Bài viết mới | Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 06:59
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:17
KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by Trăng Thu 21 Nov 2024, 16:45
KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:30
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Wed 20 Nov 2024, 22:22
Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22
NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Wed 20 Nov 2024, 06:20
KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Bảo Minh Trang Tue 19 Nov 2024, 18:08
Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54
Lục bát by Tinh Hoa Tue 19 Nov 2024, 03:10
7 chữ by Tinh Hoa Mon 18 Nov 2024, 02:10
Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21
Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:28
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:13
Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07
Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36
Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09
Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46
Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06
Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04
DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sat 09 Nov 2024, 00:19
Song thất lục bát by Tinh Hoa Thu 07 Nov 2024, 09:37
Tập thơ "Niệm khúc" by Tú_Yên tv Wed 06 Nov 2024, 10:34
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:17
CHƯA TU &TU RỒI by mytutru Tue 05 Nov 2024, 01:05
Anh muốn về bên dòng sông quê em by vamcodonggiang Sat 02 Nov 2024, 08:04
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 12:39
Kim Vân Kiều Truyện - Thanh Tâm Tài Nhân by Ai Hoa Wed 30 Oct 2024, 08:41
Chút tâm tư by tâm an Sat 26 Oct 2024, 21:16
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
|
| Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn | |
| |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn Thu 21 Jan 2016, 11:34 | |
| - Shiroi đã viết:
- Trà Mi đã viết:
- CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN
Nhật Tuấn
(Kỳ 11)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG VÀ LÂM THỊ MỸ DẠ ... Ông đã trả lời:
“ Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng…”
Phải chăng vì những oan hồn đó, sau này trên giường bệnh, ông làm những câu thơ đậm chất “tâm linh”:
Những chiều Bến Ngự dâng mưa Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi Tôi ra mở cửa đón người Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang.
Hoặc:
“Nợ người một khối u sầu Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi …”
Cũng trên giường bệnh, trả lời nhà báo, Hoàng Phủ Ngọc Tường thành thực:
“ Nhà văn phải nói lên sự thật…” ..
(còn tiếp)
Nói thật thì... chỉ sợ không còn mở miệng được nữa để mà nói Trà Mi
Tỉ hoài, ngại quá |
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn Thu 21 Jan 2016, 12:04 | |
| Tranh cãi Hoàng Phủ Ngọc Tường có tham gia vào biến cố Huế Mậu Thân Nhiều người cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường, cùng em trai là Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân tham gia vào "vụ thảm sát nhiều người dân Huế dịp Tết Mậu Thân năm 1968". Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân khẳng định là trong suốt thời gian chiến dịch, Hoàng Phủ Ngọc Tường ở chiến khu tại địa đạo Khe Trái trong vùng núi phía tây huyện Hương Trà để làm công việc của Mặt trận Giải phóng, cho nên chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường tham gia tàn sát là điều bịa đặt. Theo Nguyễn Đắc Xuân, nguyên nhân của những thông tin này là do nhóm "Tường - Phan - Xuân" xuất thân là những sinh viên theo đạo Phật tham gia chống chính quyền Ngô Đình Diệm và các chính quyền thân Mỹ của Việt Nam Cộng hòa, sau đó thoát ly tham gia cuộc chiến chống Mỹ trong Mặt trận Giải phóng, chính điều này đã khiến các nhóm tôn giáo thân Diệm, các nhóm chính trị chống Cộng cực đoan và những người có quyền lợi bị ảnh hưởng thù ghét họ và dựng nên những thông tin nhằm bôi xấu bộ ba Tường - Phan - Xuân. Còn Hoàng Phủ Ngọc Tường kể rằng vào ngày diễn ra chiến dịch Mậu Thân, ông đã có mặt ở sở chỉ huy tiền phương để chờ nhiệm vụ nhưng sau đó cấp trên yêu cầu trì hoãn việc vào Huế vì tình hình phức tạp và cuối cùng ông Tường cũng không thể có mặt ở thành phố Huế.
Tuy nhiên năm 1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại tường thuật chi tiết trận đánh giống ông là nhân chứng có mặt trong thời gian biến cố Mậu Thân xảy ra. Trả lời ngày 29/2/1982 phỏng vấn với một nhà làm phim Mỹ, phim "Vietnam Television History" của ông Burchett nói về trận Mậu Thân Huế, ông nói rằng ông biết một bệnh viện tại vùng Gia Hội, chứng kiến bệnh viện này đã bị Mỹ thả bom giết chết hơn 200 người và trong đêm đó ông dẵm lên một vũng bùn, tưởng đó là bùn, khi mà bật đèn thì thấy toàn là máu cả.
Trong bộ phim 10 tập Vietnam History do một đài truyền hình Anh Quốc thực hiện năm 1982 (Roll 29 of Vietnam Project- Feb. 29, 1982- Inteview with Hoang Phu Ngoc Tuong, writer), Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được hỏi như sau: “Ông có thể mô tả biến cố về cuộc nổi dậy tại Huế và đặc biệt liên quan đến cuộc thảm sát từ khi ông có mặt tại đây”? Để trả lời, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đổ tội cho đế quốc Mĩ cố tình dựng nên câu chuyện “thảm sát Mậu Thân Huế”. Tường xác nhận có một số bị giết vì: Một là họ bắn vào lực lượng cách mạng; hai là vì họ đã phạm tội bắt bớ, tra tấn, bỏ tù người theo cách mạng cho nên nay bị trả thù. Nhưng Tường cáo giác đa số những xác chết sau này khai quật được ở Huế là nạn nhân đạn bom của Mĩ, cộng với những xác chết bộ đội giải phóng. Tường nói tiếp : “Chẳng hạn, nó đã bỏ bom rơi vào một bệnh viện nhỏ, gần chợ Đông Ba. Nó thả bom làm 200 người vừa chết vừa bị thương. Tôi đã đi trên con đường hẻm vào ban đêm, và tôi tưởng rằng tôi đang dẫm trên đống bùn. Thế mà khi tôi bật cái đèn pile lên, máu khắp mọi nơi. Cả một khu vực bị bỏ bom bởi bom đạn Mỹ bắn phá. Và thế rồi, những ngày cuối cùng khi chúng tôi triệt thoái ra khỏi thành phố, kẻ thù của chúng tôi đã thâu lại và đem đi chôn”. Xin chú ý trong câu trả lời này, Tường xác nhận y có mặt tại Huế trong Tết Mậu Thân 1968. Trong bài Thảm Sát Mậu Thân 1968 Và Luận Điệu Gian Dối Của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn Huy Phương cũng đặc biệt nhấn mạnh 2 điểm đáng chú ý về câu trả lời trên đây của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông viết: “Chính câu hỏi của phóng viên đài truyền hình ờ đầu bài đã xác nhận sự thật, vì nếu Tường không có mặt ở Huế, sẽ không có cuộc phỏng vấn này cũng như nội dung câu hỏi được đặt ra ở trên. Mặt khác, sau này chính y không nhớ là mình đã thú nhận chuyện có mặt ở Huế vào phút thứ 6 của đoạn phim này, vào năm 1982, khi Tường mô tả chuyện y đang đi trong những con đường hẻm vùng Đông Ba và đã nói những câu “khi chúng tôi rút lui” hay “tôi là một chứng nhân” nghe rất rõ ràng”.
Nhưng qua năm 1997, Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời bà Thụy Khuê trên đài RFI thì thấy có 2 điểm quan trọng khác hẳn câu trả lời phỏng vấn năm 1982. Một là Tường chối không có mặt tại Huế khi đang diễn ra cuộc thảm sát. Hai là Tường xác nhận có “những tang tóc thê thảm” ở Huế do “quân nổi dậy” và nhìn nhận đó là “một sai lầm không thể nào biện bác được”. Nguyên văn câu trả lời của Tường như sau: “Người ta cho tôi là một tên đồ tể Mậu Thân ở Huế thì đó là một sự bịa đặt mang ý định vu khống hoàn toàn. Sự thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966 và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu thân 1968, tôi không có mặt ở Huế. Điều quan trọng còn lại, tôi xin tỏ bày ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và đã trở về; ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải chịu cho hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế vào năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc và nhìn từ quan điểm chiến tranh cách mạng”.
(sưu tầm)
|
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn Thu 21 Jan 2016, 12:23 | |
| Mậu Thân- Huế, đi tìm những phản đề
Biến cố Mậu Thân đã ghi lại một vết chém lịch sử trong lòng người dân cố đô. Cư sĩ Trí Lực, người đã chôn cất những xác chết nằm lại sau biến cố Mậu Thân không bao giờ quên được nổi kinh hoàng lúc đó:
“Khi đó tôi đang ở chùa Thiên Mụ, tôi về thăm gia đình ngày mùng một Tết, dân chúng cố đô Huế ăn Tết bình thường, nhưng khuya mùng một rạng mùng hai Tết thì tôi thấy bộ đội Cộng Sản miền Bắc lũ lượt từng đoàn kéo nhau vào.
Vùng tôi ở là Tây Lộc, họ đi vào cửa Chánh Tây nườm nượp. Đúng vào ngày hôm sau thì máy bay hai bên giáp chiến. Cà nông, đại bác diễn ra một trận chiến tranh kinh hoàng. Tôi và gia đình đi tản ở vùng Tây linh, cách vùng Tây lộc khoảng 2 cây số. Trên đường đi tản cư thì tôi thấy rất nhiều xác chết của bộ đội miền Bắc cũng như dân chúng và binh lính Việt nam Cộng Hòa.
Hai mươi sáu ngày sau, sau khi cố đô Huế bình định trở lại thì tôi tận mắt chứng kiến những hầm chôn tập thể được khai quật lên từ vùng Bãi Dâu Gia Hội, những người xấu số đã bị trói quật lại sau lưng và có những mảnh xương sọ bị vỡ nát. Cảnh kinh hoàng là cảnh Cộng sản đã chôn sống bao nhiêu người dân vô tội.
Khi đó tôi theo hầu Thầy làm lễ cầu siêu thì tôi chứng kiến hàng trăm cỗ quan tài được khai quật lên từ Bãi Dâu Gia Hội, Sau đó làm một đám tang tập thể đưa từ trường trung học Gia Hội lên nghĩa trang Ba Đồn. Khi đó tôi thấy một cuộc chiến tranh hết sức là kinh hoàng. Bây giờ bốn năm mươi năm nhớ lại tôi vẫn còn in rõ mồn một trong trí của tôi. Thật là một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn”
Nhà văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống tại Pháp, cũng là chứng nhân của biến cố Mậu Thân:
“Gia đình của tôi của vùng Phủ cam là một, vùng An vân thượng là hai, Gia Hội là ba. Bà con xa bà con gần của bên họ ngoại của tôi là gồm cả thảy 12 người. Trong 12 người đó, có người bị chôn sống, có người bị bắn tại chổ, có người bị chặt đầu, có người bị mổ bụng”
Cho đến nay vẫn còn có những nghi vấn về trách nhiệm của những người đã nhúng tay vào cuộc thảm sát Mậu Thân Huế. Hai trong những người được nhắc đến nhiều nhất là hai người con của Huế: Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) và Nguyễn Đắc Xuân (NĐX) Trong một dịp đến Pháp năm 1997 ông HPNT đã trả lời phỏng vấn của bà Thụy Khuê :“Trong “Giải Khăn Sô cho Huế” Nhã Ca nói rằng Phủ (tức HPNT) không về Huế và nếu có về thì cũng không giết người, thành thật cám ơn chị Nhã ca đã dành cho tôi điều thành thật rất quan trọng này”
Và ông tiếp:
“Đã không có mặt thì làm sao tôi – HPNT- lại có thể làm cái việc ghê gớm gọi là “đồ tể” Mậu Thân ở Huế được”
Đúng thế, ở chương 7 của “Giải khăn sô cho Huế", nhà văn Nhã ca có viết “Tôi hỏi gặng mãi em gái tôi có nhìn thấy Phủ không. Có ai nhìn thấy Phủ không? Nó quả quyết là nó không thấy, cả bạn bè của nó đi họp cũng nói không thấy. Tôi hơi yên tâm và mừng thầm cho kẻ phản bội”
Trong một bài phỏng vấn do phóng viên Dương Minh Long thực hiện cách đây 4 năm mà trang nhân dân VN đã đăng lại, ông Nguyễn Đắc Xuân khẳng định HPNT không hề có mặt ở Huế mùa Xuân 1968:
“Nhiều dư luận và cả sách báo lâu nay ngộ nhận rằng nhà giáo Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có mặt ở Huế trong tết Mậu Thân 1968. Nhân đây tôi xin đính chính: Suốt thời gian chiến dịch mở ra, nhà giáo (nay là nhà văn) Hòang Phủ Ngọc Tường đều ở tại địa đạo Khe Trái trong vùng núi phía tây huyện Hương Trà để làm việc với các vị nhân sĩ trong Mặt trận Liên Minh chứ không hề bước chân về chiến trường Huế. Cho nên tất cả những “thông tin” nói nhà giáo Hòang Phủ Ngọc Tường làm việc này việc nọ ở Huế trong những ngày tết Mậu Thân 1968 đều là thông tin bịa đặt”
Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường là thầy dạy Việt văn trung học của ông Nguyễn Phúc Liên Thành, theo ông Liên Thành thầy giáo HPNT dạy môn Triết và Việt văn rất giỏi, ông giảng rất hay và không bao giờ nhìn vào sách. Ông Liên Thành rất ngưỡng mộ thầy giáo HPNT. Ông Liên Thành nguyên là Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt trong những năm 68. Ông đưa ra 4 bằng chứng để chứng minh ông HPNT đã có mặt ở Huế vào Tết Mậu Thân :
“Tôi xin đưa ra 4 trường hợp để chứng minh HPNT đã không thành thật về việc nói y không có mặt tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân :
Thứ nhất, năm 72 tôi bắt được tên trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan, chính Hoàng Kim Loan khai rằng y và Hoàng Lanh như là Hoàng Phương Thảo là Ủy viên thành phố Huế. Khi thành lập tòa án Nhân dân tại Huế thì chính ba cán bộ thành ủy này đã đề cử HPNT vào ghế Chánh án tòa án Nhân dân tại trường trung học Bãi Dâu Huế.
Cái thứ hai, theo lời tường trình của một số nhân chứng xác nhận rằng kẻ ngồi xử tại tòa án Nhân dân Huế tại trường trung học Gia Hội vào năm 1968 và kết quả sau đó chúng tôi đã khai quật 204 xác nạn nhân tại trường trung học. Cái người ngồi xử đó chính là giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường nguyên là giáo sư về môn Triết và Việt văn ở Huế.
Cái xác nhận thứ ba: Định là sinh viên y khoa năm thứ hai Huế, cũng là bạn của Hoàng Phủ Ngọc Phan, em HPNT, xác nhận rằng, trong những ngày đầu của Tết Mậu Thân thì chính HPNT và HPNP đã đến nhà ông Định ở đường Nguyễn Du để tìm bắt ông Định. Chính HPNT đứng ở ngoài và HPNP vào nhà để tìm bắt nhưng cha ông Định đã nói một cách để che chở, cuối cùng ông Định trốn trong nhà mà không bị bắt.
Nhưng cái điều quan trọng là chính HPNT đã xác nhận có mặt trong thời gian biến cố Mậu Thân xảy ra. HPNT có trả lời phỏng vấn với một nhà làm phim Mỹ, phim “VietNam Television History” của ông Burchett. Y nói rằng y đã từng đứng ngay trong một bệnh viện tại vùng Gia Hội, bệnh viện này đã bị Mỹ thả bom và trong đêm đó y dẵm lên một vũng bùn, y tưởng đó là bùn, khi mà y bật đèn thì thấy toàn là máu cả. Điều đó cho thấy sự hiện diện của HPNT tại bệnh viện ở trường trung học Gia Hội”
Riêng về sinh viên Nguyễn Đắc Xuân, năm 66 là trưởng đoàn thanh niên quyết tử và năm 68 là trưởng đoàn Thanh niên vũ trang thành phố Huế còn gọi là Lực lượng an ninh và bảo vệ khu phố. Trong giải khăn sô cho Huế, nhà văn Nhã ca có nhắc đến sinh viên NĐX đã giết một người tên là Mậu Tý, ông Liên Thành cũng khẳng định chi tiết này:
“Nguyễn Đắc Xuân sử dụng hầu hết các cơ sở nằm vùng, chia ra từng toán, lục soát từng nhà một tìm bắt ngụy quân, ngụy quyền và nhiều cuộc xử bắn đã xảy ra.
Sau này NĐX có chối tội nói rằng là trong trận đánh Huế thì tôi ở tuyến sau chứ không ở tuyến đầu. Nhưng nhiều nhân chứng đã kể lại những hành động dã man của NĐX trong đó NĐX đã bắn người bạn rất thân của nó là sinh viên Lê Mậu Tý vì nghi Lê Mậu Tý làm việc cho cơ quan tình báo của Việt Nam Cộng hòa hoặc là đảng viên đảng Đại Việt.
Ngoài ra những cuộc hành quyết tại quận nhất, quận nhì và quận ba đều là do lực lượng an ninh bảo vệ khu phố của NĐX thi hành. Như bà Thái Hòa đã nói chính HPNP và NĐX đã bắn hai người anh của cô ta và bắn luôn ông nội của cô ta trước sự chứng kiến của bà Nguyễn thị Thái Hòa.
Tôi hy vọng một ngày rất gần, Ban Truy tố tội ác đảng CS do tôi đang lập hồ sơ để truy tố những tên này ra tòa án Quốc tế để nó phải trả lời trước dư luận Quốc tế và mong rằng đem lại sự công bằng, công đạo cho những người đã chết trong Mậu thân 68 Huế”
Câu hỏi vẫn thường được đặt ra là : Ai là kẻ thắng, người thua sau cuộc chiến này?
