) hay Thích Ðề Hoàn Nhơn. Hoàng tử Magha nhờ đã hoàn thành bảy đại nguyện của mình nên sau khi mạng chung được tái sanh làm Sakka, vua trời Tavatimsa. Bảy đại nguyện đó là:
1. Trong suốt đời này, tôi nguyện nuôi dưỡng cha mẹ tôi đầy đủ.
2. Trong suốt đời này, tôi nguyện cung kính đối với tất cả các bậc trưởng thượng.
3. Trong suốt đời này, tôi nguyện lúc nào cũng ăn nói hòa nhã dễ thương với tất cả mọi người.
4. Trong suốt đời này, tôi nguyện không bao giờ nói xấu bất cứ ai.
5. Trong suốt đời này, tôi nguyện sống đời cư sĩ với tấm lòng luôn luôn rộng rãi, vị tha, giúp đỡ mọi người.
6. Trong suốt đời này, tôi nguyện luôn luôn nói lời chân thật.
7. Trong suốt đời này, tôi nguyện không bao giờ hờn giận. Nếu lòng hờn giận có nổi lên, tôi sẽ mau mau dập tắt ngay.
Này Mahali, chính nhờ đã hoàn thành bảy đại nguyện trên mà hoàng tử Magha được tái sanh làm Sakka, vua trời Tavatimsa.

3- Hạ thứ 8 tại rừng Bhesakala (năm -582)
Ngoại đạo dùng cô Cinca vu cáo Phật[11]


Ðức Phật từ Samkassa đến Sravasti, ngụ tại tinh xá Jetavana. Lục sư ngoại đạo di cư từ Rajagriha đến Sravasti lại bị mất mặt trong cuộc biểu diễn thần thông của Phật nơi cây xoài Ganda, lấy làm tức tối vì bị mất tín đồ, mất quyền lợi, tìm cách bôi nhọ uy tín Phật bằng cách tung ra những tin thất thiệt nói xấu Phật và Giáo đoàn khất sĩ.

Vài vị khất sĩ đem những dư luận không tốt này trình lại với Phật để xin ngài có biện pháp đối phó. Ðức Phật an ủi: "Quý vị đừng phiền muộn về những lời đồn đãi đó. Những lời đồn đãi đó trước sau gì cũng sẽ im bặt."

Các ngoại đạo họp nhau với đạo-sư Ajita-Kesakambala lập mưu kế với một tín nữ tên Cinca Manavika (Chiên-già Ma-na), là một cô gái rất kiêu hảnh về sắc đẹp của mình, sai nàng lui tới tinh xá Jetavana cho mọi người quen mặt, rồi thỉnh thoảng lui tới lúc vắng người. Vào buổi chiều, lúc mọi người từ tinh xá Jetavana đi trở về Sravasti thì cô Cinca đi ngược lại từ Sravasti đến Jetavana.

Có người hỏi cô đến Jetavana vào giờ này để làm gì? Cô đáp: Việc riêng của tôi, bà hỏi làm gì! Rồi lần lần cô dùng rơm độn bụng lên như có thai.
Một hôm, cô Cinca dùng một cái gáo bằng gỗ độn nơi bụng, dùng dây cột lại, mặc áo rộng bên ngoài, tới tinh xá Jetavana lúc Phật đang thuyết pháp trong giảng đường. Cô đến đứng trước mặt Phật, chỉ cái bụng mình rồi nói lớn:
- Này sa-môn Gotama, ông đừng dùng lời đạo đức dối gạt thiên hạ nữa. Chính tôi đã tin nơi lời đường mật của ông đến nỗi bụng mang dạ chửa như thế này. Ðến nay tôi sắp đến ngày sanh nở rồi mà ông vẫn chưa hề chăm sóc lo lắng gì cho tôi và đứa con của ông trong bụng tôi. Ông chỉ biết hưởng lạc thú rồi bỏ mặc mẹ con tôi như thế này cho thiên hạ chê cười! Tôi khổ lắm!
Nói đến đây cô Cinca giả bộ khóc lớn tiếng. Ðức Phật bình tĩnh lắng nghe, rồi ôn tồn đáp:
- Này Cinca, những điều cô vừa nói chẳng có chứng cớ gì đích xác. Chỉ có cô và tôi là biết sự thật mà thôi.
Vua trời Ðao-lợi là Sakka bỗng cảm thấy ghế ngồi của mình phát nóng, dùng thiên nhãn nhìn thấy Cinca Manavika đang vu cáo Phật, liền cùng bốn thiên nữ tức tốc hiện đến nơi để giải cứu.

Bốn thiên nữ biến thành bốn con chuột nhỏ, cắn đứt dây làm cái gáo gỗ nơi bụng cô Cinca rơi xuống đất. Nhiều tiếng người la lớn:
- Con quỷ này dám đến đây vu cáo đức Thế Tôn!

Nhiều người xông đến đánh đập và lôi Cinca ra khỏi giảng đường, định mang đi giao cho nhà chức trách. Nhưng vừa ra khỏi cổng tinh xá thì đất dưới chân cô Cinca nứt làm hai, lửa bốc cháy thân cô, cô bị rơi vào điạ ngục A-tỳ, rồi mặt đất liền lại như cũ. Từ đó những lời đồn đãi nói xấu Phật im bặt.

Chuyện ông bà Nakula gọi Phật bằng con[12]

Sau đó Phật nhập hạ thứ 8 tại tinh xá Anjanavana, cạnh rừng Bhesakala và tảng đá Sumsumara, gần thị trấn Saketa (Ayodhya). Một hôm, Phật vừa vào thành khất thực thì gặp ông Nakulapita. Vừa trông thấy Phật, ông ta liền chạy đến quỳ mọp xuống nắm chặc hai cườm chân Phật, thốt lên:

- Con! Con! Con ơi, sao con bỏ cha mẹ đi đâu lâu quá vậy con? Bãy lâu nay con ở đâu? Ðến bây giờ cha mới được gặp con đây. Con hãy theo cha về nhà thăm mẹ con đi.
Rồi ông Nakulapita đứng dậy, nắm tay dắt Phật về nhà ông, các vị khất sĩ cùng đi theo sau. Vừa vào đến nhà, bà Nakulamata đứng nhìn sửng sốt một hồi, rồi cũng vội vàng bước đến đảnh lễ Phật, vồn vã hỏi:

- Con ơi, bấy lâu nay con ở đâu mà không đến thăm cha mẹ? Cha mẹ nay đã già rồi, con đừng bỏ cha mẹ mà đi nữa nhé!
Rồi bà bảo các con trai và gái của bà:
- Các con hãy đến chào anh của các con đi.
Ông bà mời Phật và các vị khất sĩ ở lại độ ngọ trai tại nhà. Ông Nakulapita nói:
- Thưa Thế Tôn, từ nay mỗi ngày Thế Tôn cứ đến đây độ ngọ, khỏi đi đâu hết.
- Không được đâu đạo hữu, chư Phật không bao giờ thọ trai đều đặn ở một nơi.
- Vậy thì mỗi ngày Thế Tôn thọ trai ở đâu hãy cho chúng tôi biết để chúng tôi mang thức ăn đến đó cùng ăn chung với Thế Tôn cho vui.

Trước sự ngạc nhiên của các đệ tử, đức Phật giải thích: Ông Nakulapita và bà Nakulamata đã từng làm cha mẹ hoặc ông bà của ngài trong nhiều kiếp trước. Thọ trai xong, Phật thuyết pháp cho hai ông bà nghe.

Nghe xong cả hai đều đắc quả Tu-đà-hoàn (Sotapanna). Sau đó cứ ngày nào Phật rổi rảnh, ông bà Nakula đều thỉnh Phật đến nhà cúng dường và nghe pháp, ít lâu sau cả hai đều đắc quả A-na-hàm.

Ðức Phật đã có dịp nhắc lại rằng trong suốt 1500 kiếp trước hai ông bà luôn luôn khắng khít thương yêu nhau, chưa bao giờ làm hay nói điều gì mất lòng nhau, hai ông bà là người cư sĩ biết sống trong hạnh phúc và có niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo.
Sau ba tháng hạ, cả hai ông bà Nakula đều đắc quả A-la-hán và nhập niết-bàn, được Phật chứng minh lễ trà tỳ rất chu đáo.

4- Hạ thứ 9 tại tinh-xá Ghosita, Kosambi (năm -581)

Tại thủ đô Kosambi, thuộc vương quốc Vatsa, nằm trên tả ngạn sông Yamuna, có một giám đốc ngân khố tên là Ghosaka dâng cúng rừng cây simsapa của ông để làm tinh xá Ghosita. Ngoài ra còn có ông giám đốc ngân khố tên Kukkuta cúng dường tinh xá Kukkuta, và ông giám đốc ngân khố tên Pavariya cúng dường tinh xá Pavariya[13].

Bà Magandiya, thứ hậu vua Udayana, phỉ báng Phật[14]

Vài năm trước, ở Kosambi có một thiếu nữ xinh đẹp tên Magandiya sanh trưởng trong một gia đình Bà-la-môn.

Cha mẹ cô rất hãnh diện về sắc đẹp tuyệt trần của cô, chỉ muốn gả cô cho một người thật xứng đáng. Một hôm đức Phật đến nơi vị Bà-la-môn đang cúng tế thần lửa ngoài trời. Nhìn thấy hình dáng tốt đẹp của đức Phật, ông nghĩ thầm rằng đây quả thật là người rể đông sàng mà ông hằng mong ước từ lâu.

Ông liền ân cần thỉnh Phật ở nán lại chờ ông đi một chốc sẽ trở lại, rồi ông vội vã chạy về nhà kêu con gái. Lúc ấy đức Phật cố ý dẫm dấu chân trên mặt đất rồi đi sang một chỗ khác gần đó. Khi người Bà-la-môn dẫn vợ và cô con gái ăn mặc đẹp đẽ đến nơi thì chỉ nhìn thấy dấu chân Phật.

Bà vợ, giỏi về khoa tướng số, biết rằng dấu chân này không phải của người tầm thường mà phải là của người rất thanh tịnh, đã tận diệt mọi dục vọng.

Ông Bà-la-môn chế nhạo vợ hay tin bói toán, kế thấy đức Phật đứng cách đó không xa, ông bèn dẫn con gái đến đề nghị gả cho ngài.

Ðức Phật muốn độ hai ông bà Bà-la-môn này nên thuật lại lúc ngài thành đạo và chiến thắng ba cô con gái của Ma Vương như thế nào, rồi ngài nói kệ:
- " Ðã nhận thấy Ái-Dục, Bất-Mãn và Tham-Vọng[15],
" Ta không thích thú gì trong dục lạc của ái tình.

" Thể xác chỉ là túi da chứa đầy nước tiểu và phẩn dơ,
" Ta không bao giờ muốn rờ đến nó, dù chỉ rờ bằng chân.
Nghe đến đây hai ông bà Bà-la-môn liền chứng quả A-na-hàm (Anagami). Nhưng cô Magandiya bị chạm tự ái, cho đó là lời sỉ nhục, nên lấy làm tức giận, cô nghĩ:
- Nếu người này không cần đến ta thì cứ nói thật ra. Tại sao ông ta lại nói thể xác ta đầy nước tiểu và phẩn dơ? Hay lắm, đến chừng ta có một người chồng danh giá ta sẽ có cách đối xử với sa-môn Gotama.

Ít lâu sau, hai ông bà Bà-la-môn giao cô Magandiya cho chú ruột của cô nuôi, rồi xuất gia đi tu đắc quả A-la-hán. Người chú đưa cô vào triều làm thứ hậu cho vua Udayana[16] xứ Vatsa.