Quân lực VNCH và đồng minh đã thắng vì đã đánh bật quân Bắc Việt ra khỏi Sài Gòn và Huế. Hay quân đội Bắc Việt đã thắng vì sau tổng tiến công Mậu Thân, VNDCCH đã áp lực được Mỹ ngồi vào bàn hội nghị? Trong cuộc chiến này, có lẽ không có kẻ thắng hay người thua mà chỉ có người dân là nạn nhân, oằn mình chịu đựng bao nỗi oan nghiệt của chiến tranh.
Nhà báo Bùi Tín, nguyên phó Tổng biên tập báo QĐND, cho biết quan điểm của ông:
“Mậu thân thì tôi đang công tác ở Hà Nội. Riêng về Tết Mậu thân thì ý kiến của tôi như thế này: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của phía Bắc Việt là thất bại nặng nề. Tất cả các đơn vị đều bị đánh ra khỏi các đô thị. Với cái tổn thất mà đến 2 năm sau mới phục hồi được, như vậy đánh giá về thực chất thì Bắc Việt đã thất bại rất nặng nề, do chủ quan, do không nổi dậy, do có tập kích rộng rãi những không giữ được do đó thiệt hại rất nặng đến 2, 3 năm sau.
Các cơ sở lộ hết, nhất là ở đô thị cơ sở mất hết và ở nông thôn cũng mất từng mảng lớn và phải tạt qua tận Cam-bốt. Do đó mà phía đồng minh đã thắng, nhưng đã không duy trì được chiến thắng, tình báo kém lại bị cái tuyên truyền phản chiến ở Mỹ thổi phồng chiến thắng của Việt Cộng lên nên Quốc hội Mỹ rút khỏi chiến tranh VN.
Do đó mà chiến thắng không được phát huy. Thực chất là chiến thắng nhưng lại chuyển thành thất bại. Chiến tranh là thất bại của nhân dân cả hai phía. Tôi thấy là cuộc chiến tranh này là cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn mà trong lịch sử chưa bao giờ mà cả hai bên chết đến như thế.
Sinh mạng chết nhiều như thế mà nếu đất nước thống nhất mà có Tự do, Dân chủ thì đó cũng là điều an ủi. Đằng này tổn thất đến như thế, hòa bình trở lại, thống nhất được đất nước mà cũng không có hạnh phúc, không có hòa hợp dân tộc, cái tội của đảng Cộng sản rất là lớn, rất là nặng nề là như thế"
Trả lời nhà phê bình văn học Thụy Khuê về trách nhiệm thuộc về ai cho cuộc thảm sát ở Huế, HPNT cho biết ông Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân nói rằng:
“Trách nhiệm đó thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân…. Điều quan trọng có thể làm và phải làm bây giờ, là những người kế nhiệm ở Huế phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân Huế, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ”
Trong khi chờ đợi những thân nhân của những nạn nhân Mậu Thân Huế được trả lại công bằng và quyền công dân như nguyên Tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân đã nói thì xin coi những hồi tưởng này, theo lời của nhà văn Nhã Ca, như “một bó nhang đèn góp giỗ. Và góp cho một ngày giỗ tương lai tại quê hương, nơi từng biết thế nào là tình yêu thương, sự ăn ở tử tế, như từng biết thế nào là văn hóa, lịch sử"
Tường An |
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn Thu 21 Jan 2016, 12:48 | |
| Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Đùa thôi nhé, thiên đường mộng ảo”
Nguyễn Đức Tùng thực hiện
Lời mở đầu:
Tháng Sáu năm 2008, được sự giới thiệu của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và nhà văn – võ sư Nguyễn Văn Dũng, chúng tôi đến thăm Hoàng Phủ Ngọc Tường và nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ tại nhà riêng. Sau lần thứ nhất, riêng tôi còn trở lại một lần nữa theo lời mời của anh để hoàn tất cuộc trò chuyện. Chúng tôi cũng có dịp hỏi chuyện chị Lâm Thị Mỹ Dạ và một số bè bạn có mặt. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị ischemic stroke năm 1998, liệt nửa thân đối bên và rối loạn ngôn ngữ, hình như aphasia của tổn thương bán cầu não trái, qua một thời gian dài. Nhờ sự chăm sóc của thầy thuốc, gia đình, đặc biệt người bạn đời, chị Lâm Thị Mỹ Dạ, và những thân hữu như Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Trọng Tạo, Tô Nhuận Vỹ, Ngô Minh, Hồ Đăng Thanh Ngọc… anh dần dần hồi phục. Trong hai lần gặp, anh tỏ ra minh mẫn, và khi kể về các kỷ niệm của quê anh ở Quảng Trị, cũng như về Huế, anh nhớ nhiều chi tiết theo tôi là chính xác. Tuy vậy, anh phát âm khó khăn, người lạ khó theo kịp. Nhờ kinh nghiệm làm việc riêng, lại ngồi gần, và nhờ sự giúp đỡ của chị Mỹ Dạ, tôi có thể nghe được khoảng bảy mươi hoặc tám mươi phần trăm lời nói của anh ngay trong lần đầu. Sau này tôi phải nghe lại băng thu âm nhiều lần. Anh và chị đã bổ sung và đọc kỹ văn bản cuối cùng. Trong nhiều giờ làm việc, anh ít khi tỏ ra mệt mỏi; những lúc nghỉ, anh nhờ đẩy xe lăn ra phòng khách, ngồi nghe chúng tôi. Chị Lâm Thị Mỹ Dạ, tính dịu dàng, kiên nhẫn, hiền hậu, chuẩn bị chu đáo các phương tiện, thường xuyên ra vào để săn sóc anh.
Sau đó chúng tôi còn liên lạc trên điện thoại nhiều lần khác để làm rõ một số câu, chữ. Hoàng Phủ Ngọc Tường có lúc đề nghị tạm thời hoãn lại việc phổ biến để cân nhắc thêm, vì lý do riêng của anh. Tháng Sáu năm 2011, trong lần gặp chúng tôi ở Huế, sau khi bổ khuyết một vài điểm, trước sự chứng kiến của nhiều bạn bè như Tô Nhuận Vỹ, Trần Thùy Mai, Nguyễn Văn Dũng, Hồ Đăng Thanh Ngọc… anh cho biết bài phỏng vấn như thế là đã hoàn tất và đề nghị công bố. Chị Mỹ Dạ, tươi cười nhưng cương quyết, rõ ràng, hỏi lại hai ý ấy của anh một lần nữa, anh gật đầu xác nhận. Gần đây sức khỏe của anh đã rất yếu. Sau khi cân nhắc kỹ, chúng tôi cho rằng việc phổ biến, sau bảy năm, là trách nhiệm của người thực hiện đối với nhà văn và độc giả. Đây cũng là một trong những bài phỏng vấn cuối cùng của loạt bài Thơ Đến Từ Đâu.
Tháng Sáu, năm 2015
Nguyễn Đức Tùng
*********************************************
Nguyễn Đức Tùng:
- Cách đây nhiều năm trong lần về nước đầu tiên, tôi được một người bạn, anh ấy cũng có mặt ở đây hôm nay, tặng tập thơ của anh, Người hái phù dung. Đó là lần đầu tôi biết đến văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trước đó tôi chỉ biết đến anh qua những dư luận về vụ Mậu Thân, mà chưa hề đọc một bài viết nào. Sau này tôi nghe nói rằng, một thời gian dài độc giả trong nước rất chăm chú theo dõi những bài bút ký đăng rải rác của anh trên các báo. Trở lại với tập thơ, tôi thích một số bài trong đó. Như thế là biết đến anh bằng thơ, chứ không phải là qua bút ký hay quan hệ ngoài đời.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Cảm ơn anh vì tình cảm đã dành cho thơ của tôi. Có lẽ thơ đến với người ta mau chóng và dễ dàng hơn những phương tiện khác.
Nguyễn Đức Tùng:
- Anh hái cành phù dung trắng Cho em niềm vui cầm tay Màu hoa như màu ánh nắng Buổi chiều chợt tím không hay
Thơ hay, mà cũng buồn quá. Nhưng trong ấy có tình yêu trẻ trung đối với cuộc đời làm ta cảm động. Tôi ngạc nhiên một người mơ mộng như anh mà lại tự nguyện tham gia vào một cuộc chiến tranh sát phạt hận thù và đi xuyên qua biết bao nhiêu là hệ lụy của nó.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Trong tập thơ ấy, tôi có viết rằng “Mỗi người chỉ thực là chính mình trong căn nhà của nó. Thơ cũng vậy, thơ cần phải trở về căn nhà của nó là nỗi buồn. Quyền của thi sĩ là quyền được buồn”
Nguyễn Đức Tùng:
- Hình như Hoàng Phủ Ngọc Tường là người đầu tiên dùng chữ “quyền được buồn”. Đây là một ý niệm thú vị. Anh buồn vì thời cuộc hay buồn vì cuộc sống cá nhân mình?
Em gọi tên tôi khắp mọi nơi Gọi tôi vang động cả vòm trời Tôi ngồi im vắng như lau sậy Mờ mịt như màu sương khói thôi
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Ai cũng được quyền buồn, nhưng thi sĩ buồn nhiều hơn, sâu hơn, vì họ sống bằng tất cả tâm hồn. Tôi là người sống bằng nội tâm nhưng cũng là người hoạt động, nên những vấn đề thời cuộc đất nước ám ảnh tôi nhiều hơn.
Nguyễn Đức Tùng:
- Vào thời đó, đòi quyền được buồn có phải là một thái độ phản kháng văn học?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi nói đến điều đó từ năm 1990. Mặc dù là người viết văn, tôi lại mê thơ. Đó là cái quyền tự do của tâm hồn, quyền được nói lên, hát lên, không ai có thể ngăn cản.
Nguyễn Đức Tùng:
- Ngày ấy tôi thường hay đến đây Đăm đăm soi mặt nước hồ đầy Khói sương nhả tự trên trời xuống Chỉ một mình tôi với bóng cây
Mặc dù bút ký và tùy bút Hoàng Phủ Ngọc Tường là thành tựu lớn nhất của anh, tôi nghĩ sau này nhiều thứ có thể qua đi, nhưng thơ anh, vài bài hay nhất, sẽ còn đứng mãi với thời gian.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Nếu được thế thì đó là hạnh phúc của người viết.
Một người bạn thân của tôi, anh Nguyễn Văn Dũng, có in lại và đưa cho tôi đọc các bài thơ của anh Nguyễn Đức Tùng trên “Talawas chủ nhật” vừa rồi, trong đó có bài thơ đề tặng tôi, vì nhà tôi không có computer. Đọc xong, tôi có suy nghĩ nhiều lắm.
Tôi nói với mọi người: Đây là thơ thật.
Thơ thật, chứ không phải là thơ giả.
Nguyễn Đức Tùng:
- Năm 1966, ba mươi tuổi, đang là một giáo sư ở Quốc học Huế, anh bỏ vào rừng kháng chiến, đi theo con đường lý tưởng riêng của anh. Trước năm 1975, các thầy giáo dạy trung học gọi là giáo sư, và được xã hội tôn trọng xứng đáng với danh hiệu đó. Rũ áo ra đi như thế, có lẽ anh tin là mình đã chọn được hành trình lý tưởng cho cá nhân và dân tộc. Trên con đường dài, mà đối với nhiều người là đại lộ mênh mông, đầy ánh sáng của lý tưởng giải phóng dân tộc, anh có gặp một ngã rẽ hay ngõ cụt riêng tư nào không? Những ngã rẽ của bóng tối và nỗi buồn?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- À, đây chính là tâm trạng của bạn bè tôi cùng trang lứa đi theo Đảng. Hồi đó mình cứ nghĩ những chuyện buồn đều là tạm thời nhỏ nhặt, những sai lầm rồi sẽ qua đi, nên cố lấy niềm vui chung mà át nỗi buồn riêng. Nếu không có ai bắt mình thì mình cũng tự bắt mình như thế.
Nguyễn Đức Tùng:
- Ngày nay nhìn lại, anh nghĩ như thế nào về cuộc chiến tranh 1954-1975 vừa qua? Anh gọi nó bằng tên gì? Hậu quả của nó ra sao?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Mình không có giết ai trong chiến tranh. Mình có một thằng bạn, Hoàng Xuân Thiệu (?), em ruột của Trung tướng Việt Nam Cộng hòa Hoàng Xuân Lãm, bây giờ đã đi Mỹ. Tôi thương hắn lắm, có lần tôi nói với hắn: nếu tau gặp mi thì tau sẽ không bắn, ngay cả khi tụi mình đang ở hai bên chiến tuyến. Nếu gặp nhau ngoài chiến trường thì tôi sẽ nói: mi phải vất súng để đi theo cách mạng.
Nguyễn Đức Tùng:
- Nếu anh ấy không vất súng để đi theo cách mạng thì sao?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi sẽ nói tiếp: Thà mi giết tau chứ tau không thể giết mi.
Nguyễn Đức Tùng:
- Có thể anh đã từng chủ trương như thế thật, nhưng chiến tranh có những quy luật tàn bạo của nó. Thực tế đã không xảy ra như anh muốn, và những kẻ đứng bên cạnh anh hay đứng đối diện với anh cũng đều đã nổ súng.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Đúng thế. Chúng ta đã nổ súng vào nhau và vết thương vẫn còn. Đó là nỗi đau buồn của dân tộc chúng ta. Nhưng hồi đó tôi quan niệm rằng cứ sống ngay thật, trong sáng với bản thân mình, mặc kệ người khác làm gì thì làm.
Nguyễn Đức Tùng:
- Thưa anh, trong những người dân Huế mà tôi có dịp tiếp xúc nơi này nơi khác, ngay cả những người không ai có thể gọi họ là cực đoan, vì vẫn có thái độ hòa nhã trong nhiều vấn đề của đất nước, đến nay khi nhắc đến vụ thảm sát Mậu Thân vẫn còn tỏ ra xúc động. Hầu hết những người đó đều cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường không nhiều thì ít có một phần trách nhiệm.
Đọc những bài viết và những tài liệu gần đây, tuy vậy, tôi cũng tin rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường không có mặt ở Huế trong vụ Mậu Thân.
Tại sao năm đó anh không được cử về đồng bằng?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Lúc đó tôi cùng làm việc với Thượng tọa Thích Đôn Hậu, bà Nguyễn Đình Chi, giáo sư Lê Văn Hảo. Tôi là Tổng thư ký của Liên minh Dân tộc Dân chủ và Hòa bình. Họ dự định sau khi vụ Mậu Thân thành công thì sẽ đưa chúng tôi về ra mắt công chúng. Nhưng cuộc tiến công bị chặn lại vì phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa phản kích dữ dội quá, bắt đầu từ lực lượng đồn Mang Cá. Mới đầu trận đánh dự định là do Trung ương phụ trách, nhưng trong thực tế thì chỉ có địa phương lo gần hết, nên thiếu thốn nhiều mặt, nhất là thiếu đạn để đánh giặc.
Vì việc không thành nên tôi không được đưa về Huế để ra mắt quần chúng.
Nguyễn Đức Tùng:
- Tôi còn nhớ một ca khúc của Trịnh Công Sơn viết ngay sau vụ Mậu Thân, về những mồ chôn tập thể ở Huế, với giọng hát Khánh Ly náo động bàng hoàng, lúc tôi còn rất nhỏ tuổi:
Chiều đi lên Bãi Dâu Hát trên những xác người Tôi đã thấy tôi đã thấy Trên con đường người ta bồng bế nhau chạy trốn
Và một ca khúc khác của Nguyễn Minh Khôi, với Thái Thanh như con chim trúng đạn cất tiếng kêu thương:
Chiều nay không có em mưa non cao về dưới ngàn Đàn con nay lớn khôn mang gươm đao vào xóm làng
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Buồn quá. Đúng là những vết thương sâu, rất khó lành của dân tộc chúng ta.
Nguyễn Đức Tùng:
- Anh tham gia kháng chiến chống Mỹ là hoàn toàn tự nguyện, nhưng trường hợp những người khác thì như thế nào? Thượng tọa Thích Đôn Hậu, một người đồng hương Quảng Trị của anh, chẳng hạn? Có một bài viết cho rằng ông bị bắt ép chứ không phải tự nguyện?
Hoàng Phủ Ngọc Tưòng:
- Không thể bắt ép ai cả.
Nguyễn Đức Tùng:
- Tức là tự nguyện?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Cũng không phải, họ thỉnh ông đi.
Nguyễn Đức Tùng:
- Thỉnh đi như thế nào?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Lừa.
Nguyễn Đức Tùng:
- Xin anh nói rõ hơn.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Họ lừa ông bằng cách nói là mời ông đi họp. Họ đưa ông qua một cánh đồng rộng, gánh ông đi trong một cái thúng có hai người khiêng hai đầu. Rồi họ đưa ông dần từng bước một vào những việc nhỏ nhỏ, từ từ, nhưng ngày càng sâu đến lúc biết ra thì đã muộn.
Nguyễn Đức Tùng:
- Cách đây nhiều năm, trong một cuộc phỏng vấn truyền hình, anh có nói một ý rằng vụ thảm sát Mậu Thân là do nhiều nguyên nhân, do bom đạn của Mỹ, do tai nạn chiến tranh bắn qua bắn lại vô tình, và cũng do phía cách mạng xử tội những thành phần phản động, chống lại nhân dân?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Đó là cuộc phỏng vấn của Úc. Trong những cái chết do chiến tranh, phía quốc gia thì đổ lỗi hoàn toàn cho phía cách mạng, phía cách mạng thì đổ lỗi hoàn toàn cho phía quốc gia, nhưng tôi cho rằng thật ra không bên nào có thể đổ lỗi hoàn toàn cho bên nào cả, vì thế nào cũng có bên này bên kia chịu trách nhiệm. Đó là nói chung. Còn riêng trong vụ Mậu Thân thì giết lầm rất nhiều. Ví dụ như tôi nhớ rằng trong mặt trận Huế có phân công cho một người là ông… tỉnh đội trưởng nắm giữ mặt trận phía trái, phụ trách vùng Phú Cam. Họ giết người nhiều ở mặt trận này.
Nguyễn Đức Tùng:
- Người bạn tặng cho tôi tập thơ Người hái phù dung thì nói riêng với tôi rằng, theo anh ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người innocent. Anh cũng vừa kể rằng anh không muốn bắn một người bạn cũ của anh, như anh Hoàng Xuân Thiệu, thà mình bị anh ta bắn. Như vậy, anh nghĩ sao về những vụ giết người trong Mậu Thân có tính tội ác?
Tôi nghĩ rằng chúng ta cần hết sức thận trọng, nghiêm cẩn, khi nói đến những vấn đề gây xúc động này, hết sức tránh thái độ cực đoan: từ một phía là đổ lên người khác những lỗi mà họ không có, nói thêm, nói oan cho những người vô tội, hoặc từ một phía khác là coi nhẹ, lấp liếm, di chuyển trọng tâm của vấn đề, đánh lạc hướng lịch sử.
Tôi nghĩ rằng đối với bất cứ người nghệ sĩ nào, cái chết và sự khổ đau của con người không thể là chuyện nhẹ nhàng. Dù do ai gây ra, dù đó là Mậu Thân hay Mỹ Lai, hay biết bao câu chuyện tương tự khác đã xảy ra trên đất nước chúng ta, chưa bao giờ được kể lại. Không thể là chuyện nhẹ nhàng. Đó có thể là quan điểm của các nhà quân sự, các nhà chính trị, nhưng không thể là quan điểm của các nhà thơ.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi hoàn toàn đồng ý với anh. Tuy nhiên trong cuộc trả lời phỏng vấn vừa kể trên tôi có nói lầm đi, nói sai đi, một ý.
Nguyễn Đức Tùng:
- Thưa anh, sai hay lầm?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Lầm. Tôi có nói lầm là đánh rắn thì phải đập đầu. Họ nghĩ rằng những người làm việc cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là cái đầu rắn.
Nguyễn Đức Tùng:
- Chắc anh đã từng đọc cuốn sách của Nhã Ca vốn được nhiều người nhắc đến?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi có đọc. Có ba người viết về Mậu Thân. Một là nhà văn nữ Nhã Ca, từ Sài Gòn về Huế ăn Tết vào dịp đó và chứng kiến cuộc tấn công Mậu Thân. Bà đã ghi lại chuyện này trong cuốn Giải khăn sô cho Huế.
Nguyễn Đức Tùng:
- Anh nhận xét ra sao về cuốn sách đó? Có đúng với sự thực không, theo anh?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Trong đó Nhã Ca viết “chắc là Phủ không về.”
Nguyễn Đức Tùng:
- Phủ là ai?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Phủ là tôi đó. Bà ấy viết “chắc là Phủ không về”; “mà nếu có về chắc cũng không giết người”.
Người thứ hai là giáo sư Lê Văn Hảo, người lên rừng cùng với tôi. Ông có viết rằng tôi và ông ấy đều không về Huế, mà chỉ có hai người về là Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân.
Nguyễn Đức Tùng:
- Còn người thứ ba?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
(nghe không rõ)
Nguyễn Đức Tùng:
- Cuộc chiến tranh vừa qua, mặc dù đã chấm dứt từ lâu, vẫn còn tiếp tục chia rẽ mọi người. Và sẽ còn lâu dài, xuyên suốt các thế hệ. Điều này thường bị cố tình coi nhẹ (underestimated). Đọc lịch sử, tôi tin là người Việt Nam rất yêu nước và đã từng chiến thắng nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược. Thế mà năm 1975, theo lời của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, lần đầu tiên có chuyện lạ lùng là nửa nước thì vui, nửa nước thì buồn. Hiện nay, cuộc chiến tranh Nam Bắc đối với một số người từ cả hai phía vẫn còn là hận thù, đối với một số người khác là phẫn nộ trước lịch sử, và đối với nhiều người khác là vết thương tâm hồn, là sự hoài niệm về một nền Cộng hòa đã bị xóa bỏ, một nền tự do mà theo tôi nửa là hoàn toàn có thật, nửa là chưa bao giờ kịp có thật.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi không bao giờ muốn chia rẽ dân tộc. Khi lên rừng đi kháng chiến chống Mỹ tôi chỉ nghĩ đến một chính phủ hòa hợp. Sau 1975 tôi tin rằng chúng ta đã có cơ hội để làm được điều này, nhưng rồi chúng ta để lỡ dịp may đó.
Nguyễn Đức Tùng:
- Tôi tin vào suy nghĩ ở thời điểm này của anh, nhưng tôi cũng không nhất thiết cho rằng đó là những suy nghĩ bất di bất dịch. Điều đó là dễ hiểu. Đối với nhiều người đi theo Mặt trận Giải phóng miền Nam vào những năm sáu mươi, có khi đó chỉ là một khẩu hiệu dân vận, và vấn đề họ quan tâm hơn, nói thẳng ra là, chiến thắng tuyệt đối về quân sự và chính trị.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi tâm sự với anh thế này: sau vụ Mậu Thân xong tôi suy nghĩ mãi, tôi buồn quá, tôi muốn một mình ra một hoang đảo ở một mình và sẽ không chọn một phe phái nào cả.
Nguyễn Đức Tùng:
- Nếu trong Tết Mậu Thân anh được cử về thành thì anh sẽ làm gì, có thái độ như thế nào trước những vụ giết người?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi sẽ không làm gì được, nhưng tôi biết chắc là tôi sẽ không giết người. Có lần, trên một dốc núi, một người bạn của tôi là anh Lê Hữu Bôi, Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, đã bị giết. Anh ấy cũng người cùng quê Quảng Trị mình, tuy học ở Sài Gòn nhưng về Huế đi tu ở chùa Tường Vân, rồi bị bắt đi từ chùa Tường Vân trong Tết Mậu Thân. Trường hợp ấy nếu gặp tôi, tôi sẽ tha. Còn những vụ giết người hàng loạt, tôi chỉ nghe nói chứ không chứng kiến, nhưng tôi biết là mình không thể hành động như thế.
Tính tôi có lẽ hợp với đi tu, thấy chuyện máu me dư rứa tôi rất gớm (lắc đầu). Tôi không làm được. Hồi nhỏ, tôi không thể giúp mẹ tôi làm được việc cắt cổ gà.
Nguyễn Đức Tùng:
- Lúc đó anh có nhận ra là có một sự khác nhau nào đó giữa anh và những người cũng lên rừng đi kháng chiến như anh? Ví dụ như tỉnh đội trưởng mà anh nhắc đến chẳng hạn?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Không thể có khác biệt sâu xa được. Khi đã ở với nhau lâu rồi thì người ta sẽ dần dần trở nên giống nhau, cũng như nhiều anh em khác, tôi phải nén cái riêng tư của mình lại. Mà những người đi kháng chiến đa số là từ nông thôn nên họ suy nghĩ giản dị lắm. Một số người có thù sâu nên có dịp là họ trả thù.
Nguyễn Đức Tùng:
- Như vậy trong chiến tranh chuyện trả thù trả oán cá nhân là có thật?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Dĩ nhiên là có thật.
Nguyễn Đức Tùng:
- Anh lên rừng từ năm 1966, nhưng đến năm 1987 anh mới được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy là vì anh xin vào mà không được hay vì anh chưa muốn vào?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi xin vào mà không được. Lúc mới gia nhập cách mạng, tôi thuộc về Quảng Trị, ở đó tôi cũng bị theo dõi. Rồi khi vào Huế, tôi phụ trách tờ báo Cờ Giải Phóng, có một ông bí thư luôn luôn đố kỵ tôi. Tôi làm đơn vào Đảng lúc nào cũng bị bác vì nói là chưa đủ điều kiện.
Trong thực tế lúc ở trên rừng, tôi chẳng nói điều gì khác biệt với mọi người cả, mà chính tôi cũng phải nói hùa theo những người khác, và cho vụ Mậu Thân là một chiến thắng, không có thất bại. Tiến sĩ Lê Văn Hảo, hiện nay làm ở viện bảo tàng Louvre ở Pháp, có biết rõ giai đoạn này của tôi.
Nguyễn Đức Tùng:
- Như vậy việc anh không được vào Đảng Cộng sản là do những đố kỵ cá nhân chứ không phải là vì những khác biệt lớn hơn, ví dụ về quan điểm chính trị.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Rất khó phân biệt giữa Đảng và cá nhân, vì Đảng cũng là đảng viên.
Nguyễn Đức Tùng:
- Có phải chính anh là người đã viết và đọc lời hiệu triệu nhân dân nổi dậy trong vụ Mậu Thân? Ngày nay nếu lặp lại anh có thay đổi lời hiệu triệu đó không, hay vẫn giữ nguyên?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Vẫn giữ nguyên. Tôi viết và đọc lời hiệu triệu đó thay mặt Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình, họ thu băng rồi phát lại ở Huế. Nếu viết lại tôi sẽ không thay đổi gì cả, vì trong đó tôi nhớ là chỉ kêu gọi đánh đuổi Mỹ và xây dựng một đất nước hòa bình, dân chủ.
Nguyễn Đức Tùng:
- Đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi để ý vài điều. Anh làm thơ ít, nhưng bài nào cũng thể hiện một tâm trạng rõ rệt. Những bài thành công thường dùng ngôn ngữ cổ điển, bút pháp cổ điển, mà vẫn lay động lòng người. Đó là nhờ cái tình. Nhưng nói đến tài năng của anh, thì phải nói đến những trang văn xuôi trác tuyệt trong thể loại bút ký và tùy bút. Đó thực sự là một trong những thành tựu của văn học Việt Nam. Người ta thấy rằng các chất liệu văn học của anh đều lấy từ thời kỳ gian khổ trong rừng, nhiều hơn là những ngày thanh bình ở thành phố. Nhìn lại đó là thời kỳ vui nhiều hay buồn nhiều?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Vui buồn lẫn lộn. Trên rừng, có những sự việc tôi được chứng kiến tận mắt, nhưng hầu hết là nghe kể lại. Nhiều người nghĩ lầm rằng trong thể ký hay phóng sự, người viết đều chứng kiến cả. Thật ra mình đâu có thể thấy được tất cả. Đó cũng là những ngày mình còn trẻ, xông xáo, đi nhiều, có nhiều ấn tượng sâu đậm. Sau này khi hòa bình, mình viết các tùy bút ngắn, đặt tên là nhàn đàm.Trong bút ký, các sự kiện có thật xuất hiện nhiều hơn.
Nguyễn Đức Tùng:
- Tôi nhớ một chi tiết văn học được anh kể lại. Trong bài Bản di chúc của cỏ lau, anh tả một buổi sinh hoạt của du kích cách mạng với những người dân đi rừng. Cuối buổi sinh hoạt là mục đọc những bức thư đầu tiên của anh em binh sĩ trong quân đội Cộng hòa gởi cho cách mạng, nói về nguyện vọng của bản thân họ mong được tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử để tránh khỏi một cuộc chiến tranh mà họ sẽ phải đổ máu. Sau đoạn văn đó anh lại viết rõ ra, thực ra thì toàn là thư bịa ra, do nhân vật Hoàng cặm cụi ngồi viết ở trại Cây Thị.
Những phương pháp hay thủ đoạn tuyên truyền như thế là điều có thể hiểu được trong chiến tranh, từ cả hai phía. Tuy nhiên tôi tự hỏi, một nền văn học có sứ mệnh tuyên truyền sẽ phải trả giá như thế nào để chuộc lại sự thật mà nó đã trao đi trong thời buổi ban đầu, để đổi lấy chiến thắng sau cùng bằng mọi giá?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Văn học phải đi sát với cuộc sống. Nhà văn trung thực là kẻ nói lên những điều anh ta cảm nhận về cuộc đời trong hiện tại, trong ngày hôm nay. Không điều gì có thể chuộc lại sự thật đã mất, không một thời gian nào có thể thay thế được ngày hôm nay. Có thể không phải bao giờ nhà văn cũng đúng, nhưng khi anh ta sai thì sai một cách chân thành.
Nguyễn Đức Tùng:
- Trong những bài viết thời kỳ chiến tranh ý thức hệ, anh có những nhận định rất quyết liệt và rõ ràng, như vấn đề ta – địch. Về nghệ thuật, những trang mô tả của anh về miền Nam thời đó rất hay, mặc dù người ta có thể tranh cãi tính xác thực của chúng.
Những nhận định và mô tả ấy cũng không hẳn là phù hợp với những suy nghĩ về hòa giải dân tộc sau này của anh đâu. Hình như có một so le nào đó. Phải chăng có một sự phát triển hay biến đổi trong tư tưởng đối với các vấn đề chiến tranh và dân tộc?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Đúng là tôi có thay đổi. Nhưng ai mà không thay đổi? Chúng ta học mỗi ngày, học mãi. Sau những ngày nhiệt huyết, mình dần dần nhận ra thực tế có những cái cần điều chỉnh. Nếu có một điều gì không thay đổi ở tôi, thì đó là cái tính không thích sự giết người, ghét tội ác.
Trong cuộc đời đi làm cách mạng của tôi, tôi chỉ bắn một phát súng duy nhất. Tôi bắn rụng một chiếc lá trong một cuộc bắn thi. Đó là phát súng duy nhất và là phát súng cuối cùng của tôi.
Nguyễn Đức Tùng:
- Tại sao anh gọi đó là phát súng cuối cùng?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Vì tôi chủ trương không bắn ai. Và thực tế là như thế.
Nguyễn Đức Tùng:
- Chủ trương của anh là không muốn giết người, cá tính của anh cũng như thế, nhưng con đường mà anh đi là con đường cách mạng bạo lực. Những người cộng sản bao giờ cũng khẳng định nguyên lý đấu tranh giai cấp và bạo lực cách mạng. Như vậy có mâu thuẫn không?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
(Trầm ngâm)- Tôi hiểu rằng trong chiến tranh thì các bên tham gia không thể không nổ súng, nhưng cá nhân tôi thì vẫn không thay đổi cá tính của mình được. Tôi đã và sẽ không bắn ai cả.
Nguyễn Đức Tùng:
- Năm 1966, điều gì dẫn anh đến với Mặt trận Giải phóng miền Nam? Đó là tình yêu nước, muốn đánh đuổi ngoại xâm, tương tự như ngày xưa những người đi kháng chiến chống Pháp năm 1945, hay là niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới? Niềm tin vào chủ nghĩa Marx?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Chủ nghĩa Marx. Niềm tin vào chủ nghĩa Marx.
Là một thanh niên mới lớn, đứng trước những bất công xã hội thời đó, tôi không hài lòng với những biện pháp tạm thời mà tin vào cách giải quyết triệt để hơn. Điều đó tôi tìm thấy ở học thuyết cộng sản.
Nguyễn Đức Tùng:
- Ngày nay nhìn lại anh nhận xét như thế nào về niềm tin thời trẻ?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Đến nay thì đã rõ chẳng ai làm được gì trên toàn thế giới. Cải thiện đời sống vật chất là do những tiến bộ về khoa học kỹ thuật mà thôi; còn làm cho tốt đẹp hơn về tinh thần, về tâm hồn, thì chưa ai làm được nhiều. Chỉ có Mỹ. Theo tôi, Mỹ nó đã làm được một phần.
Nguyễn Đức Tùng:
- Ở Canada, tôi nhận thấy một điều đặc biệt, có vẻ khó hiểu, là những người thầy giỏi nhất của tôi ở trường đại học Y khoa, không phải là tất cả, nhưng một phần lớn, đều thiên tả và khá ngây thơ về các vấn đề ngoài y khoa. Họ quá nặng về lý thuyết và đến nay, sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, vẫn còn đi trên mây. Nhiều người vẫn còn tin rằng sống ở Cuba thì cũng tương tự như sống ở Canada. Trong khi cổ vũ cho các khái niệm có tính nhân loại, như bình đẳng, tự do, thì họ lại tin rằng người dân Trung Hoa đang có đủ thứ quyền như họ. Vì vậy tôi hiểu được phần nào tình cảm và suy nghĩ của thế hệ anh những năm sáu mươi ở miền Nam tự do, một thế hệ trí thức đẹp, nhưng có nhiều người không tưởng, viễn mơ.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
-Tôi có một bài thơ, trong đó có câu
Vẽ tôi một nửa mặt người Nửa kia mê muội của thời hoang sơ Vẽ tôi một nét môi cười Một dòng nước mắt một đời phù du
Nguyễn Đức Tùng:
- Anh sinh ra trước 1954, nhưng lớn lên, đi học và đi dạy ở miền Nam. Ở Huế thời ấy anh có một vị trí tốt đẹp, được kính mến. Như thế người dân và chính quyền Huế có lẽ đối với anh đã có một thái độ ít nhất là không đến nỗi tệ lắm. Nhưng về phía anh thì anh nghĩ sao vế chế độ Việt Nam Cộng hòa? Anh có căm ghét nó không? Anh có những kinh nghiệm tốt hay xấu nào đối với miền Nam tự do?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Về mặt lý trí, tôi nhìn chế độ Việt Nam Cộng hòa qua hình ảnh người bạn thân của tôi là Chủ tịch Tổng hội sinh viên Lê Hữu Bôi bị giết trong vụ Mậu Thân.
Vì hắn là chủ tịch sinh viên nên tôi phải tìm cách để đánh đổ hắn. Nhưng về mặt tình cảm, thì cá nhân tôi không có chi ghét hắn. Hắn là người đi tu.