Trong hạ thứ 9, bà Magandiya dùng tiền mua chuộc ngoại đạo và xúi dục những người nô lệ mắng chưởi, xua đuổi Phật ra khỏi thành phố Kosambi. Khi thấy đức Phật vào thành khất thực, họ xúm lại hô to:

- Ông là tên trộm, là tên khờ dại, là người điên cuồng, là con lạc đà, là bò, là lừa, là người ở địa ngục; là thú vật. Ông không mong gì được lên nhàn cảnh. Ông sẽ chịu khổ hình ở địa ngục.
Ðại đức Ananda không thể chịu đựng được những lời nguyền rủa đê tiện, hung ác như vậy. Thầy bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn, người ta đang chưởi rủa và nhục mạ chúng ta thậm tệ.

Xin ngài cho dời đi nơi khác.
- Này Ananda, bây giờ ta nên đi đâu?
- Bạch đức Thế Tôn, đến một thị trấn khác.
- Nếu ở đó người ta cũng chưởi rủa và nhục mạ ta như vậy thì ta sẽ đi đâu?
- Bạch đức Thế Tôn, lại đi đến một nơi khác nữa.

- Này Ananda, không nên nói như vậy. Nơi nào chúng ta gặp chuyện khó khăn thì chúng ta phải giàn xếp ổn thỏa ngay tại nơi ấy. Và chỉ khi giàn xếp xong ta mới có quyền đi nơi khác. Nhưng, này Ananda, ai chưởi rủa nhục mạ thầy vậy?
- Bạch đức Thế Tôn, ai cũng chưởi rủa ta. Những người nô lệ, tôi tớ và ... tất cả mọi người.
Ðức Phật nhân cơ hội này dạy ngài Ananda thực hành pháp nhẫn như sau:
- Này Ananda, như một thớt tượng lâm trận phải bị lằn tên mũi đạn từ bốn phía dồn dập bắn tới. Như thế ấy, ta phải chịu đựng những lời nguyền rủa chưởi mắng từ mọi nơi. Thật vậy, người ta phần đông sống không giới đức.

Nhiều voi ngựa được dẫn đến trước vua quan để chọn lựa. Giữa đám đông voi ngựa ấy, vua chọn con nào thuần thục nhứt để cỡi. Giữa đám người, người xứng đáng nhất là người thuần thục, chịu đựng được những lời nguyền rủa.
Những con lừa thuần thục, những con ngựa rặt giống xứ Sindh và những thớt tượng sang trọng có ngà, đều thật xứng đáng và quý báu. Nhưng con người thuần thục, giới đức trang nghiêm là hơn tất cả.[17]
Rồi đức Phật nói tiếp:
- Này Ananda, thầy nên an lòng, những người này chỉ chưởi mắng thầy trong bảy ngày thôi, đến ngày thứ tám họ sẽ lặng im. Một chuyện khó khăn xảy đến cho một vị Phật không thể kéo dài quá bảy ngày.[18]

Không xua đuổi Phật được, lại thấy hoàng hậu Samavati là người rất cung kính và tin tưởng Phật, Magandiya lập mưu cho chú mình gây hỏa hoạn đốt chết Samavati. Vua Udayana biết được chuyện này, ra lệnh dùng rơm thiêu sống Magandiya và những người đồng lỏa[19].

Còn Tiếp

Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11370
Registration date : 08/08/2009

Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chuyện Cổ Tích PG   Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 I_icon13Sat 07 Aug 2010, 16:55


Nắm lá simsapa và tỳ-kheo Malunkyaputta[20]

Trong mùa an cư thứ chín, các đại đệ tử như Mahakassapa, Moggallana, Sariputta không có ở bên Phật vì phải chủ trì các trung tâm kiết hạ khác. Chú Rahula phải theo học với thầy Sariputta. Kề cận Phật có thầy thị giả Nagita và thầy Ananda.

Tinh xá Ghosita nằm trong rừng cây simsapa. Một buổi chiều từ rừng về, đức Phật cầm trong tay một nắm lá simsapa. Ngài đưa nắm lá lên và hỏi các vị khất sĩ có mặt:

- Này các thầy, lá trong tay Như Lai nhiều hay lá trong rừng nhiều?
- Bạch đức Thế Tôn, số lá trong tay Thế Tôn rất ít, còn lá trong rừng thì nhiều vô số không sao đếm siết.

- Ðúng vậy, này các thầy, tri kiến của Như Lai nhiều như số lá trong rừng, nhưng những điều Như Lai chỉ dạy quý thầy chỉ như số lá trong nắm tay. Tại sao vậy? Vì Như Lai chỉ muốn trình bày với quý thầy những gì thật sự có ích lợi cho sự tu tập để đạt đến giác ngộ và giải thoát mà thôi.

Một khi đã hoàn toàn giác ngộ rồi thì đương nhiên quý thầy có đầy đủ tri kiến của một vị Phật mà không cần phải học. Nhưng bây giờ quý thầy nên để hết tâm trí vào công phu tu học thiền quán có lợi ích cho sự giác ngộ và giải thoát, không nên bận tâm và để mất thì giờ trong các cuộc hý luận vô bổ.
Sở dĩ Phật có lời khuyên như thế là vì mấy hôm trước thầy Malunkyaputta và vài vị khất sĩ khác, sau khi tranh luận với nhau khá sôi nổi, kéo nhau đến hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn, vũ trụ này là hữu biên hay vô biên? Hữu hạn hay vô hạn?
Ðức Phật làm thinh không đáp. Malunkyaputta không chịu nổi sự im lặng của Phật, nói tiếp:
- Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn trả lời những câu hỏi của con thì con nguyện sẽ tiếp tục theo học với ngài suốt đời.

Nếu không, con sẽ xin từ bỏ giáo đoàn khất sĩ. Nếu quả thật ngài biết vũ trụ là hữu biên hay vô biên, thì xin ngài cứ nói ra. Còn nếu ngài không biết thì cứ nói thẳng là ngài không biết. Ðức Phật nhìn thầy Malunkyaputta thông thả nói:

- Này Malunkyaputta, hồi thầy xin xuất gia, Như Lai có hứa với thầy là sẽ giảng giải cho thầy về những câu hỏi như thế không? Như Lai có nói " Này Malunkyaputta, anh cứ xuất gia đi, rồi Như Lai sẽ dạy cho anh về những vấn đề siêu hình " không?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Vậy sao bây giờ thầy lại đặt điều kiện với Như Lai?

Này Malunkyaputta, ví như có một người nọ bị trúng một mũi tên có tẩm thuốc độc. Bà con mời một ông thầy thuốc tới để nhổ mũi tên ra rồi băng bó và cho uống thuốc trừ độc. Nhưng người bị trúng tên không cho ông thầy thuốc đụng vào vết thương mình.

Người ấy nói " Khoan đã, trước khi chữa vết thương, tôi muốn biết ai đã bắn mũi tên này, tên họ người đó là gì, mấy tuổi, ở đâu, làm nghề gì, thuộc giai cấp nào, vì cớ gì mà bắn tôi. Tôi cũng muốn biết cây cung làm bằng loại gỗ gì, và thuốc độc đó được chế biến ra sao."
Này Malunkyaputta, người bị thương sẽ chết trước khi anh ta tìm hiểu được hết những điều đó. (Trung A-hàm: Kinh Tiển Dụ)

Người xuất gia cũng vậy. Những điều mà người xuất gia phải biết và phải thực hành là những điều căn bản mà Như Lai đã và đang dạy các thầy.

Còn những điều khác, vì không có ích lợi thiết thực cho sự tu học và hành trì để đi đến giác ngộ và giải thoát, cho nên Như Lai không nói tới.
Nghe đến đây, thầy Malunkyaputta thành tâm xin sám hối, rồi lạy tạ lui ra.

Tranh chấp giữa một vị kinh-sư và một vị luật-sư[21]

Sau khi mãn hạ độ hai ba tuần, tại tinh xá Ghosita ở thủ đô Kosambi, xứ Vatsa, có xảy ra một vụ tranh chấp giữa một vị kinh sư và một vị luật sư trong giáo đoàn khất sĩ. Kinh sư là các thầy chuyên ôn tụng và giảng dạy các khế kinh mà Phật đã nói, như kinh Chuyển Pháp Luân, kinh Vô Ngã Tướng, kinh Nhân Duyên, kinh Bát Chánh Ðạo ...

Luật sư là các thầy chuyên ôn tụng và giảng dạy các giới luật, như các giới của người xuất gia, các giới của người tập sự xuất gia ...

Một hôm, sau khi tắm xong, một vị kinh sư quên ra giếng múc nước đổ vào cho đầy lu trong nhà tắm. Một vị luật sư vào tắm sau đó, thấy không có nước liền quở vị kinh sư:
- Này đạo hữu, có phải đạo hữu đã tắm xong rồi quên xách nước vào nhà tắm không?
- Thưa đạo hữu, phải.
- Ðạo hữu không biết làm như thế là sái nội quy à?
- Thưa đạo hữu, tôi lỡ quên. Vậy để tôi đi xách nước vào cho đầy lu.
- Tốt lắm! Này đạo hữu, nếu phạm lỗi mà không biết, không cố ý, thì không có tội.

Sau đó vị luật sư nói với học trò mình:
- Thầy kinh sư phạm lỗi mà không biết.
Học trò thân của vị luật sư nói với học trò thân của vị kinh sư:
- Thầy dạy luật nói thầy dạy kinh có tội mà không biết.
Học trò thân của vị kinh sư nói lại với thầy mình:
- Thầy luật sư nói thầy có tội mà không biết.

- Tôi chỉ lỡ quên xách nước vào lu sau khi tắm. Hôm qua ông ấy nói tôi không có tội, sao hôm nay lại nói tôi có tội? Ổng ấy nói dối!
Học trò thân của vị kinh sư đến gặp học trò thân của vị luật sư nói:
- Thầy kinh sư nói thầy luật sư nói dối.

Hai bên lời qua tiếng lại. Cuối cùng vị luật sư tuyên bố vị kinh sư đã phạm lỗi mà không sám hối thì theo luật sẽ không được phép tham dự các buổi bố-tát tụng giới mỗi nửa tháng nữa. Vị kinh sư nói ông ta không có tội, chính vị luật sư ăn nói hàm hồ mới là người có tội cần phải sám hối.

Cuộc tranh luận từ nhỏ xé ra to. Các vị khất sĩ chia ra làm hai phe tranh cãi sôi nổi. Tình trạng trở nên căng thẳng. Các khất sĩ không theo phe nào, than thở với nhau:
- Chết mất! Chết mất! Thế nào cũng có chia rẽ trầm trọng trong giáo đoàn.
Vài vị khất sĩ trình lên Phật hiện tình chia rẽ trong đại chúng. Ðức Phật gọi vị luật sư đến trình bày sự việc xảy ra như thế nào, rồi ngài nói:

- Ðã đành việc gìn giữ giới luật phải thật nghiêm minh để thân tâm được thanh tịnh. Nhưng giới luật chỉ là phương tiện để giúp cho việc tu tập được dễ dàng và nhanh chóng tiến đến mục tiêu cứu cánh là giác ngộ và giải thoát.

Nếu vì giới luật mà động tâm, tranh cãi, sanh ra bất hòa, thối bồ-đề tâm, thì giới luật đã mất hết ý nghĩa và mục tiêu cao thượng của nó. Trong trường hợp này thầy nên hỷ xả là tốt đẹp hơn hết.

Ðức Phật lại cho gọi vị kinh sư đến trình bày sự việc, rồi ngài nói:
- Ðã đành việc thầy quên lấy nước vào lu cho đầy sau khi tắm là việc nhỏ nhặt. Nhưng nếu thầy chịu nhẫn nhục sám hối với thầy kia ngay từ lúc đầu thì mọi việc đã được ổn thỏa. Nhưng cũng chưa muộn, bây giờ thầy nên nhẫn nhục sám hối đi để mọi việc trở nên tốt đẹp.

Nhưng sự can thiệp của Phật không có hiệu quả. Cả hai bên vì lời qua tiếng lại đã nhiều nên bị chạm tự ái trầm trọng. Các vị khất sĩ đứng giữa không đủ sức để giàn xếp một cuộc hòa giải. Nội vụ tới tai các cư sĩ tại gia, và chẳng bao lâu các giáo phái bên ngoài đều biết.