Trong chế độ Đệ nhị Cộng hòa thì tôi không bị ai bắt cả mặc dù tôi hoạt động trong phong trào sinh viên.
Nguyễn Đức Tùng:
- Anh chưa từng bị bắt?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Có một lần. Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm, tôi bị bắt trong kế hoạch Nước Lũ, của ông Ngô Đình Nhu, tháng 8 năm 1963. Một người bạn của tôi dạy ở đại học Y khoa Huế, trước đó có dạy ở Đại học Minh Đức, phải bán một phần tài sản đi để chuộc cho tôi ra.
Những người cực đoan, đòi chống cộng tới cùng, thường đồng hóa tôi với cộng sản. Nhưng tôi không phải như thế.
Không nên buộc tội tôi như vậy.
Nguyễn Đức Tùng:
- Anh được mọi người biết đến vì nhiều lý do, nhưng trước hết vì anh là một nhà thơ và một nhà văn viết bút ký tài ba. Anh cũng là nhà báo, đã từng chủ trương tờ Cửa Việt, đóng góp rất nhiều cho tờ Sông Hương. Anh nghĩ sao về nền văn học Việt Nam hiện nay?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Trước khi chúng ta trở lại nói chuyện về văn học nghệ thuật, tôi nhờ anh tóm tắt lại cho tôi ba điều với những độc giả sau này đọc bài nói chuyện của chúng ta hôm nay.
Nguyễn Đức Tùng:
- Thưa anh, đó là ba điều gì?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Thứ nhất là tôi không liên quan gì đến vụ Mậu Thân. Thứ hai, tôi rất mong muốn có một chính phủ hòa giải dân tộc. Trước đây tôi đã nghĩ như thế mà bây giờ tôi vẫn nghĩ như thế. Chính phủ hiện nay không phải là chính phủ hòa giải dân tộc, mà là chính phủ của thể chế cộng sản. Thứ ba, tôi không liên quan gì đến Đảng Cộng sản hiện nay cả. Họ không làm được những điều mà tôi mong ước ở họ. Họ không làm được những gì cho dân tộc như thời trẻ lúc đi kháng chiến chống Mỹ tôi đã từng kỳ vọng ở họ.
Nguyễn Đức Tùng:
- Đó là những kỳ vọng nào?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Có hai vấn nạn, một là vấn đề dân chủ, hai là vấn đề tham nhũng. Họ chưa làm được việc nào trong hai việc đó.
Nguyễn Đức Tùng:
- Chủ nghĩa Marx không thừa nhận khái niệm dân chủ như nhiều người hiện nay đang nghĩ, và tôi tuyệt nhiên không nhìn ra được cách nào để một nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể chia sẻ quyền lực cho những thành phần đối lập, và cho những giai cấp khác, mà không vi phạm nguyên tắc căn bản của chính họ, đó là chuyên chính vô sản.
Dĩ nhiên là chúng ta đang nói về lý thuyết.
Nhưng còn tham nhũng thì sao? Chính phủ hiện nay hình như đang rất có quyết tâm chống tham nhũng? Anh có tin rằng với thời gian mọi việc sẽ khá lên không?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Đảng không thể diệt được tham nhũng. Tôi đã suy nghĩ về vấn đề này sâu xa, và kết luận rằng Đảng không thể diệt được tham nhũng trong khi nó đang cầm quyền.
Nguyễn Đức Tùng:
- Anh thường nhắc đến khái niệm hòa hợp, hòa giải dân tộc. Ngày nay khái niệm này có còn giá trị nữa không?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Từ khi rời thành phố đi theo cách mạng, tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho đến nay, lúc nào tôi cũng chủ trương như vậy. Khái niệm đó không những vẫn còn giá trị mà mỗi ngày mỗi trở nên cần thiết hơn. Ngày trước nhờ có chính sách này mà Đảng Cộng sản đã đoàn kết được dân tộc.
Nguyễn Đức Tùng:
- Theo anh muốn hòa giải hòa hợp thực sự thì phải làm thế nào? Nhiều người nay không còn tin vào chuyện ấy nữa đâu.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Đánh giá lại lịch sử, quên đi quá khứ đắng cay thù hận, cần thực sự tôn trọng và thương yêu nhau.
Nguyễn Đức Tùng:
- Tôi nghĩ rằng đối với vấn đề hòa hợp dân tộc, tinh thần căn bản là tha thứ. Ở Huế, khắp ngã đường có chùa, mỗi cánh cổng một lời kinh, đó là chìa khóa vàng của khái niệm hòa hợp. Nhưng tha thứ không có nghĩa là quên lãng. Trái lại, đó là hiểu biết, tức là nhận ra sự thật từ hai phía, là không bôi xóa lịch sử.
Mỗi người cần suy nghiệm về sự thật, lầm lỗi, về quá khứ riêng chung, đánh giá đi đánh giá lại mỗi ngày, đặt mình vào vị trí của người khác trong “hai mươi năm nội chiến từng ngày”, cần nắm được sự thật trong tay trước khi có đủ tư cách để tha thứ cho người khác hay tự tha thứ cho mình.
Một dân tộc phải có trình độ văn hoá rất cao mới đủ khả năng làm điều này.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi lúc nào cũng thực tâm nghĩ đến việc những người ở các phe phái khác nhau cùng ngồi lại. Trong thời kì chiến tranh, có những xung đột, hận thù thì cũng nên bỏ qua, không nên tiếp tục buộc tội lẫn nhau.
Nguyễn Đức Tùng:
- Đã từng là người chủ trương tờ báo Cửa Việt, sau đó bị đóng cửa, anh nghĩ sao về tình hình báo chí ở Việt Nam hiện nay?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tờ Cửa Việt bị đóng cửa vì có người cho rằng nó quá cởi mở và đi chệch hướng, tờ Sông Hương cũng bị chấn chỉnh. Thời đó, cùng với tờ Văn Nghệ ở trung ương, đó là hai tờ báo địa phương đã góp phần tạo nên văn chương đổi mới. Việc đóng cửa tờ Cửa Việt là biểu hiện không tốt về nền tự do báo chí chưa trưởng thành. Tôi nghĩ là chúng ta cần thông cảm hơn với các nhà văn và nhà báo hiện nay. Họ viết rất khổ sở. Kẻ nào cho rằng họ không chịu một sức ép nào cả là không đúng đâu.
Nguyễn Đức Tùng:
- Trong văn xuôi, tôi chú ý nhiều hơn đến những bài nhàn đàm có tính chất tiểu luận của anh, viết sau này. Khác với nhiều người, tôi tin là khi hoàn cảnh lịch sử của chúng ta thay đổi, chúng sẽ ở lại lâu dài trong lòng người đọc hơn những bài bút ký về chiến tranh của anh. Anh có một hoặc hai bài rất hay viết về quẻ Dịch, tôi đọc đã lâu nên không nhớ rõ lắm. Đó là bài nói về hai quẻ cuối cùng của Kinh Dịch, Thủy Hỏa Ký Tế và Hỏa Thủy Vị Tế. Tế là vượt qua sông. Ký Tế là đã vượt qua, việc đã thành tựu. Vị Tế là chưa qua sông, chưa thành. Có phải năm 1975, cách mạng và chiến tranh Việt Nam mà anh là một thành phần tích cực trong đó, đã vượt qua sông, đã ký tế?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Qua sông rồi mà vẫn chưa xong. Đó là bài học lớn của Kinh Dịch nói về lẽ trời đất sinh sinh hóa hóa. Vận mệnh thịnh suy, đường thế gập ghềnh, người đi tới cuối cuộc lữ hành, rồi thở phào nhẹ nhõm ở quẻ Ký Tế. Tưởng rằng việc đã xong, nợ đời đã trả, chỉ còn một bước nữa thôi là hoàn tất. Ngờ đâu sau cái bước ấy lại là quẻ Vị Tế, lại phải khởi đầu. Một dòng sông khác lại hiện ra trước mặt.
Nguyễn Đức Tùng:
- Tôi nghĩ rằng “một dòng sông khác lại hiện ra trước mặt” thật ra đã có sẵn từ lúc khởi đầu của cuộc hành trình. Trong bài viết ấy, anh có ý nói về cá nhân hay nói về việc chung?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi muốn nói về cả hai.
Nguyễn Đức Tùng:
- Anh chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1987. Hiện nay anh có phải là đảng viên không?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi đã thôi sinh hoạt đảng ba năm sau đó.
Lâm Thị Mỹ Dạ:
- Nhưng anh ấy cũng không có giấy tờ gì chính thức.
Nguyễn Đức Tùng:
- Chị Lâm Thị Mỹ Dạ vừa mới kể với tôi rằng lúc đó có người bạn của anh than phiền trong lúc người ta tìm cách xin ra khỏi đảng thì anh lại tìm cách xin vào.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi muốn chứng minh rằng tôi trung thành với niềm tin thời tuổi trẻ, và với lý tưởng cộng sản của tôi.
Nguyễn Đức Tùng:
- Trong bài thơ tặng Irina Zisman, anh viết:
Đùa thôi nhé, thiên đường mộng ảo Thế giới vỡ tan ngoài chân mây Anh muốn nói số phận của chính mình?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi vừa nói về lý tưởng của tôi thời trẻ tuổi, lý tưởng mà chủ nghĩa Marx đã mang lại, nhưng tôi cũng muốn nói về giấc mơ chung của con người. Ai mà không có ước mơ của mình, khi về già như tôi đây thì thấy bao nhiêu điều không phải như mình nghĩ, mà lúc còn trẻ thì cứ khẳng định một trăm phần trăm là đúng, mới nghiệm ra rằng cuộc đời nửa hư nửa thực.
Nguyễn Đức Tùng:
- Tôi vừa được đọc trọn vẹn tuyển tập bốn cuốn của anh do nhà xuất bản Trẻ (2002) in rất đẹp, đóng bìa cứng. Tập 1 là tùy bút và tiểu luận mà anh gọi là nhàn đàm, tập 2 và tập 3 là bút ký, tập 4 là thơ. Nhiều trang viết đẹp như mơ nhưng cũng có nhiều chi tiết trong bút ký mà tôi cảm thấy nghi ngờ và rất mong được gặp tác giả tận mặt để trao đổi lại sau này.
Lâm Thị Mỹ Dạ:
- Tuyển tập ấy nhờ có anh Trần Thức là người rất hăng hái tuyển chọn, tập hợp bài vở, vận động mới được.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi cũng rất mong có dịp trao đổi với độc giả và với các nhà phê bình như anh Nguyễn Đức Tùng. Văn học chúng ta ít có cơ hội để tác giả được dịp thảo luận trực tiếp với nhà phê bình như thế này, về những vấn đề xã hội và văn chương mà tôi đoán rằng mọi người đều quan tâm.
Nguyễn Đức Tùng:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong vài người viết bút ký và tùy bút hay nhất nước, có thể đặt tên anh bên cạnh Nguyễn Tuân, Võ Phiến, Vũ Bằng, Phan Nhật Nam không chút do dự. Nhưng viết bút ký là một trò chơi có phần nguy hiểm: Nó chính là sự thật hay chỉ là hư cấu của tác giả? Bao nhiêu phần trăm là sự thật, bao nhiêu là tưởng tượng? Trách nhiệm làm chứng của nhà văn là ở đâu?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Nhiều người cũng cho rằng ký chỉ là hình thức phóng sự, ghi chép, nhưng tôi cho rằng ký có thể trở thành một loại hình văn học có tính sáng tạo, cũng như truyện ngắn, tiểu thuyết. Vì vậy tôi đã dành nhiều thời gian cho ký và may mắn được nhiều anh em lấy làm thích và khuyến khích. Nếu ký là văn học thì phải nhìn nó như một tác phẩm sáng tạo văn học.
Nguyễn Đức Tùng:
- Nghĩa là các sự kiện trong đó không thể tin cậy như các tài liệu lịch sử?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Rất khó trả lời câu hỏi của anh. Nhưng tôi cho rằng đọc văn chương, không thể hoàn toàn như đọc các tài liệu khoa học được, vì ký cũng là một thể loại văn học.
Nguyễn Đức Tùng:
- Về thời gian, anh chỉ viết nhiều trong khoảng từ 1975 đến 1990.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Anh nói đúng. Đó là thời kỳ tôi dành nhiều thời gian hơn cả cho việc viết. Trước đó thì bận nhiều công việc, cũng chưa đủ thời gian tích lũy.
Nguyễn Đức Tùng:
- Xa Huế, xa nhà, anh có nhớ bạn bè, học sinh, nhớ Tuyệt tình cốc, nhớ ngôi trường Quốc học hay mối tình nào đó của anh không?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
(Cười) - Nhớ chứ. Nhưng tôi là người hoạt động nên cũng phải nén lòng mình xuống.
Nguyễn Đức Tùng:
- Trong cuốn sách Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng tử Bé anh mới viết gần đây (2004), anh có kể rằng anh và Trịnh Công Sơn cùng học một lớp ở trường tiểu học, sau đó hai người vẫn còn gặp nhau nhiều lần nữa như hai người bạn. Thời kỳ anh ở thành phố, chưa vào bưng, thời kỳ Trịnh Công Sơn đệm đàn cho Khánh Ly hát trên sân trường đại học miền Nam, có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi, và cả thời kỳ sau 1975.
Tình bạn của anh và tác giả Ru ta ngậm ngùi, có cay đắng, có thăng trầm lắm không?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi lúc nào cũng coi Trịnh Công Sơn là người bạn thân. Mỗi người quyết định đi một con đường riêng, có lúc tưởng không bao giờ gặp nhau được nữa, nhưng rồi cũng lại gặp nhau. Quá khứ là tài sản quý báu của một đời người, cái còn lại sau cùng không bao giờ thay đổi.
Nguyễn Đức Tùng:
- Cũng trong cuốn sách ấy, anh có viết rằng một nền nghệ thuật đánh rơi mất nỗi cô đơn của phận người chưa phải là một nền nghệ thuật hoàn hảo.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Đó là tôi viết về âm nhạc Trịnh Công Sơn, nhưng suy nghĩ ấy cũng có tính cách tổng quát đối với cả nền văn học nước ta, nhất là dòng văn học cách mạng.
Nguyễn Đức Tùng:
- Thời gian đi vào rừng, anh cho là đẹp. Còn thời gian trước đó, lúc anh đi học và đi dạy ở miền Nam thuộc Việt Nam Cộng Hòa, có phải cũng là một trong những thời kỳ đẹp nhất của anh không?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Đối với tôi, đó là thời kỳ rất đẹp, đáng nhớ, đáng quý.
Nguyễn Đức Tùng:
- Khi trở về A Sao, anh viết:
Chợt giật mình những tháng năm lơ đãng Anh biết đâu em khóc em cười
Trở về chiến khu nơi anh sống những ngày hào hùng, lòng anh có vui không, trong khi thơ anh lại có vẻ buồn?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Đúng là nửa vui nửa buồn. Mất mát của chiến tranh. Mất mát một phần đời mình cho nó. Cái được cũng bằng cái mất. Trong ký tôi cũng có viết về mảnh đất A Sao.
Nguyễn Đức Tùng:
- Trong thể ký và tùy bút, anh quan tâm đến nhiều vấn đề, thay đổi rất nhiều văn phong, ví dụ viết về Huế thì nồng nàn sâu lắng, viết về bóng đá thì triết lý, viết về công nương Diana bạc mệnh thì thanh khiết. Anh lấy đâu ra những kiến thức như thế? Anh có lời khuyên nào đối với các nhà văn mới viết?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tôi là người mê đọc sách từ nhỏ. Chương trình Đại học Sư phạm và Đại học Văn khoa của miền Nam trước đây dạy tôi nhiều điều, rồi sau này vừa đi vừa đọc vừa tìm hiểu. Những nhà văn trẻ hiện nay có nhiều người cũng đọc, nhưng đa số hình như ít đọc hơn thời trước. Đó là điều đáng tiếc.
Nguyễn Đức Tùng:
- Thưa chị Lâm Thị Mỹ Dạ, là một nhà thơ nổi tiếng, lại là người bạn đời của anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, chị có thể nói vài lời được chăng?
Lâm Thị Mỹ Dạ:
- Hôm nay xin dành cho anh Tường, chúng mình sẽ có dịp khác. Nếu nói về anh Tường thì tôi xin nói rằng tôi đã sống nhiều năm với anh ấy và hiểu rất rõ. Đó là một người tốt nhưng chỉ quan tâm tới công việc, mà không quan tâm gì tới vợ con.
Như một người đàn bà, tôi sống với anh ấy rất là khổ.
Nguyễn Đức Tùng:
- Xin chị nói thêm về bản thân mình.
Lâm Thị Mỹ Dạ:
- Tôi quê ở Lệ Thủy, Quảng Bình. Cha tôi vào Nam trước năm 1954, mẹ tôi lọt lại một mình ở lại nuôi con. Chúng tôi có hai đứa con gái, một cháu là Hoàng Dạ Thi đã lấy chồng được qua định cư ở Mỹ, bây giờ chỉ còn hai vợ chồng ở với nhau. Mọi việc gì đều nhờ đến tay bạn bè thân thiết của anh Tường.
Nguyễn Đức Tùng:
- Chị đã từng viết:
Cuộc đời em đơn thân đến nỗi Chưa bao giờ em tựa vào anh Và vì thế em âm thầm sống Tựa vào chính mình trĩu nặng, đớn đau
Lâm Thị Mỹ Dạ:
- Mình biết làm sao được, vui ít, buồn nhiều. Cái an ủi lớn nhất của mình là anh Tường rất thành thật, tính hồn nhiên nhiều khi như trẻ con. Có lần đi uống rượu gặp một cô tiếp viên nhà hàng, cô ấy than thở với anh là không có tiền nuôi mẹ phải bỏ quê lên tỉnh đi làm nghề không xứng đáng. Anh ấy liền cởi cái đồng hồ quý được một người bạn tặng đem cho cô ta. Mấy người bạn phải năn nỉ bà chủ quán để lấy lại, nhưng anh ấy nhất định không chịu, nói là đã cho rồi thì không lấy lại nữa.
Nguyễn Đức Tùng:
- Có một người đàn ông như thế thì ít ra có thể lấy làm an ủi rằng sự hy sinh của chị cũng có phần xứng đáng, không đến nỗi phí hoài.
Nước mắt lặn vào trong cho anh thấy nụ cười Bệnh tật lo toan giấu vào đêm trắng Giữa tháng ngày trĩu nặng Em đứng thẳng người Cho anh tựa vào em.
Lâm Thị Mỹ Dạ:
- Chăm sóc anh Tường trong những ngày ngã bệnh là nhờ sự giúp đỡ và thuốc men, công lao rất lớn của bè bạn khắp nơi, chứ một mình tôi cũng không làm gì được. Bây giờ anh ấy đã từ từ hồi phục một phần, viết được trở lại. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của mình đến tất cả những người bạn chung của hai chúng tôi.
Nguyễn Đức Tùng:
- Một hôm về Sài Gòn, buổi chiều tối tìm đến quán cà phê gần Đại học Vạn Hạnh trên đường Trương Minh Giảng vì nhớ Hoàng Thị Hạnh, người nữ sinh viên tóc xõa ngang vai năm cũ, tôi tình cờ được nghe một ca khúc phổ nhạc thơ anh. Bài hát bồi hồi xúc động.
Có buổi chiều nào như chiều xưa Anh về trên cát nóng Đường dài vành môi khát bỏng Em đến dịu dàng như một cơn mưa
Vết thương nào cố che khuất cũng sẽ bị nhiễm trùng, cần mở chúng ra, rửa sạch, khâu vá lại, rồi cùng nhau vượt qua phiền não, đó là mới thật sự là khởi đầu của hàn gắn. Tôi tin vào sự cứu chuộc của tình yêu và tha thứ.
Những câu thơ có thể anh đã viết riêng cho chị Mỹ Dạ. Mà người viết khi đọc lại cũng còn hạnh phúc.
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Cám ơn anh đã nhớ những câu thơ của tôi. Điều đó làm tôi thật cảm động.
Nguyễn Đức Tùng:
- Xin cảm ơn và chúc anh chị sức khỏe, bình an. |
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn Sat 23 Jan 2016, 13:10 | |
| CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN Nhật Tuấn
(Kỳ 12)
NHÀ THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Vào những ngày Đại hội nhà văn VN lần thứ 7, tháng 4 năm 2005 tại Hà Nội, trong các cuộc nhậu có nhà thơ, nhà văn Trần Ninh Hồ, Nguyễn Hồ, Trần Công Tấn, Mường Mán… thường “buôn chuyện” về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi đó đang là Trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương.
Chuyện “buôn” rằng đồng chí Nguyễn Khoa Điềm thông minh dĩnh ngộ từ nhỏ. Hồi năm 7 tuổi, trong bếp có “trách” * cá nục kho. Bé Điềm thèm quá, đành ăn vụng, sau sợ bị mắng nên rắc vài mẩu cá từ chỗ để cái “trách” tới gầm trạn để vu cho… con mèo ăn vụng cá. Dựng “ hiện trường giả” từ tuổi nhi đồng vậy, quả nhiên sau này làm nên nghiệp lớn.
Chuyện “buôn rằng” hồi chiến tranh chống Mỹ ở trên rẫy A Sầu, A Lưới mọi thứ đều thiếu thốn, cán bộ đói lắm, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thường cùng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đốt rẫy bắt con “rít” (rết) nướng ăn, ngon không thua gì... tôm nướng. Một hôm hai đồng chí phát hiện ra cái… hang chuột. Eureka… một bữa chuột nướng tuyệt vời. Thế là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường quạt lửa hun khói một đầu hang, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lăm lăm cầm con rựa (dao) đứng chờ cuối hang, chuột chạy ra là… chém. Hai nhà bác cứ chờ, chờ mãi chẳng thấy con chuột nào chạy ra. Sau cùng một ông già Vân Kiều đi qua vỗ vai Nguyễn Khoa Điềm:
“Họ đi rồi… họ còn ở đó thì không tìm được nhà của “họ” đâu…”
Ý cụ muốn nói chuột đã chạy rồi, nếu còn ở đó thì không phát hiện được ra hang của nó đâu. Chuyện này có lẽ ám vào đồng chí Nguyễn Khoa Điềm khiến suốt cả thời kỳ giữ chức Trưởng ban văn hóa tư tưởng đồng chí chẳng chém được con “chuột” nào, chúng nó lẩn hết đâu mất.
Thời nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm làm trùm tư tưởng văn hóa, không khí sáng tác không được “hồ hởi, phấn khởi” lắm, khiến ngay trong Đại Hội Nhà Văn Việt Nam lần thứ VII, tại Hội Trường Ba Đình - Hà Nội chiều ngày 23 – 4 - 2005, nhà thơ Trần Mạnh Hảo nhảy lên diễn đàn than thở:
“Vâng, tự do sáng tác là khi ngồi trước trang giấy, nhà nghệ sĩ là Chúa Trời sáng thế. Anh tuyệt nhiên không được phép để một ám ảnh sợ hãi nào quấy nhiễu mình. Ví như anh còn phải day dứt viết thế này, viết thế nọ mới được duyệt in; rằng đang có bao nhiêu đôi mắt soi mói vô hình kiểm duyệt anh từ xa ví như viết xong một câu văn là cứ phải mắc bệnh tương tư, nhớ đến anh Khổng Minh Dụ (thiếu tướng công an - Cục trưởng Cục Bảo vệ tư tưởng văn hoá (A 25 Bộ Công An), Đỗ Kim Cuông (Vụ trưởng Vụ Văn Nghệ Ban tư tưởng văn hoá Trung Ương), Trịnh Đình Khôi (chuyên viên cao cấp Ban Tư tưởng Văn Hoá Trung Ương phụ trách theo dõi Hội Nhà Văn VN), Nguyễn Đình Nhã (Cục trưởng Cục xuất bản – Bộ Văn hoá Thông tin), Vũ Duy Thông (Cục trưởng Cục báo chí Ban Tư Tưởng Văn hoá Trung Ương) , nhớ mấy anh canh cửa phê bình, nhớ anh giám đốc duyệt bài, anh biên tập viên cầm hai tay hai cái kéo, nhớ anh duyệt lưu chiểu hồi này với máy dò câu chữ nghe đồn còn kỹ hơn máy dò hành lý hải quan; thì than ôi, bằng ấy cơ chế kiểm duyệt đè nặng lên tâm lý sáng tạo của anh, nên “vừa viết vừa run” như thế; nghĩa là anh vừa viết vừa tự thiến đứa con tinh thầm của mình, cho khi ra đời nó không được có cơ hội cuồng lên vì phát dục, xóa hết bản năng sinh tồn bùng sôi của nó đi, đẽo gọt chân nó sao cho vừa với đôi giày “chính trị” đi, thì nhà văn ơi, tự do sáng tác ơi, ta chào mi, vì mi quá nhiêu khê, quá rách việc, quá nhiều cơ quan và nhiều cá nhân quyết định việc sống còn của ngòi bút mi theo kiểu nhiều cha con khó lấy chồng. Quá nhiều người gác cửa, có thể bất cứ lúc nào vui thì cho anh qua, buồn thì giữ anh lại khám xét, lục vấn, xử lý cấm cản tuỳ tiện vô nguyên tắc như từng thô bạo xử lý bao nhiêu nhà văn, bao nhiêu tác phẩm chết oan vì vừa ra đời đã bị bóp mũi.”
Một tổng kết về “tự do sáng tác” như vậy hẳn rát mặt ngài trưởng ban tư tưởng văn hóa. Vào khoảng năm 1994 , tôi cùng ông anh ruột sống ở Sàigòn trước 1975 nay định cư ở Mỹ, nhà văn Nhật Tiến “hưởng ứng chủ trương hòa giải hòa hợp dân tộc” ra chung tập truyện ngắn “Quê nhà, quê người” – Nhật Tiến viết phần “Quê người”, tôi viết “Quê nhà”. Bản thảo gửi NXB Văn Học, trầy trật mãi không xin được giấy phép. Nghe nói có ông lãnh đạo chửi “Mẹ nó, thằng Việt kiều (ý nói Nhật Tiến) thì viết y như Việt cộng, còn thằng Việt cộng (ám chỉ tôi) thì lại viết như… Việt kiều (!)". Cuốn sách tưởng bế tắc, không xuất bản được. Sau nghe nói đồng chí Nguyễn Khoa Điềm có ý kiến sao đó, cuốn sách lại có giấy phép tuy nhiên kèm theo yêu cầu là sách được xuất bản nhưng cấm không được tuyên truyền trên các báo. Báo hại phóng viên một số tờ báo sửa soạn phỏng vấn nhà văn Nhật Tiến đều phải rụt lại hết.
Thế rồi sang năm 2000, khi Nguyễn Khoa Điềm trúng cử Ủy viên Bộ chính trị , Trưởng ban tư tưởng văn hóa thì liền sau đó cuốn “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn bị cấm, phải xay thành giấy vụn.
Cùng lúc với “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, một cuốn sách khác cũng bị dìm chết tức tưởi khi mới xuất xưởng in mà dư luận dường như không hề biết tới: cuốn “Những người con của đất” – NXB Văn học của Đỗ Bàn.
Cuốn sách viết về thời kỳ đổi mới những năm tám chín mươi ở một tỉnh miền núi nghèo đói. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã gây nên tình trạng đấu đá tranh giành quyền lực trong Đảng. Ông Duy đại diện cho phái tân tiến, có học, cần phải đổi mới gấp, chịu làm, năng động muốn phá vỡ cơ chế hiện tại. Ông Bí thư Tỉnh phái ôn hoà, làm hay không làm cũng chưa chết ai, cứ đợi đấy. Ông Trịnh Giám đốc công an Tỉnh ở phái bảo thủ cơ hội, chờ thời tiêu diệt những người coi thường mình.
“Tao vô học nhưng tao phải là tao, chúng mày thích “tự cởi trói cho mình trước khi trời trói”, thì hãy đợi đấy!”
Một xã hội lùng nhùng, một nền kinh tế lùng nhùng, chỉ có thằng nói không có thằng dám làm? Nghị quyết, chỉ thị, nghị định, quy chế… chỉ là những văn bản cho bọn cơ hội bóp chết người trung thực dám làm và dám chịu trách nhiệm. Văn bản chỉ thị của Tỉnh thay đổi xoành xoạch: bắt dân phá rau, hoa, chè, cà phê trồng khoai lang, cao lương… khi thất bại đành bán rừng đổi gạo cứu đói và một loạt sai phạm đó lại dội vào đầu những người thực hiện.
Trong một thời gian ngắn, Giám đốc công an Trịnh đã bắt ngót trăm giám đốc của các đơn vị kinh tế trong tỉnh, từ ngành chè, cà phê, lâm nghiệp, thương nghiệp… có người đáng bậc cha chú, đàn anh của mình, có người đồng chí trong những ngày Trịnh truy quét Fulrô… bắt và bắt làm cho cả tỉnh rúm ró lại. Những người như ông Duy chỉ còn biết thở dài ngao ngán, còn ông bí thư thì như bù nhìn “rằm cũng ừ mười tư cũng gật”. Một xã hội công an trị đến ngộp thở, bị bưng bít tới cùng đường thì còn gì là cuộc sống.
“Những người con của đất” là tiếng nói cảnh tỉnh của những con người trung thực thẳng thắn, sống hết mình vì nhân dân, đã bị hào quang của đảng qua những kẻ dối trá làm mờ mắt mà hy sinh tính mạng một cách vô ích. Nhưng đất vẫn là đất, ai cũng phải sống rồi chết trên mảnh đất này, những kẻ độc ác, cơ hội, tham lam rồi sẽ bị đất huỷ hoại không thương tiếc.
Khi cuốn sách được phát hành cùng thời với cuốn “Chuyện kể năm 2000” của nhà văn Bùi Ngọc Tấn, Giám đốc Trịnh đã tìm mọi cách cấm phát hành, làm việc với các ngành pháp luật của tỉnh để truy tố người viết… Lúc đó tôi là Trưởng Chi nhánh phía Nam Nhà xuất bản Văn Học, đành phải im lặng tiến hành thủ tục “thu hồi sách”. Sách bị giam cầm, người viết như tù giam lỏng trong thời ông Nguyễn Khoa Điềm ngồi chót vót trong ngành văn hóa tư tưởng.
Sang năm 2003 lại một vụ “cấm sách” dưới triều ông Nguyễn Khoa Điềm. Lần này động trời hơn vì tác giả bị cấm lại là ông nhà văn nổi tiếng ca ngợi cách mạng: Nguyễn Khải, lúc đó là Phó Chủ tịch Hội nhà văn VN, đại biểu quốc hội khóa 8. Hơn thế, cuốn sách đã đăng nhiều kỳ trên tạp chí Nhà văn, nhưng đến khi in thành sách thì lại… cấm phát hành. Thực ra cuốn “Thượng đế thì cười” chẳng chửi Đảng cũng không bôi đen chế độ, nó chỉ có mỗi tội kể chuyện đại biểu quốc hội… ngủ gật.
Chương 22, Nguyễn Khải huỵch toẹt chuyện quốc hội:
“Trong suốt một nhiệm kỳ Quốc hội khoá 8 hắn chỉ phát biểu có một lần về những điều bổ sung cho Luật Báo chí. Hắn đề nghị Quốc hội xem xét cho ra báo tư nhân và nhà xuất bản tư nhân để đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của một xã hội văn minh. Hắn vừa ngồi xuống thì bà T. cũng là đại biểu của thành phố Hồ Chí Minh, nguyên là một nữ luật sư danh tiếng của Sài Gòn trước đây, một thượng nghị sĩ trong phe đối lập với chính quyền Thiệu, đứng lên phản đối liền. Bà nói, đại ý, rằng hắn chưa từng sống trong xã hội tư bản nên mới ngộ nhận là ở đó có tự do báo chí! Không có đâu! Danh nghĩa là báo của tư nhân nhưng nguồn tài trợ thường xuyên để nuôi sống nó luôn luôn là của các tổ chức chính trị, tôn giáo, nghề nghiệp đầy quyền lực… Bà vừa dứt lời tiếng vỗ tay đã vỡ ra vang dội và kéo dài khắp hội trường. Ông chủ quyền lực bắt đầu ghét hắn từ ngày ấy, đã muốn đuổi hắn ra khỏi cơ quan quyền lực từ ngày ấy. Rồi hắn lại ngủ gật nữa. Trong những phiên họp tranh cãi sôi nổi về một từ, một câu trong những điều luật bổ sung của Bộ luật Hình sự, thì hắn ngủ gục, đầu vẫn ngay, lưng vẫn thẳng nhưng đầu óc đã trống rỗng, mờ mịt, người ngồi cạnh phải hích nhẹ hắn mới bừng tỉnh. Một ông nghị gật như các báo vẫn chế giễu các ông nghị bản xứ thời Pháp thuộc.…”
Sách in xong bị cấm phát hành nhưng cũng còn may không bị đốt như “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, sau một năm nằm kho, cấp trên mới ra điều kiện muốn “giải tỏa” cuốn sách thì phải cắt bỏ cái đoạn “đại biếu quốc hội ngủ gật” .
Nguyễn Khải tâm sự:
“Tôi thấy đoạn kể chuyện ngủ gật ở Quốc hội cũng chỉ là chuyện nói vui, còn nhiều chuyện khác có ý nghĩa hơn, chỉ vì đoạn này mà cuốn sách không thể tới được tay bạn đọc thì cũng tiếc nên tôi đồng ý cắt một trang. Anh em bảo thế là không hay, cái ông Khải này lúc nào cũng nhân nhượng. Thật sự tôi thấy điều ấy cũng không phải là quan trọng nhất, cắt bỏ đi cũng chả ảnh hưởng gì đến quyển sách.”
Trong mấy ngày giáp tết Ất Dậu, ông Nguyễn Khoa Điềm làm một việc xưa nay một ông Trưởng ban văn hoá tư tưởng của Đảng chưa bao giờ làm là tới tận nhà riêng chúc tết một số… nhà báo. Và cũng trong một cuộc Hội thảo về công tác phê bình lý luận, tháng 11 năm 2004 tại Hà Nội ông Nguyễn Khoa Điềm có những phát biểu mới mẻ xưa nay các ông Trưởng ban văn hoá tư tưởng của Đảng chưa dám nói bao giờ.
Nói thế nào thì nói, qua những hành động đó người ta thấy một sự cải thiện hình ảnh ông trùm văn hoá văn nghệ Việt Nam xưa nay vốn vẫn bị coi là một “ông kẹ” luôn luôn cầm roi uốn nắn tư tưởng khắp bàn dân thiên hạ.
Ấy vậy rồi xảy ra một việc động trời chưa từng thấy “trên mặt trận văn hoá và tư tưởng“. Một nhà “phê bình lý luận “nổi tiếng Mao-ít ở TP Hồ Chí Minh là Giáo sư Trần Thanh Đạm, trên tạp chí “Văn” số Tết Ất Dậu của Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh đã viết một bài nảy lửa đả phá một số quan điểm mới mẻ của ông Nguyễn Khoa Điềm làm người đọc bật ngửa về sự mạo phạm cấp trên, cả gan vuốt râu hùm, công khai phê phán lãnh đạo Đảng ngay trong dịp kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng.