Uy tín của giáo đoàn khất sĩ bị tổn thương nặng. Ðại đức thị giả Nagita lại đem nội vụ trình lên Phật và yêu cầu Phật tới can thiệp một lần nữa. Sáng hôm sau, đức Phật khoác y, đi thẳng tới giảng đường, bảo thầy thị giả Nagita đánh chuông triệu tập đại chúng. Khi mọi người đã tụ họp đông đủ tại giảng đường, Phật nói:

- Này các thầy, xưa kia vua xứ Kosala là Dighiti bị vua xứ Kasi là Brahmadatta đánh bại. Vua Dighiti cùng với con là Dighavu giả dạng trốn đến Benares ẩn náo. Nhưng Dighiti bị người thợ hớt tóc thân tín làm phản, tố cáo, nên bị bắt giết.

Trước khi chết, ông ta căn dặn con là Dighavu như sau: Này con, chớ nên nhìn xa, chớ nên nhìn gần[22]; hận thù không thể chấm dứt bằng hận thù, hận thù chỉ có thể chấm dứt bằng hành động khoan dung tha thứ. Về sau Dighavu trở nên người hầu cận thân tín của vua

Brahmadatta. Một hôm, trong lúc đi săn trong rừng vắng, Dighavu đang ở thế mạnh, nói cho Brahmadatta biết mình là con của Dighiti, và theo lời cha dặn, ông đã hoàn toàn xóa bỏ hận thù. Vua Brahmadatta liền cho Dighavu trở về làm vua xứ Kosala[23].

Này các thầy, hận thù là liều thuốc độc cho chính bản thân mình. Tự ái, giận hờn và chia rẽ là ba trở ngại lớn cho sự tu tập. Các thầy hãy chấm dứt ngay việc tranh chấp cãi cọ vì một chuyện không đâu làm mất sự hòa hợp giữa chúng tăng. Hòa hợp tăng là điều kiện thiết yếu để thực hành thiền định và quán tưởng.

Các thầy không nên để lửa sân đốt hết công đức tu tập của các thầy. Các thầy không nên bước lên con thuyền si mê cố chấp, vì nó sẽ đưa các thầy vào cõi địa ngục tối tăm. Thái độ sân si của các thầy đã làm thương tổn đến sứ mạng hoằng hóa của giáo đoàn, và thái độ đó chỉ mang đến đau khổ luân hồi cho các thầy mà thôi.

Các thầy nên chấm dứt ngay sự chia rẽ đố kỵ. Các thầy hãy cùng nhau sám hối để trở về với Chánh Pháp.
Một vị khất sĩ đứng lên, nói:
- Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy đứng ra ngoài vụ tranh chấp này. Xin ngài cứ an trú trong niềm vui tịnh lạc của thiền định. Chúng tôi đã lớn, chúng tôi có thể tự mình giải quyết vụ này được. Xin ngài chớ can thiệp vào việc riêng giữa chúng tôi.

Vị khất sĩ nói xong, mọi người đều im lặng. Ðức Phật cũng im lặng. Một chốc sau, ngài đứng dậy, rời giảng đường, trở về am lấy y bát, rồi một mình đi vào thành phố Kosambi khất thực. Khất thực xong, Phật vào rừng một mình để thọ trai.

Thọ trai xong, Phật đứng dậy, ôm bát đi dọc theo bờ sông Yamuna, rời thành phố Kosambi. Không ai được phép đi theo Phật, kể cả thầy thị giả Nagita và thầy Ananda.

Ðại-đức Bhagu gặp Phật tại thành-phố Balaka[24]

Ðức Phật đi lần tới thành phố Balaka (Balajalonakara). Tại đây ngài gặp đại đức Bhagu. Thấy Phật, đại đức Bhagu rất vui mừng. Thầy rước Phật vào một cụm rừng, mời Phật ngồi, rồi đi lấy nước và khăn cho Phật rửa mặt và tay chân. Phật hỏi thăm về sự tu học của thầy. Thầy đáp:

- Bạch Thế Tôn, con cảm thấy rất thoải mái, an lạc, mặc dù chỉ ở một mình.
- Ở một mình đôi khi mà khỏe hơn là ở với nhiều người.
Rồi Phật nói bài kệ sau đây:
Nếu gặp thiện tri thức,
Nên sống chung hòa hợp,
Tương trợ và hoan hỷ,
Cùng nhau vượt hiểm nguy. (Pháp Cú, bài 328)
Không gặp thiện tri thức
Ðáng sống chung hòa hợp,
Thà sống riêng một mình
Như vua bỏ nước bại,
Voi chúa giữa rừng sâu. (Pháp Cú, bài 329)
Nếu biết sống một mình,
Không bạn với người ngu,
Thảnh thơi, không làm ác,
Không lo, như voi rừng. (Pháp Cú, bài 330)
Sau khi giảng dạy thêm về giáo lý và khích lệ đại đức Bhagu về sự tu học, Phật từ giã thầy để đi về phía công viên Ðông Trúc cách đó không xa.

Ðại-đức Anuruddha gặp Phật tại công viên Ðông-Trúc[25]

Lúc đến cổng công viên Ðông Trúc thuộc thành phố Karagama, Phật bị người gác vườn ngăn lại. Ông ta nói:
- Sa môn, ông đừng vào công viên lúc này, e làm phiền các thầy đang thiền định trong đó.
Phật chưa biết nói sao thì thấy đại đức Anuruddha từ trong công viên đi ra. Thấy Phật, đại đức mừng rỡ vái chào, rồi nói với người gác vườn:
- Ðây là thầy của chúng tôi, xin ông cứ để cho người vào.

Ðại đức đưa Phật vào công viên gặp đại đức Nandiya và Kimbila. Thầy Nandiya nâng bát, thầy Kimbila nâng áo sanghati cho Phật. Họ thỉnh Phật đến ngồi bên cạnh một khóm tre vàng, đem nước và khăn đến cho ngài rửa mặt và rửa chân. Rồi cả ba chấp tay đảnh lễ Phật. Phật hỏi:

- Các thầy ở đây có được an tịnh không? Sự tu học có thuận lợi không? Việc khất thực và hoằng hóa có dễ dàng không?
- Bạch Thế Tôn, thầy Anuruddha đáp, chúng con ở đây rất an ổn, khung cảnh thật an tịnh, việc khất thực và hoằng hóa cũng không có gì trở ngại. Nhờ khung cảnh thuận lợi nên chúng con đã đạt được nhiều tiến bộ trong sự tu học.
- Các thầy có thương mến và hòa hợp với nhau không?
- Thưa Thế Tôn, chúng con rất thương mến nhau. Chúng con hòa hợp với nhau dễ dàng như nước với sữa. Mỗi khi có điều gì quan trọng chúng con đều họp nhau lại để lấy quyết định chung.

Trong khi học tập về giáo pháp, nếu có điều gì còn nghi ngờ hoặc không hiểu rõ, thì chúng con cùng nhau thảo luận để tìm hiểu và trao đổi kinh nghiệm với nhau. Thưa Thế Tôn, nhờ có ba người ở chung nên chúng con thấy việc tu học của chúng con được dễ dàng và thuận lợi hơn.

- Tốt lắm, Ðức Phật nói, ở chung mà có sự hòa hợp với nhau là điều kiện thuận lợi nhất cho việc tu học.
Ðức Phật ở lại công viên Ðông Trúc một tháng để quan sát cách ăn ở và tu học của ba thầy, đồng thời chỉ dạy thêm về giáo lý và cách thực hành. Trước khi từ giã các đại đức Anuruddha, Nandiya và Kimbila, đức Phật nói:

- Này các thầy, nếu tất cả khất sĩ trong giáo đoàn có thể đối xử với nhau như các thầy thì rất lợi lạc và dễ dàng cho việc tu học chung. Từ nay Như Lai đề nghị áp dụng phép Lục Hòa sau đây đối với các khất sĩ ở chung:

1- Thứ nhất là thân hòa đồng trú, nghĩa là cùng hòa thuận chia xẻ với nhau một trung tâm tu học, một khu rừng hay một mái nhà.
2- Thứ hai là lợi hòa đồng quân, nghĩa là cùng chia đồng đều với nhau các thức ăn và các tiện nghi trong cuộc sống.
3- Thứ ba là giới hòa đồng tu, nghĩa là cùng nhau tôn trọng những giới luật chung.
4- Thứ tư là khẩu hòa vô tránh, nghĩa là nói chuyện với nhau phải dùng lời hòa nhã, không được dùng lời lẽ gây xích mích và tranh cãi.
5- Thứ năm là kiến hòa đồng giải, nghĩa là cùng nhau học hỏi và trao đổi kiến thức trong sự ôn hòa, không được dấu diếm hoặc tranh luận.

6- Thứ sáu là ý hòa đồng duyệt, nghĩa là khi có ý kiến khác nhau thì phải cùng nhau duyệt lại để mọi người cùng hòa thuận và thông cảm với nhau.
Này các thầy, từ nay về sau, tất cả khất sĩ trong giáo đoàn phải lấy sáu nguyên tắc hòa hợp này mà đối xử với nhau.

Ba vị khất sĩ hoan hỷ nghe lời Phật dạy. Ðức Phật từ giã ba thầy, lên đường đi về hướng bắc. Bảy ngày sau Phật đến khu rừng Rakkhita, gần thành phố Parileyyaka. Phật đến ngồi nghỉ dưới một gốc cây sala tươi đẹp, cành lá sum sê. Nhận thấy phong cảnh nơi đây thật thanh nhàn, khí hậu mát mẻ, Phật có ý định ở lại đây một mình trong mùa an cư sắp tới.
________________________________________
[1] Kosambi (Kausambi) ngày nay là một làng nhỏ tên Kausam hay Kosam nằm cạnh bờ sông Yamuna, cách thành phố Allahabad 51 km về hướng tây-nam.
[2] Xem Buddha and the Gospel of Buddhism, trang 47; Buddhist Legends, quyển III, trang 225-226.
[3] Xem Buddhist Legends, quyển III, trang 35-40; Buddha and the Gospel of Buddhism, trang 48.
[4] Xem Buddhist Legends, quyển III, trang 41-47; The Life of The Buddha của A.Foucher, trang 208-211; Buddha and the Gospel of Buddhism, trang 48-49.
[5] Xem Buddhist Legends, quyển III, trang 47-56, và trang 242: Trong cùng một tài liệu này có sự lẫn lộn giữa trời Ðao-Lợi (Tavatimsa) và trời Ðâu-Suất (Tusita). Theo soạn giả thì trời Ðao-Lợi có lẽ đúng hơn, vì cõi trời náy dành cho những người có phước báo, còn trời Ðâu-Suất dành cho những người có tu chứng.
[6] Kosambi (Kausambi) hiện nay là một làng nhỏ tên Kausam nằm cạnh bờ sông Yamuna, cách thành phố Allahabad 51 km về hướng tây-nam.
[7] Xem Từ Ðiển Phật Học Huệ-Quang; Tăng-nhất A-hàm 28; kinh Phương Tiện Phật Báo Ân 3; kinh Quán Phật Tam Muội Hải 6; kinh Ðại Thừa Tạo Tượng Công Ðức, thượng.
[8] Có lẽ tượng Phật vĩ đại của Nhật tại thành phố Kyoto được làm theo mẫu này.
[9] Xem Buddhist Legends, quyển I, trang 313-314; Samyutta-nikaya, xi.2. 3: i. 230-231.
[10] Vương tử Mahali xứ Vajji, vương tử Pasenadi xứ Kosala và vương tử Bandhula xứ Malla là ba người bạn thân cùng học với một ông thầy nổi tiếng ở Takshasila(Xem Buddhist Legends, quyển II, trang 31).
[11] Xem Buddhist Legends, quyển III, trang 19-23; Buddha and the Gospel of Buddhism, trang 49; Sự Tích Phật Giáng Thế của Hòa thượng Thích Trung-Quán, trang 132; Jataka: kinh Maha Paduma.
[12] Xem Phật Giáo Nhìn Toàn Diện, trang 52; The Life of Buddha as Legend and History, trang 115; Buddhist Legends, quyển III, trang 108110; Jataka 68: i 308-310.
[13] Xem Buddhist Legends, quyển I, trang 280.
[14] Xem Ðức Phật và Phật Pháp, trang 190-192; The Life of Buddha as Legend and History, trang 115; Buddhist Legends, quyển III, trang 31-32 và 199-200.
[15] Ðó là tên ba người con gái của Ma Vương: Tanha (Ái dục), Arati (Bất mãn) và Raga (Tham vọng).
[16] Vua Udayana còn gọi là Udena có hoàng hậu là Samavati và hai thứ hậu là Vasuladatta và Magandiya. (Buddhist Legends, quyển I, trang 247-293).
[17] Dhammapada (Pháp Cú Kinh) bài 320, 321, 322.
[18] Buddhist Legends, quyển 1, trang 282-288.
[19] Buddhist Legends, quyển 1, trang 288-290.
[20] Xem Majjhima-nikaya 63; Trung A-Hàm 221: Tiển Dụ Kinh; Ðại Chánh TTÐT Kinh 94: Phật thuyết Tiển Dụ Kinh; Majjhima-nikaya 48: Kosambiya sutta.
[21] Xem Buddhist Legends, quyển I, trang 175-183; Majjhima-nikaya 128; Mahavagga X, 1-5; Jataka 428; Udana IX, 5; Ðường Xưa Mây Trắng, trang 296-298.
[22] Nghĩa là: Chớ nên đắn đo, do dự.
[23] Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 116.
[24] Xem Ðường Xưa Mây Trắng, trang 298.
[25] Xem Majjhima-nikaya 128; Trung A-Hàm 72; Ðường Xưa Mây Trắng, trang 298-301.