Ngay trong phần mở đầu dài dòng đầy những nguyên tắc mácxít cứng nhắc, ông Trần Thanh Đạm đã khen xỏ đồng chí Trưởng ban văn hoá tư tưởng:
”Diễn giả (tức NKĐ) không chỉ nói lên các ý kiến của mình với tư cách một nhà thơ, một người nghệ sĩ, ngoài các tư tưởng có tính cách chỉ đạo, còn có những ý tưởng riêng có tính cách cá nhân… làm bài phát biểu bớt đi tính áp đặt mà tăng thêm tính gợi mở, khuyến khích suy nghĩ và thảo luận…”
Thực ra đã là lãnh đạo Đảng trên bất cứ trận địa nào, khi phát biểu trước quần chúng lúc nào cũng phải mang tính cách huấn thị và chỉ được nói những quan điểm của Đảng mà thôi, sao “đồng chí” dám phá lệ gài “ý kiến cá nhân” vào đó? Thật là một câu phê bình chết người đối với lãnh tụ Đảng và chính vì lo cho Đảng, vì “bảo vệ Đảng” nên một quần chúng cách mạng như Giáo sư Trần Thanh Đạm phải “thí mạng cùi” nhảy ra vạch trần “những ý kiến cá nhân sai trái” của đồng chí Trưởng ban tư tưởng văn hoá để bảo vệ đường lối mác xít của Đảng. Tinh thần của Giáo sư Trần Thanh Đạm thật dũng cảm ghê gớm chưa?
Trong bài phát biểu của mình, ông Nguyễn Khoa Điềm thẳng thắn thừa nhận:
“Đúng là lý luận văn học của ta còn nhiều bất cập và thiếu hụt. Do hệ thống lý luận văn học này được sản sinh trong môi trường của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây…”
Trần Thanh Đạm cãi lại thủ trưởng:
“Đúng là lý luận văn học của chúng ta trước đây chịu ảnh hưởng của các thành tựu lý luận văn học từ các nước xã hội chủ nghĩa (trước hết là Liên xô)… song nói rằng lý luận văn học của ta sản sinh ra trong môi trường đó thì chỉ đúng có một phần…”
Rồi ông ta cho rằng:
“Nền lý luận văn học của ta… sản sinh ra từ đường lối lý luận và thực tiễn của cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ 1930 và sớm hơn, từ đầu thế kỷ 20, thể hiện trong các văn kiện của Đảng: Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm văn Đồng, Tố Hữu qua các đại hội văn nghệ và đại hội nhà văn, các tác phẩm lý luận của các nhà văn, nhà thơ lớn của chúng ta trong thế kỷ 20 như: Hải Triều, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh… và các nhà lý luận ưu tú khác…”
Trưng ra các cây đa cây đề trong “nền phê bình lý luận cách mạng” theo cái lối mang ngoáo ộp ra doạ con nít, Trần Thanh Đạm có ý hạch tội rằng nói như Nguyễn Khoa Điềm thì còn đâu là tính sáng tạo và tính độc lập tự chủ của Đảng ta xưa nay vẫn được tuyên truyền rầm rĩ ra cả thế giới nữa.
Sau khi trưng ra ý kiến phát biểu của Nguyễn Khoa Điềm về lý luận văn học:
“Hệ thống lý luận văn học của ta do phải tập trung cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội mà phần nào bỏ quên hoặc tránh đi những đặc trưng văn học, những vấn đề rộng lớn của văn chương và của con người …”
Ông Trần Thanh Đạm dám lên giọng “xách mé”:
“Có lẽ khó quan niệm một chủ nghĩa xã hội gì mà văn học lại bỏ quên hoặc tránh né các vấn đề rộng lớn của văn chương và con người?… Một chủ nghĩa xã hội như vậy còn xứng đáng được gọi là chủ nghĩa xã hội được hay không?… Thực tế nước ta mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn phải “ tập trung cho giải phóng dân tộc, đánh thắng đế quốc xâm lược “không thể phát triển và xây dựng một nền văn học như trong hoà bình”… thế nhưng nói rằng chúng ta né tránh hoặc bỏ quên các vấn đề đó thì không đúng…” Táo tợn hơn, Trần Thanh Đạm phê phán sếp lớn:
“Tôi cho rằng lý giải các yếu kém thiếu hụt của lý luận văn học chúng ta như diễn giả đã làm là có phần hời hợt, sơ lược, chủ quan, không trên cơ sở một nhận thức lịch sử thật chu đáo, thận trọng…” rồi cả doạ nạt:
“Kết cục của diễn biến hoà bình trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá là bạo loạn lật đổ trên lĩnh vực chính trị xã hội. Những người cầm cờ, cầm lái không thể mơ hồ trong nhận thức của mình…”
Quả thực xưa nay, chưa ai dám công khai dạy dỗ “lãnh đạo Đảng“ trên phương tiện báo chí của Đảng nặng nề thế này. Trong bài phát biểu của Nguyễn Khoa Điềm có một luận điểm khá mạnh dạn, mới mẻ:
“Lâu nay trong quan hệ giữa nội dung và hình thức chúng ta chỉ chú trọng những mặt nội dung mà xem nhẹ yếu tố hình thức, như vậy là chúng ta mới đề cập mặt xã hội của văn chương mà chưa thấy yếu tính của văn học là ngôn ngữ nghệ thuật…”
Sự thực, đây là một sự thừa nhận rất đáng biểu dương đối với một nhà lãnh đạo văn hoá văn nghệ cộng sản. Tuy nhiên đối với các lý luận gia “mác xít đến chiều” như Trần Thanh Đạm thì sự thừa nhận đó là đi chệch đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng cần kéo còi báo động:
“Diễn giả đã “vơ đũa cả nắm” khi dùng đại từ “chúng ta“ ở đây, nếu nói “một số người trong chúng ta“ thì còn nghe được. Đó là những kẻ cơ hội, giáo điều, thậm chí ngu dốt trong văn học nghệ thuật …”
Ô hô, nói vậy khác nào chửi sếp lớn là cơ hội, giáo điều, ngu dốt?
Hẳn ai cũng biết, những cây bút “quốc doanh” đặc biệt lý luận phê bình cả đời chỉ quyết làm cháu ngoan bác Mao, sống chết với tinh thần văn nghệ Diên An chẳng mấy thiện cảm với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - người cứ thích nói ngược những gì thiên hạ nói xuôi.
Trong con mắt các lý luận gia mác xít hơn cả cộng sản như Mai Quốc Liên, Trần Trọng Đăng Đàn, Trần Thanh Đạm… Nguyễn Huy Thiệp như một kẻ có tội, một con chiên ghẻ cần rút phép thông công, một kẻ “ngoại tình” cần ném đá, một tên “ăn cơm cộng sản thờ ma Việt kiều”…
Vì sao Thiệp trở thành “phần tử nổi cộm”, cái gai trong con mắt giới lý luận bảo thủ cực đoan như vậy? Thưa rằng xưa nay Thiệp vốn “ăn lộc” tối đa của Nhà nước, suốt một thời đổi mới cho đến nhiều năm sau, cả bộ máy tuyên truyền của Đảng “bốc thơm” Nguyễn Huy Thiệp lên mây xanh, trao “cây bút vàng” cho Thiệp trên khắp các mặt báo chí, sách, điện ảnh, truyền hình làm lu mờ cả những giá trị văn chương “cây đa cây đề “. Ăn “lộc Đảng” nhiều vậy mà xem ra Thiệp không chịu ca ngợi Đảng lấy một câu gọi là ghi nhận mình cũng từ cái nôi văn hoá xã hội chủ nghĩa chui ra.
Đã không “trả nghĩa” cho Đảng thì chớ, Thiệp ngày càng ngoa ngoắt xỏ xiên. Bỏ qua những lỗi bôi bác lịch sử hoặc bôi đen xã hội như chuyện con dâu ông tướng hưu nhét cả thai nhi nấu cho chó ăn, trong vở kịch “Suối nguồn êm dịu” vốn được bà Thuỵ Khuê ở đài RFI “tôn vinh” là “nhà thạch học”, tức sử gia không viết lên giấy mà khắc vào đá, Thiệp đã chơi lại cái mẹo “biểu tượng hai mặt” của Nhân Văn ngày trước, bôi bác nhân vật lãnh tụ trong một xã hội “toàn trị” và bóng gió đề cao “Ông 2000” dễ thấy là biểu tượng của “ông” “Hiến chương năm 2000” mấy năm trước được phát động rầm rộ ở Paris đòi dân chủ, đa nguyên.
Không kể chuyện “đánh võ mồm” như trả lời phỏng vấn ở Pháp “ói mửa vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, trong truyện vừa “Tuổi 20 yêu dấu”, ông Thiệp chửi tuốt luốt cả từ nhà trường tới quốc hội, và trong “Chuyện trò với hoa thuỷ tiên”, Thiệp gọi đám nhà văn trong nước là bọn “giặc già” vừa bất tài, vừa tham lam vừa thất học…
Bị chửi ông chửi cha vậy mà Hội nhà văn Việt Nam vẫn im thin thít, ngay cả Tổng thư ký Hội Hữu Thỉnh vào những dịp đăng đàn diễn thuyết cũng… ”ngó lơ”. Tình trạng nuông chiều, e nể Nguyễn Huy Thiệp làm các phê bình lý luận gia mao ít ngồi đầy trong các Viện nghiên cứu và các trường Đại học tức lộn ruột chỉ mong một ngày “hoàng đạo” nào đó sẽ tay dao tay thước xúm vào đánh đòn hội chợ. Nào ngờ, ngày ấy chưa đến, đã thấy Nguyễn Huy Thiệp chơi luôn một tiểu phẩm “Mổ xẻ nhà văn” xỏ xiên các nhà phê bình chỉ muốn tiến thân bằng xác các nhà văn. Hành động đổ dầu vào lửa của Nguyễn Huy Thiệp càng nung nấu thêm “lòng căm thù” của giới lý luận “mác xít tới bến” chỉ chờ cấp trên gật đầu là xúm vào “bề hội đồng ”.
Vậy mà có ai ngờ, đồng chí Trưởng ban văn hoá tư tưởng Nguyễn Khoa Điềm chẳng những không phát lệnh “giết chết thằng Thiệp” lại còn khen ngợi Thiệp thì còn trời đất nào nữa hở… trung ương Đảng?
Lẽ ra là người cầm cân nảy mực giữ gìn, bảo vệ tư tưởng của Đảng, ông Nguyễn Khoa Điềm phải nghiêm khắc “lên án” và vạch ra những tội lỗi của Thiệp, đằng này ngược lại đưa ra những luận điểm khá mới mẻ so với cái vốn có của Đảng khi khen ngợi và có ý “tha bổng” Thiệp:
”Có người đã nói anh Thiệp đã viết những điều trước nay chưa ai viết . Tôi thấy điều ấy không quan trọng lắm. Về mặt nội dung, có những điều anh Thiệp sai nhưng về mặt đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật thì anh Thiệp lại có nhiều đóng góp… Ở vào thời điểm mang tính chuyển đổi thì nhiều lúc hình thức lại mang tính cách mạng của nó…”
Vậy là những điều Nguyễn Huy Thiệp viết dù xưa nay chưa ai dám viết cũng chẳng là cái gì phải làm ầm ĩ lên, cái chính là Thiệp đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật. Ông trùm văn hoá đã nói vậy tức đã “tha bổng” Thiệp. Lập tức Trần Thanh Đạm dám xổ toẹt quan điểm của đồng chí Trưởng ban tư tưởng:
“Không cần phải là nhà lý luận uyên thâm gì cũng có thể thấy nhận định của tác giả về Nguyễn Huy Thiệp là không chính xác, là tách rời nội dung với hình thức, tách rời ngôn ngữ nghệ thuật với tư tưởng nghệ thuật…”
Và to gan lớn tiếng mắng mỏ ông Ủy viên Bộ chính trị dốt lý luận:
“Có lẽ do chưa nhận thức rõ về mặt lý luận cũng như thực tiễn nên diễn giả đã tiếp cận các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp một cách siêu hình, tách rời máy móc nội dung và hình thức…”
Rôi bằng một giọng đay nghiến, khinh khỉnh hoàn toàn ngược với giọng cấp dưới với cấp trên, Trần Thanh Đạm tuôn ra liên hồi những lời lẽ đả phá mạnh mẽ ý kiến của Nguyễn Khoa Điềm:
“Há rằng“ phi anh hùng hoá “một ông tướng về hưu“ phi thần tượng hoá một anh hùng dân tộc vv… chỉ là đổi mới và đóng góp cho ngôn ngữ nghệ thuật hay sao?“
Táo tợn hơn, đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, một ông Trưởng ban văn hoá tư tưởng bị kết tội công khai trên báo:
“Trong khi một số nhà văn, nhà phê bình lên án những ngôn luận xằng bậy của anh Thiệp đối với các văn hữu trong Hội nhà văn thông qua các bài như: Hoa thuỷ tiên, Mổ nhà văn, Tuổi 20 yêu dấu v.v… thậm chí xúc phạm đến cuộc kháng chiến dân tộc thì đồng chí Nguyễn Khoa Điềm hình như có ý muốn che chắn cho Nguyễn Huy Thiệp…”
Hơn thế nữa ông Nguyễn Khoa Điềm còn có một bước tiến đổi mới khá xa so với những người tiền nhiệm khi ông phát biểu:
“Người nghệ sĩ có tư chất và thẩm quyền của họ, không nên buộc họ lệ thuộc quá nhiều vào thực tại…”
Nghĩa là không nên ép uổng nhà văn viết “người thực việc thực”, ”người tốt việc tốt”, không nên bắt buộc nhà văn phải “đi thực tế” dựng nên “bức tranh hào hùng về cuộc sống sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta“. Vậy là Đảng đã “cởi trói” cái nghĩa vụ “phi sáng tạo“ cho nhà văn, đồng thời còn thừa nhận “thẩm quyền” của người cầm bút.
Vớ được câu này, Trần Thanh Đạm mừng rỡ chẳng khác hải quan khám ra hàng lậu. Lẽ ra mang danh nhà nghiên cứu, Trần Thanh Đạm phải nhiệt liệt ủng hộ những tín hiệu đổi mới của ông Nguyễn Khoa Điềm, ngược lại đưa ra những phản đối cũ rích:
“Người nghệ sĩ không phải lệ thuộc quá nhiều vào thực tại, song tôi nghĩ người nghệ sĩ chân chính nào cũng quan tâm đến con người và cuộc sống, có trách nhiệm với thực tại chứ không chỉ biết có tư chất và thẩm quyền của mình…”
Nghĩa là Trần Thanh Đạm vẫn đề cao cái “nghĩa vụ xã hội”, cái trách nhiệm “tổ chức quần chúng của Đảng” vốn là tôn chỉ của Hội nhà văn Việt nam. Nguy hiểm cho ông Nguyễn Khoa Điềm hơn nữa khi ông nói:
“Cần tránh khuynh hướng cực đoan khi xem xét văn học chỉ như một sáng tạo nghệ thuật thuần tuý và văn học chỉ như một vũ khí chính trị…”
Ngay lập tức, Trần Thanh Đạm mang cả “lời Bác dậy” để dằn mặt:
“Văn hoá nghệ thuật không ở ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị”.
Vậy đừng có tơ lơ mơ, chính trị bao giờ cũng là ‘thống soái”, thế là Trần Thanh Đạm tiếp tục tiến lên, tiến lên ta quyết tiến lên, tiến lên ta gọi cấp trên bằng... thằng. Tuy Đạm chưa dám gọi đồng chí Nguyễn Khoa Điềm bằng thằng nhưng đã lớn tiếng mắng mỏ:
“Chưa bao giờ văn học và chính trị rời xa nhau nửa bước, chỉ những kẻ tự lừa dối mình hoặc lừa dối người khác mới không trông thấy hoặc giả vờ không trông thấy…”
Rồi đao to búa lớn, Đạm khẳng định lại cái “vòng kim cô” vẫn úp trên đầu các nhà văn:
“Khẩu hiệu của Hội nhà văn Việt Nam và của báo Văn Nghệ là: ”Vì Tổ quốc, vì Chủ nghĩa xã hội” là một cam kết chính trị trung thực, thẳng thắn và đẹp đẽ. Theo tôi đó là ngọn cờ chính trị và chính nghĩa của văn học Việt Nam hiện đại…”
Và sau hết Đạm nổi còi báo động:
“Mưu mô “diễn biến hoà bình“ khởi đầu từ trận địa văn hoá tư tưởng trong đó có văn học nghệ thuật, truyền bá và thẩm thấu các các quan niệm sai trái về nghệ thuật, nhân danh cái đẹp mơ hồ, trừu tượng để nguỵ trang sự lừa dối, cái ác, cái xấu, nhằm làm hủ bại đạo đức tư tưởng của chúng ta và con cái chúng ta…”
Suốt bài viết Đạm không hề nhắc tới chức vụ Uy viên Bộ chính trị, Trưởng ban tư tưởng văn hoá của Đảng của ông Nguyễn Khoa Điềm làm người ta không thể không đặt câu hỏi:
”Ai đang đứng sau Trần Thanh Đạm và tạp chí Văn của Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, nhất trong hình hình cuộc đấu đá ngày càng gay cấn khi Đại hội Đảng đang tới gần?”
Tất nhiên nếu đồng chí Trưởng ban tư tưởng văn hóa Nguyễn Khoa Điềm vẫn ngồi vững trên ghế ngay cả khóa sau thì Trần Thanh Đạm có uống cả ký “mật gấu” cũng không dám “mó dái ngựa”. Cả cái tạp chí “Văn” của Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh cũng vậy, nếu không đánh hơi thấy sếp cũ sắp đi, sếp mới sắp về thì dù có lệnh của tuyên huấn thành ủy cũng không dám “cãi cấp trên” vốn là điều tối kỵ trong “sổ tay phóng viên”.
Vì sao đồng chí Trưởng ban tư tưởng văn hóa Nguyễn Khoa Điềm lại “đốc chứng” vậy ngay khi còn tại vị? Ngày nay trong kinh tế người ta hay nói tới thuật ngữ “tái cấu trúc” tức là sắp xếp, tổ chức lại để xí xóa mọi chuyện tham ô, tham nhũng. Các nhà văn, nhà lý luận văn học vào cuối đời cũng có mốt “tái nhận thức“ kiểu như Chế Lan Viên với “Bánh vẽ”, Nguyễn Khải với “Đi tìm cái tôi đã mất”, Nguyễn Đình Thi với “bài thơ gửi lại“… có tính cách “phản tỉnh”, “nghĩ lại những điều đã nghĩ”.
Khác với họ, Nguyễn Khoa Điềm sớm “tái nhận thức” vào cuối nhiệm kỳ và chắc cũng đã biết ngày trở về cố đô Huế cũng sắp tới.
Qua trường hợp Nguyễn Khoa Điềm, người ta thấy được cái khó của các “nhà lãnh đạo tư tưởng“ Việt Nam. Giữa một biển cán bộ mênh mông, ý thức hệ còn sặc mùi mao-ít, ông Nguyễn Khoa Điềm có muốn đổi mới, rũ bỏ những cái cũ kỹ và lỗi thời, thực sự ông phải đương đầu với cơn bão bảo thủ ghê gớm cả trong Đảng lẫn ngoài xã hội, đòi hỏi ở ông lòng dũng cảm và tâm huyết thật sự vì dân vì nước là cái chưa thấy ở ông.
Từ dạo quay về làm dân ở Huế, tuy nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm - sống rất lặng lẽ và kín tiếng. “Bây giờ tôi chỉ còn chường cái mặt tôi ra trong thơ”, nhưng dường như ông vẫn tiếp tục “tái nhận thức”. Tháng 6 - 2011, trả lời phóng viên báo Lao Động, ông nói những câu khối anh phải giật mình:
“Bài trừ tất cả các loại văn hoá liên quan tới phong kiến, thực dân... chúng ta đã cắt đứt quá khứ, cắt đứt sâu chừng nào thì được cho là có quan điểm lập trường tốt chừng đó. Đó là một thái độ rất nguy hại.”
“Thơ thì phải nói thật lòng mình, không thể giấu mình, không thể nói dối... Việt Nam chúng ta lại quan niệm văn học là đạo lý, trách nhiệm... nên gò bó sự sáng tạo cũng như hạn chế sự thổ lộ. Trong khi văn chương phải thể hiện cái đẹp nội tâm của con người.
“Vì vậy tôi đã nghỉ hưu, nhưng nhiều người lãnh đạo mong tôi phải thế này thế kia, phải làm thơ ngợi ca, phải hô hào tiến lên... Vừa rồi khi tôi công bố một số bài thơ trên báo sau khi về Huế, có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí có người chê trách tôi “đổi giọng”, nhưng tôi không quan tâm...
Tuy nhà thơ không quan tâm nhưng chắc độc giả thì chờ đợi ông tiếp tục “đổi giọng” như thế. Nhà thơ Xuân Sách dường như chưa nhận ra quá trình “tái nhận thức” của Nguyễn Khoa Điềm nên viết chân dung khá đơn giản:
Một mặt đường khát vọng Cuộc chiến tranh đi qua Rồi trở lại ngôi nhà Đốt lên ngọn lửa ấm Ngủ ngoan A kai ơi Ngủ ngoan A kai ời...
* trách : một loại niêu đất .
(còn tiếp)
|
| | | Ai Hoa
Tổng số bài gửi : 10638 Registration date : 23/11/2007
| Tiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn Mon 25 Jan 2016, 11:43 | |
| Đọc thấy tên GS Trần Thanh Đạm không biết là ai nên AH sưu tầm thử thành tích của ông thì tìm ra bài này: Trần Thanh Đạm: Hiệu trưởng ĐHSP XHCN Chỉ một thời gian ngắn sau khi tiến chiếm miền Nam, Bắc Việt đã gửi Trần Thanh Đạm (TTĐ), một cháu ngoan của “Bác Hồ vĩ đại” vào trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn, ngay khi trường còn nằm trong sự quản lý của chế độ quân quản. Điều nầy nói lên mối quan tâm đặc biệt và vị trí quan yếu của trường ĐH Sư phạm, một biểu tượng giáo dục và văn hóa của miềm Nam. Chính vì mối quan tâm đặc biêt đó mà trường ĐH Sư phạm dưới chế độ mới sớm đi vào nề nếp để thích ứng với chính sách giáo dục xã hội chủ nghĩa. Do đó, vai trò của TTĐ rất quan trọng. Ông Trần Thanh Đạm, dáng dấp thư sinh, xuất thân từ Đại học Vinh, ăn nói nhỏ nhẹ và dễ làm “bùi tai” người đối thoại. Ngay khi vào trường, ông chiếm cứ văn phòng của GS Trần Văn Tấn, cựu Khoa trưởng; điều nấy chứng tỏ vị trí lãnh đạo của ông. Việc đầu tiên ông áp dụng “chuyên chính vô sản” ngay và áp dụng cho cô “bí thư” riêng tên Nguyễn Thị Minh của GS cựu Khoa trưởng đi học tập. Trong miền Nam, danh từ bí thư riêng chỉ là một người thư ký để ông Khoa trưởng xử dụng trong các dịch vụ tống thư văn hay liên lạc với với nhân viên các cấp. Nhưng dưới chế độ XHCN, người Bí thư mới đích thực là người thay mặt Đảng để lãnh đạo và điều hành cơ quan. Tôi nghiệp, một cô gái vừa 24 tuổi (ở thời điểm 75) phải chịu hàm oan dưới gọng kềm của đỉnh cao tri tuệ mà không biết khiếu nại vào đâu! Quản lý nhân viên giảng huấn cũ
Sau khi chiếm đóng văn phòng khoa trưởng cũ với đầy đủ phương tiện để chứng minh quyền lực, TTĐ bắt đầu “viếng thăm” các giáo sư cũ của trường. Dĩ nhiên, trước khi “mời” một nhân viên giảng huấn vào nói chuyện, ông đã có sẳn một hồ sơ “lý lịch trích ngang” của người được mời cộng thêm tất cả báo cáo” ngầm do đội quân 30/4 cung cấp cùng với quan điểm/ý kiến của sinh viên mà ông/bà giảng dạy. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng dưới chế độ CS, vấn đề lý lịch nhân sự đã được nghiên cứu và cân nhắc kỹ lưỡng. Có thể nói, trong mỗi lần tiếp xúc như thế, TTĐ đã dùng phương pháp “chận đầu” để trấn áp người đối thoại nghĩa là ông đã biết hết mọi chuyện, mọi hành vi rồi. Nếu người được mời không có một tinh thần vững chắc thì dễ bị chao đảo và dễ bị khuyến dụ sau đó. Một số Giảng nghiêm viên trẻ và một vài Giảng sư (tuy chỉ đếm trên đầu ngón tay) của trường đã vướng vào cái bẩy sập nầy…và đành cam tâm làm “chó săn” cho chế độ. Dù sau nầy, một khi tỉnh ngộ lại thì… tay đã nhúng chàm rồi, phải chịu trả một giá rất đắt là sự khinh rẻ của đồng nghiệp cũ. Sau khi tiếp xúc tất cả nhân viên qiảng huấn, TTĐ mới cho niêm yết danh sách “cán bộ lưu dung” của trường” và cũng từ danh sách trên mà những khuôn mặt 30 mới bắt đầu xuất hiện. Cuộc chạm trán bất đắc dĩ Trường hợp cá nhân tôi hết sức đặc biệt. Không biết vì các báo cáo ngầm của đội quân 30/4, hay vì những ghét ghen của đồng nghiệp hay nhân viên cũ, tôi đã được TTĐ “chiếu cố” kỹ lưỡng. Trong suốt hai giờ “trao đổi” căng thẳng, xin liệt kê ra đây vài mẫu đối thoại có tính cách quyết định. Sau khi bắt đầu bằng luận điệu đầu môi chót lưỡi qua những câu mào đầu thăm hỏi gia đình, vợ con, cuộc sống kinh tế và suy nghĩ dưới chế độ mới mà tôi đã nghe nhàm chán… vì tất cả cán bộ miền Bắc vào Nam đều có những lập luận “không chân thật” , một kiểu đạo đức giả như thế khi đối thọại với người khác, TTĐ đưa ra kết luận về vị trí của tôi đối với trường ĐH Sư phạm XHCN là: - Vì nhu cầu cách mạng, Đảng tạm ngưng “công tác giảng dạy” của anh cho đến khi có lệnh mới. (Đây là câu nói nguyên văn của TTĐ, không sai sót một chữ mà tôi vẫn nhớ tới ngày viết lên những dòng chữ nầy). Tôi trả lời dứt khoát, không một chút ngập ngừng: -Thưa anh Đạm, tuổi tôi còn trẻ (năm 1975), và tôi có thể chờ 20, hay 30 năm sau để phục vụ Đất Nước. Sau một vài giây ngưng đọng, tôi tiếp: - Không làm việc ở đây, tôi cũng còn nhiều cơ hội đóng góp cho xã hội ở khắp mọi miền đất nước. Nói xong, tôi không chờ TTĐ trả lời, tôi bắt tay ông ta và bước ra khỏi văn phòng lãnh đạo ngay. Về lại văn phòng cũ của mình, tôi vôi lấy một tờ giấy nháp (vì không muốn giữ lịch sự tối thiểu của một người “có học” và văn minh trong thế giới văn minh) và thảo ngay lá thư viết tay để từ nhiệm. Qua một cô thư ký cũ, tôi đã nhờ chuyển giao thư trên cho TTĐ. Tôi chỉ báo tin và vắn tắt gửi cho ông Đạm là kể từ giờ phút nầy, tôi “tự ý” chấm dứt làm việc ở trường Đại học Sư phạm. Sau đó tôi vội vã lên Honda ra về. Bạn bè đồng nghiệp cũ tỏ vẻ ái ngại những chuyện không may sẽ xảy ra cho tôi, cũng như những “đứa” học trò lớp Lý Hóa 2 thân thương của tôi cũng bày tỏ sự lo sợ cho an ninh của thầy. Nhưng họ có biết đâu là, sở dĩ tôi có quyết định cứng rắn trên vì tôi đã được một cán bộ khoa học của Thành ủy lúc đó mời tham gia vào việc thành lập một công ty sản xuất thí nghiệm, khởi đầu cho sự ra đời của Ủy ban Khoa học thành phố hiện tại. Tranh giành ảnh hưởng Sau khi thời gian thanh lọc các thành phần giáo chức và sinh viên hoàn tất, một số cán bộ từ miền Bắc được bổ sung thêm, trong đó có Cao Minh Thì, một người tập kết miền Nam có bằng Phó Tiến sĩ vào phụ trách chức vụ Phó khoa cùng với Nguyễn Văn Châu, người Huế giữ nhiệm vụ Phó Khoa trưởng thứ hai.Thế là, một cuộc tranh giành ảnh hưởng và quyền lực bắt đầu từ đây. Dù đây là một cuộc phân công dưới sự “chỉ đạo” của Đảng ủy, nhưng những người trong cuộc và nhân viên của trường cũng thấy những rạn nứt trong thành phần lãnh đạo. Cảnh trống đánh xuôi, kèn thổi ngược thường xảy ra trong các quyết định hành chánh của trường. Thậm chí, ngay khi có quyết định của Thành ủy qua nghị quyết 36 của Võ Văn Kiệt đầu năm 1977, trong đó các cán bộ giảng dạy có thêm được “phụ cấp ưu ái của Đảng” ngoài số lương bổng hàng tháng. Phụ cấp đảng căn cứ vào trình độ, bằng cấp và chức vụ cũ của từng giáo sư như 50 Đồng VN cho cấp Giảng nghiệm viên, 100 cho Giảng sư, và 150 Đồng cho ngạch Giáo sư. Nhưng đó là trên nguyên tắc, dĩ nhiên là có những ngoại lệ, và những ngoại lệ trên chính là một cách mua chuộc người cũ để kết nạp vào phe cánh của mình. Đây là một trong các rạn nứt ban đầu trong cuộc tranh giành quyền lợi. Về phía nhân viên, công cuộc mua chuộc cũng không kém phần quan trọng vì những quyền lợi vật chất như cung cấp nhu yếu phẩm trong giai đoạn giao thời nầy. Sống với não trạng “tem phiếu” ăn sâu trong tiềm thức, do đó, một lạng thịt, một gói thuốc, hay một lít xăng… dôi ra cũng là một thu hút không nhỏ cho những người cán bộ từ Bắc vào Nam. Cuộc tranh giành quyền lực trong thời kỳ phôi thai nầy quanh đi quẩn lại các loại quyền lợi vật chất nhỏ nhoi... cũng không khác gì những tranh chấp ngầm trong các cuộc Đại hội Đảng xảy ra mỗi 5 năm của chế độ. Nhưng lần nầy không phải là một lạng thịt mà là… hàng tỷ Mỹ kim… Đất Nước đang đi vào bế tắc là ở “khâu” nầy. Nhắn Làm một cán bộ giáo dục hay cán bộ giảng dạy cần phải dựa trên Đạo đức giáo dục làm căn bản. Nếu không, người thầy giáo sẽ hướng dẫn và đào tạo sinh viên thành những tầng lớp công dân không thích hợp với văn minh và đạo đức xã hội trong giai đoạn toàn cầu hóa nầy.Trong suốt 36 năm qua, chính sách giáo dục hoàn toàn không thay đổi, chúng ta vẫn còn thấy nhan nhản những Hiệu trưởng như TTĐ, thậm chí những Bộ trưởng giáo dục hay Phó Thủ tướng phụ trách trong ngành giáo dục vẫn tiếp tục đi theo vết xe cũ, nghĩa là chỉ chăm lo cũng cố quyền lợi và quyền lực mà quên đi mục tiêu tối hậu của giáo dục là đào tạo một tầng lớp công dân có đạo đức và hữu dụng cho công cuộc phát triển quốc gia và tạo dựng thêm của cải vật chất cùng phúc lợi cho xã hội.
Đừng đổ lỗi cho CƠ CHẾ, mà hãy nhìn SỰ THẬT. Mai Thanh Truyết Người Thầy “mất dạy” XHCN 9/2011
_________________________ Sông rồi cạn, núi rồi mòn Thân về cát bụi, tình còn hư không |
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn Wed 17 Feb 2016, 10:28 | |
| CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN Nhật Tuấn
(Kỳ 13)
NHÀ THƠ VŨ QUẦN PHƯƠNG
Ở ta có hai ông bác sĩ bỏ nghề chuyển sang nghiệp văn chương. Một là bác sĩ Trần Quán Anh tác giả vở kịch “Tiền tuyến gọi”, khuấy động sân khấu Hà Nội một thời, dân gian đổi tên vở diễn thành… “Tiền gọi”. Hai là bác sĩ Vũ Quần Phương, trong giới gọi chệch là Vũ Quần… Phăng – tức quần nữ cắt theo lối quần tây.
Hồi đó, nữ sĩ Xuân Quỳnh đang sống với chồng là nhạc công “Tuấn violon”, thế rồi một ngày đẹp trời gặp chàng thi sĩ đang có vợ, nổ ra tiếng sét ái tình. Đôi thi nhân chỉ non thề biển, hẹn nhau cùng rũ bỏ gia đình, lấy lại tự do xây dựng trăm năm hạnh phúc.
Y hẹn, nữ sĩ Xuân Quỳnh ly dị chồng và chờ chàng thi sĩ bỏ vợ thực hiện mộng ước “có nhau”. Than ôi, năm này qua năm khác, nữ sĩ cứ nhóng cổ chờ hoài, chờ hoài chẳng thấy chàng nhúc nhích, ngày đi làm, tối về vẫn hú hí vợ con. Chờ mãi, chờ mãi, nữ sĩ nổi cáu: ” Tôi không thèm cái mặt anh nữa. Tôi sẽ lấy một “thằng nhóc”, tài năng hơn anh, trẻ hơn anh…”. Quả nhiên ít lâu sau, Xuân Quỳnh trở thành vợ của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ. Còn chàng thi sĩ “vợ đẹp, con khôn, vui thú điền viên tới tuổi xế chiều trong ngôi biệt thự sang trọng, rộng rãi, nội thất hiện đại” làm sao bỏ được vợ theo người tình làm thơ?
Chàng thi sĩ đó là ai xin hỏi nhà thơ Vũ Quần Phương. Ông có lần trả lời báo chí:
- “Ngày tôi học cấp hai tôi may mắn được học thầy Nguyễn Xuân Huy là một giáo viên dạy văn rất hay. Có thể nói, thầy là người đầu tiên truyền cảm hứng văn thơ vào tôi. Đó là những ngày mà tôi không thể nào quên, cho đến năm tôi lên cấp ba thì có thầy Nguyễn Tường Phượng, Đình Phong, Đoàn Nồng và thầy Đoái Xuân Minh, Bạch Năng Thi. Có thể nói các thầy đã là cầu nối để tôi đến với thơ ca. Vì từ những bài giảng của thầy mà tôi học được cái mạch lạc khi viết văn, làm thơ sau này”.