Hết Phần 6

Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11370
Registration date : 08/08/2009

Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chuyện Cổ Tích PG   Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 I_icon13Thu 12 Aug 2010, 17:27

Sự tích Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni

Soạn giả: Minh-Thiện Trần-Hữu-Danh
Với sự khuyến khích và giúp đỡ của hiền nội:
Diệu-Xuân Nguyễn-thị Bạch-Mai


Phần 7

5- Hạ thứ 10 trong rừng Rakkhita (năm -580) Phật an-cư một mình trong rừng Rakkhita[1]

Rời tinh xá Ghosita, nơi đang có sự tranh chấp giữa hai nhóm khất sĩ kinh sư và luật sư, đức Phật đến ở một mình trong rừng Rakkhita, thuộc làng Parileyyaka và an cư luôn tại đây.
Khu rừng này rất vắng vẻ thanh tịnh, cây lá xinh tươi, có đồi, có suối lại có hồ. Sống một mình, Phật thấy rất thoải mái và dễ chịu trong cảnh thanh nhàn. Phật thường tĩnh tọa dưới gốc cây sala to lớn bên bờ suối.

Nơi đây thường có một con voi chúa dẫn một đàn voi vừa lớn vừa nhỏ đến suối uống nước và tắm rửa, và cũng có một bầy khỉ thường đến nơi nô đùa nhảy nhót trên cành cây và trên những tảng đá bên bờ suối.

Bầy voi và bầy khỉ lần hồi đến làm quen với Phật. Ðược Phật chăm sóc và dạy dỗ, chúng lại càng quý mến, mang trái cây đến cúng dường Phật. Có lần Phật bắt chước tiếng con voi chúa rú lên, cả đàn voi lớn nhỏ đều chạy tới nằm mọp trước mặt Phật.

Sau mùa an cư, Phật từ giã đàn voi, bầy khỉ và khu rừng xinh đẹp. Ngài đi về hướng bắc. Nửa tháng sau ngài tới tinh xá Jetavana ở thủ đô Sravasti.

Phật dạy xử sự đúng chánh pháp[2]

Ðức Phật vừa về tới tinh xá Jetavana. Các đại đệ tử có mặt xúm xít đến chào mừng và rước Phật về am thất của ngài. Các đại đức Sariputta, Moggallana, Mahakassapa, MahaKaccana, Upali, Mahakotthiya, Mahakappina, Mahakunda, Revata và Devadatta đều có mặt. Các đại đức Anuruddha, Kimbila và Nandiya từ công viên Ðông Trúc cũng đã về tới. Ni sư Gotami và Rahula cũng có mặt.

Ðại đức Ananda đang quét dọn am thất của Phật, thấy Phật về tới, thầy vui mừng buông chổi, bước tới đảnh lễ Phật. Phật hỏi:
- Này Ananda, sau khi Như Lai đi rồi, tình trạng ở tinh xá Ghosita như thế nào?

- Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn đi rồi, một số huynh đệ đến tìm con và nói "Này sư huynh, Thế Tôn đã bỏ đi rồi. Ngài đi một mình. Sao sư huynh và thầy thị giả Nagita không đi theo Thế Tôn để chăm sóc cho ngài. Nếu hai sư huynh không đi thì chúng tôi đi vậy".

Con đáp "Nếu Thế Tôn đi mà không cho ai biết là vì ngài muốn đi một mình. Chúng ta không nên làm phiền ngài". Sau đó khoảng sáu tháng, một số huynh đệ lại tới nói với con "Này sư huynh, lâu nay chúng mình không được nghe Thế Tôn dạy bảo, không được nghe giáo pháp trực tiếp từ kim khẩu của bậc giác ngộ.

Chúng ta nên đi tìm ngài". Chúng con đã lên đường đi tìm Thế Tôn nhưng không được gặp. Không ai biết Thế Tôn ở đâu. Cuối cùng chúng con tìm về Sravasti để báo tin cho các sư huynh lớn. Chúng con nghĩ rằng thế nào Thế Tôn cũng về đây.

- Khi thầy rời Kosambi, các vị khất sĩ còn cãi cọ nhau nhiều không?
- Bạch Thế Tôn, lúc ấy tình trạng còn căng thẳng lắm, còn hơn lúc Thế Tôn chưa ra đi. Không có mặt Thế Tôn, hai bên không còn e dè gì nữa, càng cãi nhau dữ dội. Không khí thật là ngột ngạt khó thở. Mỗi lần vào thành phố khất thực, chúng con lại bị giới cư sĩ hỏi han về vụ tranh chấp.

Chúng con nói "Có nhiều vị khất sĩ đứng ngoài vụ tranh chấp. Xin quý vị biết cho điều đó". Ðó là điều duy nhất mà chúng con có thể làm. Dần dần giới cư sĩ bắt đầu phản ứng. Họ tìm tới tinh xá nói với các vị khất sĩ trong vụ tranh chấp "Quý thầy đã không nghe lời Phật dạy, để cho Phật phải buồn lòng mà bỏ đi. Quý thầy có trách nhiệm rất lớn. Quý thầy phải mau đi tìm Phật để xin sám hối".

Ban đầu thì các thầy không chú ý tới lời cảnh cáo của giới tại gia. Nhưng sau đó giới tại gia cương quyết bảo nhau không cúng dường cho các vị có mặt trong cuộc tranh chấp. Bạch Thế Tôn, giới cư sĩ ở Kosambi có vẻ cương quyết lắm. Ngày rời Kosambi, con nghe nói là hai bên đã định ngày họp nhau lại để đi tới sự hòa giải. Con nghĩ là họ sẽ hòa giải được và sớm muộn gì họ cũng tìm về đây để xin sám hối với đức Thế Tôn.

Ðức Phật quay sang các vị đại đệ tử nói:
- Này các thầy, chúng ta phải tìm cách nào để từ rày về sau không còn những cuộc cãi cọ vô nghĩa lý như thế tại các trung tâm tu học nữa.

Vài ngày sau, đại đức Sariputta được báo tin các thầy ở Kosambi đang lục tục kéo về Sravasti. Họ đông tới cả mấy trăm người, hiện còn ở ngoài phố. Ðại đức đến trình Phật:

- Bạch Thế Tôn, con nghe nói các huynh đệ ở Kosambi đã về đến phố rồi, có lẽ không bao lâu họ sẽ đến tinh xá. Bạch Thế Tôn , chúng con phải đối xử với các huynh đệ đó như thế nào?

- Thì các thầy cứ đối xử đúng theo Chánh Pháp.
- Bạch Thế Tôn, đúng theo Chánh Pháp nghĩa là sao? Xin Thế Tôn chỉ dạy cho.
- Này Sariputta, thầy mà cũng còn hỏi một câu như thế sao?

Ðại đức Sariputta im lặng. Vào lúc đó các thầy Moggallana, Mahakassapa, Kaccana, Kotthiya, Kappina và Anuruddha cũng vừa tới tịnh thất của Phật. Các thầy hỏi:

- Bạch Thế Tôn, các huynh đệ ở Kosambi sắp về tới. Chúng con phải đối xử với các huynh đệ đó như thế nào?
- Thì các thầy cứ đối xử đúng theo Chánh Pháp.

Các thầy đưa mắt nhìn đại đức Sariputta. Ðại đức chỉ mỉm cười. Phật nhìn các vị đại đệ tử, rồi chẫm rãi nói:
- Các thầy không nên có thành kiến đối với bất cứ ai, đối với bất cứ bên nào. Các thầy nên bình tỉnh lắng tai nghe cả hai bên. Thấy điều nào đúng với Chánh Pháp thì nên khen ngợi, khuyến khích.

Thấy điều nào không đúng với Chánh Pháp thì nên tìm cách giải thích cái tai hại của nó và khuyên nên sửa đổi. Những tư tưởng, lời nói, hành động đúng với Chánh Pháp luôn luôn đem lại sự an lạc, thanh tịnh, giải thoát. Những tư tưởng, lời nói, hành động do tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, kiến thủ ...

xúi dục, thường mang đến sự bất hòa, tranh cãi, buồn khổ, sân hận, là những điều không đúng với Chánh Pháp, nên xa lánh, diệt trừ. Ðiều quan trọng là phải khéo léo nói thế nào cho mỗi bên nhìn nhận chỗ sai của họ thì mới mong hòa giải được.

Vừa lúc ấy, các vị thí chủ lớn của tinh xá cùng đi với cư sĩ Sudatta Anathapindika cũng vừa tới nơi. Ông Sudatta hỏi:

- Bạch Thế Tôn, những vị khất sĩ ở Kosambi sắp tới. Chúng con phải đối xử với các vị ấy như thế nào? Chúng con nên cúng dường hay không nên cúng dường? Nếu cúng dường thì nên cúng dường bên nào?
- Quý vị nên cúng dường cả hai bên. Và nên tỏ ý yểm trợ và tán thán mỗi khi có người nói lên những điều đúng với Chánh Pháp.

Ngay lúc ấy, đại đức Ananda bước vào báo tin các thầy ở Kosambi đã đến cổng tinh xá đầy đủ, nhưng còn chưa dám vào. Ðại đức Sariputta nói:

- Bạch Thế Tôn, con có nên mở cửa cho họ vào không?
- Nên mở cửa cho họ vào.
- Rồi con giải quyết thế nào về nơi ăn chốn ở của họ?
- Thầy nên sắp xếp cho hai phe ở riêng ra hai bên.

Theo lệnh của đại đức Sariputta, các thầy tri khách mở cửa đón tiếp các vị khất sĩ từ Kosambi tới. Các vị được sắp xếp chỗ ở và các tiện nghi đồng đều như tất cả mọi người. Tất cả mọi việc đều được diễn tiến trong im lặng.

Sáng ngày hôm sau, tất cả các vị mới đến đều được đại đức Sariputta phân chia thành từng nhóm và chỉ định họ đi khất thực ở từng địa phương khác nhau để hai phe đối nghịch khỏi đụng độ nhau. Buổi chiều, các thầy ngỏ ý xin đại đức Sariputta dàn xếp cho họ được làm lễ sám hối với Phật. Ðại đức nói:

- Theo tôi nghĩ, việc sám hối với đức Thế Tôn không phải là điều tiên quyết. Việc quan trọng nhất là các huynh đệ nên dàn xếp với nhau để đi đến hòa giải. Khi các huynh đệ đã hòa giải với nhau xong rồi thì lễ sám hối mới có ý nghĩa và mới có tánh cách chân thật.

Tôi đề nghị hai bên huynh đệ nên có phiên họp hòa giải với nhau trước. Nên xem hòa khí giữa các khất sĩ trong giáo đoàn và việc tu học để đạt đến giải thoát là chuyện sinh tử tối quan trọng. Còn những việc nhỏ nhặt khác, các huynh đệ nên hỷ xả để tâm ý được nhẹ nhàng thanh tịnh, dễ dàng cho việc thực hành thiền quán.

Tối hôm ấy, vị kinh sư chủ chốt trong cuộc tranh cãi tìm tới vị luật sư hay cố chấp. Thầy chắp tay đảnh lễ rồi quỳ xuống tác bạch:

- Bạch đại đức, tôi xin công nhận là tôi đã phạm giới, và sự kết tội của đại đức vào mùa hè năm ngoái là đúng luật. Tôi xin thành tâm sám hối trước đại chúng để được trở lại tình trạng giới thể thanh tịnh.

Vị kinh sư làm được như vậy vì thầy không thấy có lối thoát nào khác. Thầy sẵn sàng hy sinh tự ái để đem lại hòa khí cho giáo đoàn. Biết thế, vị luật sư liền phản ứng một cách mau lẹ. Thầy cũng quỳ xuống trước vị kinh sư và nói:

- Tôi cũng xin sám hối với đại đức là tôi đã thiếu khiêm nhượng và khéo léo trong vụ này. Xin đại đức từ bi chứng minh cho tấm lòng thành khẩn của tôi.

Ngay sau đó đại đức Sariputta triệu tập đại chúng đến giảng đường, rồi đại đức thỉnh Phật đến chứng minh lễ phát lồ sám hối. Hai đại đức kinh sư và luật sư đồng bước ra đảnh lễ Phật và cầu sám hối trước đại chúng. Phật nói:

- Này hai thầy, hôm nay cả hai thầy đều tự nhận thấy lỗi mình, đồng làm lễ phát lồ sám hối trước Như Lai và đại chúng, là một điều rất tốt. Như Lai hoan hỷ chứng minh cho hai thầy được phục hồi giới thể thanh tịnh.

Này các vị khất sĩ, việc không hay vừa xảy ra cũng là một kinh nghiệm quý báu cho toàn thể quý vị, từ nay về sau các thầy nên cố tránh đừng để xảy ra một chuyện đáng tiếc như thế nữa.

Ai nấy đều thở phào, nhẹ nhỏm, nhất là các vị khất sĩ từ Kosambi đến, trong số đó có nhiều thầy chưa bao giờ dính líu đến cuộc tranh chấp. Tuy vậy, phải cần một thời gian nữa thì vết thương mới có thể lành hẳn.

Thất Diệt Tránh Pháp (Saptadhikarana-samatha)[3]

Theo đề nghị của đại đức Mahakassapa, một cuộc hội họp được tổ chức tại giảng đường Jetavana. Mục đích của buổi họp là để rút tỉa kinh nghiệm và đề ra những nguyên tắc ngăn ngừa những cuộc tranh chấp có thể xảy ra trong giáo đoàn. Ðại đức Mahakassapa làm chủ tọa buổi họp.

Mở đầu buổi họp, đại đức Mahakassapa yêu cầu thầy Anuruddha trùng tuyên pháp chế Lục Hòa mà đức Thế Tôn đã dạy tại công viên Ðông Trúc. Ðó là sáu nguyên tắc sống chung hòa hợp của giới khất sĩ. Ðại đức Moggallana rất vui mừng sau khi được nghe pháp chế này. Thầy đề nghị:

- Sáu nguyên tắc sống chung hòa hợp này cần được học thuộc lòng để đem phổ biến tới các trung tâm tu học khác.

Sau một thời gian dài thảo luận, các thầy đã thiết lập được bảy phương pháp để dập tắt các cuộc tranh chấp, gọi là Thất Diệt Tránh Pháp (Saptadhikarana-samatha), như sau:

1- Hiện Tiền Tỳ Ni (sammukha-vinaya): Tất cả những phát biểu về cuộc tranh chấp phải được nói ra trước đại chúng, với sự có mặt của hai bên tranh chấp.

2- Ức Niệm Tỳ Ni (sati-vinaya): Trong buổi họp mặt có sự hiện diện của cả hai bên tranh chấp, các đương sự phải hồi tưởng lại những gì đã thực sự xảy ra và tuần tự trình bày tất cả những điều đó theo trí nhớ của mình, với tất cả những chi tiết, và nếu có thể thì đưa ra những bằng chứng xác thực. Ðại chúng phải im lặng nghe cả hai bên để có đủ dữ kiện nhận xét một cách đúng đắn và vô tư.

3- Bất Si Tỳ Ni (amudha-vinaya): Hai bên đương sự phải có thiện chí hòa giải, không nên có thái độ ngoan cố. Trường hợp có đương sự nêu lên lý do là vì mình ngu dốt không biết hoặc vì vô tình phạm vào quy luật thì đại chúng phải nương vào đó mà luận án cho hai bên đều được đẹp lòng.

4- Tự Ngôn Tỳ Ni (tatsvabhaisya-vinaya): Hai bên đương sự nên có thiện chí tự nhận lỗi mình để cuộc hòa giải được thực hiện dễ dàng.

5- Ða Ngử Tỳ Ni (pratijnakaraka-vinaya): Sau khi đã nghe hết tất cả lời tường thuật và chứng kiến thiện chí của hai bên, đại chúng sẽ biểu quyết bằng đa số.

6- Tội Xứ Sở Tỳ Ni (yadbhuyasikiya-vinaya): Án lệnh tối hậu về tội tướng và cách thức hối cải được đưa ra để đại chúng quyết định bằng phương pháp bạch tứ yết ma (jnapticaturbin-karmavacana), nghĩa là đọc lớn bản án lên và đọc ba lần.

Nếu sau ba lần đọc mà tất cả đều im lặng, không ai lên tiếng phản đối thì bản án lệnh có hiệu lực. Dĩ nhiên là các đương sự không có quyền phản đối, vì từ đầu đã phát nguyện tin tưởng vào phán quyết của đại chúng.

7- Thảo Phú Ðịa Tỳ Ni (tranastaraka-vinaya): Trong buổi họp mặt hòa giải, hai vị trưởng lão đức độ được chỉ định để bảo trợ cho hai bên tranh chấp. Các vị này thường được đại chúng tôn kính và nghe lời. Các ngài thường ngồi chăm chú lắng nghe, rất ít nói, nhưng mỗi khi nói là có ảnh hưởng rất lớn.

Tiếng nói của các vị trưởng lão này nhằm hàn gắn những vết thương, kêu gọi thiện chí hòa giải và tha thứ, cũng như phủ rơm cỏ lên mặt đất sình lầy để mọi người bước lên khỏi bị lấm chân.

Bảy phương pháp dập tắt tranh chấp được các vị đệ tử lớn đem trình lên Phật. Ðức Phật đã hoan hỷ chấp thuận, tỏ lời khen ngợi các thầy và đồng ý đưa Thất Diệt Tránh Pháp vào giới luật.
Phật ở lại tinh xá Jetavana trong sáu tháng, sau đó ngài về Rajagriha.

Phật độ bà Janapada-Kalyani[4]

Công chúa Janapada-Kalyani là một phụ nữ rất đẹp và rất tự hào về sắc đẹp của mình. Nhưng vừa mới đám cưới xong thì chồng là thái tử Nanda đi xuất gia. Các công chúa khác mệnh danh cho bà là Rupa-Nanda (Người đẹp Nanda).

Bà rất buồn khổ, nhưng cuối cùng thấy rằng đức Phật và Nanda đều bỏ ngai vàng đi xuất gia, rồi đến Rahula, Hoàng hậu Maha Pajapati và 500 công nương dòng Sakya và Koliya cũng đã xuất gia, bà cũng xin xuất gia theo Giáo Ðoàn Tỳ Kheo Ni.

Sau khi xuất gia, bà nghe Phật giảng sắc đẹp là vô thường, là vô ngã, là nguồn gốc của đau khổ cũng như 4 uẩn (ấm) khác là thọ, tưởng, hành và thức.
Bà không đồng ý. Bà thầm nghĩ Sắc đẹp của ta ai cũng nhìn ngắm, trầm trồ, khen ngợi mà bảo là nguồn gốc của đau khổ thì không hợp lý chút nào!Ể Hơn nữa bà vẫn thầm trách Phật đã bắt người chồng mới cưới của bà là Nanda xuất gia, do đó bà luôn luôn tránh, không muốn gặp mặt Phật.

Một hôm các nữ khất sĩ trong nhóm của bà đều mong đến Jetavana nghe Phật thuyết pháp. Bà buộc lòng phải đi theo nhưng ngồi lẫn ở phía sau cho Phật không thấy.
Ðức Phật muốn độ bà Janapada-Kalyani nên trong lúc thuyết pháp dùng thần thông cho bà thấy một thiên nữ tuyệt đẹp lối 16 tuổi ăn mặc và trang sức lộng lẫy, đẹp hơn bà rất nhiều, sắc đẹp của thiên nữ từ từ biến đổi từ 16 tuổi đến 30 tuổi, 40 tuổi, 50 tuổi, 60 tuổi, rồi lần lần đến da nhăn, má hóp, răng tóc lưa thưa, lưng còng, tay chân rung rẩy, bệnh hoạn, rên siết, chết cứng, thân thể thúi rửa ...

Bà Rupa-Nanda nhìn thấy từng giai đoạn già nua của người thiên nữ liền nghĩ đến thân mình rồi đây cũng thế. Bà cảm thấy chán chê, ghê tởm thân mình, không còn hảnh diện về sắc đẹp của nó nữa. Bỗng nghe Phật nói kệ:

Này Rupa-Nanda,
Thân do xương thịt máu,
Bệnh hoạn và hôi thúi,
Có gì gọi là đẹp?
Có gì đáng ngợi khen?
Biết thân này vô thường
Biết thân này không sạch
Bỏ đi không luyến tiếc
Sống cuộc đời an lành.

Nghe xong, bà Janapada-Kalyani liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Ngưng một lát, đức Phật nói tiếp:

Này Rupa-Nanda,
Thân này không thật có,
Là thành phố dựng lên
Bằng thịt, gân, máu, mủ,
Và ba trăm miếng xương,
Chứa già nua bệnh tật.
Kiêu hãnh và thất vọng. (Kinh Pháp Cú, bài 150)
Nghe xong, bà Janapada-Kalyani đắc quả A-la-hán.
=
Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11370
Registration date : 08/08/2009

Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chuyện Cổ Tích PG   Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 I_icon13Thu 12 Aug 2010, 17:48


6- Hạ thứ 11 tại Ekanala, gần Rajagriha (năm -579)

Chú bé chăn trâu Svastica xuất gia[5]

Trước khi về Rajagriha, Phật ghé làng Uruvela để thăm cây Bồ-đề, nơi ngài thành đạo. Rồi Phật đến thăm Svastika, chú bé chăn trâu xưa kia đã thường đến thăm viếng và giúp đỡ ngài sau khi năm anh em ông Kondanna bỏ đi. Svastika bây giờ đã được 20 tuổi, trở thành một thanh niên vạm vỡ. Nhớ lời hứa năm xưa, Phật trở lại đây để độ chú, cho chú xuất gia, làm quen với Rahula, rồi Phật đưa chú đến Venuvana.

Bước chân vào tinh xá Venuvana, Svastika thấy cái gì cũng lạ, cũng đẹp, cũng xinh. Chú được Rahula dắt đi giới thiệu với các vị khất sĩ. Mặc dù chú lớn hơn Rahula đến ba tuổi, chú tự thấy cần phải học hỏi với Rahula rất nhiều, từ cách đi đứng ăn nói cho đến giáo lý, thiền tọa, thiền hành, cái gì cũng hay, cũng mới lạ.

Một hôm chú được ngồi nghe hai thầy Assaji và Ananda kể công trình hành đạo của Phật trong mười năm qua. Chú nghe một cách say mê. Cùng ngồi với chú có cả ni sư Gotami và Rahula. Thầy Ananda có trí nhớ lạ thường. Thầy đã nhắc rất nhiều chuyện mà thầy Assaji quên không nói tới.

Svastika rất cảm phục hai thầy Assaji và Ananda, và rất thương mến ni sư Gotami và Rahula. Nếu không có bốn vị này làm sao chú được dịp nghe kể từng ấy chuyện đã qua về Phật. Chú hy vọng từ nay về sau chú sẽ được thân cận Phật để được học hỏi trực tiếp với người từ giáo lý đến cách ăn ở và cách đối xử với người khác.

Tuy xuất thân là một chú bé chăn trâu, Svastika cũng có đôi chút học thức và chữ nghĩa. Ðó là công trình của chị Sujata[6], con gái ông xã trưởng Senani trong làng Uruvela. Sujata đã dạy cho Svastika đọc và viết từ năm chú mới được chín tuổi. Mấy năm gần đây chú không được học với chị nữa vì chú đã lớn và chị phải đi lấy chồng ở làng Nadika, phía nam thành phố Vesali.

Mặc dù Rahula mới được mười bảy tuổi, chưa được thọ giới tỳ-kheo, nhưng chú rất rành về bốn mươi lăm uy nghi và tế hạnh của một vị tỳ-kheo. Svastika rất sung sướng được có Rahula ở bên cạnh chỉ bảo và nhắc nhở cho chú. Có điều gì còn chưa hiểu rõ thì chú mới hỏi lại thầy Sariputta, thầy Assaji hoặc thầy Ananda. Rahula nói với Svastika:

- Giới luật của sa-di (samanera) chỉ có mười điều là không sát sinh, không trộm cướp, không dâm dục, không nói dối, không uống rượu, không trang điểm hoặc xức nước hoa, không nằm hoặc ngồi trên giường ghế cao sang rộng lớn, không ca vũ, không sử dụng tiền bạc, không ăn sau giờ ngọ.
Giới luật của tỳ-kheo (bhikkhu) còn gọi là cụ-túc-giới[7] hiện có tới 120 giới trong đó có 45 điều về uy nghi và tế hạnh, nhưng có lẽ còn tăng lên nữa.

Bốn giới đầu gọi là trọng giới (Parajika, Ba-la-di), vị khất sĩ nào phạm vào thì không còn là một tỳ-kheo nữa, cũng như khi một cây cau bị chặt ngọn thì không còn mọc lên lại được. Bốn trọng giới là: không dâm dục, không trộm cướp, không sát hại, không tuyên bố là mình có thực chứng đạo quả khi mình chưa thực chứng đạo quả.

Giới luật có từ lúc nào?

Rahula kể cho Svastika nghe là trong những năm đầu chưa có giới luật gì hết mà trong giáo đoàn khất sĩ vẫn không có điều gì đáng tiếc xảy ra. Lễ xuất gia thật đơn giản, chỉ cần quỳ dưới chân Phật hoặc dưới chân một vị khất sĩ, đọc lên ba câu quy y Phật Pháp Tăng là đã chính thức thành người xuất gia.

Bây giờ muốn xuất gia thì phải phát nguyện tiếp nhận và hành trì giới luật. Số người xuất gia đã trở nên đông đảo nên có những thành phần thiếu tự giác, do đó giới luật mới được đặt ra để nhắc nhở và giữ gìn cho giới xuất gia được thân tâm thanh tịnh.

Cách nay chừng năm năm, ở làng Kalanda gần thành phố Vesali, có ông Sudina, con nhà khá giả, đã lập gia đình nhưng chưa có con. Một hôm, được nghe Phật thuyết pháp tại Mahavana, Sudina xin xuất gia theo Phật. Ít lâu sau, nhân dịp thầy đi ngang qua làng Kalanda, gia đình thỉnh thầy về nhà thọ trai.

Sau khi thọ trai, cha mẹ thầy khuyên thầy hoàn tục để chăm sóc tài sản gia đình. Thầy không bằng lòng. Cha mẹ thầy than phiền rằng thầy là con một mà đi tu thì trong gia đình không còn ai nối dõi, và sản nghiệp sẽ lọt vào tay người khác. Cuối cùng mẹ thầy đề nghị nếu thầy cương quyết không hoàn tục thì ít nhất thầy cũng phải để lại một đứa con.

Nể lời cha mẹ, thầy đồng ý. Sau đó , người vợ cũ của thầy có thai, sinh được một đứa con trai, được ông bà nội đặt tên là Bijaka, có nghĩa là hạt giống. Biết được chuyện này, các bạn của Sudina gọi đùa thầy là "cha của hạt giống". Bắt đầu có sự gièm pha trong quần chúng. Thầy Sudina bị Phật khiển trách, và giới luật bắt đầu được chế ra từ đó.

Mỗi khi có vị khất sĩ nào làm một việc gì trái với tinh thần của đạo lý giác ngộ và giải thoát thì giáo đoàn lại được triệu tập, và một điều luật mới được ghi vào giới bổn gọi là Patimokkha (Pratimoksa, Ba-la-đề-mộc-xoa).

Phật giảng kinh Chăn Trâu[8]

Hôm nay trời mát, sau bữa ngọ trai, các vị khất sĩ lặng lẽ đi rửa bát của mình, rồi trải tọa cụ ngoài trời ngồi quây quần xung quanh Phật. Tinh xá Venuvana có rất nhiều sóc. Chúng quanh quẩn bên các thầy, không có vẻ gì sợ sệt. Nhiều con sóc leo lên các thân tre, đưa mắt nhìn xuống.
Thấy Rahula ngồi ngay trước mặt Phật, Svastika cũng rón rén đến trải tọa cụ bên cạnh Rahula và nghiêm chỉnh ngồi xuống. Không khí thật trang nghiêm. Không ai nói với ai lời nào, nhưng Svastika biết rằng ai cũng đang theo dõi hơi thở trong khi chờ đợi Phật mở lời chỉ dạy.

Phật ngồi trên một chiếc chõng tre, cao hơn mọi người chừng vài gang tay. Ngài ngồi ung dung và uy nghiêm như một con sư tử chúa ngồi trong bầy sư tử. Ngài đưa mắt nhìn đại chúng một cách hiền hòa, nhìn Svastika và Rahula, rồi ngài lên tiếng:

- Hôm nay Như Lai sẽ nói với quý thầy về đề tài chăn trâu, và thế nào là một em bé chăn trâu giỏi. Quý thầy hãy lắng nghe. Một em bé chăn trâu giỏi là một em bé biết nhận dạng từng con trâu của mình một cách dễ dàng.

Biết hình dáng của mỗi con, biết cách cọ xát tắm rửa cho trâu, biết chăm sóc những vết thương của trâu, biết đốt khói un muỗi cho trâu, biết tìm đường đi an toàn cho trâu, biết thương yêu trâu, biết chọn nơi an toàn cho trâu lội qua sông, biết chỗ có cỏ non và nước sạch cho trâu ăn uống, biết bảo trì những vùng thả trâu, và biết để cho những con trâu lớn làm gương cho những con trâu nhỏ.

Này các thầy, một vị khất sĩ giỏi cũng phải làm như thế.
Nếu em bé chăn trâu biết nhận ra được trâu của mình thì người xuất gia cũng phải biết nhận ra 32 thành phần cấu tạo nên sắc thân của mình[9].

Nếu em bé chăn trâu biết hình tướng của mỗi con trâu thì người xuất gia cũng phải biết những hành động nào của thân, miệng và ý là những hành động đáng làm hay không đáng làm.

Nếu em bé chăn trâu biết cách tắm rửa sạch sẽ cho trâu thì người xuất gia cũng phải biết cách buông xả và gột rửa khỏi thân tâm những tham dục, si mê và hờn oán.

Trong khi Phật nói những lời trên, Svastika có cảm tưởng rằng chú là nguồn cảm hứng của Phật trong bài pháp hôm nay. Chú nhớ lại cách nay hơn mười năm, chú đã được ngồi bên Phật hằng giờ, và Phật đã từng hỏi chú một cách tỉ-mỉ về công việc chăn trâu và cắt cỏ. Vốn là một vị hoàng thái tử xuất thân, làm sao Phật có thể biết rõ như thế về nghề chăn trâu nếu chú không kể hết những chuyện đó cho ngài nghe? Phật chẫm rãi nói tiếp:

- Nếu em bé chăn trâu biết săn sóc các vết thương cho trâu thì người xuất gia cũng phải biết gìn giữ sáu căn của mình là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cho được thanh tịnh không bị sáu trần làm ô-uế.
Nếu em bé chăn trâu biết un muỗi cho trâu thì người xuất gia cũng phải biết đem đạo lý giải thoát giảng dạy cho người chung quanh để họ tránh khỏi những đau khổ về thể xác và tinh thần.
Nếu em bé chăn trâu biết tìm đường đi an toàn cho trâu thì người xuất gia cũng phải biết chỉ cho người khác con đường Bát Chánh Ðạo nên đi và những con đường danh lợi, sắc dục, hý trường ... nên tránh.
Nếu em bé chăn trâu biết thương yêu trâu thì người xuất gia cũng phải biết thực hành từ bi và lục độ[10].

Nếu em bé chăn trâu biết chọn nơi an toàn cho trâu lội qua sông thì người xuất gia cũng phải biết dùng Tứ Diệu Ðế để đưa chúng sanh từ bờ mê sang bờ giác.

Nếu em bé chăn trâu biết tìm chỗ có cỏ non nước sạch cho trâu ăn uống thì người xuất gia cũng phải biết chỉ cho người khác cách thực hành Tứ Niệm Xứ để làm nhân giải thoát.

Nếu em bé chăn trâu biết bảo trì những vùng thả trâu thì người xuất gia cũng phải biết cẩn thận, dè dặt trong việc tiếp xúc với quần chúng và thu nhận của cúng dường.

Nếu em bé chăn trâu biết dùng những con trâu lớn làm gương cho những con trâu nhỏ thì người xuất gia cũng phải biết nương tựa vào đức hạnh và kinh nghiệm của các bậc thầy đi trước.
Này các thầy, một vị khất sĩ biết thực hành đúng theo những điều vừa chỉ dẫn ở trên có thể đạt đến quả vị A-la-hán trong vòng sáu năm tu học.

Vị khất sĩ trẻ tuổi Svastika lấy làm kỳ lạ. Những điều chú nói với Phật cách đây trên mười năm, Phật còn nhớ hết, và còn đem áp dụng vào việc tu học của người khất sĩ nữa. Tuy Phật đang giảng giáo lý chung cho đại chúng, Svastika có cảm tưởng là Phật đang dạy riêng cho mình nên chú chăm chỉ nghe và nhớ rành rọt từng lời của Phật. Có những danh từ chuyên môn như "sáu căn", "sáu trần", "tứ diệu đế", "tứ niệm xứ", Svastika chưa hiểu được tường tận, chú tự bảo sẽ nhờ Rahula giảng giải cho.

Chiều lại, Svastika hỏi Rahula về những danh từ chuyên môn trong bài pháp thoại của Phật hồi trưa, rồi nhân tiện chú hỏi thêm:

- Này Rahula, ngồi thiền phải ngồi như thế nào? và trong lúc ngồi thiền phải dụng tâm như thế nào?
Rahula chỉ cho Svastika cách sử dụng tọa-cụ[11](nisadana) và bồ-đoàn[12](asana), cách ngồi bán già và kiết già. Rồi chú nói tiếp:
- Về cách dụng tâm trong lúc ngồi thiền thì có sáu phương pháp chánh gọi là Lục Diệu Pháp Môn: 1- Sổ tức, 2- Tùy tức, 3- Chỉ, 4- Quán, 5- Hoàn, 6- Tịnh.

Sổ tức (Anapana-sati) là dụng tâm điều khiển hơi thở theo ý muốn của mình, lúc đầu thô, lúc sau tế. Thô là hít vào bằng mũi mạnh và dài rồi ngưng. Trong lúc ngưng thở, đếm từ một đến 10, 20 hoặc 30, rồi thở ra bằng miệng mạnh và dài.

Làm như thế đến 10 hoặc 20 lần. Tế là hít vào bằng mũi nhẹ và dài không nghe tiếng, ngưng một lát, rồi thở ra bằng miệng nhẹ và dài không nghe tiếng, đếm 1. Lần thứ nhì đếm 2, vân vân đến 30 hay 50 mươi lần. Pháp sổ tức nhằm thanh lọc không khí trong thân và làm cho thế ngồi được cân bằng, vững chãi; ngoài ra còn thanh lọc các buồn phiền lo nghĩ trong tâm.

Tùy tức cũng thuộc sổ tức nhưng chỉ dụng tâm theo dõi hơi thở tự do ra vào nhẹ nhàng bằng mũi tùy theo nhu cầu của cơ thể, miệng ngậm lại, đầu lưỡi cong lên vòm hàm trên để hơi ra vào bằng mũi được dễ dàng. Biết rõ hơi thở lúc ra, lúc vào, lúc ngưng. Nếu có chảy nước bọt trong miệng cứ nuốt vào bụng rất tốt vì rất bổ dưỡng. Pháp tùy tức làm cho thân tâm được nhẹ nhàng thư thới.

Trong lúc thực hành sổ tức hoặc tùy tức, có thể quán sát xem động cơ nào đã làm phát sanh hơi thở. Ðộng cơ đó ở chỗ nào, hình tướng nó ra sao.

Chỉ (Samatha) là dứt trừ phiền-não và vọng-tưởng bằng cách tập trung tư tưởng vào một nơi trên cơ thể, như là đỉnh đầu, tam tinh, chóp mũi, tim, rốn, lòng bàn tay, trong khi vẫn để hơi thở ra vào tự do như khi thực hành tùy tức.

ong khi thực hành Chỉ, nếu có vọng tưởng hay phiền não xen vào mà ta không thể dứt trừ được thì chuyển sang Quán đối tượng của vọng tưởng hay phiền não đó. Ví dụ như vọng tưởng là sự nghĩ tưởng về cái nhà, tức là đối tượng của vọng tưởng là cái nhà, thì ta nên quán cái nhà là sinh diệt, vô thường, không có tự tánh, lại hay làm nảy sanh phiền não, vậy ta không nên nghĩ đến cái nhà nữa.

Quán (Vipassana) là quán-sát tất cả các pháp đều vô thường, sinh, trụ, dị, diệt, vướng mắc vào đó dễ bị phiền não và đau khổ. Hoặc tìm hiểu về giáo lý như Tứ Diệu Ðế[13] là gì. Hoặc thực hành phép quán Tứ Niệm Xứ[14]. Hoặc thực hành Ngũ Ðình Tâm Quán[15].

Hoặc thực hành Cửu Tưởng Quán[16]... Mục tiêu của Quán là để nhận chân được ba cánh cửa giải thoát: vô thường, vô ngã và niết-bàn. Vô thường là tất cả sự vật đều sanh diệt, biến chuyển luôn. Vô ngã là tất cả sự vật đều không có tự tánh chân thật. Niết-bàn là mục đích của sự tu tập dứt trừ phiền não và vọng tưởng để tiến tới an lạc, thanh tịnh, giải thoát.

Sau khi Quán liền chuyển sang Hoàn để nhận xét tâm mình xem đã dứt trừ được vọng tưởng hay phiền não đó chưa. Ví dụ như sau khi quán cái nhà liền trở lại (Hoàn) nhận xét xem đã dứt trừ được vọng tưởng về cái nhà trong tâm mình chưa. Nếu chưa thì tiếp tục Quán cái nhà; nếu đã dứt trừ được rồi thì chuyển sang Tịnh.

Hoàn là quán sát tâm mình xem hiện đang còn vọng tưởng hay phiền não nào không. Nếu thấy còn thì tiếp tục Quán để trừ; nếu thấy hết vọng tưởng, phiền não rồi thì chuyển sang Tịnh.
Tịnh là Hỉ và Xả, không Chỉ không Quán, giữ tâm an lạc thanh tịnh, không nghĩ tưởng, trong khi vẫn thở theo tùy tức. Nhờ không nghĩ tưởng nên không sanh phiền não. Lúc đầu chưa quen thì nên trì chú để giữ tâm thanh tịnh.

Này Svastika, pháp môn Thiền (jhana, dhyana) là phương pháp giữ tâm không cho chạy theo hoặc vướng mắc vào sáu trần[17]. Thiền gồm có Chỉ và Quán. Tu Chỉ (Samatha) để được Ðịnh (Samadhi). Tu Quán (Vipassana) để được Huệ (Panna, Prajna). Ngoài ra còn phải trì Giới (Sila) để được sạch Nghiệp (Kamma, karma).

inh tấn thực hành, là cốt tủy của Chánh pháp vậy. Người thực hành Thiền, tùy theo trình độ sẽ tiến từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền đến tứ thiền. Cao hơn nữa là không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nhưng phải đến diệt thọ tưởng định (nirodha-samapatti) mới thực sự được giải thoát, không còn pháp chấp và ngã chấp.

Svastika bỗng thở ra, nghĩ đến con đường tu học của mình còn quá dài. Rahula hiểu ý, liền nói:
- Sư huynh đừng vội thối chí. Coi vậy chứ nếu biết thực hành đúng phương pháp thì cũng mau có kết quả lắm. Sư huynh không nhớ sao? Hồi trưa đức Thế Tôn nói vị khất sĩ nào tu đúng như một em bé chăn trâu giỏi thì chỉ cần sáu năm là có thể đắc quả A-la-hán.

Svastika nắm chặt bàn tay của Rahula trong hai tay mình. Chú gật đầu, nói:
- Tôi sẽ cố gắng, tôi sẽ cố gắng. Tôi rất may mắn có sư huynh bên cạnh để nhắc nhở và chỉ bảo cho tôi.

Phật dạy sa-di Rahula trì giới[18]

Rahula kể cho Svastika nghe là Phật dạy chú rất nghiêm, dù chú biết Phật thương chú lắm. Hồi chú 11 tuổi, lúc chú ở lâm viên Ambalatthika (Ôn-tuyền), có vài lần chú đã đùa chơi bằng cách nói gạt những người đến tìm Phật: Nhằm lúc Phật đang ở Venuvana thì chú nói Phật ở Griddhakuta, nhằm lúc Phật đang ở Griddhakuta thì chú nói Phật ở Venuvana để những người đó phải mất công đi tới đi lui.

Hay được chuyện này Phật từ tinh xá Venuvana đến lâm viên Ambalatthika tìm Rahula. Thấy Phật tới, Rahula bắc ghế cho Phật ngồi, rồi lấy thau đi múc nước cho Phật rửa chân. Rửa chân xong, Phật đổ nước đi nhưng còn giữ lại một ít nước trong thau. Phật nhìn Rahula hỏi:

- Này Rahula, nước trong thau còn nhiều hay ít?
- Bạch Thế Tôn, nước trong thau còn rất ít.
- Rahula, con nên biết người nói dối thì căn lành không còn lại bao nhiêu, ít như nước trong thau này.

Phật lại đổ hết nước trong thau đi và hỏi: - Này Rahula, con có thấy ta đổ hết nước trong thau đi rồi không?
- Dạ, con có thấy.
- Ðối với những người tiếp tục nói dối thì thiện căn sẽ mất hết như cái thau không còn nước này.
Phật lật úp thau lại rồi hỏi: - Rahula, con có thấy cái thau bị úp lại không?

- Bạch Thế Tôn, con có thấy.

- Nếu ta không tu tập chánh ngữ, nhân cách ta cũng sẽ bị đảo lộn như cái thau này. Này Rahula, con nên cẩn thận giữ gìn lời nói, không nên nói dối dù là để đùa chơi. Con có biết cái gương dùng để làm gì không?

- Dạ, cái gương dùng để soi mặt mình.
- Này Rahula, con cũng phải quán sát hành động, tư tưởng, lời nói của con như người soi gương vậy.

Cứ mỗi tháng hai lần, vào ngày trăng tròn và ngày trăng mới, tất cả các vị khất sĩ phải tập họp để bố tát (tụng giới). Các giới điều đều được tuyên đọc, và đại chúng được hỏi có vị nào phạm giới ấy hay không. Nếu đại chúng giữ im lặng tức là không có ai vi phạm.

Nếu có người phạm thì vị ấy đứng dậy tự nói lỗi mình ra (phát lộ) để sám hối. Trừ những lỗi parajika (ba-la-di, trọng giới) mà người phạm vào thì tự động bị khai trừ, những lỗi khác đều có thể sám hối được.
Nghe Rahula kể, Svastika ý thức được tầm quan trọng của việc trì giới đối với một khất sĩ.

Ði tu cũng là lao động và sản xuất[19]

Phật nhập hạ thứ 11 tại đồi Ekanala, thuộc làng Dakkhinagiri, phía nam thành Rajagriha. Dưới đây là bài kinh Kasi-Bharadvaja sutta:

Một thời, đức Phật ngụ tại đồi Ekanala, trong làng Dakkhinagiri, một làng theo Bà-la-môn giáo của xứ Magadha. Lúc ấy 500 tay cày làm việc cho ông Bà-la-môn Kasi Bharadvaja sắp sửa ra đồng. Ðức Phật đắp y mang bát đến nơi người ta đang phân phối thức ăn và đứng sang một bên. Vị Bà-la-môn Kasi Bharadvaja thấy vậy nói:

- Này tôn giả, tôi cày bừa và gieo mạ, nhờ đó tôi mới có ăn. Ông cũng vậy, này tôn giả, ông cũng nên cày bừa và gieo mạ để có ăn.

- Này ông Bà-la-môn, Như Lai cũng cày bừa và gieo mạ vậy. Ðã cày bừa và gieo mạ xong rồi, bây giờ Như Lai mới ăn.

- Nhưng nào tôi có thấy cây cày, cái ách, lưỡi cày của tôn giả đâu? Tôi cũng không thấy con bò hay cây roi của tôn giả Gotama đâu cả. Tôn giả tự xưng là nông dân, nhưng chúng tôi có thấy những lằn cày của tôn giả đâu. Vậy xin tôn giả cho chúng tôi biết tôn giả cày ở đâu?

- Ðức tin (saddha) là hột giống, kỷ luật (tapo) là mưa, trí huệ (panna, prajna) là cái ách và cây cày, khiêm tốn (hiri) là cán cày, tâm (mano) là dây cương, và niệm (sati) là lưỡi cày và cây roi.

Như Lai sống với sáu căn thu thúc, hành động và lời nói chính đáng, ăn uống độ lượng. Như Lai đã dùng sự chân thật để cắt những cọng cỏ dại. Thành đạt đạo quả tối thượng là mở dây thả bò (giải thoát).

Tinh tấn (viriya) là loài thú chở nặng đã đưa Như Lai đến trạng thái an tịnh (Niết-bàn). Không còn phiền não, trực chỉ, thẳng tiến, không bao giờ quay trở lại nữa. Ðó, lằn cày của Như Lai đã thực hiện như thế đó. Kết quả của nó là trạng thái bất sanh bất diệt. Ðã kéo xong lằn cày này thì không còn phiền muộn âu sầu nữa.

Nghe xong, vị Bà-la-môn Kasi-Bharadvaja bới đầy một chén cơm trộn sữa dâng lên đức Phật và nói:

- Cầu xin tôn giả Gotama độ chén cơm trộn sữa này. Tôn giả quả thật là một nông dân vì ngài đã trồng một loại cây trổ trái "vô sanh bất tử".
- Vật thực nhận lãnh do sự giảng đạo không thích đáng cho Như Lai dùng. Này ông Bà-la-môn, đó là thông lệ của bậc Ðại Giác. Ðấng Chánh Biến Tri không thể dùng vật thực ấy. Nếu ông muốn cúng dường, xin để đến một hôm khác.
Vị điền chủ rất cảm phục, sụp xuống lạy Phật và xin quy y tam bảo.Ể

Phật dạy Rahula giữ chánh niệm trong lúc đi khất thực[20]

Sau mùa an cư thứ 11, Phật lại đi hoằng hóa về hướng tây bắc. Cuối mùa thu năm ấy Phật tới Sravasti. Ðây là lần đầu tiên thầy Svastika đến tinh xá Jetavana. Thầy thấy tinh xá rất đẹp và đầy đủ tiện nghi cho sự tu học. Khung cảnh đã tươi mát mà khí hậu lại đầm ấm. Thấy Svastika, thầy nào cũng chào hỏi vui vẻ vì biết rằng thầy là nguyên nhân Phật nói kinh Chăn Trâu tại Venuvana.

Một buổi sáng, trong khi ôm bát đi khất thực sau lưng Phật, Rahula đánh mất chánh niệm (samma-sati). Tuy vẫn bước đi theo mọi người, tâm chú đang nghĩ vớ vẩn đến chuyện khác.

Chú tự hỏi nếu ngày xưa Phật không đi tu thì không biết bây giờ Phật đang làm gì và mình đang làm gì. Chú đã nghe kể lại là khi Phật mới sanh, có các nhà tiên tri đoán rằng nếu Phật không đi tu thì sẽ trở nên một vị chuyển luân thánh vương, tức một vị đại đế có quyền hành rộng lớn trên nhiều vương quốc.

Không biết đời sống của một vị chuyển luân thánh vương ra sao? Và nếu Phật làm chuyển luân thánh vương thì chú đang làm gì? Nhìn đức Phật đang đi phía trước, chú lại nghĩ thân hình của đức Thế Tôn, cha ta, thật uy nghiêm đẹp đẽ, thân hình của ta cũng đẹp đẽ không kém.
Vì đang nghĩ vơ vẩn nên bước chân, hơi thở và dáng đi của chú không còn an trú trong uy nghi nữa. Lạ quá, Phật đi phía trước mà ngài cảm thấy được điều đó. Phật biết là chú mất chánh niệm. Ngài dừng bước, quay trở lại. Tất cả các vị khất sĩ cũng dừng bước. Phật bảo Rahula:
- Này Rahula, con có theo dõi hơi thở và duy trì chánh niệm không?

Rahula cuối đầu, im lặng. Phật dạy:
- Muốn an trú trong chánh niệm thì phải duy trì hơi thở có ý thức. Trong khi đi khất thực, ta phải thực tập thiền quán. Ta có thể quán sát về tính cách vô thường, vô ngã của những yếu tố tạo nên muôn loài chúng sanh là sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

Bất luận hình dáng đẹp đẽ hay xấu xa, hay thế nào đi nữa, con cũng phải quán sát như vầy: "Cái này không phải của ta (N'etam mama); cái này không phải là ta (N'eso' ham' asmi); cái này không phải là linh hồn của ta (Na me so atta)[21]". Nếu ta duy trì hơi thở có ý thức thì ta mới thực hành thiền quán có kết quả và không bị mất chánh niệm.

Nói xong, Phật quay lại và tiếp tục đi. Ðược sách tấn, tất cả mọi người đều chú ý vào hơi thở để duy trì chánh niệm. Nhưng một lúc sau, Rahula tách ra khỏi hàng ngũ các vị khất sĩ, đến ngồi dưới một gốc cây trong cụm rừng bên đường. Thấy thế, Svastika cũng rời hàng ngũ và đi theo Rahula. Thấy Svastika tới gần, Rahula nói:

- Sư huynh cứ đi khất thực với các thầy đi. Tôi không còn lòng dạ nào mà đi khất thực nữa. Tôi vừa bị Phật quở (rầy) trước đại chúng là đánh mất chánh niệm. Tôi phải dành cả ngày hôm nay để thực tập thiền quán. Tôi xấu hổ lắm.

Biết không làm gì hơn được, Svastika từ giã Rahula, trở lại nhập đoàn với các vị khất sĩ. Trên đường về, đại đức Sariputta đã cùng Svastika ghé lại cụm rừng để đón Rahula về tinh xá. Svastika chia xẻ phần ăn của mình xin được vào bát của Rahula. Sau giờ thọ trai, thầy Sariputta bảo Rahula đến gặp Phật. Svastika xin được đi theo.

Phật dạy Rahula tu hạnh của tứ đại[22]

Biết tâm ý của Rahula đã thuần thục, có thể tiếp nhận giáo lý giải thoát, Phật dạy Rahula tu theo hạnh của tứ đại:

- Này Rahula, con hãy học theo hạnh của đất. Dù người ta đổ và rải lên đất những thứ tinh sạch và đẹp đẽ như hoa, nước thơm và sữa thơm, hoặc người ta đổ lên đất những thứ dơ bẩn hôi hám như phân, nước tiểu hay máu mủ, hoặc người ta khạc nhổ xuống đất thì đất cũng tiếp nhận tất cả những thứ ấy một cách thản nhiên, không vui vẻ mừng rỡ mà cũng không chán ghét tủi nhục.

Cũng thế, khi những cảm thọ khoái lạc hoặc buồn khổ phát sinh, con đừng để cho chúng làm nhiễu loạn tâm con và chiếm cứ lòng con.
Này Rahula, con hãy học theo hạnh của nước. Khi người ta giặt rửa những thứ dơ bẩn trong nước, nước cũng không vì thế mà cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và chán chường. Cũng thế, khi những cảm thọ khoái lạc hoặc buồn khổ phát sinh, con đừng để cho chúng làm nhiễu loạn tâm con và chiếm cứ lòng con.

Con lại nên học theo hạnh của lửa. Lửa đốt cháy mọi thứ, kể cả những thứ dơ bẩn, vậy mà lửa cũng không vì thế mà cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và chán chường. Cũng thế, khi những cảm thọ khoái lạc hoặc buồn khổ phát sinh, con đừng để cho chúng làm nhiễu loạn tâm con và chiếm cứ lòng con.

Con lại cũng nên học theo hạnh của không khí. Không khí có thể dung chứa và làm tan đi các thứ mùi mà vẫn không cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và chán chường. Cũng thế, khi những cảm thọ khoái lạc hoặc buồn khổ phát sinh, con đừng để cho chúng làm nhiễu loạn tâm con và chiếm cứ lòng con.

Phật dạy Rahula tu hạnh Từ Bi Hỷ Xả[23]

Rồi đức Phật nói tiếp:

- Này Rahula, con hãy tu tập lòng Từ để đối trị giận hờn. Lòng Từ là lòng thương yêu tất cả chúng sanh, lúc nào cũng nghĩ đến cách đem lại niềm vui cho kẻ khác, không đặt điều kiện, không mong đền đáp.

Con hãy tu tập lòng Bi để đối trị ý giết hại. Lòng Bi là lòng thương yêu tất cả chúng sanh, lúc nào cũng nghĩ đến cách làm vơi sự khổ đau nơi người khác, không đặt điều kiện, không mong đền đáp.

Con cũng nên tu tập lòng Hỷ để đối trị tánh đố kỵ, ganh ghét. Lòng Hỷ là lòng thương yêu tất cả chúng sanh, vui theo cái vui của người khác, vui khi thấy người khác thành công, hạnh phúc.

Và con cũng nên tu tập lòng Xả để đối trị tánh cố chấp, ích kỷ, kỳ thị. Lòng Xả là tâm không cố chấp phải/quấy, đúng/sai, mê/ngộ, hay/dỡ, tốt/xấu ... Lòng Xả là tâm không phân biệt ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Lòng Xả là tâm bình đẳng giữa muôn loài chúng sanh. Lòng Xả là tâm niệm thanh thoát cởi mở đưa ta đến an lạc, thanh tịnh và giải thoát.

Này Rahula, Từ, Bi, Hỷ, Xả là bốn tâm tư rộng lớn không bờ bến, và cũng đẹp đẽ không cùng. Ðó gọi là Tứ Vô Lượng Tâm. Tu tập theo phép này thì mình trở nên một nguồn suối mát đem lại sinh lực và niềm vui cho tất cả chúng sanh muôn loài.

Phật dạy Rahula quán vô thường[24]

Ðức Phật ngừng một lát, rồi ngài nói tiếp:

- Này Rahula, nếu con muốn vào cảnh giới bất sanh bất diệt thì con phải tập quán vô thường để trừ pháp chấp và ngã chấp. Con nên phân tách tỉ mỉ từng yếu tố cấu tạo nên thân ta[25], từng yếu tố cấu tạo nên tâm ta[26], từng yếu tố cấu tạo nên bất cứ một vật thể nào để nhận thấy rằng không có bất cứ yếu tố nào, dù nhỏ đến đâu, không có một vật thể nào, dù lớn đến đâu, có thể thoát khỏi các giai đoạn thành, trụ, hoại, không. Tất cả đều biến đổi không ngừng tùy theo nhân duyên trong mỗi thời. Tất cả đều vô thường.

Một khi con đã nhận thức được một cách sâu xa tánh cách vô thường của muôn sự, muôn vật ở thế gian, tâm con sẽ không còn ham muốn danh lợi tài sản thế gian, không còn đắm nhiễm các thú vui thế tục. Bấy giờ là lúc con bắt đầu bước chân lên con đường giải thoát đó con ạ.

Phật dạy Rahula quán hơi thở[27]

Ngưng một lát, đức Phật nói tiếp:

- Này Rahula, mỗi ngày con cũng phải siêng năng thực tập phép quán hơi thở để giữ chánh niệm, để thân tâm được an lạc. Mỗi khi thở vào ta biết là ta đang thở vào, mỗi khi thở ra ta biết là ta đang thở ra. Trong lúc chú tâm vào hơi thở như thế ta trừ được những tạp niệm, những suy nghĩ viễn vong loạn động. Tạp niệm dứt là tâm ta được an trú trong chánh niệm.

Ta biết ta đang thở, ta biết ta đang tỉnh thức, ta biết ta không bị tạp niệm[28] lôi cuốn, ta biết ta đang an trú trong chánh niệm. Trạng thái tỉnh thức đó chính là Phật tính sẵn có trong mọi người chúng ta.

Này Rahula, quán niệm hơi thở giúp ta giữ chánh niệm. Sống trong chánh niệm là sống trong tỉnh thức, là sống trong sự giác ngộ. Càng giữ chánh niệm được lâu thì tính giác ngộ nơi ta càng sáng tỏ và lớn mạnh.

Ngồi bên cạnh Rahula, Svastika chăm chú nghe tất cả những lời Phật dạy. Thầy cảm thấy hân hoan sung sướng. Ðây là lần thứ hai thầy được nghe Phật giảng giáo lý thâm sâu bằng những lời lẽ thật đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hành. Thầy bắt đầu tự tin rằng mình có đủ khả năng học, hiểu và thực hành có kết quả giáo lý giác ngộ và giải thoát của đức Phật.

Sau khi Phật dứt lời, Rahula và Svastika lạy tạ lui ra. Svastika rủ Rahula đến ngồi dưới một tàng cây cổ thụ để ôn lại những lời Phật dạy và cùng nhau thảo luận về chi tiết để thực hành. Svastika thấy rằng mình cũng hiểu giống như Rahula.
===
Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
Sponsored content




Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chuyện Cổ Tích PG   Chuyện Cổ Tích PG - Page 7 I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Chuyện Cổ Tích PG
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Truyện Thiền Đối Thoại
» CHUYỂN NGỮ THƠ HÁN CÔ ĐỌNG
» Góp Nhặt Lời Hay Ý Đẹp
» CHUYỆN CÁI LOA CÔNG CỘNG
» Chuyện đi xa......
Trang 7 trong tổng số 12 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3 ... 6, 7, 8 ... 10, 11, 12  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: VƯỜN VĂN :: Truyện sáng tác, truyện kể ::   :: mytutru-