Các thày trên đều dạy học Hà Nội trước 1954, bởi vậy Vũ Quần Phương thấm nhuần văn hóa phương Tây nên thơ khác hẳn các bác xuất thân bổ túc văn hóa công nông. Chẳng thế mà đọc khổ thơ đầu trong bài thơ “Đợi” rất nổi tiếng của Vũ Quần Phương:
“Anh đứng trên cầu đợi em Dưới chân cầu nước chảy ngày đêm Ngày xưa đã chảy, sau còn chảy Nước chảy bên lòng, anh đợi em…”
người ta nhớ tới khổ cuối trong bài thơ Cầu Mirabeau (Le pont Mirabeau) của thi sĩ Pháp Apollinaire:
“Sous le pont Mirabeau coule la Seine Vienne la nuit sonne l'heure Les jours s'en vont je demeure”
dịch nghĩa:
“ Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy Đêm đến giờ đã điểm Ngày qua ngày anh vẫn đứng đây…”
Không ai nói Vũ Quần Phương “cóp” thơ Apollinaire mà chỉ chịu ảnh hưởng đôi chút. Suốt mấy chục năm trời, ông không chỉ làm thơ, còn làm “cán bộ”: Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng thơ Hà Nội, Ủy viên Hội đồng thơ Hội nhà văn VN 20 năm liền, nguyên là Chủ tịch Hội đồng thơ khóa VII, chuyên gia thơ của Hội Nhà văn VN… Chức tước lớn và lâu năm vậy tất nhiên ông phải… ”phò chính thống” theo cách nói của nhà văn Phạm Thị Hoài trên tạp chí Cánh Én năm 2000.
Ông như “cây kiểng” quý của Hội nhà văn, khi cần mang trưng. Không kể những năm trước, gần đây, ông tham dự Hội nghị các nhà văn trẻ toàn quốc lần thứ VIII tổ chức tại Tuyên Quang (9/2011) với tư cách khách mời, mới nhất ngày 2-2-2012, Liên hoan Thơ Châu Á - Thái Bình Dương tại Hạ Long (Quảng Ninh) với 71 nhà thơ thuộc 24 quốc gia, đoàn nhà thơ Việt Nam có những tên tuổi lớn như Hữu Thỉnh, Nguyễn Quang Thiều, Giang Nam, Bằng Việt và tất nhiên có Vũ Quần Phương.
Ngoài làm thơ ông còn… nói thơ. Mấy năm gần đây ông hay đi Mỹ thăm con, cứ chân ướt chân ráo về nước ông lại lên tivi nói chuyện thơ. Tất nhiên ông phải nói theo ý Đảng chứ đâu có “trật đường ray” bao giờ. Được nhà đài tin tưởng 30 năm qua số lần ông nói chuyện thơ đã lên đến con số hơn… 2.000 - đáng đưa vào kỷ lục Guiness Việt Nam, vượt xa nhà văn Chu Lai vốn cũng thường đăng đàn nói... ”văn”.
Thoát từ bác sĩ làm thơ, Vũ Quần Phương đôi khi có vẻ “nhớ nghề”:
- “Tôi được thấy tim tôi, các buồng tim đang co bóp/... Mình khảo sát tim mình... kể cũng hơi hoang mang/ Nó vất vả thế ư? Suốt một đời người. Ghê thật!/ Cái luồng huyết cuộn dòng xuôi xuống, trườn lên/... Ta nhìn nó nhỏ nhoi mà đời bao nhiêu nỗi/ Nó là mình mà mình biết gì đâu.”
Là “cán bộ thơ” nên đi Mỹ có vào thư viện đại học Princetone Vũ Quần Phương cũng chỉ tìm sách của những Lê Lựu, Nguyễn Khải, Ma văn Kháng… và tết đến đóng cửa không “hội nhập”, không ra ngoài ”giao lưu“ với cánh nhà thơ hải ngoại, và bầy tỏ lòng… yêu nước:
“Trong căn nhà này là nước Việt Là đèn nhang, con cháu, giao thừa Ngoài căn nhà này là nước Mỹ Ngày giữa tuần, phố đã vào trưa.
Thiên hạ đi làm yên tĩnh quá Nhà ta đón tết với riêng mình.”
Định vị trong tư cách cán bộ khiến thơ Vũ Quần Phương cũng mực thước, chỉn chu, “lề phải” chưa bao giờ “trật đường rầy” sang... lề trái. Thơ ông thường nói “lý”, các nhà phê bình nói cho sang là “thơ trí tuệ”:
“Em ơi em ! Biển sâu rộng nhường kia Ai biết được tự nơi nào biển mặn Ôi hạt muối mang cho đời vị đặm Tự bao giờ biển đã biết thương ta“ (Trước biển)
“Tóc xanh, tóc bạc không xanh lại thì hồn cứ căng với gió mây cứ đỏ màu sông, xanh sắc núi cứ thâm u như cánh rừng dày” (Hành trình)
Như vậy đó, toàn biển sâu, sông đỏ, núi xanh ,cánh rừng… những nỗi niềm dân tộc, những nỗi đau thời thế… không mong tìm thấy trong thơ Vũ Quần Phương. Nhà thơ Xuân Sách đã dựng chân dung Vũ Quần Phương:
“Anh đứng thành tro… em có biết Hôm qua lại gặp chuyến xe bò Vẫn anh đi trong vầng trăng cũ Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.”
(còn tiếp)
|
| | | Shiroi
Tổng số bài gửi : 19896 Registration date : 23/11/2007
| Tiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn Thu 18 Feb 2016, 05:41 | |
| Đọc mà thấy tác giả Nhật Tuấn... "mỉa mai" đồng nghiệp mà ... buồn cười á TM ơi
TM nhiều nhiều. |
| | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| | | | Trà Mi
Tổng số bài gửi : 7190 Registration date : 01/04/2011
| Tiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn Thu 18 Feb 2016, 08:37 | |
| CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN Nhật Tuấn
(Kỳ 15)
NHÀ THƠ BẰNG VIỆT
Tôi không quen ông Bằng Việt, cũng chưa một lần “diện kiến”, bởi lẽ tôi và ông là hai giai tầng khác nhau.
Ông là con gia đình cách mạng, từ Huế sau khi ra Bắc, cụ thân sinh thoát ly lên Việt Bắc tham gia kháng chiến, mẹ tham gia hội phụ nữ, bởi vậy sau ngày Đảng, chính phủ về Hà nội, ông được đi Liên xô học luật. Còn tôi là học sinh “Hànội tạm chiếm”, những năm 60 khó vào đại học, phải đi lao động Tây Bắc, phấn đấu thành “thanh niên tích cực lao động XHCN”. Nếu ông là công dân hạng nhất thì tôi hạng ba, bởi vậy khó gặp nhau.
Tuy nhiên cũng có lần tôi vinh dự được ông nói tới. Đó là vào năm 1979, nhà thơ Nông Quốc Chấn về làm GĐ NXB Văn học thay nhà phê bình Như Phong.
Sếp cũ vừa đi, sếp mới chưa về tôi đã “vạ miệng” làm sếp mới nổi trận lôi đình ký quyết định chuyển tôi lên Cao Bằng công tác. Vì tính chất “trù úm” quá rõ, tôi cương quyết chống lệnh không nhận quyết định.
Lúc đó nhà văn Nguyên Ngọc mới về làm Bí thư Đảng đoàn Hội nhà văn lóc cóc đạp xe lên Vụ tổ chức Bộ văn hóa xin chuyển tôi về tổ sáng tác, nhà văn Đào Vũ cũng xin tôi về báo Văn Nghệ… Thật hiếm khi nào Hội nhà văn “bệnh vực” hội viên mình tích cực như vậy. Tuy nhiên mọi can thiệp đó chỉ làm sếp mới nổi giận đùng đùng: ”Vận động… anh Nhật Tuấn vận động, lôi kéo Hội nhà văn…” và khăng khăng không rút lại quyết định.
Những ngày đó chuyện này thành cửa miệng tại các cơ quan xuất bản, báo chi. Tại NXB Tác phẩm mới, vào một buổi sáng nhà văn Nguyễn Khải kể chuyện này, nghe xong nhà thơ Bằng Việt buông một câu lạnh tanh:
”Đi Cao Bằng thì có gì phải làm rối chuyện lên thế?”.
Lập tức Nguyễn Khải trỏ mặt Bằng Việt mắng:
”Vậy mai anh đi nhá!“. - Tất nhiên nhà thơ cười hề hề.
Nhà thơ Bằng Việt hồi trẻ rất đẹp trai, nho nhã như nhà giáo, nói chuyện nhỏ nhẹ, có duyên làm nhiều cô chết mệt nên “tình sử” cũng phong phú có khi còn hơn Vũ Quần Phương. Tuy nhiên, chuyện đó cứ để trong dân gian, chưa nói tới. Thường thường, bác sĩ bỏ nghề y sang làm thơ thì chỉ được lộc thơ, riêng Bằng Việt bỏ nghề luật vẫn ăn lộc cả “lộc thơ” lẫn “lộc quan” là thứ “nghề luật” góp phần. Ông đã từng giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân TP Hà Nội, một chức to ở cái thành phố oai nhất nước. Nghe nói khi hay tin nhà thơ làm Phó Chủ tịch HĐND TP, dân oan kéo đến xin gặp ông nhiều lắm khiến tan sở ông phải “chuồn” cửa sau. Chuyện đó thời nay là chuyện thường ngày ở cửa quan, ngày xưa cha ông nói “quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”, chắc nay phải đổi thành “quan thấy… dân kiện như lươn thấy rắn”. Câu này chỉ có nghĩa quan giống như lươn tiết chất nhờn lủi mất mỗi khi gặp dân oan chứ tuyệt nhiên không dám ví dân là… rắn.
Ngoài chức bên chính quyền, nhà thơ Bằng Việt còn làm Chủ tịch Hội đồng thơ Hội nhà văn VN. Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
Cùng với nhà thơ Hữu Thỉnh, ông là một trong hai hạt giống đỏ của Đảng trên mặt trận quản lý và lãnh đạo giới nhà văn, nhà thơ vốn là thành phần phức tạp nhất trong giới trí thức. Chẳng thế mà bất kỳ cuộc hội thảo thơ nào ở xứ ta, hai ông đều tới cầm càng hội nghị.
Mang trọng trách Đảng tin cậy vậy, Bằng Việt phải “mẫu mực” cho giới cầm bút noi theo, nghĩa là suốt từ thủa cho ra lò “Bếp lửa”, ông đã làm không biết bao nhiêu thơ: Những gương mặt - Những khoảng trời (Some faces and pieces of sky; 1973) - Đất sau mưa (1977) - Khoảng cách giữa lời (1984) - Cát sáng (1985) – Bếp lửa - Khoảng trời (Tập thơ) (1986) - Phía nửa mặt trăng chìm (1995) - Ném câu thơ vào gió (Tập thơ; Flying a verse with the wind; 2001) - Thơ trữ tình (2002) - Thơ Bằng Việt (Tập thơ), (2003)…
Làm nhiều vậy nhưng thơ ông tuyệt nhiên không một chút “tà khí” tức “bàng thống”, “phi chính thống” như nhà văn Huy Phương đã tổng kết: ”tuyệt nhiên không nghe một tiếng thở dài”. Ngược lại, đôi khi thơ ông còn quá đà “mácxit hơn cả Đảng”.
Trong bài thơ “Rượu của Nguyễn Cao Kỳ“ có một chai rượu ông này gửi tới. Tất cả mọi người đều uống kể cả một ông tướng công an, trừ một anh lính phòng không:
“Đám đông ồn ào của chúng tôi cứ uống Anh bạn chỉ ngồi im, cũng chẳng nói thêm gì, Và bữa rượu bỗng dưng thành đắng đót”
Khơi ra chuyện này, người ta thấy nhà thơ có vẻ thông cảm với anh lính “thù Mỹ ngụy muôn đời muôn kiếp không tan”, cứng ngắc hơn cả chủ trương hòa hợp dân tộc của Đảng.
Chính vì “phò chính thống”, nhà thơ phải ”tỉnh táo” như Y Nguyên phỏng vấn Bằng Việt trên báo Thanh Niên.
“Thường thì người sáng tác ít khi “tỉnh” để có thể phân tích một cách rành rẽ về quá trình sáng tạo của mình, nhưng ông thì ngược lại, tỉnh táo, thận trọng, khôn ngoan...”
Kết luận vậy thì đau cho nhà thơ biết bao. Tuy nhiên chính vậy nên ông nhận được khá nhiều giải thưởng:
“Giải nhất về thơ của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1968) “Giải thưởng dịch thuật văn học quốc tế và giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa bình Liên Xô trao tặng năm 1982.” “Giải thưởng Nhà nước về văn học (do Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng, 2001)” “Giải thưởng thơ của Hội nhà văn Việt Nam (2002) “Giải thưởng văn học ASEAN 2003 cho tập thơ "Ném câu thơ vào gió" "Giải thành tựu trọn đời" của Hội Nhà văn Hà Nội (2005) cho Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX”
Tuy làm “thơ cung đình” nhưng không phải Bằng Việt không có thơ hay. Từ “Bếp lửa” còn tỏa nóng đến tận bây giờ tới những bài thơ tình lãng mạn một thời được chép trong sổ tay nhiều cô cậu sinh viên tổng hợp và sư phạm văn, được sử dụng nhuần nhuyễn các kỹ thuật điệp ngữ, ẩn dụ và nhân cách hóa:
“Sương nơi ấy như triền mây trắng đặc anh vẫn chờ em trắng một bến sương. (Nơi Một Thủa Mùa Xuân Còn Ở Ðó)
”Anh vẫn đợi một buổi em về thay áo, đợi một niềm vui sắc nhọn như mũi kim.” (Tình Em Ðẹp Mãi Một Bài Thơ)
Nói anh nghe cuộc tình nào đã lỡ. con đường nào nức nở tiếng mưa rơi! (Nét Buồn Mang Dấu Vết Thời Gian)
Tuy nhiên tính lãng mạn “kiểu Pautopski” nhạt dần theo tuổi tác, thơ Bằng Việt ngày càng đậm tính “suy tưởng triết học”, có thể do con người “luật học” trong ông đã lên tiếng.
“Ngày sống vội, tuần sống vội, năm sống vội Tuổi hoa niên, trung niên, kế tiếp tuổi già Chong chóng quay, rút cuộc được gì? Được chuyển động – làm bù nhìn của gió…” (Nhớ Trịnh)
Các nhà văn ta, về cuối đời như Nguyễn Khải, Nguyễn Đăng Mạnh… hoặc cuối chức như Nguyễn Khoa Điềm… thường “tái nhận thức” tức “nhận thức lại” để xí xóa đi phần nào “tính Đảng” quá đà trước đây. Bằng Việt cũng vậy, trong Hội thảo thơ ở Hải Phòng, ông nhắc các nhà thơ không thể thoát lý xã hội:
“Tôi nghĩ, đã là một thành viên, đồng cam cộng khổ với cộng đồng loài người, thì nhà thơ không thể thoát ra khỏi xã hội, vì vậy, khó có thể tuyệt đối hóa thiên chức của thơ mà chỉ nói đến thiên nhiên thôi sao?”
Tuy nhiên cái yếu tố “xã hội” trong thơ ông không mang những trăn trở, vấn nạn lớn của dân tộc mà lại lại giống như Y Nguyên đã phỏng vấn:
”Người ta vẫn nghĩ thi sĩ thường lãng đãng, vẩn vơ trên mây trên gió, nhưng ông lại rất cập nhật thời sự. Cập nhật đến độ có thể biến những cái tưởng như không thơ thành thơ, như chuyện ô nhiễm môi trường khu du lịch sinh thái, chuyện xây cầu vượt, chuyện cấm đăng ký xe máy, chuyện làm phim kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long...?”
Mới đây hồi tháng 8 - 2011, ông phát biểu trên mạng một câu động trời:
“Nếu không tha bổng cho Cù Huy Hà Vũ thì đấy là một sự ngu xuẩn”
Tất nhiên nếu cán bộ thường nói ở bàn nhậu thì chẳng sao, nhưng đây hẳn một ông “quan văn” cỡ bự. Nghe nói sau đó cán bộ an ninh đã gặp ông. Tất nhiên nhà thơ sẽ giải thích cho nhà an ninh vì sao phát biểu vậy. Chắc đồng chí an ninh đã quán triệt tình thế của nhà thơ đứng giữa Đảng và dân không thể không thông cảm với lời phát biểu của ông Chủ tịch Hội LH VHNT Hà nội. Có thể thấy Bằng Việt cũng như thơ ông luôn bị kéo co giữa một bên là nàng thơ và một bên là đồng chí chính trị viên.
Trên blog của mình, nhà thơ Thủy Hướng Dương có kể lại cuộc nhậu sau ngày Bằng Việt trúng cử Chủ tịch Hội LHVHNT Hànội, nhà thơ có ứng tác:
“Anh biết anh là người đến muộn Bia uống vừa xong, bưởi vẫn còn thèm Em đừng nghĩ là anh thất bại Bia anh còn liếm được nữa là em!”
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến có mặt lúc đó đề nghị đổi chữ ”bia” thành chữ “thơ”:
“Thơ anh còn liếm được nữa là em…”
Vậy là “thơ anh” quá… sạch…, sạch đến nỗi có thể… liếm được. Tới đây chợt nhớ bài “Mùa sạch” của thi sĩ Trân Dần:
“Anh vẫn tìm em qua phòng triển lãm sạch Qua khu sứ quán sạch Qua sớm mai trường Đảng sạch Qua Bộ Công nghiệp nặng sạch…”
Nay thì xin thêm: ”thơ sạch”.
Nhà thơ Xuân Sách đã dựng chân dung Bằng Việt:
“Nhen lên một bếp lửa Mong soi gương mặt người Bỗng cơn giông nổi đến Mây che một khung trời Đất sau mưa sụt lở Mầu mỡ trôi đi đâu Còn trơ chiếc guốc võng Trăng mài mòn canh thâu.”
(còn tiếp)
|
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn | |
| |
| | | |
Similar topics | |
|
Trang 4 trong tổng số 14 trang | Chuyển đến trang : 1, 2, 3, 4, 5 ... 9 ... 14 | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |